3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

NHƯ TRÁI TIM NHÂN TỪ CỦA THIÊN CHÚA

Chúa Nhật 7 Thường Niên C

Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Luca công bố một sứ điệp rất ngắn gọn, nhưng lại sâu xa: đó là chuẩn mực của lòng nhân từ và cách thể hiện cụ thể của chuẩn mực đó: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6: 36). Thực ra, không dễ sống như Chúa Giêsu đòi hỏi: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6: 27-28). Nhưng Chúa Giêsu rất rõ ràng, cụ thể, thậm chí quyết liệt nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lc 6: 29-30). Đây không phải là những lời bị chê là dại dột sao? Ít nhất thì những lời này cũng gây ra những quan điểm trái chiều, những tranh cãi, và cũng khó thực hiện đối với mỗi người chúng ta.

 

  1. Trở nên giống Chúa Kitô, giống Thiên Chúa

Đối với hầu hết mọi người trên trần thế này, những lời như vậy của Chúa Giêsu là chuyện viễn tưởng và những ai muốn sống theo những yêu cầu như vậy, dù có thể được coi là những người hiền lành, dễ thương, nhưng cũng dễ bị coi là ngốc nghếch. Dĩ nhiên, ai để mình bị cướp đoạt, bị vả vào má phải mà lại còn đưa luôn cả má trái cho người ta vả tiếp, v.v. thì thật ngây thơ, ngớ ngẩn, trong mắt một xã hội mà mọi thứ đều dựa trên chiếm hữu và quyền lực. Vậy Chúa Giêsu có ý nói gì ở đây?

Những môn đệ đích thực của Chúa Kitô, những Kitô hữu chân chính, không cố sức giành ưu thế hay quyền lực áp chế trên người khác, cũng không mong muốn của cải vật chất chỉ để “chiếm hữu riêng mình” mà không quan tâm gì đến những người khác đang thiếu thốn, nghèo đói chung quanh. Điều căn cốt của những ai bước theo Chúa Giêsu là trở nên giống Ngài. Người Kitô hữu đích thực là người muốn nên giống Chúa Kitô, giống Thiên Chúa. Đó chính là điều kiện để họ trở nên con Đấng Tối Cao, như Chúa Giêsu hứa: “Phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Ngài vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6: 35).

Mỗi con người đều mang hình ảnh của Thiên Chúa (Stk 1: 27), là một thụ tạo có một không hai do Thiên Chúa dựng nên, với những tiềm năng, sứ mệnh riêng biệt của mình, phản chiếu lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không ai, ngoài Thiên Chúa, có thể hiểu biết trọn vẹn dù chỉ một người. Mỗi cá nhân là một bí nhiệm của cõi nhân sinh, nhất là của thế giới tâm linh rộng lớn hơn. Đó là cách nhìn của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu, về mỗi người. Như vậy, khi nói: “Anh em hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6: 28-30), Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta nhìn người khác như cách nhìn của Ngài, cách nhìn đầy lòng nhân ái của Thiên chúa, không chất chứa chút nào cay đắng và giận dữ, mà chỉ là tràn đầy yêu thương. Bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấy chàng trai trẻ Đavít, vị vua tương lai quyền uy của Israel, đã sống lòng nhân từ đó khi quyết định tha cho vua Saul mặc dù vị vua này luôn tìm mọi cách để truy đuổi ông, khiến cuộc sống của ông vô cùng khốn khổ: “…Ta sẽ truy nã nó trong mọi thị tộc Giuđa… Vua Saul lấy trong toàn thể Israel ba ngàn quân tinh nhuệ, và lên đường để tìm bắt ông Đavít và người của ông” (1 Sm 23: 23; 24: 3). Đavít không nhìn vua Saul như kẻ thù nhưng như người của Thiên Chúa: “Xin Chúa đừng để tôi làm điều này cho chúa thượng của tôi, đấng Chúa đã xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua, vì người là đấng Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 24: 7). Ở đây, Đavít là hình ảnh tiên trưng của Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53: 7).

Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Lời Chúa Giêsu rất rõ ràng: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (27-38). Và đây không phải là tùy chọn, mà là một mệnh lệnh. Nó không dành cho tất cả mọi người, nhưng dành cho các môn đệ, những người mà Chúa Giêsu gọi là “những người đang nghe Thầy đây”. Chúa Giêsu hiểu rất rõ rằng yêu thương kẻ thù việc vượt quá khả năng của chúng ta, nhưng đây là lý do tại sao Ngài đã trở thành người: không phải để chúng ta như chúng ta hiện tại, mà để biến đổi chúng ta thành những người có khả năng yêu thương lớn hơn, đó là tình yêu của Chúa Cha và của chúng ta. Đây là tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho những ai “nghe Ngài”. Vì vậy, điều đó trở nên khả thi! Với Ngài, nhờ tình yêu của Ngài, nhờ Thánh Thần của Ngài, chúng ta có thể yêu thương ngay cả những người không yêu thương chúng ta, ngay cả những người làm hại chúng ta…Những ai lắng nghe Chúa Giêsu, những ai nỗ lực theo Ngài ngay cả khi phải trả giá, sẽ trở thành con cái Thiên Chúa và bắt đầu thực sự giống Chúa Cha trên trời…Điều đó mang lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Chúng ta không còn cần đến bạo lực, bằng lời nói và cử chỉ: chúng ta khám phá ra rằng chúng ta có khả năng dịu dàng và tốt bụng; và chúng ta cảm thấy rằng tất cả những điều này không đến từ chính chúng ta mà từ Thiên Chúa” (Kinh Truyền Tin, Quảng trường Thánh Phêrô, 24.02.2019)

 

  1. Chuẩn mực của tình yêu: như Cha anh em là Đấng nhân từ

Nếu Cha trên trời là Đấng nhân từ, thì chúng ta, những người con của Ngài, cũng phải nhân từ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6: 36). Chúa Giêsu xác quyết đây chính là chuẩn mực của tình yêu, của lòng thương xót của Thiên Chúa, và cũng là chuẩn mực sống của những ai muốn là môn đệ của Ngài. Đối với Chúa Giêsu, hoặc là yêu, yêu hết mình, hoặc là không yêu một chút nào cả, vì yêu thương là từ bỏ hoàn toàn bản thân, như Chúa Giêsu Kitô đã yêu: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philípphê 2: 8).

Có lẽ chúng ta cũng thường tự hỏi: nếu chúng ta cho đi, liệu chúng ta có được nhận lại những gì tương xứng không? Không có câu trả lời nào chắc chắn từ phàm nhân đời này cả. Nhưng có một câu trả lời chắc chắn từ Thiên Chúa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Ngài sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6: 38). Chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc, khi chúng ta biết cho đi trước. Vì vậy, chúng ta nên tự hỏi: khi cho đi, tôi có cho đi thật lòng không, cho đi trong vui vẻ, thanh thản và bình an không?

Để sống như vậy, người ta phải mở lòng để đón nhận tình yêu thương của Chúa Kitô dành cho mình trước. Chỉ khi cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho riêng mình chan chứa như thế nào, người ta mới có thể, đến lượt mình, dành tình thương cho những người chung quanh. Khi đó, người ta bắt đầu sống với Chúa, vì Chúa, rồi sống với nhau, vì nhau… Chính khi cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa, qua Chúa Kitô, mà những người môn đệ của Ngài muốn sống với và sống giống như Chúa của mình. Họ không còn thèm muốn sự giàu có của thế gian, như chiếm hữu cá nhân để hưởng thụ ích kỷ riêng tư. Họ xem nhẹ những điều sai trái mà người đời gây ra cho họ. Những sai trái ấy không thể làm mất đi điều tốt lành nơi cõi lòng sâu xa của họ, nhưng trái lại họ cảm thương “anh em mình” – những người xúc phạm đến họ – đánh mất chính mình trong tội lỗi. Vì vậy, như Chúa Giêsu, người môn đệ của Chúa Kitô không chỉ vui lòng không đáp trả bạo lực bằng bạo lực, mà thậm chí còn cầu nguyện cho kẻ thù của mình được hạnh phúc và hoán cải. Người môn đệ ấy thấm nhuần Lời của Chúa Kitô: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37).

“Theo cách này, Chúa Giêsu muốn tình yêu của Thiên Chúa chiến thắng lòng hận thù và sự cay đắng trong mỗi trái tim. Logic của tình yêu, đạt đến đỉnh cao trong Thập giá của Chúa Kitô, là huy hiệu của người Kitô hữu và thúc đẩy chúng ta gặp gỡ mọi người bằng trái tim anh chị em. Nhưng làm sao có thể vượt qua bản năng con người và luật trả thù thế gian? Chúa Giêsu đưa ra câu trả lời trong cùng một đoạn Tin Mừng: “Hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (đã dẫn trên).

 

  1. Sống bằng tình yêu của Thiên Chúa, nhờ Chúa Kitô

Ờ đây, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đón nhận sức mạnh tình yêu của Ngài vào trong chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta sống tình yêu ấy; vì đó là con đường chân chính dẫn đến vinh phúc và sự sống đời đời. Quyết định là của chúng ta. Nhất là trong thời điểm bất ổn này của thế giới, khi bạo lực, xung đột, chiến tranh xảy ra rõ ràng, khi khủng hoảng kinh tế, xã hội và sức khỏe rất có thể khiến chúng ta nổi loạn và thất vọng. Có giải pháp nào căn cơ nhất cho con người chúng ta ngày nay không? Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một cung cách sống và ứng xử không phải là ngây ngô, ảo tưởng, bởi vì cung cách này mời gọi chúng ta gắn kết với nhau. Nói gắn kết là nói đến tham gia, góp phần, nói đến sự cho đi. Thường tình ai trong chúng ta cho đi mà không mong được nhận lại, nhưng nhờ ân sủng của Chúa Kitô thúc đẩy, chúng ta đủ sức mạnh để không quá đặt nặng việc được đền đáp, vì Chúa đã nói rõ: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng” (Lc 6: 32-34).

 Trong thời đại và xã hội hiện nay, chúng ta nhận thức được rằng Lời Chúa là một ngôn ngữ khó hiểu đối với những người không tin theo Thiên chúa, nhưng đó lại là Lời của chính Chúa Kitô: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6: 63). Hôm nay chúng ta có thực sự muốn sống bằng tình yêu của Thiên Chúa không, muốn thuộc về Đấng từ trời mà đến không, như thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu Côrintô, trong bài đọc thứ hai: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15: 48-49).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

NHỮNG TUYÊN BỐ LẠ LÙNG CỦA CHÚA GIÊSU

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN NĂM C

Hôm nay, trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy hạnh phúc đích thực nằm ở đâu. Nhưng thoạt nghe, các mối phúc này không phúc chút nào theo mong ước thông thường của người đời, vì chúng đi kèm với nào là “nghèo khó, đói khát, khóc lóc và cả bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa” nữa (Lc 6: 20-22). Thật là những chuyện chẳng ai thích, vì ai cũng biết đó là những nỗi khổ, những bất hạnh không nên rơi vào. Những điều như vậy không phải là những tuyên bố lạ lùng hay sao? Vậy Chúa Giêsu thực sự muốn công bố sứ điệp gì khi Ngài tuyên bố những điều lạ lùng như thế?

  1. Một sự đảo ngược triệt để các giá trị của người đời

Thánh Luca ghi nhận một chi tiết quan trọng: trước khi nói những điều lạ lùng này, “Chúa Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ” (Lc 6: 20). Chúa Giêsu nhìn những ai Ngài kêu gọi, những ai chọn bước đi theo Ngài, những người thực lòng muốn trở thành môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu biết những gì là quan trọng đối với họ, trong tư cách là môn đệ của Ngài, là phải biết cách phân biệt hạnh phúc đích thực với những thứ vui vẻ giả tạo không bền vững. Những thứ bên ngoài này, dù có vẻ là vui sướng, nhưng thực ra chúng hời hợt, chóng qua và rồi để lại những khốn khổ: “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có…Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê…Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười… Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng” (Lc 6: 24-26). Như thường thấy trong các sách Tin Mừng, ở đây chúng ta có một ví dụ về sự đảo ngược bậc thang giá trị mà Chúa Giêsu rất coi trọng. Người ta vui vẻ khi được ăn no và vui cười thích thú khi mọi người ca tụng mình. Điều này có vẻ phù hợp với suy nghĩ, lời nói và hành động của hầu hết người đời chúng ta. Tuy nhiên, đối với Chúa Giêsu, và những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Ngài, thì hạnh phúc thật không phải như thế, nhưng ngược lại: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc… húc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa…” (Lc 6: 20-22). Với các lời tuyên bố này, Chúa Giêsu giảng dạy giáo lý về hai con đường: con đường sống thật và con đường chết thật. Không có con đường trung lập: ai không hướng tới sự sống muôn đời sẽ hướng tới sự chết muôn đời, giống như người quay lưng lại ánh sáng thì sẽ tự đi vào trong bóng tối.

Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6:20). Phúc thật này là nền tảng của tất cả các phúc thật khác. Thánh Mátthêu nói rõ về sự nghèo khó này là: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5: 3), vì người có tâm hồn nghèo khó là người không coi bất cứ thứ gì ở đời này là quá quan trọng, là giá trị duy nhất, phải chiếm đoạt bằng mọi giá, kề cả những thủ đoạn gây hại cho nhiều người khác. Những kẻ nghèo khó như thế biết rằng sự giầu có thực sự không thể chỉ giới hạn ở cuộc sống phù vân này, nhưng nó nằm ở Nước Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, khi người ta biết mở lòng đón nhận ơn ban đó. Những kẻ nghèo khó sẽ nhận ra điều mình phải đói khát: không phải của cải vật chất, mà là Lời Chúa; không phải quyền lực, mà công lý và tình yêu. Những kẻ nghèo khó biết khóc trước những nỗi đau khổ của những người anh chị em khác trong trần thế. Những kẻ nghèo khó biết rằng tất cả của cải của mình là món quà từ Thiên Chúa. Tất cả những giá trị vượt thời gian này không hề giống, thậm chí còn ngược lại những suy nghĩ coi của cải vật chất, thú vui trần gian, danh vọng phàm nhân là những giá trị tuyệt đối, và vì thế những kẻ nghèo khó này sẽ bị thế gian hiểu lầm và ngược đãi: “Bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa” (Lc 6: 22).

Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi!” (Lc 6:24). Lời than thở này cũng là cơ sở cho tất cả những lời than thở tiếp sau, bởi vì bất cứ ai giàu có và tự mãn, tự cho mình là đủ, khép mình trong cuộc sống hưởng thụ riêng tư, không biết dùng của cải của mình để phục vụ người khác, không khiêm tốn mở lòng đón nhận sứ điệp cứu độ từ trời cao, bên kia mọi sự đời, thì sẽ tự nhốt mình trong sự ích kỷ và rồi sẽ nhận ra sự bất hạnh của chính mình. “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” (Lc 6:24-25). Chúng ta được mời gọi hiểu rằng lời của Chúa Giêsu đưa chúng ta ra khỏi lối suy nghĩ thấp bé của phàm nhân, khỏi những chuẩn mực của thế gian, để thay đổi hoàn toàn các giá trị của mình.

Chúa Giêsu có logic riêng của Ngài, vì Ngài đang nói về Vương quốc Thiên đàng, điều này thật khác với lý lẽ con người và không dễ chấp nhận. Nhưng chúng ta nên cẩn thận nghe kỹ Lời Chúa nói: “Phúc cho anh em khi vì Con Người…” (Lc 6: 22). Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, nói rằng: “Giáo hội không sợ nghèo đói, khinh miệt hay bách hại trong một xã hội thường bị thu hút bởi sự sung túc vật chất và quyền lực thế gian. Thánh Augustinô nhắc nhở chúng ta rằng chịu đựng những điều xấu xa này chẳng có ích gì, nhưng thực ra là chịu đựng chúng nhân danh Chúa Giêsu, không chỉ với một tâm hồn thanh thản mà còn với niềm vui” (Kinh Truyền Tin, quảng trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật, 30 tháng 1 năm 2011).

  1. Chúng ta chọn theo ai?

Phúc cho anh em khi vì Con Người” nghĩa là gì? Là làm mọi sự vì Chúa, chọn theo Chúa trong mọi sự. Giống như Giêrêmia, trong bài đọc thứ hai, kêu gọi những người đương thời của ông đưa ra những lựa chọn quan trọng, vị ngôn sứ cũng đặt câu hỏi cho chúng ta ngày nay: chúng ta chọn theo ai, theo Chúa hay theo phàm nhân? Chọn cái chết trong hoang địa, hay chọn sự sống như cây trồng bên dòng nước? “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa, chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người” (Gr 17: 5-6). Sự khôn ngoan duy nhất là chúng ta tin cậy vào Chúa, để Ngài hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hành vi và tất cả con người sâu kín của chúng ta và qua đó ban cho chúng ta sự thanh thản ở đời này và chìa khóa mở vào sự sống vĩnh cửu mai sau. “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Chúa, và có Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17: 7-8).

Đối với tôi, sống là Chúa Kitô” (Philípphê 1: 21). Thánh Phaolô đã cảm nghiệm rất rõ điều này và đã tuyên bố như vậy. Chúa Kitô là người đầu tiên sống lại từ cõi chết, Đấng ban sự sống mới, sự sống vĩnh cửu, nghĩa là ban hạnh phúc đích thực cho mọi người. Giáo hội khẳng định rằng Chúa Giêsu: “Nhờ sự Phục Sinh của Ngài, mở đường cho chúng ta tiến vào cuộc sống mới. Trước hết, đây là sự công chính hoá, phục hồi chúng ta trong ân sủng của Thiên Chúa, để ‘cũng như Chúa Kitô đã được sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới’ (Rm 6,4). Đời sống mới này cốt tại việc chiến thắng cái chết của tội lỗi, và việc tham dự mới vào ân sủng” (GLHTCG, số 654). Tất nhiên Chúa Giêsu không áp đặt ý muốn của Ngài trên chúng ta, nhưng Ngài luôn tôn trọng sự tự do chọn lựa của chúng ta có bước theo Ngài hay không.

Đây là lý do tại sao, giữa những lo lắng và phiền muộn do những thử thách đủ loại, kể cả bởi những cuộc bách hại, Chúa Kitô mời gọi chúng ta kiên trì, tín thác vào Ngài, qua Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, cố gắng xóa bỏ chúng khỏi cuộc sống của chúng ta. Tín thác vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta tin chắc rằng, nhờ Thánh Thần của Ngài ban sức mạnh, chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc thật.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI huấn dụ: “Các Mối Phúc là một chương trình sống mới, để giải thoát bản thân khỏi những giá trị giả tạo của thế gian và mở lòng đón nhận những điều thiện hảo đích thực, hiện tại và tương lai. Thật vậy, khi Thiên Chúa an ủi, Ngài thỏa mãn cơn đói công chính, Ngài lau khô nước mắt của những người than khóc, điều đó có nghĩa là, ngoài việc đền bù cho từng người một cách thiết thực, Ngài còn mở ra Vương quốc Thiên đàng” (đã dẫn ở trên).

Không phải những thử thách tự chúng khiến người môn đệ hạnh phúc; nhưng là chính nhờ Chúa Kitô, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta giúp nhau vượt qua những nghèo khó, đói khát, khóc lóc, oán ghét, khai trừ, và sỉ vả. Nhờ đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu, dù có vẻ kỳ lạ, có thể thực sự hiểu được trong viễn cảnh hạnh phúc: “Vì Nước Thiên Chúa là của anh em…Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng…Vì anh em sẽ được vui cười… Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Lc 6: 21-22).

Xin Chúa giải thoát chúng con khỏi cơn khát giàu sang, đừng chạy theo những lời hứa của thế gian mà đặt kỳ vọng vào của cải vật chất; Xin Chúa đừng để chúng con thỏa mãn với lời khen ngợi và tâng bốc của người đời, đừng đặt con người chúng con vào vinh quang thế gian nhưng vào sự sống đã được mạc khải trọn vẹn trong sự Phục Sinh của Chúa Kitô, như thánh Phaolô xác quyết trong bài đọc thứ hai: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Chúa Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Chúa Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15: 19-20).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

ĐỨC TIN

CHÚA NHẬT 6 MÙA THƯỜNG NIÊN C

(Giêr 17, 5-8; 1 Cor 15, 12.16-20; Lc 6, 17.20-26).

Khi kỹ thuật khoa học phát triển, con người muốn tìm lại nguồn gốc của vũ trụ và của chính mình. Các nhà khảo cổ và các nhà thiên văn địa lý dùng các phương tiện kỹ thuật dự đoán sự kết cấu và tuổi đời của vũ trụ. Với viễn vọng kính, con người có thể nhìn vào khoảng không gian bao la với hằng hà sa số các ngôi sao cách xa cả triệu năm ánh sáng. Khoa học tân tiến cũng chỉ biết giới hạn trong một góc nhỏ của hệ mặt trời, trái đất, mặt trăng, sao hỏa… Sự hiểu biết của con người chỉ là giọt nước trong đại dương. Qua bao ngàn năm tìm tòi nghiên cứu, loài người cũng mới chỉ tiếp cận chút bề mặt của vài ngôi sao gần nhất. Ấy thế mà nhiều người lên tiếng phủ nhận Đấng Tác Thành mọi sự và tin tưởng vào sự khôn ngoan của người đời. Con người chỉ là một thụ tạo nương nhờ vào môi trường xung quanh để sống còn. Con người hiện hữu đó rồi một ngày lại tan biến trở về cát bụi.

Sự khát khao của tâm trí con người là suy tư đi tìm về nguồn. Không một ai có thể hiểu thấu sự kết cấu của vũ trụ và con người. Vũ trụ thiên nhiên phát triển không ngừng theo luật tiến hóa và nhân qủa. Mọi thụ tạo đều tiến hóa nhưng vẫn giữ cái căn cốt của giống nòi. Ví như cây hồng thì nở ra bông hồng, cây cam sinh trái cam, con thỏ sinh thỏ con và con người sinh ra con người… Môi trường xung quanh có thể ảnh hưởng sự phát triển về những cơ quan tùy thuộc như mùi vị, mầu da, tính khí và sự thể hiện cách sống. Điều này giúp chúng ta nhận diện sự giới hạn của mọi loài thụ tạo. Nhờ qua sự mạc khải, chúng ta nhận biết con người là loài cao quí được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà muôn vật được hình thành. Mọi sự, mọi loài và sự vận hành trong vũ trụ đã được sắp đặt theo sự quan phòng với luật tự nhiên.

Thánh Phaolô đã rao truyền giáo lý về Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Việc kẻ chết trỗi dậy vượt ra ngoài khả năng của khoa học nhưng cần có niềm tin. Chúa Giêsu là trưởng tử của những kẻ đã yên giấc. Phaolô xác tín rằng: Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì Đức Ki-tô cũng đã không trỗi dậy (1Cor 15, 16). Niềm tin tuyệt đối của Phaolô đã thuyết phục các tín hữu thời sơ khai. Chúa Kitô sống lại từ cõi chết là một biến cố vô cùng quan trọng của tin mừng cứu độ. Một niềm hy vọng tuyệt đối giải thoát cho loài người.

Lời Phúc âm hôm nay, thánh Luca đã tóm gọn bốn điều được chúc phúc và bốn điều bị khốn khó. Chúng ta suy niệm về giá trị của sự bị óan ghét, thù hành và loại bỏ vì danh Chúa. Chúa Giêsu chúc phúc cho những kẻ bị ngược đãi và ghét bỏ: Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa (Lc 6, 22). Điều phúc này như là phúc tử đạo. Chúng ta không ai muốn bị đau khổ, hiểu lầm, bách hại hay tẩy chay loại bỏ. Mỗi khi gặp những sự túng quẫn gian khó, thường thì chúng ta than phiền, tránh né, phủ nhận và đấu tranh. Chúng ta chỉ hiểu được ý nghĩa đích thực của lời chúc phúc này khi chúng suy gẫm cuộc đời khổ hình của chính Chúa và của các vị tử đạo của Giáo Hội qua mọi thời. Sự kiên cường anh dũng của các vị Tử Đạo khai sáng cho niềm tin của chúng ta. Máu của các Ngài tưới gội hạt giống đức tin của cả Giáo Hội.

Chúa Giêsu không chúc phúc cho những người chỉ biết cậy dựa vào người đời. Vì người đời tung hô đó, rồi chê bai đó. Những vương miện, cúp vàng, cúp bạc, những bằng danh dự cũng sẽ tiêu tan phôi pha qua tháng ngày. Người đời thường tâng bốc nhau qua lời khen ngợi, câu chúc mừng và thăng tiến nhau bằng những giá trị ảo. Tất cả danh tiếng cũng sẽ trôi qua như phù hoa nối tiếp phù hoa. Các ngôn sứ giả cũng đã tìm vinh quang giả tạo nơi người đời. Chúa Giêsu có những lời phiền trách mạnh mẽ: Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế (Lc 6, 26).

Lạy Chúa, xin Chúa thêm đức tin, để chúng con biết kiên trì bám sát theo chân Chúa trong mỗi bước đi cuộc sống.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

TIN NƠI CHÚA MỚI LÀ PHÚC THẬT

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN NĂM C

Khác Tin Mừng theo thánh Mathêu: “Phúc cho AI có TINH THẦN nghèo khó, phúc cho AI hiền lành, phúc cho AI khóc lóc…”, thánh Luca cho biết Chúa nói một cách trực tiếp: “Phúc cho CÁC NGƯƠI là những người nghèo, phúc cho CÁC NGƯƠI là những kẻ bây giờ đang đói, phúc cho CÁC NGƯƠI là những kẻ BÂY GIỜ ĐANG khóc…”.

Đối với thánh Mathêu, một cái “AI” nào đó, nghe xa xôi, chung chung. Hơn nữa: “AI có TINH THẦN”: một cái “AI” trong TINH THẦN, chứ không phải “các ngươi” trong đời thường, như thánh Luca đã nói thật cụ thể.

Dĩ nhiên mỗi cách viết của mỗi thánh sử đều có mục đích, ý hướng, ý nghĩa riêng, khó mà so sánh. Nhưng nếu nói: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó” thì dễ hiểu hơn.

Tinh thần nghèo khó thì người rất giàu vẫn có thể có. Giàu nhưng họ sống thanh bần, không lệ thuộc của cải vật chất, đề cao đức bác ái và cho đi một cách dễ dàng… Vì đó là tinh thần mà! Tinh thần nghèo khó không có nghĩa là thiếu thốn cái ăn, cái mặc nhưng là sống siêu thoát.

Còn trong Tin Mừng thánh Luca, Chúa lại nói một cách trực tiếp: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo, phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang đói, phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang khóc…”, tức là phúc cho bạn và tôi là những người, chính lúc này, đang nghèo, đang đói, đang khóc… Nghèo thật sự, đói thật sự, khóc thật sự, chứ không có tinh thần gì ở đây hết! Nghèo lắm, đói lắm, đau khổ lắm, chứ không phải xa xôi, ở tận đâu đâu.

Vậy ta phải giải thích cách nào?

Chính Chúa Kitô là câu trả lời hoàn hảo. Bởi Chúa nghèo đến nỗi, con chồn có hang, con chim có tổ, nhưng chính Chúa thì không có chỗ gối đầu. Chúa không có chỗ sinh ra, phải mượn chuồng lừa làm nhà, mượn máng lừa làm nôi. Chúa chết không có mảnh vải che thân, phơi thây giữa trời giữa đất…

Chúa còn nghèo về phương diện sự sống. Loài người tước đoạt đến nỗi trong vườn Giêtsêmani, Chúa hấp hối trong cơn túa mồ hôi nặng như những giọt máu. Chúa bị ngược đãi, bị chống đối, bị thù ghét, bị lột sạch danh dự và nhân phẩm, bị giết chết đau đớn, ê chề…

Vẫn chưa hết, trên thập giá tang thương, Chúa cô đơn cùng cực. Nỗi cô đơn tưởng như ngay cả Chúa Cha, chỗ dựa duy nhất của mình, cũng đã bỏ mặc. Chính miệng Chúa thốt lên: “Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con”.

Sự nghèo khó của Chúa Kitô đi đến cùng của lòng vâng phục Thiên Chúa. Vâng phục cho đến nỗi không còn gì thuộc về mình, chỉ còn thánh ý Thiên Chúa như sức mạnh cuối cùng giữa lúc lực cạn, và gục đầu phó dâng linh hồn.

Cuộc đời của Chúa Kitô rực sáng niềm tin tưởng vào thánh ý Chúa Cha. Nhờ tin, Chúa vui nhận mọi thử thách. Nhờ tin, Chúa bằng lòng đón nhận thân phận của một con người bị vùi dập, bị bạc đãi đến cùng.

Bạn thân mến, nếu Chúa Kitô trung thành với thánh ý Chúa Cha đến hết đời của mình, thì chúng ta cũng phải như thế. Vinh quang bao giờ cũng có giá của nó. Vinh quang mãi mãi đứng phía sau thập giá.

Nghĩ như thế, tôi thấy trong lời chúc: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo, phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang đói, phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang khóc…”, có một tâm huyết dành cho chúng ta lớn lắm: Hãy tin vào Thiên Chúa. vì chỉ có những ai dù đói nghèo, dù khổ sở đến đâu, nhưng vẫn vững một lòng tin, mới là người có phúc.

Có ai không muốn mình hạnh phúc! Chúa Kitô cũng vậy. Chắc chắn Chúa không muốn chúng ta phải nghèo, phải đói, phải khóc lóc. Nhưng Ngài muốn ta đi trên con đường mà Ngài đã đi. Đó là con đường của đức tin: Tin vào Thiên Chúa, Cha của Ngài và Cha của chúng ta.

Nghèo đói, thiếu thốn, than khóc… là những đau khổ. Nhưng trong đau khổ, hãy cứ tin. Đức tin sẽ giúp lắng bớt nỗi đau. Đức tin cho ta yên lòng vì biết Chúa nhìn thấy nỗi khổ sở, sự chịu đựng của ta. Đức tin thêm ơn sức mạnh để ta đủ nghị lực vượt thử thách. Nhờ đức tin, tâm hồn sẽ bình an và ấm áp.

Hiểu như thế, ta sẽ thấy đau khổ chính là phương tiện tuyệt vời chắp cánh cho đức tin bay cao và bay xa. Chỉ hiểu như thế thôi, đủ thấy nỗi khốn cùng chính là mối phúc. Vì nói cho cùng, ta phải nói: “Phúc cho kẻ đã tin. Và Phúc lớn cho kẻ trong đói nghèo, trong nước mắt, vẫn tin”.

Nếu Chúa đã từng cho biết: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”, thì hôm nay, sống trong cuộc đời này, ta phải nói rằng, phúc cả thể cho những ai đi trong tăm tối, nhưng vẫn cảm nhận Thiên Chúa là Tình yêu.

Phúc cho người tin như thế, sẽ đúng như lời tiên tri Isaia đã nói trong bài đọc I: “Phúc cho người tin tưởng vào Chúa, Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ”.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

MỞ KHÔNG GIAN

Thứ Bảy Tuần 5 Thường Niên C

“Anh em có mấy chiếc bánh?”.

Bertrand Russell từng là một Kitô hữu; nhưng về sau, ông là một nhà vô thần công khai. Katharine Tait - con gái ông - nói, “Đã một thời, tận trong sâu thẳm tâm hồn cha tôi, có một khoảng trống được lấp đầy; ông đã từng ‘mở không gian’ cho Chúa. Nhưng, một khi đã tống Ngài ra, ông không bao giờ tìm được bất cứ thứ gì để đặt vào đó!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay đề cập khoảng không gian đó với hai câu hỏi: một của các môn đệ, một của Chúa Giêsu. Câu hỏi thứ nhất - ‘khép không gian’ - “Trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?”; câu hỏi thứ hai - ‘mở không gian’ - “Anh em có mấy chiếc bánh?”.

Mặc dù rất nhân bản; nhưng xét cho cùng, câu hỏi thứ nhất tiết lộ một sự nghèo nàn thiêng liêng. Với loại câu hỏi này, một nếp nghĩ, một tầm nhìn thiển cận - bi quan, hơi hướng thất vọng - sẽ hình thành khi chúng ta tự co rút để cam chịu một hoàn cảnh, một số phận xám xịt. Cách đặt vấn đề khá ủ dột này sản sinh một loạt câu hỏi biện minh cho sự bất khả trước nghịch cảnh. Nhiệm vụ là bất khả thi, tại sao tôi cố gắng? Lực bất tòng tâm, tại sao tôi mất thời giờ? Lối nghĩ này ngăn cản chúng ta mạo hiểm làm những điều tuyệt vời cho Chúa; và ngược lại, không còn mong đợi một điều tốt lành nào đến từ Ngài! Ngần ngại hay sợ hãi ‘mở không gian’ cho Chúa, chúng ta ‘vui hưởng’ thú đau thương trước những tình huống dường như vô vọng, và xem ra Thiên Chúa không toàn năng!

“Anh em có mấy chiếc bánh?”; ngược lại, là một câu hỏi hoàn toàn tích cực, tiềm tàng một niềm hy vọng và lạc quan - vì lẽ - nó ‘mở không gian’ cho Chúa. Qua đó, Chúa Cha có thể làm một điều gì đó để chứng thực quyền năng của Ngài. Chỉ cần một chút những gì sẵn có, cả khi chúng dường như ‘không đủ đến vô vọng’ - “bảy chiếc bánh và mấy con cá” - Ngài sẽ nhân lên để nuôi gần nửa vạn người. “Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài để làm nhiều điều lớn lao hơn tất cả những gì chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” - Phaolô; dĩ nhiên, với điều kiện, mỗi người biết hào phóng cho đi những gì mình có!

Thật thú vị, Thiên Chúa cũng ‘mở không gian’ cho Ngài; đúng hơn, Ngài mở ra lòng thương xót trong cơn giận khi đuổi nguyên tổ ra khỏi Eden, “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi!” - bài đọc một. Đó là “tiền Tin Mừng!”. Con cháu họ rồi sẽ nhận ra điều này, “Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Anh em có mấy chiếc bánh?”. Chúa Giêsu tiếp tục hỏi bạn và tôi! Mỗi ngày, đến với Thánh Thể, chúng ta ‘mở không gian’ cho Ngài, dẫu đó là một không gian chật hẹp - và đôi khi - rất tăm tối; thế nhưng, Ngài vẫn thương hạ cố. Cũng ở đó, Ngài tiếp tục hỏi và chờ đợi phần ‘bánh cá’ còm cõi của mỗi người; để rồi Ngài có thể nhân lên, nhân lên hầu nuôi sống bao người. Ước mong sao, đền thờ tâm hồn chúng ta ngày càng sạch trong, xứng đáng cho Chúa Giêsu chiếm ngự; và mong sao, bạn và tôi biết dâng phần ít ỏi của mình vào tay Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con luôn nhớ lời vị thánh trẻ, “Bớt chỗ của tôi, thêm chỗ cho Chúa!” – Acutis; may ra, con không hoá nên vô thần một khi cố tống khứ Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

Subcategories