3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

ĐỔI MỚI

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY 

(Is 43, 16-21; Phil 3, 8-14; Ga 8, 1-11). 

Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức tỉnh: Người phán như sau: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây là một lời khuyến khích yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.

Thiên Chúa sẽ thực hiện những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Hy vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời chỉ đẹp khi còn dang dở.

Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. 

Bài Phúc âm hôm nay kể truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với Chúa GiêsuHọ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”(Ga 8, 7). Ai là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình. 

Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót đã lên tiếngMột lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn. 

Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã bẩn. Có biết bao lần chúng ta đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập. Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước đi. 

Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp, ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném, nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. 

Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.

Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Saulô thay đổi từ một người hăng say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các sinh hoạt sống đạo.

Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống bên Chúa đời đời. Amen.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

GÂY KINH NGẠC

Thứ Bảy Tuần 4 Mùa Chay C

“Vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ!”.

“Tình yêu và sự thật như muối - Natri Clorua. Không có sự thật, tình yêu mơ hồ, đôi khi mù quáng; sự thật, tự nó, vẫn có thể gây khó chịu, đôi khi là độc hại. Chỉ nói mà không yêu thương, người ta sẽ xa lạ với Phúc Âm. Tuy nhiên, khi sự thật và tình yêu tích hợp, nó trở nên “muối của đất” và là yếu tố gây kinh ngạc cho thế giới!” - David H. Johnson.

Kính thưa Anh Chị em,

Với ý tưởng “muối của đất”, Tin Mừng hôm nay tiết lộ, sống trong sự thật là cách chuẩn bị tốt nhất, hấp dẫn nhất để truyền đạt nó! Chúa Giêsu là một kiểu mẫu, Ngài trở nên “muối của đất”, một yếu tố ‘gây kinh ngạc’ đến nỗi “Vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ!”.

Một số người tin Chúa Giêsu là tiên tri; số khác, tin Ngài là Đấng Kitô; số khác nữa, không tin. Phản ứng của các vệ binh được sai đến bắt Ngài thì hoang mang và họ trở về tay không; giới lãnh đạo thì khinh thị. Đang khi biệt phái Nicôđêmô thì rụt rè; trái tim ông bảo ông bênh vực Chúa Giêsu, nhưng cái đầu ông bảo ông đừng mạo hiểm!

Vậy thì điều gì nơi Chúa Giêsu khiến cho nhiều người đương thời bất đồng? Sở dĩ họ bất đồng, chỉ vì Ngài đã trở nên một yếu tố ‘gây kinh ngạc!’. Khi Ngài giảng dạy, “Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền!”; chỉ một lời của Ngài, quỷ xuất khỏi và “Mọi người kinh hãi, lời gì mà lạ lùng thế?”. Đúng! Lời Ngài có sức mạnh biến đổi! Thật khó giải thích, nhưng rõ ràng là khi Chúa Giêsu nói, lời Ngài truyền đạt một sức mạnh, kêu gọi một niềm tin với sự hiện diện quyền năng mà chỉ một mình Thiên Chúa có. Điều đó không thể chối cãi và là một sự thật khiến Ngài trở nên quá hấp dẫn!

Một điều thú vị là những con người ‘gây kinh ngạc’ thường kéo theo những phản ứng! Trước Chúa Giêsu, ai có đức tin giản dị và trung thực, họ sẽ tích cực đáp lại; đang khi những người tự cao tự đại thì lên án, giận dữ. Họ ghen tị; thậm chí, họ miệt thị những ai có ấn tượng tốt với Ngài. Giêrêmia cũng đã trải nghiệm những gì Chúa Giêsu trải nghiệm, “Con đâu biết chúng đang mưu tính hại con” - bài đọc một. Người đương thời chống lại ông - một yếu tố ‘gây kinh ngạc’ - nhưng trong sự thật, ông vẫn nói và phó mình cho Chúa, “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con ẩn náu bên Ngài!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ!”. Không chỉ những lời của Chúa Giêsu gây chia rẽ, mà là chính con người của Ngài. Tại sao? Bởi lẽ, trước Chúa Giêsu, ‘không ai có thể thờ ơ quá lâu’; một là họ chọn theo Ngài, hai là giết chết Ngài! Với chúng ta, cuộc thương khó của Ngài phải là yếu tố ‘gây kinh ngạc’ lớn nhất, cách riêng, trong những ngày Hội Thánh bước vào Tuần Thương Khó! Chúng ta không thể thờ ơ trước tình yêu hy tế của Ngài khi Ngài “như con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt” vì tội lỗi nhân loại; trong đó, có tội lỗi của bạn và tôi! Hy tế của Ngài là sự “tích hợp” của lời nói và tình yêu trọn vẹn nhất của Thiên Chúa. Từ đó, Ngài trở nên “muối của đất”, “muối của thế giới!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con trở nên một ‘yếu tố gây kinh hoàng’ cho bất cứ ai. Cho con là ‘muối của đất’, ‘muối của thế giới’ và con cũng là một yếu tố tạo nên sự khác biệt!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Người cha nhân hậu

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.

Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.

Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

MÀN 1: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.

Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!

Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.

Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.

Người cha hoàn toàn quên mình vì con.

Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.

Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.

Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.

“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.

“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.

“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.

Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ

Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn. Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.

Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.

Cha đi tìm con. Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.

Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!

Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.

Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.

Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
  2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
  3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
  4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?

TGM. Ngô Quang Kiệt

Hồi tâm, đứng dậy, quyết trở về

(" Mừng vui lên … - Lætare) là chủ đề của Chúa nhật  IV Mùa Chay. Từ phụng vụ lễ ca cho đến màu sắc phụng vụ, tím chuyển sang hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm Phục Sinh. Nghỉ để cảm tạ Chúa vì những gì ta đã làm, xin Chúa ban thêm nghị lực để bước tiếp những chặng cuối.

Lời ca nhập lễ : ("Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành !... Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa") (Tv 121,1). Niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn : "Con chiên lạc" (x. Lc 15, 4-7); "Đồng bạc đánh mất" (x. Lc 15, 8-10). Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn "Tình phụ tử " (x. Lc 15, 11-32). Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thế cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người ta cũng có thể tìm lại được chiên lạc, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người con thứ sau thời gian bỏ đi nay trở về được cha mở cỗ mừng vui, là hình ảnh người tội lỗi trở về, Chúa Cha mở khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta như thế.

Cả thiên đang vui mừng khi ta tội lỗi trở về với Chúa. Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn : "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18). Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và sự hoán cải của người con tìm thấy được tình yêu trìu mến của cha.

Chúng ta nhớ lại Logo của Năm Thánh Lòng Thương Xót do Cha Marko I. Rupknik S.I họa vẽ Chúa Giêsu đang vác con người lầm lạc trên vai, là một minh hoạ tuyệt vời về lòng thương xót Chúa.

Lòng Thương Xót đã trở nên người, mặt Chúa và mặt người giống hệt nhau. Khi vác con người trên vai, Thiên Chúa và con người hướng về nhau, đến nỗi có chung một con mắt. Như thế, Thiên Chúa nhìn con người bằng chính mắt con người, để cảm thông, yêu thương và hoán cải con người. Từ nay con người nhìn vũ trụ vạn vật bằng đôi mắt của Thiên Chúa, mà hiểu được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa, để sống trong vũ trụ theo chương trình ban đầu của Thiên Chúa là đem lại hạnh phúc cho con người.

Con người bỏ Chúa ra đi, lầm đường lạc lối, đi vào ngõ cụt, bị thương tích. Thiên Chúa vẫn yêu thương mang về. Logo diễn tả, Chúa tay chân vẫn còn mang thương tích vì bị con người đóng đinh. Nhưng Chúa không quan tâm đến vết thương đau đớn của chính mình, vẫn vội vã, chân thấp chân cao đi tìm con người. Tìm được rồi, Chúa không lên án lỗi lầm, Chúa vác con người trên vai mang về mở tiệc ăn mừng. Đó là tình yêu thương vô biên, yêu thương đến tha thứ những phản bội, yêu thương đến quên mình, dám chết vì người mình yêu. Tình thương của Chúa thật cao cả, không ai hiểu thấu, không lý luận nào có thể cắt nghĩa.

Chúa Giêsu đồng bàn với người tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tệ hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.

Người cha là hình ảnh của Thiên Chúa Giầu Lòng Thương Xót, người con thứ là thân phận bi đát của con người tội lỗi, cần phải trở về với Chúa. Hình ảnh người con trở về cho chúng ta thấy bản chất xấu xa của tội lỗi, và thái độ cần phải có để ra khỏi tình trạng tội lỗi là sám hối, nhận mình là kẻ tội lỗi, quyết tâm trở về với Chúa như đứa con thứ đã làm.

Có người nghi ngờ về lòng thương xót ấy mới nói : Tôi tội lỗi lắm, vào xưng tội, sợ cha mắng, và cho dù cha có tha, thi không biết Chúa có tha cho tôi không ?

Xin thưa : Để lãnh ơn tha thứ, cần phải có tội, và cho dù tội có đỏ như son Chúa vẫn tha thứ, vì Chúa là Đấng tha thứ không biết mệt mỏi. Thứ tha là việc của Chúa, lỗi lầm là của con người chúng ta. Con người tha cho nhau còn nhớ lại. Thiên Chúa tha thứ là xóa sạch tội khiên. Nếu xưng tội xong lại phạm, hãy đến tòa giải tội để lĩnh ơn tha thứ. Con nếu sợ cha mắng, xin bật mí là các cha luôn giữ ấn tín tòa giải tội, nghe xong quên luôn là việc các cha phải làm.

Có người còn hỏi : Khi ta phạm tội, ta xin Chúa tha thứ, Ngài thứ tha, vậy cần gì phải đến xưng tội với cha cho mất thời gian và thêm phiền toái ?

Quả thật, sau khi phạm tội chúng ta thật lòng hối cải ăn năn cách trọn thì đã được Thiên Chúa tha thứ rồi, nhưng nếu ta không đến tòa giải tội ta không lĩnh nhận được cách trực tiếp ơn tha thứ ấy. Cũng như anh chàng con thứ bỏ nhà ra đi, cha anh ở nhà đã sắm cho anh nhẫn vàng, áo đẹp và giầy sang, những thứ đó là của anh, nhưng nếu anh không về thì anh chưa nhận được trực tiếp.

Mùa chay còn mời gọi chúng ta trở về với chính mình, trở về với tha nhân. Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng anh đã đánh mất chính mình, tự nhận mình là kẻ làm tôi "con đã làm tôi cha ", đánh mất em, em mình mà anh gọi là "thằng con của cha kia". Đạo của chúng ta không phải là đạo ghen tị, được thua mà là đạo của tình thương. Chúng ta buồn vì anh em thành công, được ưu đãi hơn mình, tìm cách hạ bệ, thậm trí đối xử với đồng loại, cả đồng đạo, tệ hơn nữa là coi cha mẹ, anh em ruột thịt mình như kẻ thù, không bằng người dưng nước lã. Nếu ai trong chúng ta đang ở trong tình trạng ấy thì sám hối trở về là cần thiết, để tìm lại mình là con với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh là em với ta, chứ không phải người xa lạ.

Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.

Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

TÔI PHẢI VỀ CÙNG CHA TÔI

Ba điều cần phải làm trong mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và thực hành bác ái. Đây là những việc sẽ dẫn chúng ta tiến tới mối tương quan gần gũi hơn với Thiên Chúa, đón nhận ánh sáng Phục Sinh. Nhưng để được gần gũi, thân mật với Ngài, con người phải biết thống hối và trở về với Ngài. Và để diễn tả thái độ “thống hối và trở về”, Giáo Hội đã dùng dụ ngôn người con hoang đàng trở về làm minh họa và đề tài để suy niệm. Theo Thánh Luca thì cả hai người con đều không tốt, đã làm cho cha họ phải khổ tâm, nhưng mỗi người lại có những hành động thống hối khác nhau (Luca 15:11-32). 

Trong câu chuyện người con thứ với trái tim vô cảm và vị kỷ đã đòi được chia phần gia tài thuộc về mình: “Xin cha chia gia tài thuộc về tôi cho tôi” (12). Người anh tuy không đến nỗi lạnh lùng, bất hiếu, nhưng lại không tỏ ra hiểu cha mình. Anh sống bên cha mà lòng tràn đầy toan tính, ghen tương với em.  

Cơ hội đã đến với hai người để thống hối và trở về với cha mình. Với người con thứ là nạn đói nơi anh đang ở, sự nhục nhã mà anh đang phải chịu. Đây không chỉ là đói khát tâm linh mà còn là sự đói khổ vật chất. Hình ảnh huy hoàng trước và sau khi đã ăn chơi phung phí được thánh Luca mô tả: “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho” (14-16). Trong khi cơ hội thống hối và làm hòa của người con cả là sự vui mừng với cha khi em anh trở về. 

Người em trong câu chuyện này đã biết nắm bắt cơ hội. Anh đã không phiền trách số phận, vì số phận là do anh tạo ra. Anh cũng không ghen tỵ với anh mình, vì anh biết mình đã tự tách ra khỏi bầu khí yêu thương của cha và của anh mình. Anh chấp nhận và đối diện với sự thật, rồi bằng thái độ tự hối, anh cương quyết về lại với cha mình: “Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy’” (17-19). Và “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (20). Đối với người anh thì khác, khi biết cha làm tiệc mừng em anh trở về thì “liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ” (28).

 Con đã đắc tội với trời và với cha 

Cả hai anh em trong câu chuyện đều làm phật lòng cha mình. Cả hai đã không sống đúng với thân phận làm con đối với người cha rất mực khoan nhân, rộng lượng, và yêu thương. Nhưng sự khác biệt là một người biết lỗi, nhận lỗi mình, xin lỗi và sửa lại lỗi, còn người kia thì không. Thánh Luca đã diễn tả thái độ sám hối và trở về của người em như sau: “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha… Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’” (20-21). Ngược lại, người anh cả chỉ biết giận dỗi, so đo và ghen tỵ.  

“Hãy trở về với ta bằng tất cả con tim các người” (Joel 2:12). Người em trong Phúc Âm của Thánh Luca sau khi nhận ra mình, nhận ra lỗi phạm của mình, đã tự nhủ phải đứng dậy, dứt khoát với quá khứ, và chấp nhận về xin lỗi cha. Cha anh không những không trách phạt mà còn phục hồi mọi phẩm tước, và quyền lợi cho anh khi bảo các gia nhân: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (22-24). 

Thái độ tự nhận và khiêm tốn của người con thứ tuy không phải là yếu tố quan trọng để cha anh cho lại danh phận và đón nhận anh, nhưng nó là một điều kiện cần thiết. Bởi nếu anh không nhận lỗi và can đảm trở về thì người cha sẽ không bao giờ vui mừng, hạnh phúc nhìn thấy anh “ đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (24). Người cha vui mừng vì thấy con đã trở về, và người con hạnh phúc bên tấm lòng của người cha. 

“Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (18). Đó là thân phận sau cùng của người con thứ từ nơi xa xôi, nơi đã bóc lột tất cả những gì mà anh đã có trước khi rời khỏi nhà: một kẻ chăn heo, một tên nô lệ! Đây cũng là thân phận của chúng ta sau mỗi lần bỏ Chúa, mỗi lần phạm tội. Mỗi lần như vậy, chúng ta giống như người con thứ kia đã tiêu phí tất cả số vốn ân sủng mà chúng ta lãnh nhận được từ Cha trên trời, đã đánh mất danh phận của mình, và vì thế, chúng ta cần phải trở về tìm lại. Từ bỏ quá khứ tội lỗi và lao mình vào tình yêu Thiên Chúa sẽ đem lại cho chúng ta ơn tha thứ và phẩm giá làm con Cha trên Trời mà chúng ta đã đánh mất vì phạm tội. 

Cha và con 

“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Luca 15: 20). 

Làm sao mà người cha này có thể thấy con ông từ đàng xa nếu như ông ngồi trong nhà? Hoặc nếu như ông bỏ rơi con ông, và mất hy vọng mà coi như anh ta đã chết? Chắc hẳn ông hàng ngày vẫn có sự chờ đợi, có niềm hy vọng. Ông chắc phải héo hon, phải canh cánh trong lòng ông, khiến vừa thoạt nhìn từ xa xa ông đã nhận ra con mình, dù lúc này nó có tiều tụy, bạc nhược, và tơi tả, rách rưới. Điều này cũng nhắc nhở về Chúa Cha trên Trời, để chúng ta can đảm trở về sau chuỗi ngày đi hoang, hoặc sau mỗi lần sa ngã, phạm tội. Vì chúng ta biết người Cha ấy vẫn hằng luôn thao thức, chờ đợi. Ngài đang mòn mỏi mong nhìn thấy chúng ta trở về để vui mừng và tha thứ. 

Chúa Cha nhân từ vẫn luôn chờ đợi các tội nhân biết sám hối trở về để tha thứ, và mặc lại cho họ chiếc áo ân sủng, chiếc áo sang trọng của ơn gọi làm con Thiên Chúa. Trước những cám dỗ, yếu đuối và sa ngã, như người con thứ, tin tưởng vào tình thương Cha trên trời, chúng ta cũng hãy mạnh dạn nói với mình rằng: “Tôi phải đứng lên, đi về cùng cha tôi!” (Luca 15:18) 

Mùa Chay 2025

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

Subcategories