8. Đời Sống Tâm Linh

Hạnh Phúc – Chương 1 - CẦN ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN

Nietzsche, một triết gia thế kỷ 19, đã cố gắng diễn tả tính khí thời đại ông trong lời xác nhận: “Thiên Chúa đã chết”, qua đó ông muốn nói rằng vào thời ông con người đã đánh mất đức tin của mình; đồng thời ông cũng phóng một tầm nhìn tiên tri về tương lai và dự báo thế kỷ 20 sẽ là một thế kỷ đầy chiến tranh và cách mạng. Hai xách nhận trên đây của Nietzsche liên kết với nhau nhờ vào một lập luận còn sâu sắc hơn sự khám phá ra triết lý về “siêu nhân” đó là một khi không còn yêu Chúa nữa thì còn lâu con người mới yêu được đồng loại của mình và rồi họ sẽ phải gặp khó khăn cực kỳ trong nỗ lực yêu mến người láng giềng đặc biệt mà hiện đã trở thành kẻ thù của họ.

Thực thế, thế kỷ này là thế kỷ dẫy đầy các cuộc cách mạng. Tuy nhiên ở đây chẳng cần phải đi sâu vào lịch sử các cuộc cách mạng mang tính cách hoàn toàn kinh tế và chính trị; bởi vì chúng ta luôn luôn có khả năng biến thời đại của mình thành thời đại của các cuộc cách mạng quang vinh, cách mạng chính bản thân chúng ta. Một cuộc cách mạng sẽ hình thành bất cứ khi nào một tâm hồn biết truất phế cái bản ngã chỉ đạo nó và đồng thời biết khuất phục cái bản ngã ấy theo nguyên tắc của tình yêu. Một cuộc cách mạng sẽ bùng nổ bất cứ khi nào lòng khiêm tốn thay thế tính kiêu căng nơi chúng ta, khi nào mà chúng ta từ bỏ lòng ham hố cuồng loạn muốn thành công, muốn được tiếng.

Chúa chúng ta đã để lại một kiểu mẫu của loại người biết cách mạng chính mình: ngay đêm trước khi chết để cứu chuộc trần gian, Ngài đã quì gối trước các môn đệ của mình như thể Ngài thấp hèn hơn tất cả bọn họ. Trước đây trong cuộc đời giảng huấn của mình, Ngài vẫn thường bảo họ chớ tìm chỗ nhất nơi bàn tiệc cũng đừng ham được mọi người biết đến. Khi nghe các tông đồ tranh luận với nhau xem ai trong họ là kẻ vĩ đại nhất, Chúa liều kêu gọi họ thực hiện cuộc cách mạng về cách định giá trị của họ. Ngài bảo: “Vua chúa các dân ngoại cai trị dân họ và kẻ cai trị được mang tiếng là người gia ơn. Còn các con thì đừng làm thế, đừng phân biệt giữa người lớn nhất và người bé nhất, giữa các người cai quản và người phục vụ. Hãy nói cho ta biết: ai lớn hơn? Người ngồi ở bàn hay kẻ phục vụ ông ta? Chắc hẳn là người ngồi ở bàn phải không? Và Ta đã hiện diện giữa các con với tư cách một kẻ tôi tớ”.

Trước đây Chúa đã thiết lập cuộc cách mạng của đức khiêm tốn bằng những lời nói; giờ đây, sau bữa tiệc ly, Ngài đưa cuộc cách mạng ấy ra thực hành qua cử chỉ sau: “Ngài cởi áo khoác để qua một bên, lấy một tấm khăn quấn quanh người đoạn đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân các môn đệ rồi dùng tấm khăn cột quanh người lau chân cho họ”. Vào thời bấy giờ, các bọn nô lệ bị chỉ định phải làm những công việc hèn hạ như thế. Thật là một sự cố đảo lộn có tầm kích vĩ đại khi vị thầy của các thầy, vua của các vua quì gối xuống trước 24 bàn chân chai sạn đẫm mồ hôi và rửa sạch chúng khác nào sự tha tội của Ngài cũng rửa sạch trái tim chai cứng và linh hồn dơ bẩn của chúng ta vậy. Mọi giá trị nhân sinh vĩnh viễn bị đảo lộn qua cuộc cách mạng gây đầy sửng sốt của Đức Kitô trong lời Ngài tuyên bố: “Ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên”.

Ngay khi Chúa Giêsu thốt ra những lời này thì Cesar xem như bị truất ngôi; nguyên lý bóc lột bị phế bỏ, xấc láo kiêu hãnh bị đẩy ra cửa. Kể từ đây, mọi Kitô hữu phải cảnh giác chớ nên xét đoán theo lối thế gian, chớ tìm kiếm cho mình những phần thưởng thế gian có thể trao tặng. Khi giọt nước từ đôi tay Chúa Kitô rơi xuống vào đêm ấy, những hệ thống luân lý cổ xưa liền trở thành lỗi thời và những khái niệm cao đẹp nhất của người xưa trở nên không còn thích hợp với con người nữa. Kể từ đây, điều tồi tệ nhất gây hỗn loạn cho tâm hồn chính là không biết phục vụ tha nhân, là tự xem mình là xứng đáng có đặc quyền đặc lợi… Một lề luật mới đã ra đời: lề luật này mặc khải sự bình đẳng của mọi người trước mặt Chúa đồng thời công bố nét đẹp của lòng khiêm tốn. Đấng tự hạ mình mặc xác phàm giờ đây đang tuôn tràn hồng ân và đang dạy chúng ta bài học bằng việc tự hạ cái vô biên của mình xuống để phục vụ các tôi tớ của mình.

Cuộc cách mạng bên trong tâm hồn là một biến cố của Kitô giáo. Nó đòi buộc chúng ta không được hận thù, không được đòi hỏi quyền lợi cá nhân, danh cao tước cả cũng như không được nói lời dối trá. Trong cuộc cách mạng này, tình yêu ẩn núp từ bên trong và hoạt động như một đạo quân thứ năm luôn tín trung với Chúa ngay giữa những bản ngã rối ren mất trật tự của chúng ta. Cuộc cách mạng như thế sẽ tiêu diệt lòng kiêu ngạo và vị kỷ, sự ganh tỵ ham hố cũng như lòng khát khao dành chỗ “nhất” khiến chúng ta thường thiếu bao dung đối với quyền lợi của tha nhân. Thanh gươm tuốt ra sẽ không nhắm người láng giềng mà nhắm vào sự tự kiêu phi lý của bản ngã chúng ta. Đối với các cuộc cách mạng khác thì quả là dễ dàng giao chiến bởi vì chúng ta chống lại với “kẻ thù xấu xa” bên ngoài. Còn cuộc cách mạng Kitô giáo thật khó khăn vì kẻ thù mà chúng ta giao chiến lại là một phần của chúng ta. Tuy nhiên chỉ có cuộc cách mạng này mới đem lại an bình đích thực: còn những cuộc dấy loạn khác đều sẽ chẳng bao giờ chấm dứt bởi vì chúng chỉ kềm hãm lại đích nhắm của chúng ta mà thôi và luôn luôn để lại lòng căm hận sục sôi trong tâm hồn con người.

Tư duy hiện đại đang hướng về một cuộc cách mạng thế giới bên ngoài, cách mạng của các dân tộc, các giai cấp, các chủng tộc cũng như các đảng phái. Còn Chúa chúng ta thì không dành ưu tiên cho cuộc cách mạng mang tính xã hội. Trước tiên, Ngài muốn tái tạo từng con người bằng một cuộc phục sinh của Ngài, đoạn sau đó, qua việc sai phái Thần Trí Ngài đến với con người, Ngài cải thiện lại xã hội thế giới cổ xưa.

Thánh Augustinô có nói: “Những kẻ muốn xáo động sự an bình mà mình đang sống thì hãy làm điều ấy không phải vì căm ghét mà hãy tỏ ra mình có năng lực biến đổi nó”. Chiến tranh xảy đến khi con người phóng chiếu các xung đột nội tâm của mình ra thế giới bên ngoài. Hoà bình sẽ đến khi nhiều người biết tiến hành cuộc cách mạng nội tâm trong đó lòng kiêu ngạo của họ bị đánh tan kèm theo tham vọng ích của họ bị tiêu huỷ. Hoà bình đi theo một cuộc chiến tinh thần như thế có thể tác động gây lây nhiễm hạnh phúc từ tâm hồn này sang tâm hồn khác và đem lại bình an dương thế cho người thiện tâm.

Gm. Fulton Sheen

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 24. Ba Cây Thánh Gía

Tôi mời Bạn cùng tôi leo lên đỉnh núi Sọ. Chúng ta sẽ thấy ba cây Thánh giá dựng trên ấy. Và trên ba cây gỗ hèn hạ ấy, ta thấy ba người bị án tử hình. Chúng ta đã biết ba người ấy là những ai.

Bên tả là người tội lỗi khốn nạn, anh ta cưỡng lại với sự đau đớn.

Bên hữu là người trộm lành, anh ta vui lòng chịu khó.

Ở giữa là Chúa Giêsu, Đấng yêu mến sự đau khổ.

Thế giới cũng là một núi Sọ khổng lồ, cắm đầy những Thánh giá. Trên các Thánh giá ấy, là các con cái Adong, là Bạn, là tôi… là tất cả mọi người chúng ta.

Có người thì giẫy giụa khi phải đóng vào Thánh giá, giống như người trộm dữ.

Người khác thì nhẫn nại, chịu đau khổ, giống như người trộm lành.

Một số ít người khác, thì yêu mến Thánh giá như Chúa Giêsu, đấy là những người thánh, những người tạo nên người thánh.

Mỗi người chúng ta, Bạn, tôi… chúng ta vào hạng người nào trong ba hạng người ấy?

Trên Thánh giá người trộm dữ, chúng ta thấy gì? – Chúng ta thấy một người chửi rủa Thánh giá, một kẻ thù Thánh giá.

Lẽ ra người trộm dữ kia, trong cơn đau khổ, đã phải cảm thương Đấng chí công chí thánh, đang chịu cùng hình khổ như anh ta mới phải, bởi vì anh ta đã gần mồ, thì phải lo dọn mình chết, và không gì tốt bằng nhẫn nhục nhận lấy sự đau khổ để đền tội. Đàng này không, linh hồn cứng cỏi, khô rắn và thô bỉ của anh ta chỉ nhớ đến những của hèn hạ mau qua đời này, anh ta bám chặt vào sự sống đang sắp lìa anh ta và anh ta thất vọng. Để cứu được mấy phút sống tàn của anh ta, anh ta đã ngạo ngược xin Chúa làm phép lạ cứu anh ta cho sống [56]. Chúa không làm phép lạ, nên anh ta lại đổ cho Chúa là căn cớ gây khốn nạn cho anh ta, và chửi rủa Chúa. Vì sợ chết, anh ta tìm cách giẫy giụa trên Thánh giá, cho đến lúc từ Thánh giá anh ta đã chết không bằng an, ít ra chúng ta nghĩ được như vậy.

Trên đời những kẻ bắt chước người trộm dữ có thiếu không Bạn? Khi Chúa giả làm lơ, không nghe lời họ cầu nguyện, hoặc không làm phép lạ như ý họ muốn, là họ oán thán, cưu hờn, đôi khi đâm thù ghét Chúa.

Người ta kể rằng: một cụ già theo xác con ra huyệt. Lúc đã hạ huyệt rồi, ông ta đến gần, giơ tay trên quan tài của cậu con, và nói: “Tôi thề sẽ báo thù Thiên Chúa”. Thật là quái gở! Nói sao làm vậy. Ông ta đã báo thù thật, và báo thù một cách hết sức ma quỷ. Ông ta tìm cách làm gương xấu cho người khác, tìm hết cách làm hư các linh hồn. Thật là một cách báo thù hết sức ghê rợn, ít thấy xảy ra.

Không mấy người quái gở đến thế, nhưng biết bao người đã nói phạm, đàn ông thì nói phạm công khai, đàn bà thì kín đáo hơn, nhưng cũng là phạm thượng thật. Họ nói: Chúa không công bằng… tôi đã làm gì nên tội mà Chúa bắt tôi khổ thế này thế khác… Hạng người kiêu ngạo! Sao không nhớ đến tội mình đã phạm? Họ là hạng người thô bỉ, chỉ mong được lĩnh thưởng ngay từ đời này, như bọn Do Thái xưa; và tôn giáo, đối với họ, chỉ là phương thế giúp họ thêm hoặc chắc được dễ chịu, được thịnh vượng ngay từ đời này. Vì không được như ý muốn, họ nói phạm đến Chúa, họ không giữ đạo nữa.

Một hôm, ở một xứ Đạo kia, có cuộc rước kiệu. Không hiểu trong lúc đi kiệu có truyện gì xích mích… một người trong bọn họ, là ông chánh, ông trưởng gì không biết… la lối chửi rủa om xòm chung quanh Nhà Thờ… lúc về nhà ông ta đập phá bàn thờ và không cho vợ con giữ đạo nữa.

Một người khác, trong khi đi vắng, ở nhà mất trộm. Về nhà, anh ta tức quá, cả gan đem tượng Đức Mẹ ra vườn hành hạ, vì Đức Mẹ đã không biết giữ nhà cho anh ta… ấy là tôi không dám thuật ra đây những câu vô cùng phạm thượng anh ta đã nói với Đức Mẹ trong lúc ấy. Nói lên ai nghe cũng rùng mình.

Họ là những người khốn nạn, làm thế tức là họ tự làm khổ cho mình, vì họ đã tự mình làm mất sự bình an và yên ủi trong tôn giáo; chỉ có những sự yên ủi ấy mới giảm được nỗi buồn; họ làm cho họ đau khổ thêm, và buồn sầu vì đã lỗi bổn phận người có Đạo, linh hồn họ thêm lạnh lẽo tối tăm, và Chúa là sự sáng, sự nóng đã ra khỏi linh hồn họ.

Bạn thử xét mình xem, Bạn có thể tự nhủ rằng Bạn không có điều gì đáng trách về phương diện này không? Chắc là không khi nào Bạn dám tìm cách báo thù Chúa, nhưng nhiều lần Bạn đã không quạu cọ là gì? Chắc là Bạn chưa đến nỗi dám nói phạm đến Chúa, nhưng mỗi khi khó chịu quá – hoặc Bạn tưởng mình phải chịu đau khổ quá – Bạn đã không than thở kêu trách Chúa là gì? Chắc Bạn chưa đến nỗi bỏ việc làm bằng hữu Chúa, nhưng nào đã không có nhiều lần, Bạn đã bỏ một hai việc đạo đức quen làm là gì? Đã hẳn, Bạn chưa dám ngã lòng – ít ra tôi nghĩ thế – nhưng chắc là nhiều lần Bạn đã để mình chán nản, và vì chán nản, Bạn đã mong chết, để thoát nợ đời. Cái ấy không được, ông Gióp xưa đã làm thế, và ông đã bị Chúa quở. Tiên tri Giona xưa cũng đã làm thế, và cũng đã bị Chúa quở.

Vậy thì khi bị treo trên Thánh giá, chúng ta đừng làm như người trộm dữ, ta hãy nín lặng.

Trên Thánh giá của người trộm lành, ta thấy gì? – Ta thấy một người thống hối biết nhẫn nhục.

Người trộm lành trước cũng là người tội lỗi, một người lỗi nặng. Lúc đầu, anh ta cũng đã nói phạm đến Chúa, nhưng vì thấy Chúa can đảm, nhẫn nại, bình tĩnh trong sự đau khổ, anh ta đã hết sức cảm phục, anh ta lại còn ra mặt bênh Chúa nữa. Anh ta nói với người trộm kia: “Sao anh lại sỉ nhục Người, Người là Đấng công chính, nào Người có phạm tội gì đâu”. [57]

Và hạ mình xuống trước mặt Chúa, trước mặt thiên hạ, anh ta tuyên bố: “Còn chúng ta, chúng ta chịu thế này là đáng lắm”. Anh ta thành thực hối lỗi và nhẫn nại chịu khó để đền tội. Người khiêm nhường thật, lúc nào cũng đầy lòng trông cậy. Anh ta liền ngửa mặt lên cùng Chúa và than: “Lạy Chúa, khi nào Chúa về nước Chúa trị, xin nhớ đến tôi cùng”. Anh ta liền được nghe lời yên ủi Chúa phán: “Ta nói thật, ngay ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở nơi vui vẻ cùng Ta”. [58]

Đó là một người trộm lành. Ông được coi như gương mẫu những người nhẫn nại chịu đau khổ. Ông không phải người đi đón rước sự đau khổ, ông ta đã làm hết sức để tránh sự đau khổ Nhưng khi thấy sự đau khổ là hình phạt xứng đáng với các tội lỗi của mình, ông ta hiểu rằng: nhờ sự đau khổ, người ta có thể được nghĩa cùng Chúa, nên ông ta đã bắt đầu yêu sự đau khổ. Chỉ nói được là bắt đầu, vì người ta không thấy dấu gì tỏ ra ông ta đã ham mê sự đau khổ, mà không kêu ca, không lẩm bẩm. Vì biết mình chịu phạt là đúng, nên ông ta đã cúi đầu lĩnh nhận hình phạt Chúa gửi đến. Như thế mới là nhẫn nại, nhưng là sự nhẫn nại của con nhà Kitô hữu.

Không phải thứ nhẫn nại kiêu ngạo của con người bất nhẫn, họ không làm gì được, thì làm bộ không cảm thấy đau khổ. Hạng người ấy có được công gì? Họ được một tí danh vọng của loài người, là cái không đáng kể. “Họ đã được công của mình rồi” [59] nhưng hạng người khoa trương thì chỉ được chút phần thưởng mây khói.

Cũng không phải cái nhẫn nại của hạng người tin vào định mệnh… hạng người cho rằng: cái gì cũng đã có số. Họ coi đời này như một người đàn bà mặc một bộ áo thật sang, lúc người ấy bước đi thì vạt áo gạt phải đàn kiến, và đè giập chúng nó. Và tất cả loài người chỉ là đàn kiến ấy… bị đè bẹp… thế là xong. Chỉ có thế, chứ không có bàn tay Chúa nào trong ấy. Hạng người ngu ngốc ấy đáng được cái gì? Không đáng được cái gì cả… và cứ thế, là các con người kiến kia sẽ kéo nhau xuống hỏa ngục.

Cái nhẫn nại của người trộm lành là cái nhẫn nại của người công giáo: sự đau khổ, ông ta có cảm thấy. Ông ta thú nhận rằng: ông ta cảm thấy đau khổ, nhưng ông ta cũng nhận thấy rằng sự khó là do Chúa gửi đến, và nếu Chúa tha cho không bắt chịu khó, thì ông ta sẽ bằng lòng, nhưng vì Chúa muốn thì ông ta vui lòng chịu để đền tội, và để làm nguôi cơn giận Chúa. Ấy là sự nhẫn nại của con người công giáo.

Hết mọi người chúng ta phải lo cho được ít ra như thế, và nhất là những linh hồn đã dâng mình cho Chúa, trước hết phải lo cho được bằng ấy. Chúng ta đau khổ, nào chúng ta lại không phải nói rằng: tôi đáng chịu đau khổ? Nếu ta chỉ phạm một tội trọng thì chúng ta đã đáng sa hỏa ngục đời đời, vậy thì những sự đau khổ chúng ta chịu bây giờ đã thấm vào đâu với những sự đau khổ lẽ ra chúng ta phải chịu trong hỏa ngục. Nếu chúng ta chỉ phạm tội nhẹ, dù chỉ một tội nhẹ, thì chúng ta sẽ đáng chịu phạt trong luyện ngục, vậy những sự đau khổ chúng ta chịu, đã thấm vào đâu với những sự đau khổ rồi đây chúng ta phải chịu trong luyện ngục… hoặc lẽ ra chúng ta sẽ phải chịu… xin Bạn hãy xem đoạn nói về hỏa ngục và Luyện ngục trên đây, trong mục Hãy nhìn xuống.

Vậy chúng ta hãy nhận lấy những sự đau khổ ấy để đền tội, để làm nguôi cơn giận Chúa, để cứu các linh hồn, để làm sáng danh Chúa.

Đã đành, chúng ta có thể hy vọng Chúa đã tha tội cho rồi, nhưng vì Chúa đã tỏ tình thương ta như thế, ta lại không phải vui lòng chịu khó một tí để đền những sự “thiệt hại” ta đã làm cho Chúa ru? Rồi, dù Chúa đã tha tội cho ta, nhưng cửa luyện ngục vẫn còn mở rộng để đón ta. Vậy ta phải nhẫn nại chịu đau khổ để đóng khóa cửa luyện ngục lại.

Ta hãy bắt chước người trộm lành, hãy nhẫn nại cho xứng người công giáo.

Trên Thánh giá Chúa Giêsu, ta thấy gì? – Ta thấy một Đấng hy sinh khải hoàn, ca bài ca yêu mến.

Đây là mấy đặc điểm nhận thấy nơi Chúa:

1) Chúa đã hoàn toàn tình nguyện hy sinh, như lời Kinh thánh đã nói “Người đã dâng mình, vì đã tự ý muốn dâng mình” [60] Ta đã thấy Chúa mau mắn đi đến chỗ chết. Ở vườn Diệt, dù phần giác quan Chúa có phản kháng, nhưng Chúa đã vui lòng nhận lấy chén đắng. Lúc bọn Giuđa đã bị ngã ngửa, Chúa lại cho chúng đứng dậy. Chúa có sẵn mười hai cơ đội thiên thần, Chúa có sẵn toàn thể các thiên thần để bảo vệ Chúa, nhưng Chúa đã không cho phép các Đấng. Chúa có thể cứu chuộc ta mà không cần phải đau khổ, không cần phải chết, nhưng Chúa đã muốn đau khổ, Chúa đã muốn chịu chết.

2) Chúa đã hy sinh, vì lòng yêu mến. Yêu mến Đức Chúa Cha: Trước khi chịu chết, Chúa đã phán rõ ràng: “Để cho thế giới biết ta yêu mến Đức Chúa Cha thì ta hãy đứng dậy và đi” [61] Yêu mến loài người, là các em của Chúa. Lời Kinh thánh nói: “Người đã yêu ta và đã nộp mình để cứu chuộc ta” [62] Và: “Ngày nào treo Ta lên, thì Ta kéo mọi người lên cùng Ta” [63].

Chúa đã hy sinh, và hy sinh vì lòng yêu, một thứ tình yêu cao cả xứng với Thiên Chúa.

3) Chúa đã hy sinh một cách vui vẻ. Khi nói về ngày thương khó của Chúa, Chúa đã phán lời này: “Ta phải chịu phép rửa trong máu Ta, và Ta khao khát chóng tới ngày ấy chừng nào!” [64]

Thật ra ở nơi Chúa, cũng như ở nơi chúng ta, phần cảm giác vẫn không ưa chịu khổ, và để ta biết than thở cùng Chúa, như con cái than thở với cha mẹ thì Chúa đã để cho phần cảm giác Chúa than thở, nhưng trong ý muốn Chúa, lúc nào Chúa cũng ham chịu khó, cũng nhảy nhót trong khi chịu khó, và trên Thánh giá, sau khi Chúa đã than lên lời đau đớn này: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?” [65] thì Chúa đã nói một lời đầy tình yêu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. [66]

Lời ca yêu mến ấy, các bạn hữu của Chúa về sau, cũng đã xướng lên theo Chúa. Các Thánh Tông đồ, đã vui mừng sung sướng vì được chịu khổ vì Chúa. Các Thánh Tử đạo đã chạy đến chỗ tử hình, như người khác chạy đi ăn tiệc, và trong lúc say sưa đau khổ, các đấng đã thốt ra những lời như lời này: “Tôi là lúa mì của Chúa. Tôi cần phải được răng thú dữ nghiền tán tôi, các chúng hãy đến đi, nếu chúng do dự, các ông hãy thúc chúng đến, nếu không, thì chính tôi sẽ thúc chúng”. Kìa, từng đoàn đông vô số, đã lan tràn khắp hết rừng sâu, họ tìm hết cách để làm khổ cho thân xác họ, cũng như người khác tìm hết cách cho xác thịt họ được thỏa mãn. Kìa, những Bạn trăm năm Chúa trong những bức tường kia, là những của hy sinh vì Chúa và sung sướng vì được làm của hy sinh, họ đã tình nguyện đi đày vì Chúa, và sung sướng vì đã đày đọa được tấm thân vì Chúa.

Còn chúng ta, Bạn cũng như tôi, chúng ta có vào sổ những vị anh hùng ấy không? Chúng ta có thật vào sổ những người Mến Thánh giá ấy không? Tôi vừa nói mấy tiếng: Mến Thánh giá: vì trên Thánh giá của Chúa, ta không phải chỉ còn thấy con người nhẫn nại, con người cam tâm, con người vui lòng chịu đóng đanh để đền tội, nhưng ta đã thấy con người yêu mến Thánh giá, yêu say mê, say mê đến nỗi nếu có cần phải nằm luôn trên Thánh giá mới cứu được thế gian, thì Chúa cũng sẵn sàng nằm luôn trên ấy, để cho người ta muôn đời nhìn ngắm, và để cho kẻ dữ muôn đời sỉ nhục.

Chính tình yêu đã làm cho Chúa chúng ta nhảy mừng trên Thánh giá của Chúa.

Và đó cũng là gương cho hết mọi người muốn tỏ lòng mến Chúa thiết tha, thực tình, phải làm, là yêu mến Thánh giá, nhảy mừng khi được chịu khổ để tỏ lòng mến Chúa, để cứu linh hồn mình, và cứu linh hồn anh em mình.

Chắc là Bạn cũng như tôi, chúng ta đều ước ao được mến Thánh giá như Chúa, chứ không phải chỉ muốn nhẫn nại như người trộm lành. Đã đành được như người trộm lành đã là khá, và một số đông trong ta đã được đến chỗ ấy. Nhưng ta còn phải cố gắng yêu mến Thánh giá như Chúa, say mê Thánh giá như Chúa, và trong khi chịu khổ, ta sẽ xướng bài ca yêu mến như Chúa.

Đã đành, ta chưa thể và không khi nào có thể nhảy mừng trên Thánh giá được như Chúa, và dùng Thánh giá như khí giới để toàn thắng, nhưng ít ra ta hãy cố gắng bắt chước Chúa cho hết sức ta.

Nhờ thế, ta sẽ nhìn thấy Thánh giá như một cuộc toàn thắng của tình yêu, trước là yêu chính mình ta, vì Thánh giá sẽ ban cho ta được vững chắc, được bằng yên. Rồi đến tình mến Chúa, vì Thánh giá giúp ta nên thánh, mà nên thánh, tức là mến Chúa. Sau cùng là tình yêu anh em ta, vì nhờ Thánh giá ta sẽ đưa được nhiều linh hồn về cùng Chúa.

Thánh giá là thắng trận của tình yêu: khi ta suy nghĩ đến điều ấy, mà lại không yêu mến Thánh giá sao được ?

Người ta kể truyện một người nằm liệt trên giường. Đang khi người ấy suy đi nghĩ lại rằng: mình là vật vô dụng, chẳng ích lợi gì cho ai, thì Chúa Giêsu hiện đến, và dạy cho người ấy hiểu những ích lợi của Thánh giá, và người ấy đã làm bao nhiêu ơn ích mà không ngờ: Nào đã sắm sẵn cho mình một tòa cao sang trên nơi hằng sống, nào đã được đẹp lòng Chúa, nào đã làm cho nhiều người tội lỗi ăn năn trở lại, đã giúp nhiều linh hồn công chính được vững vàng, và giúp cho nhiều dân đang bị uy hiếp được thắng trận. Người ấy hết sức ngạc nhiên và sung sướng, người ấy đã xướng bài ca tụng Thánh giá.

Phần ta, ai cũng phải cố gắng sao để dùng Thánh giá như bài ca khải hoàn, bài ca yêu mến của ta, khải hoàn vì ta đã sắm được cho ta một ngôi tòa cao sang trên Thiên đàng; khải hoàn vì ta đã làm vui lòng Chúa; khải hoàn vì ta đã cứu được nhiều linh hồn; khải hoàn vì ta đã giúp được nhiều linh hồn nên thánh thiện hơn; khải hoàn vì ta đã yên ủi được bao nhiêu linh hồn đau khổ… Muốn được thế, ta hãy ngày ngày suy đến những ích lợi của Thánh giá. Nhất là ta hãy mến Chúa cho nhiều… nếu chịu đau khổ là dấu yêu mến, thì càng mến càng dễ chịu đau khổ cho người mình yêu.

Sau cùng, ta hãy cầu nguyện, cầu nguyện cùng Đức Mẹ, là Đấng, trừ Chúa ra, không ai đã đau khổ bằng Người, và cũng trừ Chúa ra, không ai đã hiểu giá trị và những ích lợi của sự đau khổ, của Thánh giá bằng Người.

Ước gì mỗi người chúng ta là một Chúa Giêsu nhảy mừng ca hát trên Thánh giá; được như vậy, thế giới sẽ thay đổi bộ mặt và hòa bình sẽ chóng trở lại, cũng như Giáo hội sẽ càng ngày càng đông con.

Chúa hy vọng vào mỗi người chúng ta. Chúng ta đừng để Chúa thất vọng.

Nhất là những người đã được hạnh phúc Chúa gọi vào con đường mến Chúa cách riêng. [67]

 

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

 

[56] Luca 23,39

[57] Luca 23,41

[58] Luca 23, 42-43

[59] Matt 6,2

[60] IS 53,7

[61] Gioan 14,31

[62] Eph 5,2

[63] Gioan 12,32

[64] Luca 12,50

[65] Matt 27,46

[66] Luca 23,46

[67] Phỏng theo Cha Billet, C.Ss.R. trong sách Le Crucifix.

Hạnh Phúc – Chương 1 - ĐIỀU BÍ ẨN

Thế giới hiện đại yêu thích đến lạ lùng những điều bí ẩn… bí ẩn của độ sâu, những căn hầm tối của kiếp nhân sinh, bí ẩn trong sự ngụp lặn phân tích những vùng phi nhân trong cuộc sống của chúng ta. Sự lôi cuốn này một phần là phản ứng chống lại một đối cực khác. Cách đây một thế kỷ, người ta tự tin rằng mình đã đạt đến một cấp độ sống mới mẻ và cao hơn. Họ kháo nhau nào là đã tạo được những tiến bộ vững chắc, nào là sẽ chinh phục được cái chết, nào là sẽ biến con người nên thánh nên thần, nào là biến đổi trái đất này thành thiên đàng trần gian.

Giờ đây thì những giả định kiêu kỳ ấy của cha ông chúng ta đã nhường bước cho nỗi tuyệt vọng của con người thời đại chúng ta. Sau khi đạt tới điểm chóp bu trong độ cao không tự nhiên của mình, con người đã rơi vào độ sâu khủng khiếp nhất của nỗi tuyệt vọng. Nhiệt tình hồ hởi quá mức đã nhường bước cho sự ngán ngẩm, niềm hy vọng tìm được sự khoái lạc to tát hơn đã nhường bước cho nỗi chán ngấy, sự tự buông lỏng quá độ trong những niềm hy vọng ngất ngây của thành công nhất thời đã nhường bước cho sự nôn mửa.

Hiện có hai nhóm chuyên gia về điều bí ẩn đang đồng tâm hiệp lực với nhau: một nhóm thì phân tích các công nhân xét dưới khía cạnh là “các nhóm quần chúng”, nhóm kia thì nghiên cứu tiềm thức của con người xét về mặt cá thể. Con người trở nên “quần chúng”, bị một tay độc tài lôi kéo là họ đánh mất ý thức trách nhiệm và sự tự chủ của mình. Trong tình trạng như thế, họ có thể trở thành miếng mồi của các thế lực ngoại bang, bên ngoài, điều này đánh dấu bước yêu cầu thứ nhất của chính thể độc tài. Các nhà Cộng sản và Phát xít nghiên cứu kỹ điều này.

Nhóm chuyên viên thứ hai về điều bí ẩn thì nghiên cứu lãnh vực nằm dưới lý trí, không tự nguyện, chưa đạt tới nhân tính nơi trí khôn của con người tức phần tiềm thức, nơi đây trí năng thường phóng ra những mảnh tư tưởng bị khước từ. Thực ra, tiềm thức có ảnh hưởng trên động thái của con người, tuy rằng nó không phải là tác nhân duy nhất cũng chẳng phải là tác nhân có tầm quyết định cuối cùng. Vết nứt nơi quả sồi từ đó cây sồi sẽ phát sinh có thể cắt nghĩa một phần hình dạng của nó, tuy nhiên ánh sáng, sức nóng cũng như những năng lực vô hình của sự sống cũng góp phần tạo nên hiện trạng của cây sồi.

Hai nhóm đồng nghiên cứu về điều bí ẩn trên đã trao tặng cho chúng ta một mấu chốt nói về thời đại này như sau: con người luôn có khuynh hướng nghĩ hoả ngục là những vùng âm cảnh giống như Virgil từng mô tả; và mặc dù Giáo hội không bao giờ giảng thuyết về một thứ hoả ngục thuộc lãnh vực địa lý, nhưng tưởng tượng thông thường vẫn đặt nó nằm dưới lòng đất. Kết quả là bất cứ lúc nào quan tâm của quần chúng hướng sang một sự gì có tính cách “Tiềm (hoặc bí ẩn)…” thì xét về mặt tâm lý vấn đề hoả ngục lại thường trở về ẩn núp đàng sau tâm trí của cả một thế hệ các nhà tư tưởng lẫn người độc giả.

Những người đang tập trung chú ý vào lãnh vực tiềm thức… những người hy vọng nhờ vào sự nghiên cứu libido (sinh lực) cũng như những bản năng tính dục mà có thể giải quyết các vấn đề cuộc sống của mình… là những người đang tìm kiếm hạnh phúc trong những vùng bí ẩn nơi mà chẳng bao giờ hạnh phúc được tìm thấy. Chỉ nhờ vào việc sử dụng lý trí và ý chí (giống như Chúa) mà con người mới có thể tìm được bình an. Bi kịch của thời đại chúng ta chính là nỗi tuyệt vọng của sự thành tựu. Nói rõ hơn là nỗi khốn khổ không bắt nguồn từ sự thất bại của các kế hoạch mà lại do nơi sự kiện là sau khi thực hiện chúng rồi con người vẫn không tìm được hạnh phúc. Mọi thứ mà họ ao ước có được (chẳng hạn của cải vật chất cũng như vinh thắng nhất thời) sau khi bị chiếm hữu rồi, lại trở thành Hư Không. Và hư không chính là đối cực với Thiên Chúa và sự tạo dựng của Ngài. Hoả ngục chính là cái tôi sau khi chán ngấy với những ước muốn riêng đã được thoả mãn, hiện đang tự vĩnh viễn tiêu hao chính mình mà không hy vọng được buông tha.

Thế giới hôm nay đang trông chờ một sự phục sinh. Đám quần chúng bị các quyền lực độc tài dìm xuống đang mong chờ phá được vòng siết ngõ hầu có thể được tự do hành động theo quyền hành của mình như họ đã làm khi viết ra Hiến pháp của chúng ta. Bởi vì Hiến pháp xác định: “Chúng tôi nhân dân hiệp chủng quốc”, quyết định và thiết lập nên một chính quyền. Tương tự như thế, những tâm hồn cá thể đang bị nhốt trong nỗi cơ cực của những cái ngã tiềm thức… những kẻ đang sinh hoạt ở một cấp độ phi nhân thuộc lối sống bản năng đầy thú tính… Cần có được một cuộc phục sinh để mang họ lên từ nấm mộ mà sự chán ngấy đã đặt họ vào đó. Chính họ cũng đang mong chờ ánh sáng.

Trong cái trứng, có chứa đựng sự sống, nhưng để cho sự sống trồi ra thì phải đập vỡ cái vỏ. Đời sống cũng ẩn tàng nơi đám quần chúng bị hủ hoá cũng như nơi các tâm hồn cá thể bị chôn vùi, bị thất vọng. Tuy nhiên đối với cả hai dạng người trên, cần phải phá vớ cái vỏ bao bọc họ, và phải phá vỡ từ bên ngoài. Chắc hẳn cần phải có một năng lực thần linh, chứ không phải nhân lực, để phá vỡ cái vỏ này.

Mỗi linh hồn cần phải tự hỏi chính mình: Tôi muốn tiếp tục sống trong cái vỏ ấy hay là tôi muốn được mang đến một lò ấp thiêng liêng? Những kẻ ở bên trong các cái vỏ này có thể thoát ra được nếu họ bằng lòng để cho Chúa giải phóng họ bằng cách nghiền nát đi cái vỏ ích kỷ mà trong đó họ bay lượn ra khỏi ánh sáng của Ngài.

Đây là vấn nạn nghiêm trọng cần được trả lời. Và những kẻ từ chối không chịu nghiêm chỉnh suy xét bất cứ vấn đề luân lý và thiêng liêng nào cả thì rốt cuộc sẽ lại trân trọng cái hư không là vùng đất luôn luôn mang chiều kích bí ẩn. Còn nếu chúng ta biết trân trọng linh hồn thì chúng ta có thể đảm đương mọi điều khác một cách khá nhẹ nhàng, và đây là bước đầu đi đến hạnh phúc, ngay ở đây và cả mãi sau này.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương IV: CHÚA GIÊSU THẦY DẠY NIỀM TÍN THÁC

I.  LÒNG NHÂN HẬU ĐẦY CẢM THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU MẶC KHẢI CHO TA THẤY LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA.

–   NHỮNG DỤ NGÔN MINH HỌA LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA : NGÀI LÀ CHA CỦA CHÚNG TA.

–   VẬY TA PHẢI CÓ NIỀM TÍN THÁC CỦA NGƯỜI CON THẢO.

Lòng nhân hậu đầy cảm thương của Chúa Giêsu mặc khải cho ta thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

– Có thể chúng ta sẽ được tha lỗi về những sự thiếu tín thác, nếu chúng ta sống ở thời Cựu Ước. Tất nhiên các quyển sách thánh cũng có những lời tuyệt diệu về lòng nhân hậu và quyền năng của Thiên Chúa. Chẳng hạn những Thánh Vịnh của Vua Đavid là một bản thánh thi khôn sánh về lòng thương xót của Chúa, và mãi mãi sẽ mang lại an vui cho những linh hồn thống hối và tín thác. Nhưng đối với quần chúng Do Thái, khi đó họ thấy Thiên Chúa là Đức Giavê đáng sợ, và họ chỉ kêu thánh danh Ngài cách run sợ. Người ta không bao giờ quên việc Đức Giavê phạt Út-da (Uzza) chết tươi, vì đã chạm tay vào Hòm Bia, dầu với ý lành để đỡ cho Hòm Bia khỏi đổ nhào. (Xem 2Sm 6,6-8).

Còn chúng ta, chúng ta được phúc sống dưới thời Tân Ước. Chúa Giêsu, Mặt Trời của sự khôn ngoan thần linh, đã soi sáng và biến đổi thế giới. “Ngài là ánh sáng thật, soi sáng cho mọi người sinh ra trên trần gian” (Ga 1,9). Chúa Giêsu đã đến để mặc khải cho ta thấy Thiên Chúa vẫn được coi là mầu nhiệm và không ai biết rõ, Ngài cho ta thấy một Đấng Thiên Chúa gần như có thể sờ thấy, rất gần gũi với chúng ta. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, đã đến để nói cho ta biết tình cảm của Thiên Chúa đối với chúng ta, tình thương vô cùng thương xót, tình của Người Cha vô cùng dịu dàng đối với chúng ta. Muốn nhận biết Cha chúng ta ở trên trời, chỉ cần nhìn vào Chúa Giêsu, xem Ngài hành động và nghe Ngài nói. Chính Chúa Giêsu đã nói : “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy” (Ga 14,9). Ngài là hình ảnh rất trung thực của Chúa Cha trong thế giới hữu hình của chúng ta.

Nếu phải nói đến nét đặc điểm của con người Chúa Giêsu, thì ai cũng thấy đó là lòng nhân hậu lạ lùng của Ngài, khiến những kẻ khốn nạn nhất cũng chạy đến với Ngài. Đó là tình thương đặc biệt Ngài dành cho những người tội lỗi và những người bệnh tật, và cho tất cả những ai cần đến lòng nhân hậu của Ngài hơn. Ngài luôn mở rộng vòng tay đầy dịu dàng và thương xót của Ngài để đón nhận những người đau khổ về thân xác hoặc tâm hồn.

Ai cũng biết rõ như thế. Và người ta đã tố cáo Ngài đi qúa đà trong những hành vi cảm thương đầy nhân hậu đó. Những người Biệt phái đã nhiều lần trách móc Ngài nặng lời, vì Ngài đã thương xót các bệnh nhân mà lỗi phạm luật ngày sa-bát của Chúa. Rồi họ trách Ngài đã qúa nhân hậu với những người tội lỗi, nhất là trường hợp Ngài đã để cho một người đàn bà tội lỗi đụng chạm đến Ngài, lấy nước mắt thống hối rửa chân Ngài, và lấy tóc lau chân Ngài.

Người ta còn đi tới chỗ gài bẫy để bắt lỗi Ngài về chuyện này. Người ta dẫn đến trước mặt Ngài một người đàn bà, bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình, để thử Ngài, xem Ngài có dám nhân hậu đến độ tha tội cho người đó, chống lại luật Môisê chăng? Lòng nhân hậu bao la của Chúa Giêsu đã nên cớ vấp phạm cho những người Biệt phái tự phụ, kiêu căng và độc ác. Sự ghen ghét của họ đối với Ngài chỉ gia tăng tiếng đồn về lòng nhân hậu đầy thương xót của Ngài, và lôi kéo người ta đến với Ngài.

Và để làm cho mọi người thấy rõ đáy lòng của Ngài, để cho những người tội lỗi nhất và đáng thất vọng nhất cũng hãy tin tưởng và tín thác nơi tình thương rất nhân hậu của Ngài, Ngài đã kể ra những dụ ngôn rất ngọt ngào và rất hợp với tâm trí Người Đông phương. Ngài đã tự mô tả mình trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Ngài tự giới thiệu là người mục tử tốt lành, sẵn sàng thí mạng sống vì các con chiên của mình. Như vậy, một cách sống động và cụ thể, Ngài cho ta thấy những tâm tình của Ngài và của Cha Ngài mà Ngài là hình ảnh trung thành và sống động.

Những dụ ngôn minh họa lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

– Như thế vẫn chưa hết. Nếu những tỏ bày về lòng nhân hậu ngọt ngào của Chúa Giêsu vẫn để chúng ta bán tin bán nghi về lòng thương xót của Cha trên trời, nếu chúng ta vẫn cứng lòng như một số người và chỉ nghĩ đến quyền năng và sự khôn ngoan khi nghĩ đến Chúa Cha, và chỉ dành tình thương và lòng thương xót cho Chúa Giêsu, thì chính Ngài, chính Chúa Cứu Thế của chúng ta đã thấy cần phải mở mắt cho chúng ta.

Ngài tỏ cho ta thấy Chúa Cha, vì Ngài là hình ảnh toàn hảo và trung thực của Cha Ngài. Nhưng Ngài còn làm nhiều hơn. Ngài đã thấy Cha Ngài, muôn đời vẫn là một với Cha, cho nên Ngài có thể tỏ bày cho ta biết những mầu nhiệm khôn dò về Chúa Ba Ngôi và về tình thương bao la của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Chúng ta biết Chúa Giêsu đã tỏ bày cho ta thấy lòng nhân hậu bao la của Ngài trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu và người mục tử tốt lành. Rồi trong những dụ ngôn tương tự, Ngài đã mặc khải cho ta thấy tình thương của Chúa luôn thương xót con cái mình, cả những đứa con tội lỗi nhất. Ai trong chúng ta cũng biết dụ ngôn đồng bạc bị rơi mất và dụ ngôn con chiên lạc; trong hai dụ ngôn đó, Chúa đã nói qúa, một cách táo bạo, khi khẳng định rằng : trên trời đã vui mừng hơn, vui mừng vì một kẻ tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính ! Nhất là chúng ta tất cả đã nếm sự ngọt ngào của dụ ngôn tuyệt diệu về đứa con hoang đàng. Dụ ngôn này đã mang lại sự thống hối và niềm cậy trông cho biết bao tội nhân ngã lòng !

Như thế là chúng ta đã được giảng dạy và được  bảo đảm về tâm tình của Thiên Chúa đối với chúng ta. Những tâm tình này có thể được gọi chung một tên là tình Cha thương con : Cha của Chúa Giêsu cũng là Cha của chúng ta. Ngài là Cha và là người Cha vô cùng nhân hậu, vì Ngài là tình thương, tình thương vô cùng. Tình phụ tử của Ngài đối với chúng ta vượt xa tình thương của các người cha trần gian đối với con cái mình, cũng như tình thương của một vị Thiên Chúa vượt xa tình thương của một tạo vật.

Nơi mỗi trang của cuốn Phúc Âm, Chúa Giêsu lại càng làm nổi bật cho ta thấy tình phụ tử của Cha chúng ta ở trên trời. Ngài nhấn mạnh điều này đến độ đó là nét đặc trưng nhất của việc giảng dạy của Ngài, và đặc điểm này đã gây bỡ ngỡ cho những nhà chú giải Thánh Kinh yếu niềm tin thuộc giáo phái Tin Lành như Harnack. Chúa Giêsu luôn chỉ gọi Thiên Chúa là “Cha của anh em ở trên trời”.

Khi các môn đệ xin Ngài dạy họ cầu nguyện, Ngài đã dạy họ kinh “Lạy Cha” là kinh tốt đẹp hơn mọi lời kinh. Chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha không phải là điều kỳ diệu sao ? Thoạt tiên người ta nghĩ Ngài cũng dạy chúng ta xưng hô Thiên Chúa là “Chúa” hoặc “Chúa tể muôn loài” như kiểu cầu nguyện của người Do Thái. Nhưng Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta đã nghĩ khác, và Ngài đã dạy chúng ta: “Anh em sẽ cầu nguyện thế này : Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9). Phúc Âm Thánh Luca còn nói gọn hơn : “Anh em sẽ cầu nguyện thế này : Lạy Cha !” (Lc 11,2).

Vậy ta phải có niềm tín thác như con thảo.

 Khi đã biết tâm tình của Thiên Chúa là Cha của mình, chúng ta biết phải cầu nguyện làm sao. Phải có một niềm tin tưởng tín thác như con thảo. Và đó là điều Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài. Chỉ xin trích lại đây một thí dụ.

Sau khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về việc cầu nguyện, nhất là về niềm tin tưởng tín thác phải có khi cầu nguyện. Ngài nói : “Ai trong anh em là Cha mà con mình xin bánh mì, lại cho nó hòn đá ? Hoặc nó xin cá mà lại cho nó con rắn ?… Vậy nếu anh em là những con người độc ác còn biết cho con mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em ở trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin Ngài sao ?” (Lc 11,11-13).

Chúa đã luận lý một cách tuyệt hảo, không chê vào đâu được. Luận cứ của Ngài : Chúng ta còn tốt với con cái mình như thế, cả những người cha không ra gì, phương chi Thiên Chúa là người cha vô cùng tốt lành, vô cùng nhân hậu. Cốt lõi của lời dạy ở đây của Chúa Giêsu là : Thiên Chúa là cha của chúng ta, và là người cha vô cùng nhân hậu hơn mọi người cha, cho nên chúng ta phải hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Khi đã chấp nhận điều này, niềm tín thác sẽ là điều tất nhiên, cho nên chúng ta sẽ không được tha thứ nếu không trọn vẹn tín thác nơi Thiên Chúa, mỗi khi chúng ta cầu xin Ngài ơn gì.

Ôi ! Lạy Chúa Giêsu, con còn xa niềm tín thác con thảo này lắm, một niềm tín thác dựa trên sự cảm nghiệm Thiên Chúa là Cha của con. Xin Chúa hãy thương giúp con ! Xin ban cho con tinh thần nghĩa tử này, một tinh thần rất cần thiết. Chính Chúa đã dạy: “Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha, và không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con và kẻ được Chúa Con mặc khải cho” (Mt 11,27). Vậy xin Chúa mặc khải cho con biết Chúa Cha, vì con biết Ngài ít qúa. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Xin đừng để con sống suốt đời như một đứa mồ côi, trong khi con có một người Cha tốt lành dường ấy. Cũng như tông đồ Philipphê, con nài xin Chúa : “Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy Chúa Cha, và như thế là đủ cho con” (Ga 14,8). Xin hãy tỏ cho con thấy, hãy giúp con biết rõ Đấng mà con chưa nhận rõ tình phụ tử rất dịu dàng ! Xin làm cho con yêu mến Ngài như một đứa con thảo yêu mến Cha mình, và như thế là đủ cho con. Khi đã biết rõ Ngài, con sẽ biết phải đến với ai để xin được những gì con cần thiết. Con sẽ đến với Ngài với một niềm tín thác con thảo, vì con chắc sẽ được Ngài nhận lời con xin. Vâng, xin hãy tỏ cho con thấy Cha con ở trên trời, và con sẽ có tất cả những gì con thiếu thốn. Con sẽ đến trình bày với Ngài những ước ao của con, nhất là niềm ước ao nên trọn lành, cho con và cho những người khác. Con sẽ trình bày với Ngài niềm khao khát yêu mến và hy sinh của con. Là linh mục của Chúa, là tu sĩ, là nữ tu, con sẽ xin Ngài những ơn cần thiết cho ơn gọi nên thánh của con. Con sẽ xin Ngài những nhân đức, lòng nhiệt thành và sự thánh thiện, để việc tông đồ của con có hào quang và có kết qủa. Những người cha trên trần gian, cả những người ngoại giáo cũng lo cơm bánh và thức ăn cho con cái mình, cho nên con tin chắc Cha trên trời của con sẽ sẵn sàng ban Chúa Thánh Thần cho con, vì như Chúa đã dạy, Ngài sẽ ban cho tất cả những ai cầu xin Ngài.

II.  NHỮNG LỜI HỨA CỦA CHÚA GIÊSU : NIỀM TÍN THÁC VỮNG VÀNG SẼ ĐẠT ĐƯỢC MỌI  SỰ.

–   NHỮNG PHÉP LẠ CỦA CHÚA LÀ NHỮNG BÀI HỌC CỤ THỂ. “HÃY CẦU NGUYỆN NHÂN DANH THẦY !”

Những lời hứa của Chúa Giêsu : Niềm tín thác vững vàng sẽ đạt được mọi sự.

 Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài không từ chối con cái Ngài sự gì hết. Nhưng như thế có nghĩa là Ngài ban lập tức và đúng như ta xin chăng ?

Cần phải nhắc lại ở đây những gì đã trình bày trên kia về bản chất và những phẩm tính của một niềm tín thác đích thực. Chúng ta biết : Niềm tín thác đích thực phải được điều kiện hóa, nghĩa là chúng ta tin chắc Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, nếu những sự chúng ta ước ao đó có ích lợi cho cùng đích tối hậu của chúng ta, và nằm trong kế hoạch của Chúa quan phòng. Bởi vì, để lấy lại dụ ngôn của Chúa Giêsu, nếu chỉ tay vào con bọ cạp, tưởng đó là con cá mà xin Cha trên trời, chắc Ngài sẽ không ban cho tôi. Vậy luôn phải nhớ chân lý này, để chúng ta khỏi thất vọng vì khờ dại khi cầu xin[1]. Nhưng cũng đừng vội bỏ cuộc : khi không nhận ngay được điều ta xin, chúng ta đừng vội tự nhủ : có thể ơn này không tốt cho tôi. Nghĩ như thế sẽ sớm chấm dứt việc cầu xin của mình. Sự nghĩ tưởng như thế, sớm bỏ lời cầu xin như thế, thường là dấu chỉ một sự thiếu tin tưởng và tín thác, sợ bị chưng hửng.

Đúng thế, trong những trường hợp đó, cần phải mạnh bạo, bền chí, và dám quấy rầy Chúa bằng những lời cầu xin tha thiết. Ơn ta xin càng lớn lao, ta càng phải nài nẵng Chúa. Phải dám quấy rầy Cha chúng ta ở trên trời. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta như thế trong dụ ngôn sau đây : “Nếu anh em có một người bạn, và nửa đêm tới nhà người đó và nói: “Bạn ơi, cho tôi vay ba chiếc bánh mì, vì tôi có người bạn lỡ đường ghé nhà tôi, mà tôi không có gì dọn cho anh ấy ăn”nếu người kia từ trong nhà trả lời rằng : “Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa nhà đã đóng, các cháu đang ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho bạn được”. Thầy nói cho anh em biết : nếu người đó không dậy cho người này vay vì tình bạn, thì người đó cũng sẽ chỗi dậy vì sự quấy rầy của người này, và đưa cho anh ta số bánh anh ta cần. Cho nên thầy bảo anh em : Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở ra cho anh em. Vì ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, và ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,5-10).

Vậy rõ ràng phải kết luận rằng : ngay giữa những con người với nhau, một lời xin kiên trì sẽ thắng được sự biếng nhác hoặc sự thiếu tốt bụng của tha nhân, phương chi một lời cầu xin kiên trì như thế chắc chắn sẽ đạt hiệu qủa tốt đẹp nơi Cha chúng ta ở trên trời, vì Ngài là người Cha thương yêu ta vô cùng. Chắc chắn, Ngài có thể làm ra vẻ nặng tai, hoặc có vẻ chưa nghe thấy lời cầu xin của ta. Nhưng chúng ta phải năn nỉ. Chính Chúa Giêsu dạy ta phải làm thế, Ngài đã không ngần ngại ví Cha Ngài với người Ngài nói trong dụ ngôn trên kia, không muốn cho những gì người ta xin. Và Ngài nói : Hãy xin thì sẽ được… hãy gõ cửa thì sẽ mở cho.

 Chúng ta đừng sợ làm theo lời dạy của Chúa Giêsu. Ngài đã muốn dạy ta rằng : Thiên Chúa cũng muốn ta cầu xin và cầu xin lâu dài. Đôi khi sự việc có vẻ xảy ra ngược với những gì ta ước ao và cầu xin. Chuyện này có thể xảy ra cả trong những việc thiêng liêng và thánh thiện. Nhưng chúng ta phải vững tâm, phải táo bạo, và Chúa Giêsu bảo phải dám quấy rầy Cha chúng ta ở trên trời. Chúng ta hãy đến và thưa Chúa như người bạn trong Phúc Âm : “Con sẽ không lui ra cho tới khi Chúa nhận lời con xin. Con tin vào những lời hứa của Chúa Giêsu, con yêu dấu của Chúa”. Và như vậy chúng ta sẽ bắt ép Thiên Chúa ban cho ta những ơn xem ra Ngài cố tình không muốn ban, nhưng thực ra trái tim đầy yêu thương của Ngài rất muốn ban cho chúng ta. Khi đó chúng ta sẽ thấy rằng những sự trì hoãn này của Chúa có tính toán, và Ngài muốn như thế để có lý do ban cho chúng ta những ơn qúi trọng hơn, để thưởng cho niềm tín thác vững vàng của chúng ta.

Có tác giả đã đưa ra nhận định chí lý này : Người bạn trong Phúc Âm đã không táo bạo và không dám quấy rầy đến như vậy, nếu anh ta xin cho bản thân, hoặc xin cho gia đình anh ấy. Nhưng anh ấy muốn phục vụ một người bạn đến từ phương xa, và bất cứ người tốt lành nào cũng phải làm như vậy. Vậy thì tôi cũng vậy, nhiều khi tôi cầu xin Chúa, không phải những gì cho bản thân tôi hoặc gia đình tôi. Tôi cầu xin cho những người khác. Tôi cầu xin được bác ái, được nhẫn nhục, nhân hậu, khiêm nhường, để có thể đón nhận và cư xử với anh em cho hợp ý Chúa. Nhất là tôi xin Chúa ban cho tôi những nhân đức đó để đón tiếp người bạn vĩ đại là Chúa Giêsu, khi tôi rước lễ, khi Ngài muốn ở lại mãi mãi trong linh hồn tôi. Tôi chắc chắn sẽ được nhận lời. Người bạn của chúng ta, Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, rất yêu thương chúng ta. Ngài không ngủ bao giờ và luôn luôn sẵn lòng lắng nghe ta cầu xin, Ngài sẽ sung sướng được chúng ta quấy rầy như thế, để cầu xin Ngài tất cả những gì cần thiết để đón Ngài đến ở trong linh hồn chúng ta.

Những phép lạ của Chúa là những bài học cụ thể.

– Chúa Cứu Thế đã khẳng định cách long trọng rằng những lời cầu nguyện với niềm tin tưởng tín thác của chúng ta sẽ luôn luôn có hiệu qủa. Lời giảng dạy của Ngài về vấn đề này thật rõ ràng và chắc chắn. Tuy nhiên, để thuyết phục chúng ta hơn nữa, Ngài đã làm nhiều phép lạ để chứng tỏ  điều đó. Đó là như những bài học cụ thể cho ta. Rất nhiều lần, Ngài đã xác minh lời giảng dạy và những lời hứa của Ngài bằng những thí dụ đầy sức thuyết phục. Chúng ta hãy mở sách Phúc Âm ra, bất cứ chỗ nào chúng ta cũng thấy Ngài nói : Ngài đã làm các phép lạ đó vì niềm tin của những người đến cầu xin Ngài. “Niềm tin của con đã cứu con, đã chữa lành con” (Lc 7,50)[2]

Đó là kiểu nói quen thuộc của Chúa Giêsu. Ngài đã không nói : “Ta đã chữa lành con vì niềm tín thác của con”, nhưng Ngài nói “Niềm tin tưởng tín thác của con đã chữa lành con”, vì Ngài muốn nhấn mạnh về sự cần thiết phải có niềm tin, phải tín thác, nếu không, Ngài tuy toàn năng nhưng sẽ không hành động được. Niềm tin cậy của những bệnh nhân xin Ngài cứu chữa, làm cho Ngài khoái chí. Ngài luôn khen niềm cậy trông như thế. Có thể nói Ngài muốn lợi dụng các phép lạ Ngài làm, để dạy cho chúng ta những bài học cụ thể về niềm tín thác. Ngài đã nói như vậy với viên sĩ quan bách quân, với người bị bại liệt được thả xuống từ nóc nhà, và nhất là với người phụ nữ Canaan.

Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, những lời hứa qủa quyết của Ngài và những phép lạ chứng minh của Ngài, tất phải đủ sức thắng vượt mọi do dự và mọi nghi ngờ của chúng ta. “Lạy Chúa xin dạy chúng con cầu nguyện”. Xin dạy chúng con niềm tín thác trọn vẹn mà chúng con đang thiếu và rất cần.

“Hãy cầu nguyện nhân danh Thầy !”.

– Chúa Giêsu đã dạy chúng ta hãy đặt niềm tín thác của mình trên nền tảng lòng nhân hậu của Cha chúng ta ở trên trời. Ngài còn muốn củng cố niềm tín thác của ta bằng những lời hứa qủa quyết của Ngài, rằng ta sẽ nhận được những gì chúng ta cầu nguyện với niềm tín thác. Nhưng vẫn cần phải bảo vệ niềm tín thác của ta chống lại những nghi ngờ, do nhớ đến những sự yếu hèn của mình. Và đó là việc Chúa Giêsu đã làm khi nói những lời vĩnh biệt sau tiệc ly: “Thật, Thầy bảo thật, tất cả những gì anh em xin Cha Thầy nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho anh em. Cho đến nay, anh em chưa xin gì nhân danh Thầy. Anh em hãy xin thì sẽ nhận được, như thế để niềm vui của anh em được trọn vẹn… Ngày đó, anh em sẽ cầu xin nhân danh Thầy, nhưng Thầy sẽ không còn nói Thầy cầu xin cho anh em, vì chính Cha yêu thương anh em, bởi vì anh em đã yêu mến Thầy và đã tin rằng Thầy bởi Cha mà ra” (Ga 16, 23-27).

Đó là bí quyết nhiệm mầu để các lời cầu xin của ta được linh ứng. Tôi tin chắc sẽ được Chúa ban những ơn tôi xin, không phải vì lời cầu nguyện của tôi tốt lành và đáng Chúa lắng nghe đâu, nhưng vì Chúa Cha yêu mến Chúa Giêsu và muốn tôn vinh Ngài. Như vậy, mỗi khi cầu nguyện, tôi phải cậy nhờ công nghiệp Chúa Cứu Thế, cách minh nhiên hoặc cách tiệm nhiên.

Tất cả các lời kinh phụng vụ của Hội Thánh Mẹ chúng ta đều kết thúc bằng lời “Nhờ Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen”. Những lời này luôn được coi là những lời cuối cùng của việc cầu nguyện của chúng ta, và đó là mũi tấn công cuối cùng của chúng ta đánh vào lòng nhân hậu của Cha chúng ta ở trên trời, để nhận được những gì chúng ta cầu xin. Qua mấy lời vắn tắt này, chúng ta trình bày trước Thiên Chúa tất cả cuộc đời và những công nghiệp của Chúa Cứu Thế. Nhất là chúng ta nhắc đến cây thập giá, nơi Chúa Giêsu đã chịu chết để vâng lời Chúa Cha và đền tội cho chúng ta : Thánh Giá là dấu hiệu của sự hòa giải giữa Thiên Chúa và loài người tội lỗi, chắc chắn sẽ khiến Thiên Chúa thương đến chúng ta.

Cầu xin nhân danh Chúa Giêsu là cách tốt nhất để tránh mọi sự tin tưởng dại dột vào các nhân đức bất toàn của mình, vào sự công chính tự cao của mình và vào sự sốt sắng của lời cầu nguyện của mình. Chúng ta chỉ trông cậy vào công nghiệp vô cùng, và nhất là vào cuộc khổ nạn rất thánh của Chúa Giêsu. Nhất là chúng ta nhắc lại trước mặt Thiên Chúa những ước nguyện tha thiết của Chúa Giêsu, khi Ngài cầu xin Chúa Cha thánh hóa chúng ta : “Lạy Cha Chí Thánh, xin Cha giữ gìn họ nhân danh Cha… xin Cha thánh hóa họ trong chân lý” (Ga 17,11,24). Chúng ta cũng nhắc lại trước nhan thánh Chúa lời cầu xin cuối cùng của Chúa Giêsu, khi hấp hối trên thập giá : “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Khi cầu xin nhân danh Chúa Giêsu, chúng ta cũng làm vang lên tiếng kêu than của Chúa Giêsu trên thập giá : “Tôi khát !” (Ga 19,28). Lời này Chúa Giêsu kêu đến chúng ta, nhưng Ngài cũng kêu lên Cha Ngài. Vậy lời cầu xin của Chúa Giêsu, tức lời chúng ta cầu xin nhân danh Ngài, sẽ là lời cầu nguyện vô cùng mạnh sức, vì dựa vào công nghiệp vô cùng của Chúa Cứu Thế, làm cho lời cầu xin của chúng ta dễ được Thiên Chúa chấp nhận.

Và cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu còn hơn thế nữa. Không những chúng ta hợp với những lời khẩn nguyện của Chúa chịu đóng đinh trên thập giá, chúng ta còn hiệp thông với những lời cầu xin liên lỉ mà Chúa Giêsu không ngừng dâng lên Cha Ngài cho tất cả chúng ta, cho tôi. Đúng thế, trong lúc này và mãi mãi không ngừng, Chúa Giêsu hằng cầu xin cho chúng ta : “Ngài mãi mãi sống để chuyển cầu cho chúng ta.” (Dt 7,25). Ôi ! Mầu nhiệm khôn tả của tình thương Thiên Chúa : Chúa Giêsu luôn nghĩ đến tôi, vật thọ tạo nhỏ bé của Ngài ! Ngài dành cuộc sống trên trời của Ngài để lo trau dồi linh hồn tôi, để xin cho tôi được muôn ngàn ân sủng mà tội lỗi của tôi lẽ ra đã làm tôi mất đi. Chúa đã thưa với Cha Ngài : “Con không cầu nguyện cho họ mà thôi, nhưng cũng cầu xin cho những kẻ nghe lời họ giảng dạy mà sẽ tin kính Con, để tất cả trở nên một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha” (Ga 17,20-21).

Ôi, lạy Thầy chí thánh, xin ban cho con được thường xuyên, luôn luôn ý thức về sự hiệp nhất giữa Chúa và con đây ! Xin cho con đừng bao giờ cầu nguyện một mình, nhưng luôn bước vào cầu nguyện, dựa trên cánh tay Chúa, cậy trông vào danh Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa nơi Cha trên trời của con. Xin cho con được hiệp thông với những lời cầu nguyện rất thánh thiện mà Chúa dâng lên Thiên Chúa, khi Ngài sống trên trần gian này, để sự phong phú của những lời cầu xin đó bổ khuyết cho sự thiếu  thốn của những lời cầu xin của chúng con ! Và nhất là xin Chúa Giêsu cho con được hiệp thông với những lời khẩn nguyện mà Chúa hằng dâng lên Chúa Cha ở trên trời, cũng như trên các bàn thờ và từ trong các nhà tạm trên mặt đất này, khi Chúa đưa cho Chúa Cha thấy những thương tích của cuộc khổ nạn của Ngài !

III.  NHỮNG BÀI HỌC VỀ SỐNG TÍN THÁC: HÃY XEM CÁC BÔNG HUỆ NGOÀI ĐỒNG !

– SỐNG TÍN THÁC TRONG CUỘC ĐỜI VẬT CHẤT.

– VÀ NHẤT LÀ TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.

Những bài học về sống tín thác : Hãy xem những bông huệ ngoài đồng.

– Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải tín thác trọn vẹn và vững vàng khi cầu nguyện, để chắc chắn nhận được những gì chúng ta ước nguyện. Nhưng tín thác không chỉ giới hạn ở những giây phút cầu nguyện và đọc kinh, nhưng ta phải thực hành niềm tín thác mỗi lúc, và ở mọi dịp. Khi niềm tín thác được trải rộng ra tới mọi chi tiết và mọi biến cố của cuộc đời như thế, nó sẽ tươi nở thành “sống tín thác”. Chính sự sống tín thác như thế sẽ làm cho ta sống như những đứa con của Chúa. Chúng ta hãy nghe thêm những bài học khôn sánh mà Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng ta. Có thể nói những trang đẹp nhất và ngọt ngào nhất của sách Phúc Âm là những trang nói Chúa Giêsu dạy chúng ta sống trọn vẹn niềm tín thác.

Ngài muốn giải thoát các môn đệ khỏi những lo lắng thái qúa về cuộc sống vật chất, để tâm hồn họ được rộng mở hơn về phía trời cao. Chắc chúng ta đã nhiều lần suy gẫm về những trang này và đó là điều rất tốt. Nhưng, một lần nữa, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe những lời rất cao siêu và rất dịu dàng của Thầy Chí Thánh.

Bởi vậy Thầy bảo anh em : đừng lo lắng về cuộc sống của anh em, lo mình sẽ ăn gì, uống gì; cũng đừng lo lắng về thân xác, sẽ ăn mặc thế nào. Sự sống chẳng trọng hơn của ăn sao ? Và thân xác chẳng trọng hơn áo mặc sao ? Anh em hãy nhìn xem các chim trời chúng không gieo, cũng không gặt, chúng không tích trữ gì trong kho lẫm, vậy mà Cha anh em ở trên trời, nuôi dưỡng chúng. Anh em không đáng giá hơn chúng nhiều sao ? Ai trong anh em nhờ lo nghĩ nhiều mà có thể kéo dài cuộc sống của mình thêm được một gang ? Và tại sao anh em lo nghĩ về áo mặc ? Hãy nhìn xem những bông huệ ngoài đồng, chúng lớn lên thế nào ? Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Nhưng Thầy nói cho anh em biết Vua Salômôn quang vinh rất mực như thế cũng đã không mặc đẹp bằng một bông huệ. Vậy nếu Thiên Chúa mặc đẹp như thế cho hoa cỏ ngoài đồng là thứ nay còn, mai đã bị ném vào lò lửa, Ngài lại không làm như thế cho anh em sao, hỡi những người kém tin ? Vậy anh em đừng lo lắng và tự hỏi: Mình sẽ ăn gì, sẽ uống gì, hoặc sẽ ăn mặc thế nào đây ? Những điều đó, các dân ngoại luôn tìm kiếm, nhưng Cha anh em ở trên trời biết anh em có những nhu cầu đó. Trước hết anh em hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn tất cả những sự đó, Ngài sẽ ban thêm cho anh em. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai : Ngài mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).

Sống tín thác trong đời sống vật chất.

– Thật là tốt lành khi được nghe những lời trấn an như thế của Thầy chí thánh. Người ta cảm thấy như được dần dần nâng lên khỏi những dao động của trần thế, và được đưa vào một bầu không khí thanh quang, gần với trời. Những lời đầy thi vị và hình ảnh Đông Phương của Chúa thật là ngọt ngào và đầy sức thuyết phục. Người ta không thể tưởng tượng được điều gì vừa đơn sơ, vừa hợp lý và vừa có sức thuyết phục hơn.

Những lời này dạy ta nhìn mọi sự dưới ánh sáng của đức tin mạnh mẽ nhất, xem tất cả thế giới như sân khấu của sự xắp đặt đầy khôn ngoan và yêu thương của Cha trên trời. Chính Ngài lo cho mọi sự vật, từng sự vật, dầu nhỏ mọn nhất. Một ngọn cỏ, một bông hoa nhỏ ngoài đồng cũng là đối tượng của sự chăm lo của Ngài. Con sâu nhỏ nhất, con chim sẻ bé nhỏ, đều nhận được lương thực từ tay Ngài. Ngài nghĩ đến những nhu cầu vật chất của những loài thấp kém đó. Phương chi Ngài sẽ càng lo cho những nhu cầu của chúng ta, những đứa con của Ngài, vì chúng ta gọi Ngài là Cha chúng ta. Vậy chúng ta đừng lo lắng “như những người ngoại giáo !”. Cha chúng ta ở trên trời biết chúng ta có những nhu cầu đó.

Những lời Chúa Giêsu giảng dạy các môn đệ đã hai ngàn năm như thế, đã vang dội khắp các nước trên thế giới. Qua các thời đại, những lời này đã nuôi dưỡng và củng cố niềm tín thác cho biết bao vị thánh nam nữ, biết bao vị sáng lập các dòng tu, nhất là các tu hội hành khất, vì các ngài đã trông cậy vào sự nuôi dưỡng của Cha trên trời. Và ngày hôm nay, chính những lời đó của Chúa Giêsu đã gây dựng nên hàng ngàn tu hội dòng nam nữ, sẵn sàng hiến tất cả cho những người nghèo : thời giờ của mình, những sự chăm lo của mình, tình thương và cả những tài sản cuối cùng của mình. Giữa những vật lộn ngày càng gay cấn để sống còn, và ngược hẳn với những lo toan qúa đáng của thời đại siêu văn minh của chúng ta, hàng ngàn hàng vạn những linh hồn được đào tạo bởi những lời thần linh của Chúa Cứu Thế, đang sống ngày nào biết ngày đó, trong tâm tình thanh thản, trông cậy mọi sự nơi Cha trên trời là Đấng nuôi dưỡng các chim trời và các bông huệ ngoài đồng.

Có thể chính bản thân tôi cần suy gẫm nhiều về những lời rất tốt lành này. Quan niệm hằng ngày của tôi về thế giới, quan niệm thực hành chớ không phải quan niệm lý thuyết, có lẽ đã phần nào bị nhiễm chủ nghĩa duy vật ? Khi tôi bị một cơn bệnh hoành hành, khi một thất bại khiến tôi buồn sầu, khi người ta nói những lời xúc phạm đến tôi, một niềm tin sâu sắc có cho tôi thấy bàn tay của Thiên Chúa trong tất cả các sự việc đó chăng ? Hay là tôi đã quên rằng tất cả mọi sự dệt lên cuộc đời tôi, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, đều do Cha trên trời đã muốn và đã cho phép xảy ra vì yêu thương tôi ? Tất cả mọi sự đều được Ngài sử dụng như dụng cụ để giúp tôi dứt mình ra khỏi trái đất này, dứt mình tôi ra khỏi chính bản thân mình để gắn bó với một mình Ngài mà thôi. Một người mẹ nuôi con mình bằng sữa mình, cũng không chăm lo cho con mình bằng Thiên Chúa chăm lo cho mỗi người chúng ta, cho riêng bản thân tôi. Ngài bảo vệ tôi, nuôi dưỡng tôi, lo cho tôi sống cách tự nhiên và cách siêu nhiên, y như thể chỉ có một mình tôi trên thế gian này.

Nhiều khi vì thiếu tín thác, vì không sống tín thác, tôi đau khổ lắm. Đáng buồn thay ! Những đau khổ đó không phải là những thánh giá Chúa gửi cho tôi, nhưng đó là thánh giá tôi đã tạo ra cho mình. Tôi nghiền ngẫm cách vô ích và mãi mãi những đau khổ, những ưu phiền và những thử thách đã qua. Tôi buông lỏng cương cho trí tưởng tượng, và trong cảnh lo âu đó, tôi tự làm khổ mình về những bất trắc có thể sẽ không bao giờ xảy ra cho tôi. Tôi tự làm khổ mình bằng những đau khổ mà tôi nhớ lại đó và bằng những sự sợ hãi vô căn cớ. Tôi sẽ an vui hơn biết bao, sẽ can đảm hơn biết bao, nếu tôi gạt bỏ đi tất cả những lo nghĩ vô ích đó và sống theo lời khuyên của Thầy Chí Thánh : “Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có đủ cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34).

Sống tín thác trong cuộc đời thiêng liêng.

– Tôi phải tín thác, để Chúa lo cho thân xác tôi và những nhu cầu vật chất của thân xác tôi. Tôi càng phải tín thác để Ngài lo lắng cho linh hồn tôi. Điều này qúa hiển nhiên. Nếu Thiên Chúa tỉ mỉ chăm lo mọi nhu cầu vật chất cho tôi, Ngài còn âu yếm chăm lo gấp trăm ngàn lần cho linh hồn tôi, vì linh hồn qúi trọng muôn ngàn lần hơn thân xác. Mỗi bông hoa nhỏ đều được Ngài yêu qúi chăm lo, chắc Ngài còn chăm lo biết bao hằng ngàn bông hoa tốt đẹp là các nhân đức của linh hồn tôi : Ngài lo cho những nhân đức đó tươi nở, làm vui lòng và vui mắt Ngài, Cha nhân từ của chúng ta. Mỗi ước nguyện tốt lành và thánh thiện của tôi sẽ là một nụ hoa được Ngài yêu qúi chăm sóc, cho tới khi nó nở ra hoa, và Ngài sẽ lo cho nó kết qủa, những qủa ngon ngọt.

Tất nhiên, hành động đầy yêu thương của Ngài thường kín đáo. Đôi khi Ngài cũng cho ta cảm thấy Ngài : Ngài làm cho linh hồn tôi vui sướng vì tác động dịu dàng của Ngài, vì cũng có lúc Ngài cho tôi cảm thấy sự hiện diện mến yêu của Ngài. Vào những lúc đó, những lúc diễm phúc đó, tôi kêu lên như thánh Bênađô : “Chỉ ai có kinh nghiệm mới có thể tin : Yêu mến Chúa Giêsu ngọt ngào dường nào !”[3].  Nhưng thông thường, Ngài ẩn mình đi, để tôi có vẻ như cầu nguyện một mình, chiến đấu và làm việc một mình vì lòng yêu mến Ngài. Người ta không cảm thấy hành động thiêng liêng của Ngài. Đôi khi Ngài còn có thể cho tôi có cảm tưởng đau đớn và thần bí của sự đi khỏi của Ngài. Tôi tưởng như đã làm phiền lòng Ngài : sự khô khan và những chán nản đã tràn vào linh hồn tôi.

Những khi đó, hãy tín thác ! Không, Chúa Giêsu không bỏ tôi, để tôi làm việc và chịu đau khổ một mình đâu ! Ngài không bỏ rơi tôi đâu. Ngài không để tôi uổng phí thời giờ qúi báu để nên thánh đâu. Nếu Ngài ẩn mình lâu, có thể rất lâu, thì đó chỉ là cách thế của Ngài, để làm cho lửa mến của tôi càng bốc cháy lên. Hãy tin tưởng và tín thác nơi Ngài ! “Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng tiền nhỏ, phải không ? Vậy mà không một con nào rơi xuống đất mà không có phép Cha Thầy. Cả những sợi tóc trên đầu anh em cũng đã được đếm hết” (Mt 10,29). Vậy chúng ta đừng sợ gì hết ! Linh hồn tôi đã được thần linh hóa bởi ân sủng và được trang hoàng bằng các nhân đức, thì có giá trị hơn những con chim sẻ nhiều.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa năng nhắc lại cho linh hồn con nghe những lời đầy khích lệ của Chúa. Trong sự thinh lặng của mọi sự, xin dạy con hiểu ý nghĩa sâu xa của những lời giảng dạy của Chúa. Xin giúp linh hồn con vượt qua mọi lo lắng của cuộc sống vật chất, cũng như những lo âu vô cớ của đời sống thiêng liêng. Đó là những mảnh lưới giam hãm linh hồn con, xin cho con được biết sống tín thác, một niềm tín thác ngày càng trọn vẹn, để linh hồn con được giải thoát, và bay lên tới những miền đầy ánh sáng thần linh của Chúa, linh hồn con sẽ say sưa mến yêu Chúa vì được chiêm ngưỡng những phẩm tính thần linh của Ngài.

Paul De Jaegher S.J.

 

[1] Chúng ta có thể tin chắc rằng Chúa luôn trung thành với lời hứa : Ngài sẽ ban ơn ta xin, hoặc một ơn khác tương tự và thường qúy trọng hơn.

[2] Chúng tôi thấy cần phải nhấn mạnh đến yếu tố tin tưởng và tín thác trong niềm tin của người ta.

[3] Hymne : Jesu dulcis memoria.

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 23. Để Nên Giống Chúa

Bạn thân yêu, hai người yêu nhau tự nhiên muốn nên giống nhau, giống nhau từ lời ăn tiếng nói, đến cách cử chỉ ăn mặc.

Viết đến đây, tôi nhớ đến truyện mấy người học trò bắt chước thầy họ, trong hết mọi cái họ bắt chước được: lời ăn tiếng nói, cách viết văn, cho đến lối viết chữ. Hễ cái gì của thầy họ, là họ muốn biết và làm theo. Có những bức thư thật dài, họ cũng không ngại chép lại hết và học thuộc lòng.

Ấy là một tính cách của tình yêu.

Vậy nếu Bạn mến Chúa thật, thì thế nào Bạn cũng phải muốn nên giống Chúa. Không nên giống người yêu, không yêu cái người yêu yêu, thì tình yêu ấy không lấy gì làm vững chắc mặn mà.

Tôi chắc Bạn muốn nên giống Chúa, vì Bạn thực tình mến Chúa. Vậy Bạn có biết Chúa đã làm gì lúc còn sống không? Có phải Chúa đã sống một cuộc đời xa hoa lộng lẫy, một cuộc đời quý phái trưởng giả, có phải Chúa đã sống một cuộc đời lên xe xuống ngựa, nằm trên chăn bông, ngồi trên nệm gấm không? Có phải Chúa đã sống một cuộc đời yểu điệu kiều dưỡng hay ít ra cuộc đời tạm gọi là đầy đủ không? Không, sách Phúc âm đã nói trái lại, và chính Phúc âm cũng không tả hết cuộc đời đau khổ của Chúa. Sách phúc âm chỉ thuật lại một phần rất nhỏ như chính Thánh Gioan đã quả quyết [47]. Ấy thế mà khi đọc Phúc âm, ta thấy đời Chúa là một cuộc đời đau thương khổ não, một đời hàn vi thanh bạch, trăm đường phiền muộn. Từ khi giáng thai, trong lòng Đức Mẹ, cho đến khi chịu táng trong mồ, không giây phút nào là không đau khổ thiếu thốn: “Con cáo có hang, con chồn có tổ, Con Người không có nơi dựa đầu” [48]. Chính Chúa đã phán về mình như thế. Khổ hơn nữa, là vì Chúa có thể sống một cuộc đời lộng lẫy, Chúa có thể tránh được hết mọi sự đau khổ dù nhỏ đến đâu, nhưng vì không thèm những cái vui hèn, dù là những cái vui chính đáng, nên Chúa đã chọn lấy một cuộc đời tràn ngập đau đớn, đau đớn ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Chúa đã biến thành “Người đau khổ” [49]. Tôi không cần thuật lại sách Phúc âm, vì Bạn đã hoặc sẽ nghe đến nhiều lần. Tôi chỉ cần nhắc lại cho Bạn biết rằng: Chúa đã chịu đau khổ, và đau khổ không miệng nào, không bút nào tả được.

Không những thế, Chúa lại còn nhìn cuộc đời đau khổ với đôi mắt lạc quan.

Khi phán về sự thương khó, Chúa đã phán: “Ta phải chịu rửa bằng máu, và Ta khát mong chóng được rửa như thế chừng nào!” [50]. Và như tôi đã nói trong bài “tiếng lòng”, tuy Chúa tha phép cho phần cảm giác được rùng mình sợ hãi, nhưng lúc nào Chúa cũng tỏ ra Người yêu sự đau khổ. Trên Thánh giá, sau khi chịu hết các giống hình khổ, Chúa đã thốt ra lời: “Mọi sự đã hoàn tất [51]. Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” [52].

Khúc ca khải hoàn ấy, các bạn hữu Chúa cũng đã ca theo. Kìa, các Thánh Tông đồ khi bị tra tấn, sỉ nhục… ra khỏi tòa, các Đấng đã tỏ lòng vui mừng vì đã đáng chịu khó vì Chúa [53].  Kìa, các thánh Tử đạo, khi đến pháp trường thì vui mừng sung sướng như người khác đi ăn tiệc. Ấy là chưa nói đến các thánh Tu hành hãm mình trong rừng vắng, ấy là chưa kể đến các thánh Đồng trinh giam hãm mình trong bốn bức tường, hy sinh cho bạn chí thánh. Bà Bá tước thành A- lăng-xông (Alenson), thấy ngọn lửa tràn đến để thiêu Bà, Bà nói với vị nữ tu đứng bên cạnh: “Chị này, giờ tỏ lòng mến Chúa đã đến, ta hãy vui mừng”.

Thánh nữ Delphine (Đen-phin) một lần hỏi bạn người là Thánh Elzéar (En-dê-a) làm sao người có thể giữ mình bình tĩnh khi gặp sự sỉ nhục ghê gớm như thế, bạn Người thưa: “Khi người ta làm sỉ nhục tôi, tôi nghĩ đến Chúa Cứu Chuộc chịu nhục nhã trên Thánh giá, và tôi suy đi suy lại cho đến khi tôi thấy mình được bình tĩnh hẳn”.

Vậy tôi cũng xin nói với Bạn, nếu Bạn muốn nên giống Chúa, thì chỉ có một con đường phải theo là con đường đau khổ, con đường Thánh giá, con đường chông gai, con đường đi đến chỗ chết, chết dần chết mòn, chứ không phải chết dưới lưỡi gươm của đao phủ hoặc sau tiếng nổ của phát súng… đó là con đường ta phải đi theo. Nếu ta đi đường khác thì thế nào cũng lạc.

Nếu bạn thật lòng mến Chúa, thì Bạn hãy vui lòng can đảm bước lên chông gai; nếu cần, bạn hãy bước qua lửa, để đi đến cùng Chúa, Chúa đã đi trước, các môn đệ trung thành của Chúa cũng đã bước theo chân Chúa, và hết thảy chúng ta cũng phải đi theo, theo cho tới ngày gặp Chúa trên nơi hằng sống.

Hay ta muốn vừa mến Chúa, vừa không nên giống Chúa? Không, không được. Không nên giống Chúa, thì không thể nói là mình mến Chúa được. Cái ấy không cần phải minh chứng. Nếu ta không muốn nên giống Chúa, thì muốn nên giống ai? Nếu không muốn nên giống Chúa thì chỉ mến Chúa ngoài miệng, chứ không phải mến Chúa thật trong lòng. Mà những người chỉ mến Chúa ngoài miệng ấy, đáng nghe lời Chúa đã phán với dân Do Thái xưa: “Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng nó ở xa Ta” [54], và lời này: “Bay hãy xéo đi, Ta không biết chúng bay là ai” [55]

Bạn thân mến, tôi muốn thành thật và sung sướng nói về Bạn rằng: “Người này mến Chúa thật lòng, chứ không phải mến Chúa ngoài miệng, vì suốt đời đã nhẫn nại chịu đau khổ, đã hy sinh để đẹp lòng Chúa, và nên giống Chúa”. Tôi cầu chúc cho Bạn được ơn ấy, để ngày phán xét, Chúa phán cùng Bạn. “Hỡi con yêu quý, vì con đã giống Cha hoàn toàn, nhất là đã nhẫn nại chịu đau khổ khi còn ở thế gian, thì con hãy lại gần đây, để Cha hôn con lần đầu hết, và đem con vào chốn cả sáng đời đời, đã dọn cho những kẻ suốt đời ra sức nên giống Cha”.

Ôi, còn hạnh phúc nào cao quý và đáng ước ao bằng hạnh phúc ấy!

Bạn nghĩ sao?

Vậy ta hãy can đảm mà chịu khó đi, ta đừng phàn nàn năn nỉ nữa, ta hãy để Chúa trước mắt mà suy ngắm và hãy cố gắng nên giống Chúa: Yêu đau khổ, nhẫn nại chịu đau khổ và vui mừng chịu đau khổ. Ta hãy cầu nguyện cho nhau được vui lòng hy sinh chịu khó để nên giống Chúa ở đời này, đời sau ta sẽ cùng nhau nghe tiếng êm ái Chúa mời gọi vào chốn cực lạc.

 

[47] Gioan 21,25

[48] Matt. 8, 20

[49] Tv. 21,7

[50] Luca 12,50

[51] Gioan 19,30

[52] Luca 23,46

[53] CVTĐ 5,41

[54] Matt. 15,8

[55] Matt. 25,12

 

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT