3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

LẮNG NGHE VÀ BƯỚC THEO VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh thật đẹp và đầy ý nghĩa của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Ngài biết rõ, yêu thương, dẫn dắt và bảo vệ chúng ta là đoàn chiên của Ngài.

  1. Tiếng gọi của Vị Mục Tử

Người ta kể rằng, có một người chăn cừu bẻ gãy chân của một con cừu hay đi lang thang của anh ta và vác nó đi cho tới khi chân nó lành lại. Anh ta nói mình làm như vậy là để con cừu khi được vác trên vai và chăm sóc như thế nó sẽ gắn kết với anh và không bao giờ đi lang thang nữa. Ở một số nền văn hóa, sự nghiêm khắc hoặc kỷ luật hà khắc đôi khi được xem là cách thể hiện tình yêu thương, nhằm hướng dẫn cá nhân đi đúng đường. Hành động bẻ chân cừu được coi là một hình thức yêu thương cứng rắn, “mục đích biện minh cho phương tiện”, biện minh cho cung cách dạy dỗ độc đoán của nhiều bậc cha mẹ, của nhiều cơ sở giáo dục, những phương sách quản lý chuyên chế của nhiều thiết chế xã hội, chính trị, ý thức hệ…

Liệu Chúa Giêsu, Đấng “không đành bẻ gãy cây lau bị giập, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12: 20) có làm chúng ta bị tổn thương như vậy để giữ chúng ta gần gũi với Ngài không? Không có chỗ nào trong các tài liệu về chăn nuôi, lại càng không có chỗ nào trong Kinh thánh, nói về những người chăn chiên bẻ chân cừu theo cách này. Câu chuyện này không có gì chung với với Lời của Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành luôn tìm kiếm và dẫn dắt con người bằng tình yêu, kiên nhẫn và sự hy sinh, chứ không sử dụng bạo lực để ép buộc: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Chính Chúa Giêsu đã khẳng định mối liên kết thân mật giữa Ngài và những ai thuộc về Ngài: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 27-28). Đây không chỉ là một lời tuyên bố, mà còn là một lời mời gọi và một lời hứa.

  • Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” không chỉ là nghe bằng đôi tai thể lý, mà là lắng nghe bằng cõi lòng, nhận ra chân lý trong lời Ngài, và đáp lại bằng sự vâng phục và tin tưởng.
  • Tôi biết chúng” không phải là biết hời hợt bên ngoài, mà là sự thấu hiểu sâu sắc, sự quan tâm riêng biệt đến từng con chiên.
  • Chúng theo tôi” là hành động đi theo đường lối của Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài.
  • Và phần thưởng cho sự gắn bó này là “sự sống đời đời” vô giá, và sự an toàn trọn vẹn trong vòng tay yêu thương của Chúa Giêsu và của Chúa Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 29-30).

Sự kết hiệp giữa Chúa Con và Chúa Cha bảo đảm cho sự an toàn mãi mãi của chúng ta. Thánh Augustinô đã suy ngẫm: “Vậy chúng ta là chiên của Ngài … Ngài đã cứu chuộc chúng ta… Chính Ngài là Mục Tử của chúng ta, và chúng ta là đoàn chiên của Ngài. Ngài dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi…” (Chú giải Thánh vịnh 22).

  1. Đoàn chiên được quy tụ từ muôn dân nước

Tiếng gọi của Vị Mục Tử không chỉ giới hạn trong dân riêng Israel. Khi Lời Chúa bị một số người Do Thái chối từ, Thánh Phaolô và Banaba đã mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13, 46-47).

Đoàn chiên của Chúa được quy tụ từ mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ. Bài thánh vịnh đáp ca hôm nay nhắc rằng: “Toàn thể địa cầu, hãy tung hô Chúa! Hãy phụng thờ Chúa với niềm vui, vào trước thánh nhan Ngài giữa tiếng hò reo” (Tv 99, 1-2). Thiên Chúa là Đấng tạo thành và là Mục Tử của tất cả mọi người: “Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Ngài dựng nên ta, ta thuộc về Ngài, ta là dân Ngài, là đoàn chiên Ngài dẫn dắt” (Tv 100, 3). Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là dành cho mọi dân tộc, muôn dân nước, mọi ngôn ngữ. Niềm vui của những người đón nhận Tin Mừng là bằng chứng cho quyền năng của Chúa Thánh Thần: “Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13, 52).

Đức Thánh Cha Phanxicô thường dùng hình ảnh “những người chăn chiên với mùi của chiên” (Cuộc gặp một nhóm linh mục người Pháp, tại Rôma, thứ Hai, 07 tháng 6 năm 2021). Người mục tử không chỉ ở trong chuồng trại mà còn đi ra vùng ngoại biên để tìm kiếm và quy tụ những con chiên lạc. Sách Công vụ Tông đồ mô tả sống động sứ vụ đó: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13: 47-49).

  1. Sự sống vĩnh cửu của đoàn chiên

Bài đọc thứ hai từ Sách Khải Huyền cho thấy một viễn cảnh huy hoàng về đích điểm của đoàn chiên trung thành. Đó là hình ảnh “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên” (Kh 7, 9).

Họ là những người biết sử dụng ý chí tự do được ban cho, không bị bạo lực ép buộc, để chọn yêu mến và vâng lời Chúa Chiên Lành. Họ là những người tin tưởng bước theo Chúa Kitô bằng tình yêu tự nguyện và làm nên đoàn chiên của Ngài. Họ là những người đã trải qua thử thách trần gian, đã trung thành đi theo Vị Mục Tử, và giờ đây được hưởng sự sống đời đời bên Ngài. Họ “là những người đến từ cơn gian nan lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 14). Chính Con Chiên, Chúa Giêsu Kitô, tiếp tục chăm sóc đoàn chiên của Ngài trong vinh quang: “Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ đến nguồn nước trường sinh” (Kh 7, 17). Lời hứa của Chúa Kitô: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (Ga 10:28) được bắt đầu ngay nơi trần gian và trở nên viên mãn trong Nước Trời mai sau.

Đức Bênêđictô XVI từng nói: “Chỉ trong Đức Kitô, Mục Tử Nhân Lành, sự sống của chúng ta mới tìm được ý nghĩa đích thực và sự thành toàn” (Bài giảng, Chúa Nhật IV Phục Sinh, 2008). Sự thành toàn ấy được bài đọc thứ hai mô tả trong một cảnh khải hoàn rực rỡ: “Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7: 9-10).

  1. Bước theo Vị Mục Tử mỗi ngày

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta tự vấn: chúng ta có thực sự đang lắng nghe tiếng Chúa Giêsu, Vị Mục Tử của chúng ta không? Chúng ta có nhận ra tiếng Ngài giữa muôn vàn tiếng ồn ào của thế gian? Chúng ta có can đảm bước theo đường lối Ngài, ngay cả khi gặp gian nan thử thách?

Mỗi chúng ta được mời gọi liên kết với Chúa Kitô qua việc cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, và lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, nơi đó chính Vị Mục Tử nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Ngài. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên những chứng nhân vui tươi về tình yêu của Vị Mục Tử, góp phần vào sứ mạng quy tụ đoàn chiên từ muôn phương, để tất cả nhận biết “Chúa là Đấng nhân hậu, muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín” (Tv 99, 5).

Chúa Giêsu không bao giờ đối xử với chiên của Ngài bằng cách bẻ chân bầy chiên. Những “người làm thuê xấu bụng” có thể lạm dụng và làm tổn thương chiên của họ hoặc bỏ mặc chúng cho bầy sói: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10: 12-13). Nhưng Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Nhân Lành, sẵn lòng lao vào đối mặt với lũ sói.

Chúa Giêsu không chặn đứng sự lang thang của chúng ta trong thói hư tật xấu bằng cách hủy bỏ tự do của chúng ta. Ngài chữa lành thói hư tật xấu của chúng ta bằng những vết thương của Ngài. Thân thể Ngài bị bẻ gẫy vì chiên của Ngài: “Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2: 24-25).

Chúng ta có thể bị thương bởi một vài người chăn chiên “chỉ biết lo cho mình… Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Êdêkiel 34: 2). Nhưng chúng ta vẫn có thể được chữa lành bởi Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Nhân Lành.

Xin Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, luôn gìn giữ, hướng dẫn và quy tụ chúng ta trong tình yêu của Ngài, để một ngày kia, tất cả chúng ta được cùng đoàn chiên đông đảo hát khúc ca chiến thắng trước Ngai Thiên Chúa và Con Chiên muôn đời: “Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! Amen! Amen” (Kh 7: 12).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

 

TRÊN ĐƯỜNG NÊN THÁNH

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

Lễ Chúa chiên lành, hơn bất kỳ thành phần nào trong Hội Thánh Chúa Kitô, những nhà lãnh đạo từ cấp cao đến cấp thấp được đặc biệt chú ý, được quan tâm cầu nguyện, được "tự do" mời gọi để "xin", thậm chí "đòi" dân Chúa cầu nguyện cho mình.

Chắc chắn, ngày trọng đại này, không thiếu những lời "có cánh" trên tòa giảng để nói về nỗ lực, sự cố gắng, công sức, thậm chí công đức của các mục tử. Chúng ta không phê phán hay chê bai gì những lời giảng dạy ấy.

Tuy nhiên, dù phải cao rao, nhất là khi nói công khai, phải nói về những gương lành, gương thánh thiện, chúng ta, những mục tử của Chúa không được phép tự ru ngủ mình. Chúng ta không bao giờ được quên, bản thân mình cũng chỉ là xác đất, vật hèn.

I. TỰ Ý THỨC.

Chỉ khi nào tự ý thức thường xuyên, bền bỉ, tự ý thức như là chuyện phải ăn, phải uống hàng ngày, tôi phải nên thánh trong chức vụ, trong bổn phận, trong tư cách mục tử của tôi, khi ấy các mục tử mới có thể được xem là đi đúng đường của một mục tử, mới có thể được xem là mục tử đang đi về phía ánh sáng của ơn cứu chuộc, đang mon men đến gần sự thánh thiện của Chúa Kitô, Đấng là Mục Tử của mọi mục tử.

Chỉ có tự ý thức không mệt mỏi nhưng lâu bền như thế, người mục tử mới mong có thể tự giáo dục, tự đào tạo nhằm thiết lập cho mình tập quán, đời sống, thói quen, nhất là phản xạ của người đang có "chất thánh", thuộc về "thế giới thánh".

Vì nếu bên trong không có "thánh", thì dù bên ngoài có "tô vẽ", có "gượng gạo" để "tạo hình", không sớm thì muộn cũng sẽ lồ lộ vẻ xù xì, lồ lộ cái "không thật" của một "vị thánh" đang cố làm cho... có "thánh"...

Nỗ lực của bản thân quyết bước theo ơn gọi nên thánh, đó là chọn lựa cần thiết và là chọn lựa đúng đắn không phải ngày một ngày hai, nhưng phải là sự quyết đoán cho cả một đời làm người và từng ngày trong trách vụ.

Vì thế để sống cho chọn lựa ấy là cả một sự hiến tế suốt đời. Đã là sống hiến tế đời mình, hiến tế ấy không đơn giản, không dễ dàng chút nào. Nó đòi hỏi chấp nhận đau đớn, hy sinh, thua thiệt, từ bỏ…

Trên hết là trung thành với tình yêu dành cho chính chọn lựa nên thánh. Cần luôn sống hiến tế để hoàn thành chọn lựa. Sự hiến tế chính là nỗ lực của bản thân dấn bước theo Chúa trên đường nên thánh.

Bởi trên đường tiến tới trọn lành, nỗ lực của bản thân là điều cầng thiết. Nó làm nên yếu tố quyết định cho sự tồn tại trong Thiên Chúa của chính bản thân.

II. ĐỂ NÊN THÁNH, KHÔNG CHỈ CÓ BẢN THÂN.

Bên cạnh sự tự ý thức để nên thánh trong bổn phận hiến tế, các mục tử càng phải chân nhận, họ không nên thánh một mình. Ơn cứu độ không bao giờ là của cải độc quyền. Trên đường nên thánh có anh chị em cùng bước đi với mình. Ngoài anh chị em, sẽ còn rất nhiều những yếu tố khác, Thiên Chúa dùng để tác thánh. Chẳng hạn:

- Tình yêu của Chúa và ơn Chúa ban: Dù cho nỗ lực của bản thân là cần thiết. Nhưng không thể loại trừ tình yêu và ơn của Chúa.

Bởi nếu Chúa không yêu thương, không chia sẻ sự thánh thiện của Chúa cho ta, nỗ lực của ta chỉ là công “dã tràn se cát”.

Mặt khác, dù đã quyết tâm để nỗ lực hiến tế đời mình cho ơn gọi nên thánh, trước sau ta vẫn mang kiếp người yếu đuối, vẫn là một thụ tạo thấp hèn. Nếu Chúa không yêu thương tha thứ, nếu Chúa không tuôn đổ muôn ơn gìn giữ, ta sẽ không bao giờ có thể tự mình thánh thiện.

- Ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện trong Hội Thánh: Nếu chúng ta có tự hiến tế đời mình, thì hiến tế ấy vẫn là nối tiếp hiến tế của Chúa Kitô. Hiến tế của ta phải hội nhập hiến tế của Chúa Kitô, mới làm thành hiến tế cứu độ, mang lại hiệu quả cứu độ cho ta.

Nhưng đó vẫn chưa phải là điểm kết. Bởi Chúa Kitô đã trao ban kho tàng ơn cứu độ từ hiến tế của Ngài cho Hội Thánh, vì thế, vâng lời Hội Thánh dạy, sống theo giáo huấn của Hội Thánh và gắn bó đời mình với mọi chiều kích của Hội Thánh, ta sẽ lãnh lấy ơn cứu độ của Chúa Kitô. Đường nên thánh của các Kitô hữu, phải có Chúa Kitô và Hội Thánh của Ngài làm định hướng để ta bước tới.

- Lời cầu nguyện, sự hy sinh của các linh hồn và của mọi anh chị em: Đây cũng là một trong những yếu tố không thể không kể đến.

Với kinh nghiệm của riêng bản thân, tôi thấy, tôi phải biết ơn nhiều anh chị em. Họ có thể là những người tôi biết mặt, biết tên, nhưng cũng có thể là những người xa lạ hoàn toàn với tôi, âm thầm cũng có, sôi nổi cũng có, trung thành cả một đời, hay một giai đoạn cần thiết nào đó, hy sinh và cầu nguyện cho tôi, cho mọi người, cho các linh mục và tất cả những ai thánh hiến cho Thiên Chúa.

Tôi hiểu rất rõ, sự nên thánh của tôi có tất cả các anh chị em ấy, dù họ còn sống hay đã qua đời. 

Bản thân tôi, đã không ít lần xin anh chị em cầu nguyện cho mình. Nhất là khi viếng thăm những gia đình khổ sở, những cá nhân gặp tai ươn, hay thăm các bệnh nhân, khi dâng thánh lễ hay làm các phép cuối cùng để tiễn biệt những người rời bỏ cuộc sống để về Nhà Cha…, tôi đều xin các anh chị em ấy cầu nguyện cho tôi.

Cũng thế, bản thân tôi đã nhiều lần hy sinh và cầu nguyện đặc biệt cho nhiều người, cũng có khi cầu nguyện chung chung cho các linh hồn, cho cả Hội Thánh, cho tất cả mọi người và cho thế giới… Tôi tin rằng trong sự thánh thiện của nhiều anh chị em, đều có bản thân tôi góp phần.

Vì thế, tôi quả quyết một cách mạnh mẽ, trên đường đạt tới ơn gọi nên thánh, tôi không đi một mình, nhưng còn có biết bao nhiêu anh chị em của tôi cùng tiến bước.

Tôi không lẻ loi, càng không bao giờ cô đơn trong cuộc đời, vì tôi tin, mọi nẻo đường tôi sống, dẫu có lúc vấp váp, cả đến tội lỗi, thì trong ý hướng ngay lành của bản thân, vẫn là tìm về Thiên Chúa, vẫn là cùng song hành với Chúa, với tình yêu, với ân huệ của Ngài, cộng với biết bao nhiêu sự trợ lực của mọi anh chị em xung quanh.

Chúa Kitô chính “là Đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6) của chúng ta. Bước theo Chúa Kitô là bước vào con đường nên thánh như chính Ngài mời gọi: “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành”.

Nhưng bước theo Chúa Kitô để nên thánh cũng đồng nghĩa với việc can đảm đặt dấu chân đời mình vào dấu chân thánh giá mà Chúa đã mang, đã gánh bằng tất cả tình yêu và lòng vâng phục.

Nên thánh là trở nên giống Chúa Kitô. Vì thế, nên thánh là con đường khó, là đi vào lối hẹp, là hoàn thành cây thánh giá đời mình trong tình yêu và vâng phục như Chúa Kitô.

Xin Chúa ban cho ta hạnh phúc được vác thánh giá với Chúa. Xin Chúa ban cho ta bình an để chấp nhận thánh giá trong đời mình, để nên giống Chúa và giống như “Cha trên trời là Đấng trọn lành”.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

THỰC SỰ YÊU

Thứ Bảy Tuần 3 Phục Sinh C

“Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời!”.

“Một đời sống theo Chúa không được thúc đẩy bởi nghĩa vụ hay sợ hãi, mà bởi một tình yêu không thể cưỡng lại với Đấng đã yêu chúng ta trước!” - Francis Chan.

Kính thưa Anh Chị em,

Với Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu - Đấng đã yêu chúng ta trước với một tình yêu không thể cưỡng lại - kết thúc diễn từ Bánh Hằng Sống. Và như thường lệ, chúng ta chứng kiến hai phản ứng rất khác nhau - nếu không muốn nói là đối lập - từ những người lắng nghe Ngài. Một số bỏ đi, số khác ở lại vì họ ‘thực sự yêu’ Ngài.

Với một số người, lời Chúa Giêsu quá khắc nghiệt, không thể hiểu được đối với tâm lý khép kín của họ, và Gioan nói - với một nỗi buồn man mác - rằng, “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui!”. Kết quả là họ đã trở lại với lối sống cũ. Và cũng chính Gioan chỉ ra manh mối để chúng ta hiểu được thái độ của những người này: họ không tin, không muốn chấp nhận những lời dạy của Ngài. Thế nhưng, bên cạnh đó, cũng có một số người bỏ Chúa không vì Lời Chúa ‘chướng tai’ nhưng vì Kitô hữu sống ‘chướng mắt!’. Những gì họ nghe người đạo gốc nói, thấy người đạo dòng làm, họ hồ nghi và mất niềm tin. Không ít người dè bĩu với trái tim khoá chặt!

Mặt khác, chúng ta thấy phản ứng của các tông đồ, đại diện bởi Phêrô, “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời!”. Không phải nhóm Mười Hai thông minh, giỏi giang hoặc hiểu biết Thánh Kinh hơn những người khác; không, chỉ vì bản chất của họ đơn giản hơn, tin tưởng, ngoan ngoãn cởi mở hơn; và nhất là họ ‘thực sự yêu’ Chúa Giêsu hơn tất cả những người khác!

Thỉnh thoảng, trong các Tin Mừng, chúng ta bắt gặp họ mắc lỗi này lỗi kia. Họ không hiểu Chúa Giêsu, họ tranh cãi về việc ai là quan trọng nhất, thậm chí còn sửa lỗi Ngài khi nghe công bố cuộc thương khó; nhưng có một điều chúng ta luôn luôn thấy, là họ hằng ở bên Ngài, trung thành theo Ngài. Bí quyết của họ là họ ‘thực sự yêu’ Ngài. Augustine diễn đạt, “Những thói quen tốt không để lại dấu ấn trên tâm hồn, nhưng một tình yêu tốt thì có! Đây thực sự là tình yêu: vâng lời và tin vào người mà bạn yêu!”.

Anh Chị em,

“Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời!”. Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta tự hỏi: tôi đặt tình yêu của mình ở đâu? Tôi có đức tin và sự vâng phục nào vào Chúa, vào lời Ngài và vào những gì Hội Thánh dạy? Tôi sống những giáo huấn này với sự ngoan ngoãn, đơn sơ và tin tưởng nào? Và nhất là tôi có ‘thực sự yêu’ Chúa Giêsu, bền bỉ theo Ngài như các tông đồ xưa? “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. “Lời khiêu khích đáng lo ngại này vang vọng trong lòng chúng ta và mong đợi một câu trả lời cá nhân từ mỗi người!” - Bênêđictô XVI. Câu hỏi này vẫn vang vọng qua các thời đại như một lời mời gọi yêu thương để mỗi người khám phá ra rằng, chỉ có Ngài mới có “những lời đem lại sự sống đời đời!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa ‘hào hoa’ gieo Lời, con ‘hào hiệp’ hứng Lời; giúp con ‘hào hùng’ sống Lời, hầu nó đơm hoa kết trái trong con, trong các tâm hồn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Ơn Bền Đỗ

(Chúa Nhật IV Phục Sinh)
(Cv 13,11.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30)
 

Chia sẻ tâm tình của một Kitô hữu: Mỗi khi im lặng quanh tôi, dù ban ngày hay ban đêm, tôi thường giật mình vì một lời than. Lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng than, tôi ra tìm kiếm và thấy một người đang đau đớn bị đóng đinh trên thánh giá. Và tôi nói: Xin Ngài để tôi đem Ngài xuống. Rồi tôi cố gắng tháo gỡ đinh nơi chân Ngài. Nhưng Ngài nói: Thôi hãy để vậy, vì Ta không xuống được cho đến khi nào mọi người đàn ông, đàn bà và con trẻ cùng đến gỡ Ta xuống. Tôi thưa Ngài: Vậy tôi phải làm gì? Hãy đi khắp thế gian loan báo cho mọi người rằng ngươi đã gặp thấy một người chịu đóng đinh trên thập giá để cứu chuộc họ.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã gom tụ các Tông đồ và sai các Ngài tiếp tục đi rao giảng tin mừng Chúa Kitô chịu chết và đã sống lai. Đã có nhiều người được ơn trở lại tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta biết tâm hồn của con người rất sâu thẳm và khó lường. Đôi khi có những tâm hồn nhẹ dạ cả tin và tin đủ mọi thứ. Có khi tâm linh cứng cỏi và chối từ tin mừng sự thật. Cũng có khi tin cuồng nhiệt và không phân biệt phải trái, đúng sai. Đức tin là nhân đức đối thần và là ân sủng được trao ban. Mỗi người hãy mở cửa tâm hồn để đón nhận. Ngay từ buổi sơ khai, đã có nhiều người tòng giáo đi theo các Tông đồ: Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa (Cv 13,43). Vâng lời Thầy, các ông đã ra đi chài lưới từng tâm hồn. Đây là một sứ mệnh đòi hỏi sự kiên trì, bền đỗ và xả thân.

Tâm hồn con người vốn yếu đuối và mỏng manh dễ bể. Những ảnh hưởng cuộc sống xã hội, truyền thống, văn hoá và các thế lực chống đối ghen tương thù ghét luôn rình rập để ngăn cản và phá huỷ. Ngay thuở ban đầu, Giáo Hội bé nhỏ đã gặp rất nhiều những khó khăn bách hại và ngăn trở trong việc rao giảng Tin Mừng: Thấy những đám đông như vậy, người Dothái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông (Cv 13,45). Chúng ta biết dân tộc Dothái được chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế, nhưng không phải tất cả mọi người đều đồng lòng chấp nhận tin mừng cứu độ. Các nhân chứng phục sinh đã đối diện với rất nhiều khó khăn phức tạp ngay cả với các đồng hương. Thánh giá cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu vẫn chưa có thể thuyết phục vì còn nhiều tâm hồn vẫn còn khép kín.

Ngay thời Giáo Hội sơ khai, người đời đã biết sự ảnh hưởng lớn lao của những phụ nữ đạo đức giàu có. Người ta đã biết cách rỉ tai xúi giục và lấy lòng các bà để tạo sức ép: Nhưng người Dothái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ (Cv 13,50). Dù phải rời nơi này sang nơi khác, các Tông đồ luôn kiên trì bền đỗ trong ơn gọi. Đây chính là những thách thức trong công việc truyền giáo. Xưa cũng như nay, các nhà truyền giáo luôn phải đối diện với các khó khăn và thử thách. Chúng ta rất vui mừng, trong Giáo Hội luôn luôn có những tâm hồn nhiệt thành dám hy sinh và xả thân cho Nước Chúa.

Trong sứ vụ, vai trò của các phụ nữ ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống Giáo Hội. Người phụ nữ mang tâm tình của một người mẹ luôn biết yêu thương, hy sinh chăm lo cho gia đình và Giáo Hội. Chúng ta phải trân trọng những gia sản quý báu nơi tâm hồn các người nữ. Qua đức bác ái, sự kiên nhẫn, lòng đạo đức, tính nhiệt thành, ơn bền đỗ và sự khôn ngoan đích thực, người phụ nữ đang đóng góp phần rất quan trọng trong đời sống đức tin và các sinh hoạt của Giáo Hội. Trong Giáo Hội, đa số các phụ nữ tham gia một cách tích cực vào mọi sinh hoạt trong các dòng tu, nhóm hội và cộng đoàn giáo xứ. Các phụ nữ đã khơi dậy niềm tin yêu trong đời sống của Giáo Hội một cách rất sinh động. Thánh lễ Tiệc Ly, Tuần Thánh năm 2013, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã cử hành nghi thức rửa chân cho 12 phạm nhân trong Nhà Giam, trong đó có hai người phụ nữ. Đây là một dấu chỉ mới!

Người Dothái theo Đạo Dothái (Môisen). Họ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Họ tuân giữ các giới răn, chỉ thị và các huấn lệnh trong Sách Luật. Họ vẫn tiếp tục chờ đón Đấng Cứu Thế theo quan điểm của họ. Họ sống trung thành với lề luật của các tiên tri. Thế nên, muốn thay đổi từ Đạo Dothái của cha ông để tin vào Chúa Kitô phục sinh là một sự vượt qua rất quan trọng. Sự thăng tiến niềm tin, cải đổi não trạng và thay đổi quan niệm sống luôn là vấn đề rất tế nhị và nan giải. Chúng ta cũng không thể xét đoán bất cứ ai, vì có thể họ chưa sẵn sàng hay tâm trí chưa được thuyết phục. Chính Chúa Giêsu cũng đã kiên nhẫn dong duổi đi tìm kiếm từng con chiên lạc. Khi gặp được, Ngài vác chiên trên vai đem chúng về: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi (Ga 10,27). Sứ vụ của các mục tử là tìm kiếm, dẫn dắt và qui tụ mọi kẻ tin về một mối.

Chúng ta học biết rằng ơn trở lại là một tiến trình và là một cuộc đổi đời toàn diện. Thay thế một niềm tin cho một niềm tin là một cuộc vượt qua mới. Chúa Giêsu đã vượt qua từ cõi chết đến sự sống. Ngài đã mở ra một kỷ nguyên mới trong tin yêu hy vọng. Giúp chúng ta vượt qua sự hận thù và ghen ghét đến yêu thương. Vượt qua sự đam mê lầm lạc đến sự ăn năn hối cải. Vượt qua sự nô lệ cho sự dữ và tội lỗi tới sự tự do của tình yêu. Vượt qua sự kết án luận tội đến sự tha thứ. Vượt qua bóng tối đêm đen tới ánh sáng. Vượt qua sự chết tới sự sống lại. Sự phục sinh của Chúa là lời mời gọi mỗi người chúng ta phải vượt qua. Vượt qua chính mình nơi những đam mê lầm lạc, những thói hư tật xấu và những nghiện ngập chôn vùi để mở ra một hướng mới tỏa sáng cuộc đời. Chúa Giêsu phục sinh đã hứa ban ân sủng cho những kẻ biết đặt niềm tin vào Ngài: Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi (Ga 10,28). Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy can đảm lên đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian.

Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Ngài đã bước vào cõi sống vĩnh hằng. Thánh Gioan đã diễn tả thị kiến: Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế (Kh 7,9). Chúng ta không thể đi con đường tắt để được lãnh nhận triều thiên vinh quang. Phải trải qua gian khó, thử thách, kiên tâm, chịu đựng, sống đạo và hành đạo mỗi ngày, chúng ta mới hy vọng chia phần vinh quang với Chúa. Gioan đã vẽ lối chỉ đường cho chúng ta. Tôi trả lời: "Thưa Ngài, Ngài biết đó." Vị ấy bảo tôi: "Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên." (Kh 7,14). Những ai đặt trọn niềm tin tưởng vào Chiên Thiên Chúa, Chúa sẽ dẫn họ vào cuộc sống hạnh phúc miên trường: "Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ." (Kh 7,17).

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Tin là đổi đời. Tin là hướng lên thượng giới. Nhiều lúc chúng con tuyên xưng niềm tin ngoài môi miệng nhưng lòng chúng con lại rời xa Chúa. Xin cho đức tin thấm nhập vào tâm hồn, để chúng con biết sống niềm tin mỗi ngày. Chúng con tin thờ Chúa Giêsu là Chúa. Chính Chúa đã mạc khải cho chúng con: Tôi và Chúa Cha là một (Ga 10,30). Lạy Chúa, con tin.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

PHỤC SINH Ư? CÓ THẬT?

Nhiều người không tin vào ơn phục sinh đã phủ nhận sự phục sinh. Đối với họ, chẳng có Chúa nào sống lại, chẳng có chuyện hiện hình sau khi chết. Các tông đồ và đoàn môn đệ của Chúa Giêsu khéo tưởng tượng. Có lẽ vì họ quá yêu thương Thầy, quá tiếc nhớ Thầy, tâm trí họ lẩn thẩn, nhìn đâu cũng thấy bóng Thầy.

Để phủ nhận việc thế giới Kitô giáo tin vào ơn phục sinh, nhất là tin vào Đấng sáng lập tôn giáo của mình đã phục sinh, người ta còn đi xa hơn khi cho rằng các tông đồ ảo giác về Chúa phục sinh.

Nhưng các sách Tin Mừng, cơ sở của niềm tin Kitô giáo đều xác quyết Chúa đã phục sinh. Các sách đều nói đến ngôi mộ trống.

Chúa Phục Sinh mà họ nhận thấy không là con người bất động, nhưng sống động; không câm nín, nhưng ngỏ lời: lời trao ban Chúa Thánh Thần, lời ban bình an, lời sai họ đi truyền giáo, lời sai đi công bố ơn tha tội...

Tất cả họ đều nhìn nhận Chúa Phục Sinh là người thật, có thân xác thật, dấu đinh nơi tay chân, dấu lưỡi đòng nơi cạnh nương long vẫn còn rõ mồn một…

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ và môn đệ của Ngài trên biển hồ Tibêria lúc trời rạng sáng càng là một minh chứng hùng hồn về niềm tin Phục Sinh. Ảo giác hay tưởng tượng thì không thể có tất cả những ưu điểm như mô tả:

- Suốt cả đêm đánh bắt cá, họ không thu lượm được kết quả nào. Nhưng khi trời sáng, “người khách lạ” đến với họ, ra lệnh cho họ rằng: “Hãy thả lưới bên phải thuyền, anh em sẽ bắt được cá”. Không phải người thật, làm sao có thể chỉ ra được bầy cá. Hơn nữa, sao không ảo giác lúc tối trời, mà là “khi trời sáng”. Trời đã sáng thì chắc khó ảo giác hơn lúc trời tối.

- Nếu là ảo giác, không lẽ cùng lúc, cả toán người trên thuyền đều ảo giác? Hơn nữa, cả thuyền đều nghe lời “người khách lạ” cùng đồng ý thả lưới bên phải thuyền. Ngay sau đó lại là một sự thật hiển nhiên, một mẻ cá không thể kéo nổi hiện ra trước mắt họ. Kết quả của ảo giác lại là mẻ cá thật sao?

“Người khách lạ” đã nhóm bếp, đã nướng cá, “có cả bánh nữa”, đã dọn bữa điểm tâm cho tất cả những người trên thuyền đi đánh cá đêm trở về như một bà nội trợ. Đến thế mà còn là ảo giác mới là điều khó hiểu, mới là chuyện lạ.

“Người khách lạ” còn cầm bánh và cá trao cho các ông. Không lẽ chỉ là ảo giác lại có thể trao bánh thật? Các ông cầm và ăn bánh thật?

- Rồi thầy trò cùng ngồi bên nhau, cùng ăn, cùng chia sẻ, không chỉ là những con cá nóng mới nướng, nhưng là chia sẻ niềm vui vô cùng sau những ngày thương đau của thập giá, của chết chóc, của máu, của nước mắt.

- Chưa hết, sau bữa ăn, “người khách lạ” còn gọi tông đồ Phêrô để chất vấn và trao nhiệm vụ. Ngài hỏi đi hỏi lại đến ba lần “Con có yêu mến Thầy không?”, buộc thánh Phêrô phải ba lần đáp “Thầy biết con yêu mến Thầy”. Sau mỗi lần đáp của thánh nhân, Ngài đều trao nhiệm vụ cho chính thánh nhân: “Con hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”.

Quả thật, câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã làm sáng tỏ tính cách thật về việc Chúa Giêsu sống lại. Đây không hề là ảo giác, là tưởng tượng. Nhưng đây chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật đã làm người thật. Sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa vẫn mang trên thân thể hiển vinh của mình y nguyên hiện trạng dấu của thập giá mà chính Chúa vừa trải qua.

Niềm tin Chúa Giêsu phục sinh không chỉ có bấy nhiêu bằng chứng. Cuộc đời còn lại của tông đồ đoàn, của các môn đệ càng là bằng chứng quý giá hơn. Tất cả những thị nhân ấy không ngần ngại dấn thân đến cùng để minh chứng cho đức tin phục sinh mới là điểm đáng ghi nhận.

Tất cả các ngài bất chấp mọi gian khổ, mọi thử thách, mọi bấp bênh, bất chấp cả mạng sống của chính mình để lang thang khắp mọi miền thế giới hân hoan loan báo cho thế giới biết Chúa của các ngài đã sống lại và sống đến vô cùng.

Bài đọc I (Cv 5, 27b-32.40b-41) là một minh chứng. Từ những con người mới mấy ngày trước đầy yếu đuối, bạt nhược, thô thiển, nay lại mạnh mẽ, ung dung, đường hoàng, dõng dạc trước công nghị Dothái không hề pha lẫn chút sợ sệt nào.

Chính vì chân lý Phục Sinh mà các ngài đã “lột xác”, đã thay đổi đời mình, thay đổi não trạng của mình.

Cái công nghị ấy đã từng giết Chúa Giêsu, cũng chính cái công nghị ấy đã nhiều lần bắt bớ các tông đồ, ngăn cản các ngài không được rao giảng danh Giêsu, nhất là không được giảng về sự sống lại của Giêsu.

Và nay, sau nhiều lần đổ hết sức ngăn cản, cái công nghị ấy đã hạ lệnh đánh đòn các tông đồ.

Nhưng càng bắt bớ, càng cấm cách, các tông đồ càng hăng say rao giảng và “lòng đầy hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu”. Trước sau gì các ngài vẫn mạnh mẽ khẳng định rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”.

Chính vì vâng lời Thiên Chúa làm chứng cho Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, tất cả các ngài không chỉ cống hiến thời gian, sức lực, sự nghiệp, sự ổn định… mà còn chấp nhận hy sinh đến cùng mạng sống mà các ngài có được. Tất cả các ngài đã chịu tử đạo vì Thánh Danh Chúa Giêsu.

Đó không là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin Phục Sinh sao?

Không ai dại gì chết cho điều không có thật. Chân lý Phục Sinh là chân lý đời đời, không bao giờ thay đổi. Các tông đồ, rồi đến Hội Thánh qua mọi thế hệ vẫn tự hào ôm ấp niềm tin Phục Sinh để rồi sẵn sàng trao ban niềm tin ấy cho mọi con người, không trừ ai.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

Subcategories