3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

KHÔNG DO DỰ

Thứ Bảy Tuần 1 Thường Niên C

“Ông đứng dậy đi theo Người!”.

Khi Abraham Lincoln chuẩn bị ký Tuyên Ngôn Giải Phóng Nô Lệ, ông cầm bút, di chuyển đến dòng chữ ký, dừng lại một lúc rồi thả bút xuống, đi đi lại lại. Khi được hỏi tại sao, tổng thống trả lời, “Nếu tên tôi đi vào lịch sử, thì đó sẽ là vì đạo luật này; và nếu tay tôi run khi ký, sẽ có người nói rằng ‘ông ấy đã do dự!’”. Sau đó, quay lại, Lincoln cầm bút và mạnh dạn ký tên mình.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu Lincoln do dự khi ký vào bản tuyên ngôn thì Lêvi – trong Tin Mừng hôm nay – đã ‘không do dự’ khi ký thác cả cuộc đời của mình vào tay Chúa Giêsu – người gọi ông, “Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi đang ngồi ở đó. Người bảo ông, “Anh hãy theo tôi!”. Ông đứng dậy đi theo Người!”.

Khi cảm thấy một điều gì đó giá trị hơn, người ta dễ rời công việc cũ. Lêvi rời công việc cũ để bắt đầu một công việc mới. Trước đó, Lêvi ‘mê tiền’, nay ‘mê Chúa’. Những đồng xu La Mã có thể đã rơi từ tay anh; hoặc có thể, anh đã nuốt một ngụm nước bọt, nhanh chóng chỉnh lại chiếc áo, rồi ‘không do dự’, loạng choạng bước theo đám bụi mờ bởi đôi dép của con người ấy đập xuống mặt đường khô khốc! Từ đó, cuộc đời Lêvi đổi thay, anh trở thành Matthêu – một người bạn, một môn đệ, một tông đồ của Chúa Giêsu!

Chúa Kitô đi qua mọi cuộc đời và mọi người đều có cơ hội nói ‘có hoặc không’, ‘ở lại hoặc đi theo’, ‘thay đổi hoặc giữ nguyên trạng’; khoảnh khắc ấy có thể chỉ đến một lần! Khoảnh khắc ấy được Caravaggio vẽ lại như một thước phim quay chậm. Một trục ánh sáng xuyên qua căn phòng; ngón tay xương xẩu của Chúa Giêsu chỉ vào một ‘quý ông’ bảnh trai đang ‘với tay trên đống tiền’. Khung cảnh diễn ra trong một phòng nhá nhem. ‘Ánh sáng và bóng tối nô đùa’; ‘tội lỗi và đức hạnh ẩu đả’; ‘quá khứ và tương lai bỡn nhả’. Rồi sẽ ra sao? Nào ai biết! Nhưng Matthêu đã đáp lại người gọi anh, ‘ngặt nghèo nhưng hào hiệp’, ‘chóng vánh nhưng yêu thương’, ‘liều lĩnh nhưng tín thác!’. Để rồi anh được nhớ đến mỗi khi Tin Mừng thứ nhất được đọc chỉ vì khoảnh khắc ‘không do dự’ ấy!

Từ đó, Matthêu miệt mài suy ngẫm, chiêm ngắm, ghi ghi, chép chép về vị Thầy của mình. Matthêu đã cống hiến những gì tự tay mình viết ra, góp phần làm nên Tin Mừng – “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu, sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” – bài đọc một; vì lẽ “Lời Chúa là thần khí và là sự sống!’ – Thánh Vịnh đáp ca. Nhờ đó, con người thuộc mọi thời biết Chúa Giêsu, được kêu gọi “mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần!” – bài đọc một.

Anh Chị em,

“Ông đứng dậy đi theo Người!”. Chúa gọi bạn và tôi. Khoảnh khắc ấy không chỉ xảy ra một lần, nhưng có thể từng ngày, từng giờ, trong từng biến cố. Dầu muốn hay không muốn, khoảnh khắc ấy cũng sẽ xảy ra, hoặc đã xảy ra; chỉ có điều, chúng ta không nhận biết! Với trái tim của người Thầy; đúng hơn, của một người yêu, Chúa Giêsu vẫn đang đợi chờ, khát khao giây phút ấy sớm xảy đến, hầu chúng ta không còn loạng choạng ‘trong hiện trạng đáng thương’ của mình nhưng có thể mạnh mẽ bước đi ‘không do dự’ để trở nên con người mới, một con người mà Chúa muốn chúng ta trở thành.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì con ‘chóng vánh’ với những lần Chúa gọi, khi dám đứng lên, ‘không do dự’ đi tới một ‘chân trời mới’ – chân trời hoán cải, chân trời rao giảng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

MỘT SỨ ĐIỆP ĐƯỢC BAN TRÊN MỘT DÒNG SÔNG

Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm C

Đó là SỨ ĐIỆP VỀ ƠN HIỆP THÔNG TRONG BÍ TÍCH RỬA TỘI. Và con sông ấy chính là sông của đức tin, sông của tình yêu nguồn khởi đi từ Thiên Chúa, sông của ơn cứu độ, sông chảy dọc quê hương Dothái, đồng thời cũng là dòng sông chảy dọc lịch sử bất chấp Cựu hay Tân ước: sông Giodan.

Sứ điệp trên dòng sông còn cho ta những hiểu biết về một giá trị cao cả: hiệp thông để được sống. Đó không là một sứ điệp thông thường do Đức Thánh Cha ban hành. Nhưng chính Chúa Giêsu trực tiếp ban hành bằng hành động nơi chính bản thân mình, khi nhận phép rửa của thánh Gioan trên dòng sông Giodan, đó là ơn hiệp thông hoàn hảo: Hiệp thông với con người và hiệp thông với Thiên Chúa. Qua bài Tin Mừng hôm nay, ta biết điều đó.

Hiểu rằng hiệp thông để được sống, ta nhận ra bí tích rửa tội là cả một kho tàng được làm quà tặng quý giá, Chúa Kitô để lại cho Hội Thánh, và Hội Thánh tiếp tục tặng ban cho từng người.

  1. HIỆP THÔNG VỚI CON NGƯỜI.

Phép rửa của thánh Gioan là phép rửa “tẩy giả”, nghĩa là phép rửa mời gọi mọi người sám hối, và bất cứ ai tỏ lòng sám hối, đều có thể cùng đến để nhận phép rửa từ tay thánh Gioan.

Chúa Kitô không là tội nhân, không là người cần đến phép rửa của thánh Gioan. Còn hơn thế, vì nếu phép rửa của thánh Gioan chỉ mới “tẩy giả”, thì chính Chúa mới thật là Đấng sáng lập bí tích rửa tội để tha tội thật, để bất cứ ai lãnh nhận bí tích ấy, đều có được mọi quyền lợi của một Kitô hữu.

Chưa hết, chính thánh Gioan từng khẳng định vai trò quan trọng của Chúa Kitô: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.

Cao trọng là thế, Chúa vẫn hạ mình xuống. Trên bờ sông Giodan, Chúa vẫn xếp hàng cùng dân tộc của mình. Bằng cách ấy, Chúa tự mình đứng chung hàng với tội nhân, để rồi tiếp tục chấp nhận dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ. Chúa trở nên khiêm hạ và mất hút trong đám đông.

Có ai ngờ Đấng vô tội lại tỏ lòng sám hối; Đấng xóa tội trần gian lại cúi mình trước một con người để xin phép rửa; Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước; Đấng có quyền tha thứ lại thực hiện hành vi của người cần được tha thứ.

Qua tất cả những hành vi đó, Chúa dạy ta bài học của sự hiệp thông. Chính trong phép rửa, Thiên Chúa nghiêng mình xuống để hiệp thông với con người. Còn hơn như vậy, Chúa hiệp thông hoàn toàn với kẻ tội lỗi. Chúa trở thành một người anh em giữa mọi người.

Bởi thế, phép rửa mà ta lãnh nhận hôm nay cũng sẽ làm cho ta hiệp thông với anh em mình, với những người chia sẻ cùng một đức tin, làm thành Hội Thánh, thân mình của Chúa Kitô.

  1. HIỆP THÔNG VỚI THIÊN CHÚA.

Nhưng sứ điệp hiệp thônG chưa dừng ở đó. Nó còn cho biết một danh dự vô cùng, danh dự cả thể mà Thiên Chúa ban tặng loài người: Họ được sống trong sự sống của Thiên Chúa. Đây mới là ơn hiệp thông hoàn hảo mà bí tích rửa tội mang lại cho ta.

Hiệp thông với Thiên Chúa đến nỗi được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa, để như Chúa Kitô, được làm con Thiên Chúa, cùng thừa hưởng gia nghiệp nơi chính Người Con. Nghĩa là con người phải nhờ Chúa Kitô mới có được giá trị lớn lao.

Chúa Kitô đã mạc khải điều đó sau khi bước lên từ dòng nước Giodan: Một cảnh tượng huy hoàng chưa từng có, một khoảnh khắc vinh hiển đã làm cho Chúa Kitô, một con người tưởng như tầm thường ấy, lại quá sức rực rỡ và diệu kỳ: “Trời mở ra, Thánh Thần Chúa dưới hình chim bồ câu, ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con’”.

Chính trong phép rửa, Chúa Giêsu hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là sự hiệp thông Ba Ngôi, một sự hiệp thông hoàn hảo mà Thiên Chúa dành cho những ai thuộc về Ngài. Hoàn hảo cho đến mức, từ nay, người lãnh nhận, được Chúa thông ban chính sự sống của Ngài.

Đó là sự sống đã được trao ban cho Chúa Kitô từ nơi Chúa Cha nhờ Chúa thánh Thần. Và Chúa Kitô, một khi lập bí tích rửa tội theo ý Thiên Chúa, thông ban chính sự sống ấy cho chúng ta. Vì lẽ đó, thánh Phaolô không ngần ngại nói rằng: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.

Ai thuộc về Thiên Chúa, người đó có Chúa Kitô, đúng như danh xưng mà họ được diễm phúc khoát vào: “Kitô hữu”. Và bất cứ ai được chìm trong sự sống của Chúa Kitô, được mang lấy Chúa Kitô trong tâm hồn, người đó sống trong sự sống của Thiên Chúa, sự sống mà chính Chúa Kitô sống.

Nói như thế hơi khó hiểu. Ta có thể hiểu một cách nôm na thế này: Nếu một ngày nào ta phải sống xa người mẹ của mình. Sự xa cách ấy làm ta da diết nhớ. Hình ảnh người mẹ nơi quê nhà cứ hiện rõ mồn một trong từng nếp nghĩ, từng lời nói, từng sinh hoạt hàng ngày của ta… Càng nhớ bao nhiêu, ta càng sống theo ý muốn, theo lời răn dạy, ngay cả những gì mà bà đã từng làm, đã từng nói… bấy nhiêu.

Cũng có lúc, những hành động của ta, vì sự thương mến ấy, hình như rập khuôn theo những hành động mà bà đã từng thực hiện. Có thể nói, dù xa mẹ nhưng người mẹ ấy vẫn sống trong sự sống của ta, và ta cũng chìm vào trong tất cả nếp sống của bà.

Chỉ là cách hiểu nôm na, nhưng một ví dụ như thế có thể giúp ta áp dụng để sống Lời Chúa trong cuộc sống của mình: Chỉ có một cách duy nhất giúp ta sống bí tích rửa tội để được hiệp thông với Thiên Chúa là mang lấy tâm tư của Chúa Kitô.

Nghĩa là mỗi người hãy yêu mến Chúa Kitô nhiều hơn nữa, để nhờ lòng yêu mến, ta sẽ sống như Chúa Kitô dạy, như Chúa Kitô hành động, yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người như Chúa Kitô yêu.

Tắt một lời: sống như Chúa Kitô đã sống.

Vì Chúa Kitô sống và hiệp thông hoàn hảo trong tình yêu Ba Ngôi, cũng vậy, bạn và tôi chỉ có thể hiệp thông để được sống chính sự sống của Ba Ngôi, khi bản thân mỗi người chỉ biết mang lấy tâm tư như đã có trong Chúa Kitô.

Sứ điệp về ơn hiệp thông được ban trên dòng sông Giodan là sứ điệp quang trọng, vì nơi đó, Chúa dạy ta bài học của sự hiệp thông trong bí tích rửa tội: Hiệp thông với con người để yêu thương con người hơn. Và hiệp thông với Thiên Chúa để được nhận lãnh chính sự sống của Thiên Chúa và được sống trong sự sống ấy.

Có sống ơn hiệp thông hoàn hảo như thế, mới chứng tỏ rằng, ta sống hoàn hảo bí tích rửa tội.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

CHỈ CÓ THIỆN TÂM...

Chúa Nhật Lễ Hiển Linh C

Nhà bác học Newton, sau khi làm ra kính viễn vọng, sau khi quan sát vũ trụ và sau khi nhìn thấy mọi huy hoàng rực rỡ vẻ đẹp diệu kỳ của muôn thụ tạo, đã thốt lên: Tôi thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng của tôi.

Ông là một người thông thái. Ông làm khoa học, nhưng khoa học của ông là khoa học của đức tin. Khác một số người, bởi khi nghiêng cứu khoa học, họ chối từ đức tin, chối bỏ Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội của mình, của mọi loài thụ tạo.

Câu chuyện của Newton có phần giống câu chuyện của ba nhà đạo sĩ mà Tin Mừng lễ Hiển Linh giới thiệu nhằm giúp chúng ta suy niệm. Thánh Mathêô cho biết, ba nhà Đạo Sĩ lần theo ánh sao lạ trên bầu trời để tìm gặp Chúa. Khi đến thủ đô Giêrusalem, họ dừng lại tại đền vua Hêrôđê vì ngỡ, Thiên Chúa làm người phải sinh ra ở nơi sang trọng, đài các.

Nhưng không, Thiên Chúa làm người mà Hêrôđê sợ Ngài tranh giành ngôi vua của mình, chẳng màn chi đến vinh hoa trần thế, chẳng thèm một chút bã phù phiếm thế gian.

Hêrôđê, kẻ có quyền trong dân Chúa, kẻ nắm giữ kho tàng mạc khải, kẻ thuộc nằm lòng truyền thống đức tin. Xung quanh ông có quá nhiều những cố vấn. Dù họ sẵn sàng giúp ông thấu hiểu Kinh Thánh và Lề Luật của Thiên Chúa, nhưng lòng ông không hề có Chúa mà chỉ có mọi thứ đam mê trần thế thống trị.

Cả những thượng tế, kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở, nhưng không tin Thiên Chúa hiện diện giữa cõi đời. 

Còn các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Tất cả họ cùng chung những điểm giống nhau, đó là: Hiểu biết về luật Chúa, về Kinh Thánh, gìn giữ đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa, được dân chúng kính trọng, được hưởng lợi lộc từ tôn giáo… nhưng thật trớ trêu, thật nghịc lý: Tất cả họ đều xa cách Thiên Chúa, giuột mất ơn cứu độ.

Lòng Hêrôđê và cả hoàng triều của ông chỉ đầy thủ đoạn, độc ác, tranh giành, say sưa trong vinh quang trần thế. Đến muôn đời, Hêrôđê không bao giờ gặp được Đấng mà lẽ ra mình phải tôn thờ, phải thần phục. Cả hoàng triều của ông sẽ chẳng bao giờ gặp được Đấng Thiên Chúa làm người, mặc dù Đấng ấy giáng trần sát cạnh hoàng triều của ông.

Còn các Đạo Sĩ, dù thuộc thành phần dân ngoại và rất xa xôi về mặt địa lý cũng như sự hiểu biết mạc khải, lại mặc lấy đức tin trong nghiên cứu khoa học của mình. Họ đã lên đường đi tìm, không chỉ hiện tượng thiên nhiên, nhưng qua hiện tượng thiên nhiên, họ tìm kiếm Đấng Minh Quân của lòng mình và của trần thế. Họ tin tưởng Ngài là Đấng Cứu Chuộc. Lòng thành đã đưa họ đến với Chúa Hài Nhi.

Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người khôn ngoan, khiêm tốn, đó là một dấu chỉ để nhận ra Thiên Chúa. Dù ngôi sao có sáng, nhưng lòng các đạo sĩ còn sáng hơn ánh sao. Họ đã lên đường, đã vượt qua bao nhiêu gian lao, đã đối mặt bao nhiêu mạo hiểm. Họ đã đến hang Bêlem, đã quỳ trên nệm rơm mà khấu đầu thờ lạy Thiên Chúa làm người trong thân phận mong manh của một hài nhi.

Ánh sáng của tâm hồn, ánh sáng của lòng tin đã cho họ gặp Chúa. Họ đã chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp điều gì. Nhưng họ tin, đó là Đấng Cứu Chúa của mình. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi là vua. Nhũ hương, vì Ngài là Tư Tế. Mộc dược, Ngài sẽ chết như mọi người.

Thời nay cũng thế, đầy dẫy những người học rộng, nghiêng cứu giỏi, hoạt bát, tinh ranh… Thế giới không thiếu gì những triết gia lý luận sắc bén, những người vô thần có quyền to lộng đẹp, những chánh trị gia lãnh nhiều chức tước tha hồ thao túng trong bàn tay sắt, nhiều nhà khoa học tài giỏi, nhiều người thành đạt trong nhung lụa, nhiều người đỗ đạt hết bằng cấp này đến bằng cấp khác… Họ được thế gian coi là xuất chúng, uyên thâm...

Nhưng họ thuộc nòi giống Hêrôđê. Có mấy ai trong họ đã nhìn thấy ánh sáng từ trời cao chiếu soi cõi lòng người. Có mấy ai trong họ đã nhìn thấy bất cứ một ánh sáng nào của lòng tin, của con đường về hạnh phúc trường cửu...

Dòng dõi của Hêrôđê kiêu ngạo, cho tới muôn đời vẫn không tìm thấy Thiên Chúa, vẫn sống trong u tối, vẫn là những kẻ ngu dốt dù họ đầy những tri thức thực nghệm…

Mừng lễ Hiển Linh, suy niệm lại việc Chúa tỏ mình cho dân ngoại qua những đại diện là các Đạo Sĩ, chúng ta học lấy bài học khiêm nhường. Xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn, một đức tin đơn sơ, một cõi lòng mềm dẻo sẵn sàng để Chúa uốn nắn thành những con người biết tha thiết đi tìm Chúa qua tất cả mọi thời gian sống, nơi mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của đời mình.

Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của tất cả mọi người đơn sơ, tâm thành, hướng thiện mà thôi. Ba Đạo Sĩ đã cúi mình bước vào hang đá để kính thờ Hài Nhi không ngai vàng, không quyền lực, nghèo đến nỗi phải sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ… Các Đạo Sĩ có tình yêu, có lòng sốt mến, có sự chân thành. Họ đã gặp Đấng là Thiên Chúa của lòng họ.

Chỉ có thiện tâm mới có thể gặp Thiên Chúa, Chân Lý trường tồn của đời người...!

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

LU MỜ ĐI

Thứ Bảy Sau Lễ Hiển Linh C

“Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi!”.

Schleiermacher – triết gia người Đức – nhân vật định hình sự tiến bộ của tư tưởng hiện đại. Một tối kia, ông lang thang một mình trong công viên; một cảnh sát đi tới, định đưa ông về đồn vì nghĩ rằng, ông là một gã say. Cảnh sát hỏi, “Ông là ai?”; Schleiermacher buồn buồn trả lời, “Ước gì tôi biết!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Như Schleiermacher, cũng thế, đôi khi trong cuộc sống, chúng ta không biết mình là ai, làm việc cho ai và phải trở thành ai? Trong Tin Mừng hôm nay, các môn đệ của Gioan Tẩy Giả không biết mình là ai, thầy mình là ai, họ ghen tuông khi Chúa Giêsu cũng làm phép rửa. Gioan bảo họ, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi!”.

Sự khiêm nhường của Gioan là một bài học tuyệt vời, đặc biệt đối với những ai đang tích cực tham gia vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Quá thường xuyên khi chúng ta tham gia vào một số hoạt động tông đồ; và cùng lúc đó, “sứ vụ” của những người khác lại dường như đang phát triển nhanh hơn chúng ta. Bấy giờ, sự ghen tị có thể xuất hiện. Vậy mà, vai trò của chúng ta trong sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội Chúa Kitô là phải tìm cách hoàn thành ‘vai trò của mình và chỉ vai trò của mình’. Không bao giờ chúng ta cho phép mình cạnh tranh với những người khác trong Giáo Hội. Chúng ta cần biết khi nào phải hành động theo ý muốn của Chúa, và khi nào phải lùi lại – ‘lu mờ đi’ – để những người khác hoàn thành ý định của Ngài. Chúng ta phải làm theo ý muốn của Chúa, không hơn, không kém và không gì khác!

Vậy mà rất nhiều lần, trong sứ vụ tông đồ, chúng ta làm điều ngược lại, ‘Cần tôi lớn lên, Chúa và anh em tôi cần nhỏ lại!’. Cám dỗ tìm kiếm chính mình trong việc tông đồ, trong việc phục vụ Giáo Hội là một cám dỗ triền miên ở mọi thời, nơi bất cứ ai, thuộc bất cứ đấng bậc nào! Một số người chỉ cống hiến khi công việc mang lại cho họ danh dự, trọng vọng, uy tín hoặc nâng cao tầm quan trọng của bản thân. Chúng ta tuyên bố phục vụ Chúa Kitô, nhưng nếu địa vị bị tổn hại, uy tín bị chỉ trích; hoặc thấy ai đó kém khả năng đứng trên chúng ta về thứ hạng, thì trái tim chúng ta vỡ vụn; cam kết của chúng ta suy tàn. Vào những thời điểm đó, chớ gì chúng ta có thể vượt qua thử thách khi biết ‘lu mờ đi’ để có thể tìm lại niềm vui cho chính mình như Gioan đã nêu gương.

Anh Chị em,

“Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi!”. Đề nghị của Gioan mời gọi mỗi người chúng ta ngày càng làm rỗng chính mình để Chúa Kitô có thể lớn lên, lấp đầy trái tim chúng ta bằng chính Ngài. Theo cách nói của Phaolô, “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô”, “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà Chúa Kitô sống trong tôi!”. Để đạt được điều này, chúng ta phải làm gì? Như Gioan, chúng ta ý thức mình chỉ là những “người bạn của chú rể, đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở”. Chỉ lúc đó, chúng ta mới có niềm vui, niềm vui đích thực. Tình yêu dành cho Chúa Kitô không phải là nỗ lực một sớm một chiều, nhưng như Gioan, nó là thành quả của nhiều năm cầu nguyện, chinh phục bản thân và trung thành với một cuộc sống hoán cải và biết ‘lu mờ đi’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, thật xấu xí khi con ‘hơn thua’ trong việc tông đồ. Cho con biết nhỏ lại, ‘lu mờ đi’ để Chúa và anh chị em con được lớn lên!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời

Chúa Nhật Lễ Hiển Linh C

Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hê-rô-đê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hê-rô-đê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Ngài xuất hiện bên phương đông, nên chúng tôi đến bái lạy Ngài" thì vua Hê-rô-đê hết sức ngạc nhiên và bối rối. (Mt 2, 2)

Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)

Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.

Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi chiếu mà vua Hê-rô-đê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Ngài, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.

Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Ngài. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)

Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu?

Ơ nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ!

Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hê-rô-đê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.

Hôm nay cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con trong gia đình."

Qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Ngài mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giê-su tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, Chúa Giê-su khẳng định rằng Ngài là một với mỗi người chung quanh; Ta làm gì cho họ là làm cho chính Ngài. (xem Mt 25, 31-46)

Khi chưa nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa, Phao-lô ra tay bách hại các môn đệ của Ngài dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đa-mát và có tiếng Chúa Giê-su vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phao-lô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phao-lô tông đồ) mới giác ngộ rằng các tín hữu cũng chính là Chúa Giê-su, bắt bớ họ là bắt bớ chính Chúa.

Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Ngài.

Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta.

Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giê-su đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Ngài.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Subcategories