- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm C
Đó là SỨ ĐIỆP VỀ ƠN HIỆP THÔNG TRONG BÍ TÍCH RỬA TỘI. Và con sông ấy chính là sông của đức tin, sông của tình yêu nguồn khởi đi từ Thiên Chúa, sông của ơn cứu độ, sông chảy dọc quê hương Dothái, đồng thời cũng là dòng sông chảy dọc lịch sử bất chấp Cựu hay Tân ước: sông Giodan.
Sứ điệp trên dòng sông còn cho ta những hiểu biết về một giá trị cao cả: hiệp thông để được sống. Đó không là một sứ điệp thông thường do Đức Thánh Cha ban hành. Nhưng chính Chúa Giêsu trực tiếp ban hành bằng hành động nơi chính bản thân mình, khi nhận phép rửa của thánh Gioan trên dòng sông Giodan, đó là ơn hiệp thông hoàn hảo: Hiệp thông với con người và hiệp thông với Thiên Chúa. Qua bài Tin Mừng hôm nay, ta biết điều đó.
Hiểu rằng hiệp thông để được sống, ta nhận ra bí tích rửa tội là cả một kho tàng được làm quà tặng quý giá, Chúa Kitô để lại cho Hội Thánh, và Hội Thánh tiếp tục tặng ban cho từng người.
- HIỆP THÔNG VỚI CON NGƯỜI.
Phép rửa của thánh Gioan là phép rửa “tẩy giả”, nghĩa là phép rửa mời gọi mọi người sám hối, và bất cứ ai tỏ lòng sám hối, đều có thể cùng đến để nhận phép rửa từ tay thánh Gioan.
Chúa Kitô không là tội nhân, không là người cần đến phép rửa của thánh Gioan. Còn hơn thế, vì nếu phép rửa của thánh Gioan chỉ mới “tẩy giả”, thì chính Chúa mới thật là Đấng sáng lập bí tích rửa tội để tha tội thật, để bất cứ ai lãnh nhận bí tích ấy, đều có được mọi quyền lợi của một Kitô hữu.
Chưa hết, chính thánh Gioan từng khẳng định vai trò quan trọng của Chúa Kitô: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.
Cao trọng là thế, Chúa vẫn hạ mình xuống. Trên bờ sông Giodan, Chúa vẫn xếp hàng cùng dân tộc của mình. Bằng cách ấy, Chúa tự mình đứng chung hàng với tội nhân, để rồi tiếp tục chấp nhận dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ. Chúa trở nên khiêm hạ và mất hút trong đám đông.
Có ai ngờ Đấng vô tội lại tỏ lòng sám hối; Đấng xóa tội trần gian lại cúi mình trước một con người để xin phép rửa; Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước; Đấng có quyền tha thứ lại thực hiện hành vi của người cần được tha thứ.
Qua tất cả những hành vi đó, Chúa dạy ta bài học của sự hiệp thông. Chính trong phép rửa, Thiên Chúa nghiêng mình xuống để hiệp thông với con người. Còn hơn như vậy, Chúa hiệp thông hoàn toàn với kẻ tội lỗi. Chúa trở thành một người anh em giữa mọi người.
Bởi thế, phép rửa mà ta lãnh nhận hôm nay cũng sẽ làm cho ta hiệp thông với anh em mình, với những người chia sẻ cùng một đức tin, làm thành Hội Thánh, thân mình của Chúa Kitô.
- HIỆP THÔNG VỚI THIÊN CHÚA.
Nhưng sứ điệp hiệp thônG chưa dừng ở đó. Nó còn cho biết một danh dự vô cùng, danh dự cả thể mà Thiên Chúa ban tặng loài người: Họ được sống trong sự sống của Thiên Chúa. Đây mới là ơn hiệp thông hoàn hảo mà bí tích rửa tội mang lại cho ta.
Hiệp thông với Thiên Chúa đến nỗi được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa, để như Chúa Kitô, được làm con Thiên Chúa, cùng thừa hưởng gia nghiệp nơi chính Người Con. Nghĩa là con người phải nhờ Chúa Kitô mới có được giá trị lớn lao.
Chúa Kitô đã mạc khải điều đó sau khi bước lên từ dòng nước Giodan: Một cảnh tượng huy hoàng chưa từng có, một khoảnh khắc vinh hiển đã làm cho Chúa Kitô, một con người tưởng như tầm thường ấy, lại quá sức rực rỡ và diệu kỳ: “Trời mở ra, Thánh Thần Chúa dưới hình chim bồ câu, ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con’”.
Chính trong phép rửa, Chúa Giêsu hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là sự hiệp thông Ba Ngôi, một sự hiệp thông hoàn hảo mà Thiên Chúa dành cho những ai thuộc về Ngài. Hoàn hảo cho đến mức, từ nay, người lãnh nhận, được Chúa thông ban chính sự sống của Ngài.
Đó là sự sống đã được trao ban cho Chúa Kitô từ nơi Chúa Cha nhờ Chúa thánh Thần. Và Chúa Kitô, một khi lập bí tích rửa tội theo ý Thiên Chúa, thông ban chính sự sống ấy cho chúng ta. Vì lẽ đó, thánh Phaolô không ngần ngại nói rằng: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Ai thuộc về Thiên Chúa, người đó có Chúa Kitô, đúng như danh xưng mà họ được diễm phúc khoát vào: “Kitô hữu”. Và bất cứ ai được chìm trong sự sống của Chúa Kitô, được mang lấy Chúa Kitô trong tâm hồn, người đó sống trong sự sống của Thiên Chúa, sự sống mà chính Chúa Kitô sống.
Nói như thế hơi khó hiểu. Ta có thể hiểu một cách nôm na thế này: Nếu một ngày nào ta phải sống xa người mẹ của mình. Sự xa cách ấy làm ta da diết nhớ. Hình ảnh người mẹ nơi quê nhà cứ hiện rõ mồn một trong từng nếp nghĩ, từng lời nói, từng sinh hoạt hàng ngày của ta… Càng nhớ bao nhiêu, ta càng sống theo ý muốn, theo lời răn dạy, ngay cả những gì mà bà đã từng làm, đã từng nói… bấy nhiêu.
Cũng có lúc, những hành động của ta, vì sự thương mến ấy, hình như rập khuôn theo những hành động mà bà đã từng thực hiện. Có thể nói, dù xa mẹ nhưng người mẹ ấy vẫn sống trong sự sống của ta, và ta cũng chìm vào trong tất cả nếp sống của bà.
Chỉ là cách hiểu nôm na, nhưng một ví dụ như thế có thể giúp ta áp dụng để sống Lời Chúa trong cuộc sống của mình: Chỉ có một cách duy nhất giúp ta sống bí tích rửa tội để được hiệp thông với Thiên Chúa là mang lấy tâm tư của Chúa Kitô.
Nghĩa là mỗi người hãy yêu mến Chúa Kitô nhiều hơn nữa, để nhờ lòng yêu mến, ta sẽ sống như Chúa Kitô dạy, như Chúa Kitô hành động, yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người như Chúa Kitô yêu.
Tắt một lời: sống như Chúa Kitô đã sống.
Vì Chúa Kitô sống và hiệp thông hoàn hảo trong tình yêu Ba Ngôi, cũng vậy, bạn và tôi chỉ có thể hiệp thông để được sống chính sự sống của Ba Ngôi, khi bản thân mỗi người chỉ biết mang lấy tâm tư như đã có trong Chúa Kitô.
Sứ điệp về ơn hiệp thông được ban trên dòng sông Giodan là sứ điệp quang trọng, vì nơi đó, Chúa dạy ta bài học của sự hiệp thông trong bí tích rửa tội: Hiệp thông với con người để yêu thương con người hơn. Và hiệp thông với Thiên Chúa để được nhận lãnh chính sự sống của Thiên Chúa và được sống trong sự sống ấy.
Có sống ơn hiệp thông hoàn hảo như thế, mới chứng tỏ rằng, ta sống hoàn hảo bí tích rửa tội.
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG
- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh C
Nhà bác học Newton, sau khi làm ra kính viễn vọng, sau khi quan sát vũ trụ và sau khi nhìn thấy mọi huy hoàng rực rỡ vẻ đẹp diệu kỳ của muôn thụ tạo, đã thốt lên: Tôi thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng của tôi.
Ông là một người thông thái. Ông làm khoa học, nhưng khoa học của ông là khoa học của đức tin. Khác một số người, bởi khi nghiêng cứu khoa học, họ chối từ đức tin, chối bỏ Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội của mình, của mọi loài thụ tạo.
Câu chuyện của Newton có phần giống câu chuyện của ba nhà đạo sĩ mà Tin Mừng lễ Hiển Linh giới thiệu nhằm giúp chúng ta suy niệm. Thánh Mathêô cho biết, ba nhà Đạo Sĩ lần theo ánh sao lạ trên bầu trời để tìm gặp Chúa. Khi đến thủ đô Giêrusalem, họ dừng lại tại đền vua Hêrôđê vì ngỡ, Thiên Chúa làm người phải sinh ra ở nơi sang trọng, đài các.
Nhưng không, Thiên Chúa làm người mà Hêrôđê sợ Ngài tranh giành ngôi vua của mình, chẳng màn chi đến vinh hoa trần thế, chẳng thèm một chút bã phù phiếm thế gian.
Hêrôđê, kẻ có quyền trong dân Chúa, kẻ nắm giữ kho tàng mạc khải, kẻ thuộc nằm lòng truyền thống đức tin. Xung quanh ông có quá nhiều những cố vấn. Dù họ sẵn sàng giúp ông thấu hiểu Kinh Thánh và Lề Luật của Thiên Chúa, nhưng lòng ông không hề có Chúa mà chỉ có mọi thứ đam mê trần thế thống trị.
Cả những thượng tế, kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở, nhưng không tin Thiên Chúa hiện diện giữa cõi đời.
Còn các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Tất cả họ cùng chung những điểm giống nhau, đó là: Hiểu biết về luật Chúa, về Kinh Thánh, gìn giữ đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa, được dân chúng kính trọng, được hưởng lợi lộc từ tôn giáo… nhưng thật trớ trêu, thật nghịc lý: Tất cả họ đều xa cách Thiên Chúa, giuột mất ơn cứu độ.
Lòng Hêrôđê và cả hoàng triều của ông chỉ đầy thủ đoạn, độc ác, tranh giành, say sưa trong vinh quang trần thế. Đến muôn đời, Hêrôđê không bao giờ gặp được Đấng mà lẽ ra mình phải tôn thờ, phải thần phục. Cả hoàng triều của ông sẽ chẳng bao giờ gặp được Đấng Thiên Chúa làm người, mặc dù Đấng ấy giáng trần sát cạnh hoàng triều của ông.
Còn các Đạo Sĩ, dù thuộc thành phần dân ngoại và rất xa xôi về mặt địa lý cũng như sự hiểu biết mạc khải, lại mặc lấy đức tin trong nghiên cứu khoa học của mình. Họ đã lên đường đi tìm, không chỉ hiện tượng thiên nhiên, nhưng qua hiện tượng thiên nhiên, họ tìm kiếm Đấng Minh Quân của lòng mình và của trần thế. Họ tin tưởng Ngài là Đấng Cứu Chuộc. Lòng thành đã đưa họ đến với Chúa Hài Nhi.
Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người khôn ngoan, khiêm tốn, đó là một dấu chỉ để nhận ra Thiên Chúa. Dù ngôi sao có sáng, nhưng lòng các đạo sĩ còn sáng hơn ánh sao. Họ đã lên đường, đã vượt qua bao nhiêu gian lao, đã đối mặt bao nhiêu mạo hiểm. Họ đã đến hang Bêlem, đã quỳ trên nệm rơm mà khấu đầu thờ lạy Thiên Chúa làm người trong thân phận mong manh của một hài nhi.
Ánh sáng của tâm hồn, ánh sáng của lòng tin đã cho họ gặp Chúa. Họ đã chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp điều gì. Nhưng họ tin, đó là Đấng Cứu Chúa của mình. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi là vua. Nhũ hương, vì Ngài là Tư Tế. Mộc dược, Ngài sẽ chết như mọi người.
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những người học rộng, nghiêng cứu giỏi, hoạt bát, tinh ranh… Thế giới không thiếu gì những triết gia lý luận sắc bén, những người vô thần có quyền to lộng đẹp, những chánh trị gia lãnh nhiều chức tước tha hồ thao túng trong bàn tay sắt, nhiều nhà khoa học tài giỏi, nhiều người thành đạt trong nhung lụa, nhiều người đỗ đạt hết bằng cấp này đến bằng cấp khác… Họ được thế gian coi là xuất chúng, uyên thâm...
Nhưng họ thuộc nòi giống Hêrôđê. Có mấy ai trong họ đã nhìn thấy ánh sáng từ trời cao chiếu soi cõi lòng người. Có mấy ai trong họ đã nhìn thấy bất cứ một ánh sáng nào của lòng tin, của con đường về hạnh phúc trường cửu...
Dòng dõi của Hêrôđê kiêu ngạo, cho tới muôn đời vẫn không tìm thấy Thiên Chúa, vẫn sống trong u tối, vẫn là những kẻ ngu dốt dù họ đầy những tri thức thực nghệm…
Mừng lễ Hiển Linh, suy niệm lại việc Chúa tỏ mình cho dân ngoại qua những đại diện là các Đạo Sĩ, chúng ta học lấy bài học khiêm nhường. Xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn, một đức tin đơn sơ, một cõi lòng mềm dẻo sẵn sàng để Chúa uốn nắn thành những con người biết tha thiết đi tìm Chúa qua tất cả mọi thời gian sống, nơi mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của đời mình.
Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của tất cả mọi người đơn sơ, tâm thành, hướng thiện mà thôi. Ba Đạo Sĩ đã cúi mình bước vào hang đá để kính thờ Hài Nhi không ngai vàng, không quyền lực, nghèo đến nỗi phải sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ… Các Đạo Sĩ có tình yêu, có lòng sốt mến, có sự chân thành. Họ đã gặp Đấng là Thiên Chúa của lòng họ.
Chỉ có thiện tâm mới có thể gặp Thiên Chúa, Chân Lý trường tồn của đời người...!
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG