2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

MỘT MÌNH VỚI CHÚA

Trên hành trình thiêng liêng, có một khoảnh khắc, mà, tất cả ánh sáng bên ngoài vụt tắt, ta đứng một mình trong bóng tối, giữa khoảng lặng không người, không tiếng, không lời an ủi, ta đang chạm vào phần sâu nhất của chính mình, không ai biết, chỉ một mình ta biết, do đó, càng tiến sâu trên đường thiêng liêng, ta càng cô đơn: những câu chuyện trước đây từng khiến ta hào hứng, giờ trở nên vô vị; những mối quan hệ từng thân thiết, giờ như lạc lõng, ta không còn nói nhiều, không còn muốn thể hiện gì với ai nữa.

Một mình với Chúa, như Đức Giêsu một mình trong sa mạc, chỉ có thử thách và cám dỗ: các ẩn sĩ từ bỏ đời sống thế tục, ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm: họ dám đứng lại, mà, không sợ bị bỏ lại; dám một mình, mà, không hề thấy đơn độc; họ rơi khỏi mọi bám víu, rơi khỏi mọi nơi trú ẩn, và rồi, khi rơi đến tận đáy, họ phát hiện ra: đó không phải là hố sâu, mà là, nền đất thật sự, họ bắt đầu đứng lên không vì ai cổ vũ, họ bắt đầu sống không vì ai chứng nhận, mà chỉ, sống đơn sơ trong sự hiện diện, dưới ánh nhìn của Chúa mà thôi.

Một mình với Chúa, khi tất cả đã rời đi, ta ở lại một mình, ở lại với chính mình, ở lại với sự “cô đơn” đến rợn người, ở lại với cơn đau vứt bỏ bản ngã từng mảnh, từng lớp một, như lột da sống, không ai giúp được ta, không ai hiểu điều ta thấy, và trong sự tận cùng của sự một mình đó, cái gì đó mở ra, không phải một đỉnh cao thiêng liêng, mà là, một sự buông tự nhiên, từ đó, ta sống không cao siêu, không cố tình giản dị, không còn gì để sợ, không ai hiểu, không có bạn đồng hành, không có dấu hiệu rõ ràng rằng ta đang đi đúng hay sai đường, và đó chính là dấu chỉ, ta đang bắt đầu thoát khỏi vùng an toàn của tâm trí, đang đứng trước cánh cửa, mà chỉ một mình ta mới có thể mở. Đừng sợ sự một mình đó, vì đó là lúc cái tôi rút lui, là khi tất cả mọi tiếng ồn lùi xa, là khi cánh cửa của chính ta bắt đầu hé mở.

Một mình với Chúa khiến ta thinh lặng, không phải, vì không có gì để nói, mà là, loại thinh lặng của một dòng sông đã thôi gào thét, chỉ còn phản chiếu ánh trăng, trong sự thinh lặng đó, ta bắt đầu hiểu ra rằng: “cô đơn” không đến để trừng phạt ta, nó đến như một cánh cửa, để khi ta bước vào, ta rũ sạch mọi dựa dẫm, mọi hình ảnh, mọi mong đợi, để, ta trở về một trạng thái nguyên sơ, không ai bên cạnh, ngoài một mình Chúa mà thôi: Người không nói gì, không thuyết phục gì, chỉ lặng lẽ hiện diện, như mặt đất vẫn luôn ở đó, dù, ta có chạy bao xa.

Một mình với Chúa khiến ta không còn cần người khác làm nền cho hạnh phúc, không cần ai đó đồng hành thì ta mới đi được, ta không còn cần nữa: không vai diễn, không chiến lược, không mong cầu, chỉ đơn giản sống như “đám mây” bay qua “bầu trời ân sủng”, không biết sẽ đi đâu, cũng chẳng cần biết để làm gì, và rồi, giữa niềm tin tưởng cậy trông phó thác đó, một loại hạnh phúc lạ lùng xuất hiện, không bùng nổ, không rực rỡ, nó chỉ, âm ấm nhẹ như ánh nắng cuối chiều, mà, bám rất sâu trong tim, ta thấy mình không cần chạy theo gì nữa, không cần khao khát nổi bật, không còn mong muốn chứng tỏ mình, thuyết phục ai nữa.

Tóm lại, khi một mình với Chúa, ta đứng trước cánh cửa “cô đơn”, nhìn quanh không thấy ai, vì đây là nơi: không thể đi cùng, chỉ khi, ta đủ can đảm để bước một mình, cánh cửa mới mở, không vang tiếng, không rực sáng, nó mở bằng một cái buông: buông câu hỏi, buông lý do, buông khát khao trở thành, ta bước vào một vùng lặng, nơi, không còn ai để khen chê, nơi, cái tôi cũ đã rơi rụng, và cái mới chưa được gọi tên, nơi, ta không trở nên thánh thiện, mà chỉ trở nên không còn giả vờ thánh thiện nữa, và lúc đó, ta hiểu “cô đơn” không phải là ngõ cụt, mà là cánh cửa: ai muốn đi sâu vào đời sống thiêng liêng, đều phải bước qua một mình. Ước gì ta dám chấp nhận “cô đơn”, để được một mình với Chúa. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

CHIÊM NIỆM GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Khi nói tới “chiêm niệm”, ta nghĩ ngay tới các đan sĩ: xa lánh thế gian, tự nhốt mình trong bốn tường của các đan viện, để chỉ chuyên lo cầu nguyện mỗi ngày. Tuy nhiên, một bậc chiêm niệm thật sự không cần phải lánh đời, mà, chỉ cần sống đơn giản, trọn vẹn trong sự hiện diện của Chúa, và để cho cái nhìn của Chúa thấm qua từng ý nghĩ, lời nói, và hành động: mọi công việc hằng ngày như nấu cơm, rửa chén, chăm sóc gia đình, đều trở thành chiêm niệm.

Một khi, sống dưới ánh nhìn của Chúa, đã trở thành nền tảng của từng khoảnh khắc sống, thì, đời sống của ta sẽ dần được soi sáng bởi Thần Khí: ta không còn thấy mình là trung tâm của thế giới nữa, từ đó, tình yêu và lòng thương xót của ta sẽ tuôn chảy cách tự nhiên: như nước từ nguồn, như hương từ hoa; khi ấy, ta thấy rằng: mỗi người chúng ta thật sự không tách biệt nhau, tình thương của ta không xuất phát từ vị trí: ta là người tốt giúp kẻ khổ sở, và ta giúp không phải vì người kia đáng thương, mà vì, ta thấy sự khổ đau ấy đang xảy ra trong chính mình: không có sự chia hai giữa người giúp và người được giúp.

Khi ta nhận ra rằng: cuộc sống không vận hành theo ý mình, mà theo sự quan phòng của Chúa, từ đó, ta có cái nhìn khác về khổ đau: khổ đau trở thành sức mạnh cho trưởng thành, là nơi ươm mầm của Thần Khí, nếu thấm nhuần điều này, ta sẽ có khả năng chuyển hóa khổ đau thành ánh sáng nội tâm, không phải vì ta không còn đau, mà vì, ta biết cách bước vào nỗi đau với một tâm thế khác: ta không bị nó đẩy đi, cũng không dùng lý trí bóp nghẹt nó, từ đó, nỗi đau trở thành một người thầy nghiêm khắc, nhưng trung thực, chỉ cho ta thấy những điều, mà niềm vui chưa từng chỉ ra. Nếu ta là người chiêm niệm thật sự, thì, ta sẽ không bao giờ để nỗi khổ qua đi cách vô ích, nhưng, sẽ đào sâu vào nó, không phải để tự hành hạ mình, mà để, tìm ra điều chưa từng được thấy dưới ánh sáng thập giá, để rồi, ta nhìn người khác bằng đôi mắt xót thương, không phán xét, vì biết rằng: ai cũng đang khổ theo cách riêng: mỗi người đều đang gồng gánh một điều gì đó, và khi bước qua bóng tối, với một lòng tin cậy mến vững vàng, ta sẽ trở thành ánh sáng nhỏ, cho những ai đang loay hoay giữa cơn đau của họ.

Cái nhìn của người chiêm niệm: âm thầm lặng lẽ, thấm vào mọi hành động, không cần ai công nhận, nhưng, nơi nào ánh nhìn đó đi qua, nơi đó, có một thứ gì đó trong trẻo hơn, yên bình hơn, không phải do lời nói, mà do sự có mặt vô điều kiện của cái biết, cái thấy không có lập trường, không nói đúng hay sai, nhưng, ai ở gần cái nhìn ấy, sẽ tự khơi dậy được ánh sáng trong chính mình, không qua giảng dạy, mà, qua cảm nhận trực tiếp về một sự sống không bị điều kiện hóa, bởi vì, mọi lời nói không còn phát ra từ ham muốn chứng tỏ, mà, từ khoảng không của cái nhìn thấy rõ; mọi hành động không còn vì muốn được ai đánh giá cao, mà, vì nó là điều cần làm, và làm xong thì buông. Sự tự nhiên này chính là chiêm niệm.

Người chiêm niệm sống giữa thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian, không còn dính mắc vào những gì thế gian thèm khát: không làm từ thiện để được vinh danh, không giảng dạy để được xem là thầy, không giúp đỡ người khác để được gán nhãn là người tốt, mà, làm vì thấy nên làm, và thấy rằng việc đó chính là cơ hội để phụng sự Thiên Chúa và phụng vụ tha nhân, chính trong thái độ đó, người chiêm niệm giữa đời trở thành người đang thắp đèn trong đêm, không phải để người khác thấy mình, nhưng, để người khác thấy được đường đi của chính họ, khi đó, không có người chiêm niệm, mà chỉ có: cái thấy, cái biết không ai sở hữu, đang sống qua một con người không còn bị cái tôi chi phối, mà, chỉ để một mình Chúa điều phối mà thôi. Tóm lại, “chiêm niệm” không phải là những buổi thinh lặng cầu nguyện lâu giờ, mà, chính là những giây phút tưởng chừng bình thường nhất: sống trong sự hiện diện của Chúa: khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi ăn, khi ngủ, khi làm việc, tất cả đều diễn ra cách tự nhiên: luôn dưới ánh nhìn của Chúa, luôn quy hướng về Chúa. 

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

BẢN CHẤT CỦA CHIÊM NIỆM

Đức Giêsu nói: không trở nên giống trẻ thơ, thì, sẽ không được vào Nước Trời (x. Mt 18,3). Trẻ thơ là bậc thầy về chiêm niệm, bởi vì, trẻ thơ nhìn mọi người, mọi việc bằng đôi mắt chiêm niệm, trẻ thơ nhìn như Chúa nhìn. Khi lớn lên, ta được dạy về các phương pháp cầu nguyện,  chiêm niệm, và thế là, ta bắt đầu bước vào cầu nguyện,  chiêm niệm với một “cái tôi” đầy tinh vi: từ người bận rộn, sang, người trầm tĩnh; từ kẻ mưu cầu vật chất, sang, người mong cầu đạo hạnh; từ một “cái tôi” ồn ào, sang, một “cái tôi” rất tĩnh lặng, và cũng chính vì, “cái tôi” quá im lặng, nên, ta không còn nhận ra sự có mặt của nó nữa.

Trong đời sống thế tục, “cái tôi” dễ bị phát hiện, nó thể hiện qua tranh đấu, giành giật, hơn thua, nhưng, khi ta bước vào cầu nguyện, và chiêm niệm, nó khoác lên mình một lớp áo mới: người thuần thiêng, nhà thần bí, bậc thầy chiêm niệm... Ta bắt đầu quan sát những người xung quanh, và trong vô thức, ta so sánh mình với họ: họ còn bị cảm xúc chi phối, còn nhiều vọng động, còn nhiều dính mắc, còn, ta đã vững vàng, đã tĩnh lặng, đã buông bỏ… Cái tôi thiêng liêng chính là tầng sâu nhất, kín đáo nhất, khó tháo gỡ nhất, bởi vì, nó không chạy theo tiền bạc, địa vị, lời khen, nhưng, chạy theo các ngụy từ: khó nghèo, khiêm nhường, bỏ mình: ta không còn muốn có nhiều, mà, muốn trở thành ít; không còn muốn vượt lên người khác, mà, muốn không là gì cả. Tuy nhiên, ta vẫn ngầm thấy mình đang không là gì cả, và đó là nghịch lý, một nghịch lý, mà nếu không có cái nhìn chiêm niệm thật sâu, ta cứ tưởng mình đã thoát, nhưng, thật ra, ta vẫn đang bị giam giữ trong một hình thức khác của sự sở hữu. 

Ta từ bỏ sở hữu vật chất, nhưng, lại dính mắc vào những sở hữu thiêng liêng: sở hữu sự tĩnh lặng, ánh mắt từ bi, lời nói từ tốn, bước chân từ từ… Tất cả những điều đó, nếu, không xuất phát từ Chúa, mà, từ chính mình, thì, đó vẫn là sở hữu, vẫn là bám víu, vẫn là bản ngã, một bản ngã được tẩy trắng, được bao bọc bằng những khái niệm cao quý, và chính vì nó được khoác áo cao quý, nên, ta càng không dám nghi ngờ, và ta bắt đầu bảo vệ hình ảnh đó. Chiêm niệm chính là đời sống đang diễn ra, không màu danh, không mùi lợi: khiêm nhường mà còn biết mình khiêm nhường, thì chưa phải khiêm nhường thật; chiêm niệm mà còn biết mình đang chiêm niệm, thì chưa phải chiêm niệm thật, mà là, đang chiêm ngắm cái tôi vĩ đại của mình.

Chiêm niệm thật, đó là “Cái nhìn của Chúa”: cái nhìn không người nhìn, cái biết không người biết, sự hiện diện không người sở hữu, nghĩa là, chỉ có một mình Chúa nhìn, một mình Chúa biết, một mình Chúa hiện diện, phần chúng ta, thì thông dự vào trong cái nhìn, cái biết, trong sự hiện diện đầy tràn của Chúa, như giọt sương, hạt muối bé nhỏ hòa vào: làm một với đại dương. Tuy nhiên, chúng ta là một nhân vị bất khả tương nhượng, được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng cách đặc biệt, độc nhất vô nhị, chính vì thế, như trăm vạn con sông đổ ra biển, hòa chung một vị mặn, nhưng, nếu có máy móc tinh vi, ta vẫn có thể phân biệt được những đặc tính khác biệt: độ mặn, độ chua, độ phèn, độ ngọt của từng con sông một.

Tóm lại, nếu ta có được cái nhìn của trẻ thơ, không đòi hỏi hoàn cảnh phải khác đi, thì, đó chính là chiêm niệm, một loại chiêm niệm không tên, không khuôn mẫu, không kỹ thuật, mà chỉ là: tâm thái sẵn sàng đón nhận tất cả những gì xảy đến, trong thánh ý Chúa. Cái tôi thiêng liêng là lớp vỏ cuối cùng, mà bản ngã vẫn còn có thể trú ẩn, nếu ta không thấy, thì, càng đi sâu, ta càng lạc xa hơn, nếu ta bám vào, thì, nó sẽ trở thành xiềng xích; nếu biết dừng, thì, mắt ta sẽ rộng mở: ta sẽ có thể nhìn mọi người, mọi việc như chính Chúa nhìn, để, khi bất cứ sự việc gì xảy đến, chúng ta cũng có thể nhìn như Chúa nhìn, nghĩ như Chúa nghĩ, nói như Chúa nói, làm như Chúa làm, đó chính là chiêm niệm, điều mà thánh Phaolô đã nói: Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là, Đức Kitô sống trong tôi (x. Gl 2,20). Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

CHIẾC THANG NỐI TẬN TRỜI

Đọc Cựu Ước, tôi thấy Chúa ban cho Tổ phụ Giacób có khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao.

Chẳng hạn, trong một giấc mơ đêm, trên đường xa đến nhà cậu ruột là ông Laban, nhằm vâng lời cha là Issaác, cưới con của cậu làm vợ mình, Tổ phụ Giacób nhìn thấy chiếc thang cao tận trời. Trên đỉnh thang, có Thiên Chúa ngự. Tổ phụ cũng nhìn thấy đông đảo các thiên thần lên lên xuống xuống trên thang.

Từ một giấc mơ, Tổ phụ đã không xem đó chỉ là giấc mơ. Tổ phụ nhìn xuyên thấu điều tưởng chừng chỉ là giấc mơ, để khám phá tình yêu của Thiên Chúa, để nhận ra Đức Chúa của cha ông mình luôn ở cùng mình.

Tổ phụ cầu nguyện cùng Thiên Chúa ngay sau “biến cố” giấc mơ: “Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, nếu tôi được trở về nhà cha tôi bình an, thì Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi” (St 29, 20-21).

Không chỉ ấp ủ lòng biết ơn Thiên Chúa, Tổ phụ Giacób còn lập bàn thờ để tỏ bày lòng biết ơn ấy. Nhờ khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao, từ giấc mơ đẹp, Tổ phụ biết rằng, trên dặm trường xa, Chúa vẫn theo mình. Chúa không ngừng đưa bàn tay phù trợ bao bộc, đỡ nâng, che chở.

Nhờ khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao, Tổ phụ Giacób cảm nhận bình an của Chúa suốt hành trình đời mình. Tổ phụ luôn biết ơn Chúa, luôn trung thành vâng nghe thánh ý Chúa.

Hôm nay:

Khi Chúa nói cho cả hai chị em Matta và Maria biết,“Chỉ có một sự cần mà thôi”, đó là hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy uống lấy từng lời Chúa dạy, hãy nỗ lực làm cho Lời Chúa chi phối lẽ sống, hãy để cho Lời Chúa điều khiển mọi hành vi, mọi lời nói, mọi biểu cảm của mình.  

Là Chúa muốn nhấn mạnh:

Chúng ta hãy bám lấy, hãy theo sát Lời Chúa trong suốt hành trình cuộc sống của mình. Cuộc sống đó sẽ là những nụ cười hay tiếng khóc, là lúc thăng hay lúc trầm, lúc khỏe mạnh hay yếu đau, lúc thành công hay thất bại, lúc bị phản bội hay được đón nhận, lúc nhận ra sự yêu đương hay lòng thù hận…

Hãy luôn hiểu rằng, Lời Chúa luôn vang lên mọi nơi mọi lúc, mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội, dù đó là thời khắc tĩnh mịch y như hình ảnh chị Maria thanh thản, an nhàn, thoải mái, vô tư, hạnh phúc ngồi bên chân Chúa...

Nhưng Lời Chúa vẫn vang vọng không ngừng giữa những tất bật, những ồn ào đầy bôn ba chật vật chẳng khác chi hình ảnh chị Matta bộn bề, khổ sở, trăm vất vả, ngàn lo âu...

Hãy khắc sâu tâm niệm này: Chúa không ngừng ở bên ta. Chúa vẫn luôn lên tiếng suốt dọc dài cuộc sống của ta trong mọi khoảnh khắc, mọi thời gian. Hiện diện của Chúa là hiện diện đầy. Chúa hiện diện bền bỉ, liên lỉ.

Như vậy:

- Ta lắng nghe Lời Chúa nói là lắng nghe qua từng thời gian, từng biến cố, từng hoàn cảnh của mình, hay của bất cứ ai, bất cứ nơi nào mà ta có mặt hay tham dự vào. Ta xin Chúa hãy dạy ta, hãy làm cho ta được sống theo thánh ý Chúa, sống theo Lời của Chúa.

Không thể lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao như Tổ phụ Giacob, thì ít ra, ta cần tập cho mình thói quen lắng nghe Lời Chúa nói không trừ bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào, biến cố nào.

- Thái độ của hai chị em Mattha, Maria và lời đáp“chỉ có một sự cần mà thôi” của Chúa Giêu, còn dạy ta hãy quân bình đời sống thường nhật với trách nhiệm Kitô hữu.

Sự quân bình ấy giúp ta sống ơn gọi nên thánh giữa đời. Một mặt, ta không thể không làm lụng vất vả tạo ra cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng cũng không vì thế, biến mình thành kẻ suốt ngày chỉ “cơm-áo-gạo-tiền”, quên mất Thiên Chúa, quên mất nghĩa vụ làm người con thảo hiếu với Cha trên trời. Sự sống thân xác không bao giờ là lý do cho phép ta vịn vào ngụy biện cho lối sống nguội đạo, lạnh nhạt đức tin.

Mặt khác, ta cũng không được nại vào sự cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, dạy hay học giáo lý... mà quyên bổn phận thánh hóa lao nhọc khi phải sống vất vả giữa đời.

Tập lắng nghe tiếng Chúa trong cuộc sống chính là “chiếc thang Giacób” nối lòng ta với tình yêu bền chặt của Chúa. Nhờ đó, ta có thể gặp và kết hiệp nên một cùng Chúa.

Cần lắm việc chúng ta bắc một “chiếc thang” nối lòng mình đến lòng Thiên Chúa, để mãi trung thành trong đức thờ phượng, đức tin, đức cậy và lòng mến, dù cuộc sống có biến thiên đến mức nào đi nữa.

Hãy như Tổ phụ Giacób đã tạ ơn Chúa. Chúng ta cũng sẽ lập bàn thờ là chính tâm hồn mình, để thờ phượng Chúa.

Có Chúa ngự nơi bàn thờ tâm hồn, chắc chắn ta sẽ thấu biết Lời Chúa phán xuyên qua chuỗi ngày sống của ta.

Có Chúa làm khởi điểm và đích đến, có Lời Chúa làm điểm tựa cho sự sống là có tất cả lẽ sống, tình yêu sống, sự bình an lớn lao của tâm hồn, dù đó là lúc êm ả, lắng đọng hay chao đảo, mất phương hướng...

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

TẠI SAO THINH LẶNG LẠI CẦN THIẾT?

Thánh Biển Đức dạy các môn sinh của mình: giữ thinh lặng, ngay cả, đối với những điều lành thánh. Một lời nói đúng cũng thành sai, bởi vì, ngay khi ta dùng lời để nói về sự thật, nó đã bị bóp méo; dù ta có nói đúng về Thiên Chúa, thì, cũng giống như ngón tay vẽ trên mặt đại dương, sự thật không nằm trong ngôn từ, Thiên Chúa không nằm trong các định nghĩa.

Có một nghịch lý: người càng hiểu sâu, thì càng nói ít, còn, người càng biết ít, thì càng nói nhiều. Khôn ngoan thật sự không nằm ở lời nói, nhưng ở thinh lặng, nơi không còn gì để chứng minh, không còn gì để khoe khoang. Thinh lặng không phải là yếu đuối, mà là, dấu hiệu của sự trưởng thành: khi ta còn nhiều sợ hãi, ta nói để bảo vệ mình; khi ta còn nhiều mong cầu, ta nói để được người khác chấp nhận; khi ta còn nhiều lo âu, ta nói để khỏa lấp khoảng trống; nhưng, khi đã đủ sâu, ta bắt đầu thấy: không phải điều gì biết cũng cần nói, không phải điều gì tốt cũng cần chia sẻ, không phải sự thật nào cũng cần lời để thể hiện. Thinh lặng là không gian cho sự thật được hiển lộ: giống như mặt nước phẳng lặng, mới có thể phản chiếu bầu trời; tâm hồn tĩnh lặng, mới phản ánh những điều sâu xa.

 Lời nói chỉ quý, khi nó được sinh ra từ sự tĩnh lặng, chứ không phải, từ sự bất an. Có người chọn im lặng vì sợ: sợ bị đánh giá, sợ bị hiểu lầm, sợ bị bỏ rơi. Có người nói rất nhiều cũng vì sợ: sợ bị lãng quên, sợ bị coi thường, sợ mất quyền lực. Thinh lặng không phải là trạng thái trống rỗng, mà là, một cánh cửa mở vào một thế giới sâu nhất bên trong ta: khi ta thinh lặng, ta không còn bận rộn để nói, cũng không còn bị cuốn theo phản ứng, lúc đó, ta mới đủ tỉnh táo để nhận ra mọi chuyện đang diễn ra: ta sẽ nhận ra nỗi giận vừa rồi, hóa ra không đến từ người kia, mà, từ một tổn thương cũ; hóa ra sự ghen tỵ vừa thoáng qua, là vì, mình chưa nhận ra các ân huệ mà mình nhận được; hóa ra tâm hồn ta vốn rất đẹp, nhưng, từ lâu đã bị phủ bởi quá nhiều tiếng ồn.

Có người ít nói, lâu lâu mới nói một câu, không triết lý, không giảng giải, nhưng, sự tĩnh lặng nơi họ sâu hơn mọi điều được đọc trong sách vở. Có người thông minh, nói giỏi, biết nhiều, tư duy sắc bén, nhưng, mỗi lần trò chuyện với họ, ta lại thấy áp lực, không phải vì họ không tốt, mà vì, họ quá muốn đúng: luôn cần thắng lý, luôn phải giải thích, luôn cố để người khác hiểu mình, câu chuyện nào cũng dài, ý nào cũng phải bảo vệ, và thế là, đối thoại biến thành tranh luận gay gắt; Có người bước vào phòng không nói gì, chỉ mỉm cười nhẹ và không khí như dịu lại. Có người bước vào, ngay lập tức, khiến bầu khí trở nên căng thẳng, sự khác biệt nằm ở nội tâm, người càng bất an, thì càng phải lên tiếng; người càng tĩnh lặng, thì càng không cần thể hiện; Có người bị trách mắng, cúi xuống không nói gì, nhưng thật ra, đang co mình lại vì sợ hãi, đang im lặng vì không biết phải phản ứng sao. Có người thinh lặng, vì đã thấy rõ mọi điều, không còn tức giận, không còn kháng cự, chỉ đơn giản, thấy và buông. Vì vậy, ta đừng nhầm lẫn giữa hai sự thinh lặng: một bên là co rút, một bên là thấu suốt; một bên là sợ, một bên là hiểu; một bên là đè nén, một bên là buông lơi.

Người chưa thật sự thinh lặng, bên trong sẽ vẫn còn tranh cãi, vẫn còn diễn tập từng câu đáp trả, như đang chống lại cả thế giới. Người thật sự thinh lặng, thì, không còn tranh với ai nữa, không cần phải thắng trong bất kỳ cuộc trò chuyện nào, không cần được khen lao, chỉ cần sống thật với lòng mình. Ước gì ta trở nên người thật sự tĩnh lặng, để khi ai đến gần ta, họ đều cảm thấy bình yên, không phải vì ta nói đạo lý, mà vì, ta lặng mà thấu: không ồn ào nhưng sâu, không sắc bén nhưng sáng, không cháy rực nhưng nóng nhẹ, đủ để họ được ấm lòng. Ước gì ta đủ can đảm để chọn không nói, không biện minh, không tô vẽ, nhưng, hiện diện đơn sơ, chân thật, trần trụi trước Nhan Thánh Chúa, đủ tĩnh lặng, đủ khiêm cung để nghe được tiếng Chúa nói trong lòng ta. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.