3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

VIỆC CẢ THỂ

Thứ Sáu Tuần 17 Thường Niên C

“Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin!”.

Trong “Phép Mầu Trên Sông Kwai” - “Miracle on the River Kwai” - Gordon viết về các tù binh bị buộc phải xây một con đường sắt trong rừng; họ trở nên man rợ - cho đến ngày một chiếc xẻng mất! Không ai nhận tội, viên sĩ quan Nhật rút súng bắn vào các tù nhân. Bỗng một người bước lên, anh bị đánh chết; về sau, chiếc xẻng được tìm thấy. Từ đó, các tù binh hết vô nhân tính, họ yêu thương nhau như gia đình. Người chết, một Kitô hữu, đã làm một việc cả thể - cứu sống nhân phẩm và mạng sống các bạn tù.

Kính thưa Anh Chị em,

Chúa Giêsu đã làm những ‘việc cả thể’ ở các thành, nhưng tại quê nhà của Ngài thì không, “Vì họ không tin!”.

Đang khi bản Việt ngữ, bản BJ. và TOB. tiếng Pháp gọi đây là những “phép lạ”, “miracles” thì bản NAB. của HĐGM Hoa Kỳ đơn giản gọi đây là những “việc cả thể”, “mighty deeds!”. Theo một số nhà chú giải, cách gọi này, xem ra gần gũi và dễ ao ước hơn! 

‘Việc cả thể’ là việc biến đổi các linh hồn! Bởi lẽ, ‘linh hồn hoán cải’ mang một ý nghĩa lớn lao nhất, thiên đàng nhất và vĩnh cửu nhất… cũng là điều Chúa Giêsu tìm kiếm và chờ đợi. Buồn thay! Sau những phép lạ vật lý, điều đó đã không xảy ra tại quê nhà của Ngài - “Vì họ không tin!”. Lời Chúa Giêsu không thấu qua tai, chẳng thấm qua tim những đồng hương. “Thiên Chúa có thể làm việc với ai không biết, nhưng không thể làm gì với kẻ không tin!” - David Guzik. Rõ ràng, ngu dốt không đóng cửa, nhưng vô tín thì đóng cửa khiến Thiên Chúa tổn thương. Vô tín là sự không hài lòng với tình yêu và sự gần gũi của Ngài; chán ghét chính sự hiện diện và sự trợ giúp của Ngài.

Tuy nhiên, việc “Người không làm nhiều phép lạ tại đó” có nghĩa là ‘có’ làm, ít nữa một! Chi tiết này hé lộ - chí ít - đã có một linh hồn biến đổi. Dù chỉ một nhưng đủ cho thần thánh trên trời mừng vui, Chúa Giêsu vui mừng. Đó là ‘việc cả thể’ vĩ đại nhất. Hãy ước ao cho linh hồn mình được biến đổi! Vì bấy giờ, chúng ta sẽ nhận ra ‘dấu vết thánh’ của Chúa trong cuộc sống, ‘hiện diện thánh’ của Ngài trong tha nhân và ‘hoạt động thánh’ của Ngài trong công việc thường ngày! “Thiên Chúa và Con của Ngài có thể làm mọi sự, nhưng đã chọn giới hạn chính mình tuỳ theo sự đáp trả của con người!” - James Brooks.

Anh Chị em,

“Người không làm nhiều phép lạ tại đó”. “Không làm nhiều”, vì họ không chấp nhận việc “Nhập Thể” - Thiên Chúa trong hình hài một con người! Với họ, một vị thần trừu tượng, xa cách, chấp nhận một đức tin xa rời cuộc sống… sẽ thoải mái dễ chịu hơn. Cũng thế, chúng ta muốn một Thiên Chúa ‘hiệu ứng’, làm những điều ngoạn mục, luôn khơi dậy cảm xúc mạnh mẽ; vậy mà, thay vào đó, Ngài nhập thể - dịu dàng, ẩn mình - đến gần, sống cuộc sống bình thường của chúng ta. “Thiên Chúa không cưỡng ép những tấm lòng muốn xa lánh Ngài!” - Hiebert. Liệu điều tương tự cũng xảy ra với bạn và tôi? Liệu chúng ta sẽ đánh mất cơ hội không để Ngài làm được một ‘việc cả thể’ nào?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chạm lòng con, đừng chỉ lay mắt con. Đừng làm con loá mắt - hãy làm con thay lòng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

KIÊN TRÌ KÊU CẦU THIÊN CHÚA TÌNH THƯƠNG

Trong hành trình đức tin, cầu nguyện là việc rất cần thiết nhưng không phải là tìm cách thay đổi ý Chúa, nhưng là kiên trì, tin tưởng, và gõ mãi vào cánh cửa lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính nhờ sự tín thác ấy, ta được biến đổi từ bên trong và cảm nghiệm sự hiện diện sống động của Chúa giữa những thử thách đời thường.

  1. Thiên Chúa xét xử công minh và đầy lòng thương xót

Trong trình thuật sách Sáng Thế hôm nay, chúng ta chứng kiến một cuộc đối thoại đầy cảm động giữa ông Abraham và Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa dự định hủy diệt thành Sôđôma vì tội lỗi quá nặng nề, Abraham đã nài xin Thiên Chúa tha thứ nếu tìm được một số người công chính. Từ năm mươi xuống mười, Thiên Chúa vẫn sẵn lòng tha thứ: “Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao?.. Chúa đáp: Nếu Ta tìm được trong thành Sôđôma năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó…Ông nói: Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Sôđôma” (St 18:20-32).

Điều này cho thấy Thiên Chúa không phải là Đấng xét xử lạnh lùng, mà là Cha nhân từ, sẵn sàng lắng nghe lời cầu xin của con cái mình. Ngôn sứ Êdêkiel tuyên phán lời của Thiên Chúa rằng: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của Chúa là Chúa Thượng – Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại. Sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Israel?” (Êdêkiel 33: 11).

Cuộc đối thoại giữa Abraham và Thiên Chúa cũng là một bài học về sự kiên trì trong cầu nguyện. Abraham không ngừng hạ thấp con số người công chính, từ năm mươi xuống mười, và Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Điều này mặc khải một Thiên Chúa không chỉ công minh mà còn đầy lòng nhân hậu.

  1. Phép rửa đem lại sự sống mới trong Chúa Kitô

Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng qua phép rửa, chúng ta được mai táng với Chúa Kitô và cùng sống lại với Ngài. Tội lỗi bị đóng đinh vào thập giá, và chúng ta được tha thứ hoàn toàn: “Anh em đã cùng được mai táng với Chúa Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Ngài, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết…Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” (Cl 2:12-13)

Thánh Tôma Aquinô giải thích: “Phép rửa là bí tích của sự chết và sự sống lại. Bí tích đó xóa bỏ tội nguyên tổ và ban cho linh hồn sự sống mới trong ân sủng” (Tổng luận thần học, chương III, quyển 66)

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Bí tích Rửa tội làm cho chúng ta được tái sinh trong đời sống Kitô hữu. Đây là lý do tại sao tôi khuyên anh chị em nên dạy cho con cái mình về ngày Rửa tội, giống như ngày sinh nhật mới: để hàng năm chúng nhớ và cảm tạ Chúa vì hồng ân được trở thành Kitô hữu” (Bài giảng ngày 08/01/2023, Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa).

Qua phép rửa, chúng ta không còn là những kẻ chết trong tội lỗi, nhưng là những người sống trong ân sủng. Thiên Chúa đã “xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Ngài đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá” (Cl 2: 14). Đây là hành động yêu thương tuyệt đối, là sự giải thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi và lề luật gò bó xưa cũ.

  1. Cầu nguyện trong kiên trì và tín thác

Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, và kể dụ ngôn về người bạn quấy rầy. Ngài khẳng định: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11: 9).

Dụ ngôn người bạn quấy rầy không nói về việc làm phiền Thiên Chúa, mà là sự kiên trì trong đức tin. Thiên Chúa không phải là người bạn khó chịu, nhưng là Cha nhân lành, luôn sẵn sàng ban Thánh Thần cho những ai cầu xin.

Chính Chúa Kitô dạy cho các môn đệ của Ngài cầu nguyện qua lời Kinh Lạy Cha. Đó là lời cầu nguyện chứa đầy niềm tin, do chính “Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2: 1) của chúng ta kêu cầu lên Thiên Chúa Cha. Chúa Kitô biện hộ cho chúng ta, hãy để chính Ngài lên tiếng, như lời Thánh Vịnh: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại,lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên” (Tv 91: 15). Ngài là Đấng “cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2: 3) cho nhân loại tội lỗi.

Thánh Gioan Đamascênô từng nói: “Oratio est ascensus intellectus in Deum; oratio est petitio decentium a Deo – Cầu nguyện là nâng tâm trí lên Thiên Chúa và xin những điều phù hợp với Thiên Chúa.” (De Fide Orthodoxa – Đức tin Truyền thống, quyển III, chương 24).

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI viết: “Cầu nguyện không phải là ép buộc Thiên Chúa, nhưng là mở lòng mình ra để đón nhận điều Ngài muốn ban” (Chúa Giêsu thành Nadarét, Phần II).

Tại giáo họ Tân Hòa – một họ đạo nhỏ thuộc giáo phận Xuân Lộc, trong suốt hơn 10 năm, người dân nơi đây chỉ có một mái nhà lá đơn sơ để dâng lễ và cầu nguyện. Trời nắng thì nóng, trời mưa thì dột. Nhưng trong suốt từng ấy năm, cha xứ không ngừng cùng bà con giáo dân cầu nguyện. Không chỉ cầu xin có nhà thờ, mà cầu nguyện để vững tin giữa bao thiếu thốn. Có lúc tưởng chừng mọi cố gắng sẽ vô ích. Đơn xin đất bị từ chối nhiều lần. Kinh phí không có. Chính quyền e dè. Nhưng cha xứ và giáo dân không ngừng “xin, tìm và gõ” như lời Chúa dạy (Lc 11: 9).

Cha xứ tâm sự: “Tôi không dám cầu xin điều gì to lớn, chỉ cầu xin như một đứa con thưa với Cha mình: Lạy Cha, nếu Cha thấy điều này đẹp lòng Cha, xin cho nó xảy ra theo ý Cha.”

Sau gần một thập kỷ cầu nguyện, vào năm 2020, giấy phép xây dựng được cấp, và một ngôi nhà thờ mới khang trang đã mọc lên trên chính mảnh đất khô cằn ngày xưa. (Báo Công giáo và Dân tộc, số 2253, tháng 10/2020).

Câu chuyện này chính là minh họa sống động cho dụ ngôn “người bạn quấy rầy” (Lc 11:5-13). Nhưng điều cha Giuse và bà con giáo dân làm không phải là “làm phiền” Thiên Chúa, mà là kiên trì trong tín thác. Cha xứ và bà con giáo dân không đòi Chúa làm theo ý mình, nhưng mở lòng đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa, như Đức Bênêđictô XVI viết: “Cầu nguyện không phải là ép buộc Thiên Chúa, nhưng là mở lòng mình ra để đón nhận điều Ngài muốn ban.

  1. Lời mời gọi sống đức tin

Abraham cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho thành Sôđôma, và Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ nếu có người công chính. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với lòng tin tưởng, vì Thiên Chúa là Cha nhân lành, không xa cách, nhưng gần gũi và lắng nghe, không chỉ là Đấng xét xử, mà còn là Đấng cứu độ, là Cha yêu thương. Qua phép rửa, chúng ta được sống lại trong Chúa Kitô, được tha thứ và trở nên công chính.

Chúng ta được mời gọi sống đức tin một cách sâu sắc hơn:

  • Hãy cầu nguyện với lòng kiên trì, như Abraham đã làm, như người bạn quấy rầy trong dụ ngôn.
  • Hãy sống như người đã được tái sinh, không còn bị ràng buộc bởi tội lỗi, nhưng sống trong ân sủng.
  • Hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay cả khi thế gian đầy bóng tối.

Năm 1995, Elaine bị một kẻ lạ mặt bắn khi cô đang ở trong xe hơi của mình. May mắn cô chỉ bị xây sát nhẹ, nhưng sau vụ việc, cô bị rơi vào chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn (Post Traumatic Stress Disorder), luôn sợ hãi tột độ và run rẩy không kiểm soát. Trong lúc tuyệt vọng, Elaine đã kêu cầu Thiên Chúa. Cô kể lại rằng ngay lúc đó, cô cảm nhận được một sự bình an mạnh mẽ, như một luồng sóng, bao phủ lấy cô, làm dịu thần kinh và mang lại sự tĩnh lặng nội tâm. Cô tin chắc rằng đó là sự hiện diện của Chúa Kitô.

Elaine không chỉ được chữa lành về mặt tâm lý, mà còn cảm nhận được ơn tha thứ. Sau đó cô bắt đầu cầu nguyện xin Chúa ban cho cô sức mạnh nội tâm để có thể tha thứ cho kẻ đã tấn công mình, và liên tục cầu nguyện cho người đó, một người mà cô chưa từng biết tên. Cô chia sẻ: “Tôi cũng là một tội nhân, không khác gì người đã tấn công tôi. Nếu Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi, thì tôi cũng phải tha thứ cho anh ta.” Elaine còn nói rằng cô đã tìm thấy sức mạnh trong Lời Chúa, đặc biệt là 2 Timôthê 1: 7: “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.” (relevantradio.com/2019/09/one-womans-incredible-experience-of-gods-mercy).

Để sống đức tin, cầu nguyện kiên trì và tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta hãy bắt đầu từ những công việc nhỏ, nhưng với tình yêu lớn lao, và rồi chúng ta có thể tạo nên những điều phi thường. Thánh Têrêsa Calcutta từng nói: “Không phải tất cả chúng ta có thể làm những việc lớn, nhưng chúng ta có thể làm những việc nhỏ với tình yêu lớn.”

Phêrô Phạm Văn Trung

CHA

Ở quê tôi, người ta đọc kinh rất nhiều. Mỗi giờ kinh (nên gọi là “giờ kinh” thay vì gọi là “giờ cầu nguyện”), tôi không thể nhớ bao nhiêu kinh được đọc. Đọc tràng giang. Đọc rất nhanh. Chưa “amen” kinh này thì đã gắn vào kinh khác… Nhanh đến nỗi, chỉ cần vài cái chớp mắt là đã xong kinh Lạy Cha.

Tôi không gọi đó là buổi cầu nguyện. Hình như người ta không cầu nguyện. Chẳng ai chú ý đến lời kinh mình đọc. Không ai cần hiểu nội dung lời kinh. Đọc từ đầu đến hết kinh thì thuộc, nhưng cắt ngang và bảo đọc phần cắt ngang, không thuộc. Thậm chí đọc sai từ ngữ, sai nội dung vẫn… vui vẻ đọc từ thế hệ này đến thế hệ khác…

Dù kinh Lạy Cha là lời kinh có một không hai, lời kinh độc đáo, quan trọng, gồm tóm mọi lời cầu nguyện, được rút ra từ chính kinh nghiệm cầu nguyện của Chúa Giêsu…, người ta vẫn đọc… cái vèo, chẳng khác mọi lời kinh.

Vì thế, từ đọc thuộc lòng đến thực hành lời kinh không là điều dễ. Nhất là lời kinh của Chúa – kinh Lạy Cha – tôi càngtâm niệm, đó là lời kinh mà chính tôi phải thận trọng, phải ý thức để thánh ý Chúa phải được thể hiện trong cuộc đời mình, nếu không nhiều thì cũng ở mức tối thiểu.

Nơi kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tỏ bày một mạc khải quan trọng chưa từng có: THIÊN CHÚA LÀ CHAThiên chúa là một Người CHA không hơn, không kém. Trên mọi danh hiệu, “CHA” là danh hiệu đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, chất chứa đầy niềm hy vọng.

Thiên Chúa không là thần minh xa vời, nghiêm nghị, ưa trừng phạt, ưa thể hiện uy quyền, ưa những kiểu sai khiến để phân biệt hai chiều kích luôn đối lập nhau: thần minh và thụ tạo.

Nhưng Thiên Chúa lại là CHA. Thiên Chúa bước vào đời sống thụ tạo nhẹ nhàng và kính trọng, nâng niu và gần gũi. Thiên Chúa gìn giữ loài thụ tạo như chính bản thân mình.

Thiên Chúa thân mật với thụ tạo đến độ phá bỏ mọi khoảng cách, không còn bất cứ ranh giới nào, dù nhỏ nhất. Từ nay, Thiên Chúa chỉ đơn giản là CHA, loài thụ tạo này là con. Từ nay, loài người đến với Thiên Chúa trở nên nhẹ và tự nhiên đến mức: người con đến với CHA mình. Từ nay, chúng ta gọi Thiên Chúa là CHA với tất cả niềm yêu, sự trìu mến, lòng thảo hiếu và đơn sơ.

Mạc khải về CHA cũng là mạc khải thuộc về chiều sâu nói lên mối liên hệ thâm sâu, ân tình giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Đó cũng là lời diễn tả chiều kích thiêng liêng mà thụ tạo được tham dự vào, để sống thân mật và liên kết nên một với Chúa Cha trong Chúa Giêsu, nhờ Chúa Giêsu.

CHA không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Gọi tiếng CHA triều mến gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa hạnh phúc, vừa cho thấy sự an bình nhưng cũng huyền nhiệm vô cùng.

Được làm con của CHA, đó là phẩm giá siêu phẩm giá của những người con. Đó là hồng ân cao quý trên mọi thứ cao quý. Bởi ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản, cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Chúa Con.

Đó là tư cách rất riêng thuộc về môn đệ của Chúa Con. Không có Chúa Con là đầu, không làm môn đệ của Chúa Con, ta không thể lãnh hội ơn gọi này, không thể đạt tới lối sống hiếu thảo với CHA và huynh đệ với tha nhân.

Chúng ta là con cùng một Cha, Chúng ta là anh em. Tình Cha con và tình em được Chúa Giêsu mạc khải hài hòa qua kinh lạy Cha. Không bao giờ chúng ta thưa “Lạy CHA” mà lại xưng là “con”, nhưng luôn xưng là “chúng con”. Cả nhân loại chỉ có một Cha, tất cả đều là anh chị em của nhau.

Hãy học lấy thái độ của thánh Phaolô để đến với CHA mình: “Tôi quỳ gối trước mặt Thiên Chúa là CHA, là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên Trời dưới đất. Tôi nguyện xin Thiên Chúa CHA, thể theo sự phong phú của vinh quang Người, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức KITÔ ngự trong tâm hồn. Xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức KITÔ, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy, anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Êph 3,14-19).

Thánh Phaol cho thấy, dù gắn chặt trong tình phụ tử của Thiên Chúa CHA, tương quan của chúng ta không chỉ là tương quan mãnh liệt với Ngôi Thứ Nhất, nhưng luôn được “củng cố mạnh mẽ” nhờ Chúa Thánh Thần trong lòng tin vào Chúa Kitô và “được Đức Kitô ngự trong tâm hồn”.

Do đó, khi nói đến tình phụ tử của Thiên Chúa CHA, ta phải hiểu cả tình phụ tử của Thiên Chúa Con và Đấng là mối dây làm nên sự bền chặt, sự nên một tuyệt đối là Thiên Chúa Ngôi Ba.

Bởi không có tương quan nào, không có kỳ công nào, không có công trình nào mà không là quyền năng của Ba Ngôi: Cha – Con – Thánh Thần. Bởi lẽ Ba Ngôi, dù phân biệt thế nào, thì đó vẫn chỉ là MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT.

Vậy, từ đây, mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, dù trong thánh lễ, trước bữa ăn, khi lần chuỗi, khi khấn nguyện, hay bất cứ trường hợp nào, trong hoàn cảnh nào, thời điểm nào, với bất cứ lý do gì, chúng ta hãy đọc khoan thai, chú ý từng lời cầu nguyện của mình. Hãy để tâm hướng về Thiên Chúa mà nâng hồn, nâng lòng yêu mến, nâng tình yêu thảo hiếu của mình lên Thiên Chúa.

Nói cách khác, chúng ta hãy cầu nguyện khi đọc kinh. Hãy biến giờ kinh của mình thành giờ cầu nguyện đúng nghĩa.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

THÂN CHA, PHẬN CON

Hôm nay Chúa dạy về cầu nguyện. Nhưng ta không khai triển đề tài cầu nguyện, mà triển khai một góc nhỏ, nhưng là đỉnh lớn của nội dung lời nguyện. Chúa dạy cầu nguyện. Và cầu nguyên bằng kinh Lạy Cha. Ta chỉ dừng lại tiếng xưng hô “Lạy Cha” đó mà thôi.

 

Phận con

  1. Chúng ta không phải là anh em mồ côi.

Câu chúng ta thường nghe “tứ hải giai  huynh đệ” : khắp bốn bể đều là anh em, câu này thoạt nghe tưởng là hay, nhưng suy nghĩ lại, lại thiếu một yếu tố quan trọng : tất cả là anh em, nhưng lại là anh em … mồ côi, vì không có cha. Quan là “dân chi phụ mẫu,” thì quan đó cũng chỉ là cha mẹ của một góc nhỏ dân: dân Tàu, dân Việt… chứ bốn bể làm gì có ông quan nào làm chủ được để gọi là mẹ là cha của cả và thiên hạ (đúng ra, “phụ mẫu chi dân” thì chính dân mới là cha mẹ). Còn suy ra từ kinh Lạy Cha, thì chúng ta là anh em, và không mồ côi vì có chung một Cha trên trời. Anh cũng đọc Lạy Cha, tôi cũng đọc lạy Cha, chị cũng xướng Lạy Cha… và là một Cha thôi, nên tất cả trở thành anh em. Tứ hải giai huynh đệ nhi đồng nhất phụ. Để có thể bao phủ cả bốn bể, chỉ có bầu trời. Để có thể làm cha anh em trong bốn bể chỉ có Ông Trời. Và chính Ông Trời này là Cha của chúng ta. Lạy Cha, Đấng ngự trên Trời.

 

  1. Ai cho ta quyền này ? Quyền gọi Ông Trời, Chúa Trời là Cha chúng ta ? Hẳn ai cũng trả lời được. Chính Chúa Giêsu qua Thánh Thần. Không có Ngài chẳng ai dám gọi Chúa Trời là Cha.

Trong Thánh lễ, trước kinh Lạy Cha, chúng ta nghe lời dẫn thế nào ? Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo Lời Người dạy, chúng ta “dám” (cả dám, cả gan, gan cùng mình) nguyện rằng. Một chỗ khác Chúa nói rõ, “Thầy đi về cùng Cha của Thầy và cũng là Cha của anh em.”  Không phải Cha của Thầy khác Cha chúng ta, mà Chúa Giêsu và chúng ta có chung một Cha, nên ta là anh em với nhau, và là em (dẫu bảy tám mươi tuổi, dẫu sinh ra trước khi Đức Giêsu xuống thế làm người, thời ông Bành Tổ cổ lai) tất cả đều là em của Đức Giêsu. Ngài là Trưởng Tử, của một đàn em đông đúc (Rm 8,29 : “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”).

Và Chúa Giêsu chỉ cho ta quyền này thông qua Chúa Thánh Thần. Chính nhờ nước và Thánh Thần, tức Phép Thánh Tẩy, mà Thánh Thần, tức vị thần thánh hoá, biến ta thành thánh, hoá ta thành thần, để ta dám, cả dám cùng với Thánh Thần trong ta, kêu lên abba, Cha ơi Cha. (Gl 4,6 : Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi !”)

Vậy mà chúng ta có thấy chói tai và mâu thuẫn không, khi vào xưng tội, có linh mục nói cách rất tự nhiên: để đền tội, con hãy đọc 3 kinh Lạy Cha. Làm như đọc Kinh Lạy Cha là một hình phạt, như để đền tội phá trong lớp, hãy quì gối trên vỏ sầu riêng một giờ !

Đọc Kinh Lạy Cha, được kêu “Cha ơi Cha” là một ân phúc, đâu phải ai muốn cũng được. Phải những kẻ đã được tái sinh trong Phép Rửa bằng nước và Thánh Thần mới được kêu mà !

Thời nguyên thuỷ Kitô giáo, và nay khi Công Đồng muốn trở về nguồn đã chia thành nhiều giai đoạn khi cử hành bí tích thánh tẩy, thì, dự tòng chỉ được trao kinh Lạy Cha vào giai đoạn cuối cùng (Kinh Tin Kính được trao trong giai đoạn trước), ngay trước khi lãnh nhận Phép Rửa, để khi được thánh tẩy xong là trở thành em Chúa Giêsu, thành con Chúa Cha, để vinh hạnh đọc kinh Lạy Cha, gọi Chúa Trời là “Cha ơi Cha”, “Bố à Bố”.

Trong một lớp học về phụng vụ khi còn ở Chicago, tôi có nêu lên lưu ý này : tại sao lại nói : để đền tội, hãy đọc kinh Lạy Cha. (đọc Kinh Lạy Cha là ân phúc chứ có phải là hình phạt đâu). Cả lớp thấy có lý và cuối giờ ông thầy vẫn còn tâm đắc cho nên nói với cả lớp, for penalty say Glory to the Father one time (để đền tội hãy đọc Kinh Sáng Danh một lần) !

Chị thánh Têrêxa chẳng bao giờ đọc hết câu đầu của kinh Lạy Cha chứ đừng nói là hết cả kinh. Bởi vì mới đọc được hai chữ Lạy Cha, mà tiếng ngoại quốc thì có thể hiểu thân mật hơn: cha ơi, Bố ơi, Ba ơi… là chị không đọc thêm được nữa, vì nghĩ mình là ai : nhỏ bé, thấp hèn, tội lỗi, mà được phép gọi Chúa Tể đất trời là Ba ơi. Không thể hiểu nổi ! Chị ngất ngây với tiếng kêu Cha ơi, mà không thể đọc thêm được danh Cha cả sáng nước Cha trị đến gì nữa…

Các chị nữ và các bà mẹ đừng buồn, khi thấy Chúa chỉ được gọi là Cha. Vậy Ngài không là Mẹ hay sao ?

Trong khoá họp THĐGM về gia đình ở Roma, tháng 10-1980, ĐGM Nguyễn văn Hoà có phát biểu: Khi chúng ta gọi Chúa là Cha, chúng ta mới gọi được 50% phẩm tính, danh xưng của Chúa. Sau buổi họp, một chuyên viên Kinh Thánh, và một chuyên gia về luật đến nói với đức cha : ngài nói đúng. Nhưng tiếc thay cho đến nay ta chưa tìm được cách nào để vượt ra khỏi, bởi bản văn Kinh Thánh ghi rõ ràng Abba, Cha ơi Cha (chứ không phải Imma : má à má).

ĐGH Gioan Phaolô I hình như còn đi xa hơn khi vào đầu triều đại của ngài, ngài đã nói: Chúa là Cha, hơn thế nữa, Chúa là Mẹ. Vậy là “hơn thế nữa” có thể Chúa là Mẹ 60, Chúa là Cha 40 (tứ lục) ! Ta không lạm bàn thêm vì là vấn đề khá nóng bỏng, nhất là tại các nước phương Tây. Họ gọi Chúa là «She or He».

Vậy là ta cứ phải theo truyền thống gọi Chúa là Cha nhưng vẫn ngầm hiểu “hơn thế nữa Ngài là Mẹ,” bởi lẽ để diễn tả tình yêu (chứ không phải uy quyền) thì lòng Mẹ vẫn là biểu tượng vượt trội hơn ý chí của Cha.

 

Thân Cha

 

Nếu Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, thì ta cũng có thể nhìn vào ta mà suy ra Chúa.

Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi : Bố ơi, tôi bủn rủn cả chân tay, một luồng điện cực mạnh chạy khắp cơ thể, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”  Quả thật. Gọi ai là cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ cha, ta nhận được món quà tặng quý giá nhất đó là sự sống.

Tôi có một anh bạn, cùng lớp thời chủng viện, nay anh làm bố đời, tôi làm cha đạo. Anh ở vùng quê Cái Sắn, nhiều nắng lắm sương vất vả nuôi nấng gia đình. Anh nói, “mỗi ngày đi làm ruộng về, mệt muốn chết, nhưng khi về đến nhà nghe đứa nhỏ kêu lên : ba về, bố về… thấy mệt mỏi chạy mất tiêu.”

Vậy khi ta gọi Chúa là “Cha ơi Cha,” ta đã suy xét trong phần I rằng đó là một ân phúc lớn lao, không sao cảm tạ, thì trong phần II này, ta thử “chơi cha” một chút, khi ta gọi Chúa là Cha, Chúa có sung sướng quên đi mệt mỏi, xúc phạm của  ta như hai bố đời, bố trần gian trên đây tâm sự không ? Có được phép áp dụng tâm trạng của bố dưới trần cho Cha trên trời không ? Hẳn là được. Vì ta được tạo dựng giông giống như Chúa mà.

Bởi đó khi cầu nguyện, xin ơn gì, chỉ cần kêu ba ơi ba là Cha trời sẽ “bủn rủn tay chân, sẽ quên hết lỗi lầm của ta, mà ban cho ta hết ơn này đến ơn kia.” Chính bài Tin Mừng đoạn cuối cho ta biết điều này “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp ? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người ?”

Không cần nói nhiều lời, Cha trên trời cũng ban ơn dư dật.

Để minh hoạ cho điều này có rất nhiều mẫu gương. Chuyện kể cũng nhiều mà tiểu sử thánh nhân cũng không thiếu. Nên chỉ nhắc đến một, mà là một chuyện :

Số là chàng tu sinh kia đi sớm, quên mang sách kinh để cầu nguyện. Thế là chàng nảy ra lời nguyện này : “Cha ơi, con quên sách rồi, bây giờ con đọc cho Cha 24 mẫu tự, ba lần. Cha muốn ghép (giống chương trình “chiếc nón kì diệu”) chữ nào vào ô nào cho đúng cho đẹp ý Cha thì Cha cứ ghép.”

Chúa Cha trên trời phán với triều thần : Từ trước tới nay Ta chưa hề nghe được lời cầu nguyện nào hay như thế.

Hay ở chỗ phó thác hết cho Cha, cho Bố. Bố muốn làm gì Bố làm.

Ta đang sống trong giai đoạn chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng về « hiệp hành ». Tất cả như trong một gia đình. Gia đình lớn, gia đình nhỏ. Gia đình nào cũng có cha có con.  Những gia đình nào gặp khó khăn, thử kêu đến Cha trên trời của ta, “Cha ơi Cha,” chắc chắn Cha trên trời sẽ ban cho ta Thánh Thần, Đấng hướng dẫn chúng ta sống xứng danh là con ở trần gian này, để mai sau được gặp Cha cũng trong tư cách là con. Amen

 

Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

LỜI KINH LẠY CHA

Thánh Phaolô nói rằng Chúa Thánh Thần là bậc thầy vĩ đại của lời cầu nguyện, Đấng dạy chúng ta thưa chuyện với Thiên Chúa, gọi Thiên Chúa bằng những lời trìu mến “Abba, Cha ơi” mà trẻ thơ vẫn dùng. Đây chính là điều Chúa Giêsu đã làm; ngay cả trong khoảnh khắc bi thảm nhất của cuộc đời trần thế, Ngài vẫn không bao giờ đánh mất niềm tin vào Chúa Cha và luôn kêu cầu Chúa Cha với lòng trìu mến của Người Con yêu dấu. Trong vườn Giếtsêmani, khi Ngài cảm thấy đau đớn vì cái chết đang đến gần, Ngài đã cầu nguyện: “Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14:36).

Ngay từ những bước đầu tiên trên hành trình của mình, Giáo Hội đã đón nhận lời cầu khẩn này và biến lời đó thành của riêng mình, đặc biệt là trong lời “Kinh Lạy Cha”, mà chúng ta đọc mỗi ngày: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6: 9-10).

Chúng ta thấy lời cầu nguyện này được lặp lại hai lần trong các Thư của Thánh Phaolô. Thánh Tông Đồ đã ngỏ lời này với tín hữu Galát: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4: 6). Và, ở trung tâm của bài thánh ca dâng lên Chúa Thánh Thần, tức chương tám của Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô tuyên bố: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: Abba! Cha ơi!” (Rm 8:15).

Kitô giáo không phải là một tôn giáo của sợ hãi, nhưng là của niềm tin và tình yêu dành cho Chúa Cha, Đấng yêu thương chúng ta. Cả hai lời khẳng định quan trọng này đều nói với chúng ta về việc Thiên Chúa sai Chúa Thánh Thần đến và việc chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần, ân huệ của Đấng Phục Sinh, Đấng làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô, Con Một, và đặt chúng ta vào mối tương quan con thảo với Thiên Chúa, một mối tương quan tin tưởng sâu xa, như con cái; một mối tương quan con thảo giống như Chúa Giêsu, dù nguồn gốc và phẩm tính của mối tương quan đó khác nhau. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vĩnh cửu, Đấng đã mặc lấy xác phàm; trong khi đó, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô, trong thời gian, qua đức tin và qua các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được dìm mình vào Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là ân huệ quý giá và cần thiết làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, mang đến ơn nghĩa tử mà tất cả nhân loại được mời gọi, bởi vì, như lời chúc phúc thiêng liêng trong Thư gửi tín hữu Êphêsô đã giải thích: “Trong Chúa Kitô, Ngài đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô” (Êphêsô 1:4 -4).

Có lẽ con người ngày nay không nhận ra được vẻ đẹp, sự vĩ đại và niềm an ủi sâu xa chứa đựng trong từ “Cha”, mà chúng ta có thể kêu lên Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, bởi vì ngày nay hình ảnh người cha vốn thường không hiện diện đầy đủ và thường không đủ tích cực trong cuộc sống hàng ngày. Sự vắng mặt của người cha, vấn đề của một người cha không hiện diện trong cuộc đời của một đứa con, là một vấn đề nghiêm trọng của thời đại chúng ta. Do đó, hiểu được ý nghĩa của việc nói rằng Thiên Chúa thực sự là Cha của chúng ta là điều thật khó. Chính từ Chúa Giêsu, từ mối tương quan con thảo của Ngài với Thiên Chúa Cha mà chúng ta có thể học được ý nghĩa thực sự của từ “Cha” và bản chất đích thực của Chúa Cha trên trời là gì.

Những người chỉ trích tôn giáo đã nói rằng việc nói về “Cha”, về Thiên Chúa, là sự phóng chiếu hình ảnh của tổ tiên chúng ta lên cõi trời. Nhưng điều ngược lại mới đúng: trong Tin Mừng, Chúa Kitô cho chúng ta thấy ai là Cha, và vì Người Cha đó là một Người Cha đích thực, nên chúng ta mới có thể hiểu được tình phụ tử đích thực là gì và thậm chí học được tình phụ tử đích thực đó. Chúng ta hãy suy ngẫm về những lời của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu nói: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:44-45). Chính tình yêu của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, Đấng đã đi đến chỗ hiến mình trên Thập Giá, đã mạc khải cho chúng ta bản chất đích thực của Chúa Cha: Ngài là Tình Yêu, và trong lời cầu nguyện của chúng ta, với tư cách là con cái, chúng ta cũng bước vào vòng tròn tình yêu này, tình yêu của Thiên Chúa thanh tẩy những ham muốn, những thái độ khép kín, tự mãn và tính ích kỷ đặc thù của con người xưa cũ.

Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng thực tại Thiên Chúa là Cha có hai chiều kích. Trước hết, Thiên Chúa là Cha chúng ta bởi vì Ngài là Đấng Tạo Hóa của chúng ta. Mỗi người chúng ta, nam cũng như nữ, là một phép lạ của Thiên Chúa, được Ngài mong muốn và được Ngài biết đến một cách cá vị riêng tư. Khi Sách Sáng Thế nói rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (1:27), Kinh Thánh cố gắng diễn tả chính xác thực tại này: Thiên Chúa là Cha chúng ta, nhờ Ngài và vì Ngài, chúng ta không vô danh, không phải là những hữu thể phi ngôi vị nhưng có một danh xưng. Và một câu trong Thánh Vịnh luôn làm ta xúc động mỗi khi cầu nguyện. Tác giả Thánh Vịnh nói “Tay Chúa đã nắn con nên hình nên dạng” (Tv 119 :73). Trong hình ảnh tuyệt đẹp này, mỗi người chúng ta có thể diễn tả mối tương quan cá nhân của mình với Thiên Chúa. “Bàn tay Chúa đã nắn nên con. Chúa đã nghĩ đến con, đã tạo dựng và mong muốn con”.

Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ. Thần Khí Chúa Kitô mở ra cho chúng ta một chiều kích thứ hai của tình phụ tử Thiên Chúa, vượt ra ngoài tạo vật, bởi vì Chúa Giêsu là “Con” theo nghĩa trọn vẹn là “đồng bản thể với Chúa Cha”, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Trở nên con người như chúng ta, qua việc Nhập Thể, chịu chết và Phục Sinh, Chúa Giêsu đến lượt Ngài đón nhận chúng ta trong nhân tính của Ngài và thậm chí trong bản tính Ngôi Con của Ngài, để chúng ta cũng được tham dự vào sự thuộc về Thiên Chúa cách đặc biệt của Ngài. Dĩ nhiên, việc chúng ta là con cái Thiên Chúa không có được sự trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúng ta phải ngày càng trở nên trọn vẹn như Chúa Giêsu trong suốt hành trình đời sống Kitô hữu, phát triển trong việc theo Chúa Kitô và hiệp thông với Ngài để ngày càng đi sâu hơn vào mối tương quan tình yêu với Thiên Chúa Cha, Đấng duy trì sự sống của chúng ta.

Chính thực tại nền tảng này được mạc khải cho chúng ta khi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần và Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta hướng về Thiên Chúa mà nói “Abba! Lạy Cha”. Chúng ta thực sự đã đi “trước cả khi tạo thành vũ trụ”, bước vào ơn được nên nghĩa tử cùng với Chúa Giêsu; được hiệp nhất, chúng ta thực sự ở trong Thiên Chúa và là con cái của Ngài theo một cách thức mới, trong một chiều kích mới.

Thánh Phaolô có hai đoạn văn nói về hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lời cầu nguyện mà chúng ta đang suy ngẫm. Đây cũng là hai đoạn văn tương ứng với nhau nhưng mang một sắc thái khác nhau. Thực vậy, trong Thư gửi tín hữu Galát, Thánh Tông Đồ nói rằng Chúa Thánh Thần kêu lên: “Abba! Cha ơi!” trong chúng ta. Trong Thư gửi tín hữu Rôma, ngài nói rằng chính chúng ta kêu lên: “Abba! Cha ơi!” Và Thánh Phaolô muốn chúng ta hiểu rằng lời cầu nguyện của người Kitô hữu không bao giờ chỉ có một chiều, không bao giờ chỉ diễn ra từ chúng ta đến Thiên Chúa, không bao giờ chỉ là “một hành động của chúng ta”, mà đúng hơn, là sự biểu lộ của một mối tương quan qua lại, trong đó Thiên Chúa là Đấng hành động trước; chính Chúa Thánh Thần kêu lên trong chúng ta và chúng ta có thể kêu lên vì có động lực đến từ Chúa Thánh Thần.

Chúng ta sẽ không thể cầu nguyện nếu lòng khao khát Thiên Chúa, khao khát được làm con Thiên Chúa, không được khắc ghi trong sâu thẳm trái tim chúng ta. Từ khi xuất hiện, con người thông minh, homo sapiens, luôn tìm kiếm Thiên Chúa và nỗ lực thưa chuyện với Ngài bởi vì Thiên Chúa đã khắc ghi chính Ngài trong cõi lòng chúng ta. Do đó, sáng kiến đầu tiên đến từ Thiên Chúa, và với Bí tích Rửa tội, một lần nữa Thiên Chúa hành động trong chúng ta, Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta; Ngài là Đấng khởi xướng lời cầu nguyện đầu tiên để chúng ta thực sự có thể trò chuyện với Thiên Chúa và thưa “Abba! Cha ơi!” với Thiên Chúa. Do đó, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần làm cho những lời cầu nguyện và cuộc sống của chúng ta được mở rộng ra, ra mãi tới tận những chân trời của Ba Ngôi Thiên Chúa và của Giáo hội.

Thêm vào đó, chúng ta nhận ra điểm thứ hai, rằng lời cầu nguyện của Thánh Thần Chúa Kitô trong chúng ta và lời cầu nguyện của chúng ta trong Ngài không chỉ là một hành động cá nhân mà là một hành động của toàn thể Giáo hội. Khi cầu nguyện, tâm hồn chúng ta được mở ra, chúng ta không chỉ hiệp thông với Thiên Chúa mà còn thực sự hiệp thông với tất cả con cái của Thiên Chúa, bởi vì chúng ta là một thân thể. Khi chúng ta hướng về Chúa Cha trong không gian nội tâm của mình trong thinh lặng và tĩnh tâm, chúng ta không bao giờ cô đơn. Những ai thưa chuyện với Thiên Chúa thì không cô đơn. Chúng ta đang ở trong lời cầu nguyện lớn lao của Giáo Hội, chúng ta là một phần của bản giao hưởng vĩ đại mà cộng đoàn Kitô hữu trên khắp thế giới và trong mọi thời đại dâng lên Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhạc công và nhạc cụ khác nhau, và đây là một yếu tố làm phong phú, nhưng giai điệu ngợi khen thì duy nhất và hòa hợp. Vì vậy, mỗi khi chúng ta kêu lên hoặc thưa: “Abba! Cha ơi!”, thì chính Giáo Hội, toàn thể cộng đoàn dân Chúa đang cầu nguyện, nâng đỡ lời cầu khẩn của chúng ta, và lời cầu khẩn của chúng ta chính là lời cầu khẩn của Giáo Hội.

Điều này cũng được phản chiếu trong sự phong phú của các đặc sủng, các thừa tác vụ và nhiệm vụ mà chúng ta thực hiện trong cộng đoàn. Thánh Phaolô viết cho các Kitô hữu Côrintô: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1 Cr 12:4-6).

Lời cầu nguyện vốn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Đấng khiến chúng ta thưa lên “Abba! Cha ơi!” cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, đưa chúng ta vào bức tranh khảm vĩ đại của gia đình Thiên Chúa, trong đó mỗi người đều có một vị trí và vai trò quan trọng, trong sự hiệp nhất sâu sắc với toàn thể.

Cuối cùng: chúng ta cũng học cách kêu lên “Abba! Lạy Cha!” cùng với Đức Maria, Mẹ của Con Thiên Chúa. Sự viên mãn của thời gian, mà Thánh Phaolô nói đến trong Thư gửi tín hữu Galát: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”(4:4), được thực hiện vào khoảnh khắc Đức Maria thưa “Xin vâng”, khoảnh khắc Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1: 38).

Chúng ta hãy học cách cảm nếm, trong những lời kinh của chúng ta, vẻ đẹp của việc được làm bạn, làm con cái thực sự của Thiên Chúa, được kêu lên Ngài với lòng tin tưởng của một người con dành cho cha mẹ yêu thương mình. Chúng ta hãy mở lòng cầu nguyện để cho Chúa Thánh Thần hoạt động, để trong chúng ta Ngài kêu lên Thiên Chúa lời: “Abba! Cha ơi!”, và để lời cầu nguyện của chúng ta biến đổi và liên tục hoán cải cách suy nghĩ cũng như hành động của chúng ta, để đưa chúng ta ngày càng gần gũi hơn với Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI

(Tiếp kiến chung, tại quảng trường Thánh Phêrô, thứ Tư, ngày 23 tháng 5 năm 2012.)

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

https://www.vatican.va

Subcategories