3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

HỐI CẢI DẪN ĐẾN SỰ SỐNG

Bài đọc Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai thảm kịch. Một là tổng trấn Philatô sử dụng quyền lực sai quân lính giết những người Galilê đang dâng lễ vật trong Đền thờ: “Có mấy người đến kể lại cho Chúa Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng” (Lc 13: 1). Thảm kịch thứ hai là một tai nạn đáng tiếc khi một tòa tháp ở Silôác đổ xuống và làm chết mười tám người: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết” (Lc 13: 4). Ngày nay cả hai loại thảm kịch này vẫn xảy ra. Mọi người tiếp tục bị giết vì sự lạm dụng quyền lực tàn bạo và nhiều người mất mạng vì những tai nạn bất ngờ. Chúa Giêsu cảnh báo những người đương thời của mình không nên nghĩ rằng những người mất mạng trong hai thảm kịch này là do tội của họ lớn hơn tội của những người khác: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc 13: 2). Chúa Giêsu bác bỏ cách qui kết đơn giản và sai lầm rằng ai gặp tai ương khốn khổ là vì người ấy tội lỗi: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” (Lc 13:3).  

  1. Chúng ta đều là tội nhân và cần phải ăn năn tội lỗi của mình.

Qua hai sự việc này, Chúa Giêsu muốn nhắc người ta cần suy ngẫm về sự dễ bị tổn thương và mong manh của cuộc sống con người. Cuộc sống thể lý của con người có thể bị mất đi mà không có bất cứ cảnh báo nào trước. Vì lý do này, Chúa Giêsu khuyên răn người ta cần trân trọng mỗi biến cố trong cuộc sống như một cơ may để xét lại con người mình, bỏ đi những ham muốn ích kỷ và hướng về Thiên Chúa nhiều hơn. Ngài nói với chúng ta qua tất cả những sự kiện của cuộc sống, nhất là qua những sự kiện bi thảm. Ngài khiển trách chúng ta không nhìn ra trong mọi sự kiện chính mình cũng là tội nhân, không sinh ra nhân đức nào, nhằm quyết tâm ăn năn sám hối trở về cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương nhẫn nại. Ngài muốn chúng ta tự xét chính bản thân mình, thay vì cứ để mình bị cuốn đi theo khuynh hướng xấu soi mói người khác, nhưng lại không nhận ra lòng dạ mình cũng chất chứa đầy nghĩ suy tội lỗi, như Ngài đã từng khiển trách: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6; 41). Hôm nay, theo trình thuật của thánh sử Luca, Chúa Giêsu không chỉ khiển trách mà còn cảnh cáo, thậm chí đến hai lần liên tục: “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13: 3 và 5).

Không ai có thể nói rằng mình không có tội lỗi, bởi vì tất cả mọi người đều là tội nhân. Như Thánh Gioan viết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1: 8). Mỗi chúng ta đều biết rằng mình có tội: lương tâm chúng ta cho thấy chính mình sai lỗi và phạm tội hàng ngày. Tội lỗi, khởi đi từ tội nguyên tổ, là một phần của thân phận con người mà chúng ta nhiễm phải theo cách bị ảnh hưởng qua sự kế thừa: “Khi nghe theo Tên Cám Dỗ, ông Ađam và bà Evà đã phạm một tội cá nhân, nhưng tội đó ảnh hưởng đến bản tính nhân loại, một bản tính mà họ sẽ lưu truyền trong tình trạng đã sa ngã . Đó là một tội được lưu truyền cho toàn thể nhân loại qua việc sinh sản, nghĩa là qua việc lưu truyền một bản tính nhân loại đã mất sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ. Do đó, tội tổ tông được gọi là “tội” theo nghĩa loại suy: đó là một thứ tội con người bị “nhiễm” chứ không phải đã “phạm”; một tình trạng, chứ không phải một hành vi” (GLHTCG, số 404). Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta không chấp nhận điều đó hoặc để cho những đa đoan hàng ngày che lấp nó đi. Đó là sự thật! Nếu chúng ta không hiểu điều này, sự thật sẽ không ở trong chúng ta.

Chúng ta phạm nhiều tội lỗi trong cuộc sống của mình. Khi tội lỗi xâm nhập vào tâm trí và lòng dạ của mình, chúng ta không hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa và vào tình yêu của Ngài dành cho chúng ta nữa. Lúc ấy chúng ta muốn rời mắt khỏi Ngài, trôi xa khỏi Ngài, bắt đầu lấp đầy cõi lòng mình bằng những thói tục của thế gian, và gánh chịu những hậu quả của chúng, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai “Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta. Anh em đừng trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng…Ta đừng gian dâm, như một số trong nhóm họ đã gian dâm: nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục. Ta đừng thử thách Chúa, như một số trong nhóm họ đã thử thách Ngài và đã bị rắn cắn chết. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10: 6-12).

Chúng ta biết rằng mình đang chiến đấu với những khuynh hướng chiều theo những ham muốn của xác thịt, thế gian và ma quỷ. Nhưng thật là may mắn cho chúng ta, vì “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 9). Vậy thì chúng ta hãy bỏ đi thói xấu cứ nghĩ người khác tội lỗi, và thay vào đó hãy thường xuyên ăn năn hối cải: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em…”, trông cậy vào ơn Chúa cứu độ, như bài đọc thứ nhất cho thấy: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3: 7-8).

  1. Bài học của cây vả không sinh trái

Đôi khi những sự kiện bi thảm tác động đến chúng ta và khiến chúng ta phải xem xét lại cuộc sống của mình. Thiên Chúa có thể đang nói chúng ta qua những sự kiện như vậy. qua những sự kiện bi thảm này, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về cây vả không sinh hoa trái, chỉ đáng bị chặt bỏ đi, nhưng người chăm sóc cây vả ấy vẫn nhìn thấy hy vọng trong hoàn cảnh dường như vô vọng. Dụ ngôn của Chúa Giêsu khiến chúng ta phải suy nghĩ và chiêm nghiệm trong niềm hy vọng cậy trông. Trong vườn nho có một cây vả dường như đã chết. Nó đã không ra trái trong ba năm liên tiếp. Phản ứng của chủ vườn nho có vẻ khá hợp lý; hãy chặt cây vả đi vì nó chiếm không gian có thể dùng để trồng nho. Tuy nhiên, người làm công cho chủ vườn nho lại có quan điểm khác. Ông nhìn vào cây vả dường như vô dụng và thấy khả năng nó vẫn có thể ra trái. Ông có tầm nhìn rộng lượng hơn về cây vả, một tầm nhìn đầy hy vọng. Ông cảm thấy rằng mọi thứ vẫn chưa mất hết; vẫn còn thời gian để cây vả trở nên tốt đẹp.

Dụ ngôn có thể muốn nói rằng Thiên Chúa là chủ vườn nho, Chúa Giêsu là người người chăm sóc khu vườn đó, còn chúng ta chính là cây vả. Chúa Giêsu sẵn sàng  xin Thiên Chúa là chủ vườn nho đừng loại bỏ con người chúng ta, vì Ngài hy vọng mỗi người chúng ta vẫn còn có thể sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa, ngay cả lâu nay chúng ta không sinh ra trái nào. Chúa Giêsu thấy mỗi “tội nhân đều có một tương lai”. Ngài nhìn chúng ta bằng đôi mắt hy vọng. Đây là cách Chúa Giêsu nhìn chúng ta. Khi nhìn chúng ta, Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy những gì chúng ta đã không làm được trong quá khứ mà còn nhìn thấy những gì chúng ta có khả năng làm được trong tương lai. Ngài nhìn chúng ta bằng đôi mắt rộng lượng và đầy hy vọng.

Đó là cách chúng ta thực sự nên có khi nhìn nhau, cần phải nhìn vào mọi hoàn cảnh của từng người trong cuộc sống. Giống như người làm vườn nho, chúng ta cần phải kiên nhẫn, sẵn sàng chờ đợi và có khả năng nhìn thấy những dấu hiệu dù mờ nhạt của sự sống mới ẩn chứa bên dưới bề mặt không mấy hứa hẹn. Người làm vườn nho đã dành mọi cơ hội có thể cho cây vả, không chỉ thời gian, mà còn cả sự chăm sóc yêu thương dịu dàng: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó” (Lc 13: 8).

Đó là cách Chúa Giêsu đối xử với chúng ta. Ngài không vội vã từ bỏ chúng ta ngay cả khi chúng ta đã có những dấu hiệu không hứa hẹn gì. Ngài tiếp tục đổ ân sủng của Ngài vào cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ làm mọi sự có thể để đảm bảo rằng cuộc sống của chúng ta đơm hoa kết trái phong phú của Chúa Thánh Thần. Chúng ta có một phần cần góp phần vào; Chúa không thể làm gì trong cuộc sống của chúng ta nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Dụ ngôn đảm bảo với chúng ta rằng khi chúng ta cố gắng thì những gì Chúa giơ tay giúp chúng ta thực hiện sẽ luôn vượt xa bất cứ nỗ lực nào của chúng ta. Như thánh Phaolô nói: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).

Chúa Giêsu đối xử với tất cả chúng ta y như thế. Người tiếp tục hy vọng và đổ công sức vào chúng ta, đặc biệt là vào những lúc chúng ta bị cám dỗ bỏ cuộc. Chúa Giêsu không bao giờ từ bỏ chúng ta và tất cả những gì Ngài cần là chúng ta mở lòng một chút để công khó của Ngài nơi chúng ta sinh hoa trái dồi dào. Chúng ta cứ nghĩ tự bản thân mình phải đổ công sức ra để được cứu độ. Tuy nhiên Thánh Phaolô có cách nhìn khác: “Họ không nhận biết rằng chính Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính” (Rm 10: 1-3).

Chúng ta đang sống trong thời đại có phần thiếu kiên nhẫn. Nhưng Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn với những người đang chiến đấu, giống như cây trong dụ ngôn. Ngài kiên nhẫn với chúng ta trong sự yếu đuối của mình; Ngài cho chúng ta thời gian. Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ tận dụng được thời gian và cơ hội mà sự kiên nhẫn của Ngài dành cho chúng ta.

Chúa Giêsu mong chờ chúng ta mau mắn ăn năn, nghĩa là quay lưng lại với bất cứ những gì là tội lỗi. Vậy thì giống như người làm vườn, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm một chút thời gian để sinh hoa trái, nghĩa là ngày càng tiến xa hơn vào thế giới của lòng tốt và tình yêu, của ánh sáng và chân lý của Thiên Chúa. Rồi thì chúng ta có thể chung lời với bài đáp ca hôm nay rằng: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi… Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103: 2-3, 8).

Phêrô Phạm Văn Trung

HỐI CẢI

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY 

(Xh 3, 1-8b.13-15; 1Cor 10, 1-6.10-12; Lc 13, 1-9). 

Hành trình đức tin của tổ phụ Abraham là mẫu gương sáng ngời soi chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Dòng dõi con cái cháu chắt nhiều đời của ông tổ phụ đã trở nên một dân tộc đông đúc sinh và sống ở Ai-cập. Trong chương trình cứu độ, từng bước Thiên Chúa đã hướng dẫn lịch sử của dân đã được chọn này. Thiên Chúa mạc khải cho ông Môisen về ý định cứu dân ra khỏi vùng đất bị làm tôi đòi nô lệ để đi vào miền Đất Hứa. Ông Môisen nhìn thấy sự lạ, là bụi gai cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Đây là dấu hiệu loan báo một sứ điệp. Ông đã tiến lại gần để ngắm nhìn và lắng nghe: Thiên Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng (Xh 3, 7). Lời hứa năm xưa với ông Abraham, hơn bốn trăm năm sau, nay mới bắt đầu khai mở.

Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã chọn và gọi ông Môisen thi hành sứ mệnh giải thoát dân. Chúng ta nghe biết câu truyện của Môisen được cứu vớt lên khỏi nước và trở thành thủ lãnh đưa dân ra khỏi nước Ai-cập. Thiên Chúa đã ban cho ông uy quyền biến đổi và thực hiện các sư lạ trước mặt vua quan Ai-cập, để minh chứng bàn tay uy quyền Thiên Chúa. Hành trình đi về đất hứa đầy gian nan và thử thách. Khi gặp những sự khó khăn mà không thỏa mãn nhu cầu vật chất về cái ăn cái uống, dân chúng đã nổi loạn và kêu trách ông Môisen. Chúa phạt, rồi Chúa lại tha. Ông Môisen như người trung gian cũng đối diện với khó khăn tư bề. Thiên Chúa hướng dẫn dân đi theo đường chính nẻo ngay, trong khi dân chúng bị ảnh hưởng cuộc sống thế tục và đa thần giáo, nên nhiều lúc họ đã bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại. Môisen phải cùng phấn đấu với các thử thách để vượt qua những sự yếu đuối của kiếp người.

Chúng ta biết các thói hư, tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu cũng có thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên phát triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình với các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ.  Tội lỗi có một ma lực kéo lôi và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt giống sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở thành tật bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành thánh thiện. Bài phúc âm nhắc nhớ câu truyện của mấy người Galilêa bị ngược đãi, bị ghép tội và bị giết. Chưa chắc những người này là những người tội lỗi. Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy tự xét chính mình trước mặt Chúa.

Có đôi khi biết ý xấu nhưng chúng ta lại tiếc nó, không muốn dứt bỏ. Rất tiếc khi bỏ đi những ý tưởng xấu, lời nói hành, bịa truyện gian dối, cờ bạc, rượu chè và gian dâm. Ai nghiện hút thuốc cũng biết, bên ngoài bao thuốc có chữ ‘hút thuốc có hại cho sức khỏe’ hay ‘hút thuốc có thể gây bệnh ung thư phổi’. Biết có hại đó, cám ơn lời nhắc nhở, nhưng lại tiếc thân nghiện và không dám dứt bỏ. Tất cả các thói hư tật xấu mà chúng ta mắc phải cũng đã được nuôi dưỡng từng ngày. Chúng ta biết rằng sự xấu, sự dữ là tội, là sai trái và là sự hư đốn, nhưng lại tiếc như tiếc của, chẳng muốn rời xa. Đôi khi chúng ta bị lún sâu và ngụp lặn trong những cơn mê lầm này. Vì tội kéo theo tội. Nói dối điều này, kéo theo điều khác để biện minh. Chúng ta không thể tưởng tượng rằng đã có nhiều vụ án ghê gớm xảy ra cũng chỉ vì tội nhân dấu diếm một lỗi phạm nhỏ ban đầu. Người ta tìm cách phi tang dấu vết và dùng thủ đoàn để che dấu lỗi lầm, nên đã dẫn đến những hậu qủa khó lường như trả thù đánh đập, gia đình tan vỡ, phá thai hay giết người. Khởi đầu là những nguyên nhân và sự cố rất nhỏ, vì sợ bị phát hiện nên dấu bớt sự thật, dần dần sự dối trá sinh ra nhiều oan trái và báo thù khủng khiếp.

Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhớ câu truyện của những người Do-thái ương ngạnh và sống bê tha đã bị phạt trong cuộc lữ hành về Đất Hứa: Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cor 10, 5). Phaolô kêu gọi mọi người hãy xem gương đó mà ăn năn sám hối. Không ai trong chúng ta có thể hãnh diện khoe mình là người đạo đức và thánh thiện. Cuộc lữ hành còn dài, chúng ta còn gặp nhiều chông gai và thử thách. Hãy luôn ý thức thân phận yếu hèn và tội lỗi để cảnh tỉnh và hối cải: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cor 10, 12).

Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận muôn hồng ân phúc lộc của Chúa, xin cho chúng con biết dùng thời giờ, của cải và khả năng để sinh lợi cho đời sống thiêng liêng của chúng con và anh chị em. Chúng con dâng lời tạ ơn Chúa tới muôn ngàn đời.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

HỌC MỪNG VUI

Thứ Bảy Tuần 2 Mùa Chay C

“Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”.

“Nó phải trở về nơi nó thuộc về! Nó phải trở về dù nó đen đủi hơn một thằng quỷ!”. Đó là những gì kiệt tác “Đứa Con Hoang Đàng” của Mitch Irion mô tả! Cha nó vui mừng vì nó đã tìm được ‘nơi nó thuộc về’; ở đó, nó ‘mất hút!’. Vạt áo đỏ như máu - tượng trưng tình yêu - của ông đã lấp kín nó! “Thật lạ, khi một số người nói quá nhiều về những gì Chúa làm cho họ, nhưng lại quá tằn tiện nói về những gì người khác nhận được từ Ngài. Hãy ‘học mừng vui’ như Thiên Chúa vui mừng!” - Spurgeon.

Kính thưa Anh Chị em,

Hãy ‘học mừng vui’ như Thiên Chúa vui mừng! Đó là những gì Tin Mừng hôm nay lưu ý. Người anh tỏ ra bất bình trước bữa tiệc người cha dành cho đứa em hư đốn trở về. Có công bằng không? Câu trả lời đúng sẽ là: đây là một câu hỏi sai! Vì lẽ, anh phải ‘học mừng vui’ như cha anh vui mừng!

Chúng ta dễ sống theo cách ‘mọi thứ phải công bằng’; và khi người khác nhận nhiều hơn, chúng ta có thể mím môi, tức giận và cay đắng. Hành động xót thương của người cha dành cho đứa con ‘tàn đời’ chính là điều người anh cần học. Anh cần biết, bất kể cậu em đã làm gì, nó đòi chia gia tài - khác nào mong cha chết - hoặc tự do tìm hạnh phúc ở bất cứ đâu - sống phóng đãng - ngoại trừ một nơi mà nó thực sự tìm thấy: Cha! Dẫu thế, người cha vẫn yêu nó và hân hoan khi nó trở về. Như vậy, đứa em cần lòng thương xót không chỉ của cha, nhưng của cả anh nó, để nó có thể tin rằng, nó đã lựa chọn đúng khi trở về.

Người anh chung thuỷ với cha suốt bao năm cũng không hề bị đối xử bất công! Sự bất bình của anh đến từ việc lòng anh ‘nghèo thương xót’, không như cha anh, một người ‘giàu xót thương’. Anh không thể thương đứa em ở mức độ tương tự cha anh thương nó; và do đó, không thấy được sự cần thiết cần có một lời ủi an như một cách giúp nó hiểu rằng, nó được tha, được chào và trở về là một chọn lựa đúng đắn. Lòng thương xót vượt quá những gì thoạt đầu được coi là công bằng. Vậy muốn được xót thương, bạn và tôi cần sẵn lòng trao nó cho ai cần nhất! “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu!” - Thánh Vịnh đáp ca - cũng là “Đấng chịu đựng lỗi lầm”; “Sẽ lại thương xót chúng ta. Tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân; mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển!” - bài đọc một.

Anh Chị em,

“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu!”. Hôm nay, hãy suy ngẫm về việc bạn sẵn sàng trở nên nhân hậu và rộng lượng đến mức nào, đặc biệt là đối với những ai xem ra không xứng đáng với điều đó. Hãy nhủ lòng rằng, ân sủng thường không tính đến công bằng; nó thường hào phóng đến mức gây sốc! Hãy cam kết vào lòng quảng đại sâu xa này đối với bất cứ ai, nhất là những ai đang thương tổn; đồng thời, tìm mọi cách mà bạn có thể ủi an người anh em bằng lòng thương xót của Chúa. Được như thế, bạn đã biết mừng vui như Thiên Chúa vui mừng, và tình yêu quảng đại đó sẽ đổ xuống lòng bạn vô vàn phước huệ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ủ dột khi thấy anh chị em con may mắn hơn mình; dạy con biết vui với người vui, khóc với người khóc!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

TRỔ SINH HOA TRÁI THIÊNG LIÊNG

Sứ điệp: Hãy trổ sinh hoa trái thiêng liêng để khỏi bị loại trừ.

***

Nỗi buồn đau của nông dân mất mùa

Tại nông thôn, đa số nông dân nghèo ít đất, ít vốn, chỉ biết đầu tư vào cây sắn cũ khoai… Rồi thấp thỏm chờ đợi ngày đêm mong sao khi đến mùa sẽ thu hoạch được kha khá để nuôi sống gia đình. Thế nhưng năm nào thời tiết không thuận, họ thường bị thua lỗ nặng nề hoặc mất trắng tay! Buồn đau biết chừng nào!

Đó cũng là nỗi buồn của người chủ vườn trong dụ ngôn cây vả không sinh trái do Chúa Giê-su kể lại như sau (Lc13, 6-9) :

Có người trồng một cây vả trong khu vườn của mình. Thỉnh thoảng ông ra vườn tìm đến cây vả, mong kiếm được ít trái trăng cho bữa ăn hằng ngày của gia đình, nhưng chẳng hề thấy trái nào khiến ông ê chề thất vọng. Vì thế, ông nói với người làm vườn:

“Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả nầy tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?'  Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.  May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”

Sau khi nghe dụ ngôn nầy, chúng ta biết rằng nhân vật chủ vườn ám chỉ Chúa Giê-su, còn cây vả là bạn và tôi.

Chúa Giê-su cũng ươm trồng chúng ta như cây vả quý trong vườn nho Giáo hội. Ngài không tiếc công chăm sóc, Ngài không quản ngại cung cấp bất cứ điều gì cần thiết cho cây vả Ngài trồng được tăng trưởng tốt tươi. Ngài bổ sung cho ta Lời hằng sống và vô vàn ân huệ thiêng liêng qua các bí tích… Rồi thấp thỏm đợi chờ ngày đêm, mong sao chúng ta mang lại hoa trái thiêng liêng cho Ngài được vui thỏa. Chúng ta có làm Ngài mãn nguyện, hay là phải thất vọng ê chề?

Nhìn lại hoa trái nơi cây vả bản thân mình

- Là cha mẹ, là bậc anh chị trong gia đình, chúng ta có làm cho con em mình nên tốt lành thánh thiện hơn nhờ lời nói và gương sáng của mình chưa? Nếu chưa thì chúng ta đúng là cây không trái.

- Là người môn đệ của Chúa Giê-su, được Ngài trao sứ mạng giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp bao người được nhận biết và yêu mến Chúa, chúng ta đã làm được đến đâu? Nếu chưa làm được gì là cây không trái!

- Là con, là cháu trong gia đình, chúng ta có phục vụ ông bà cha mẹ, giữ tròn đạo hiếu với bậc sinh thành chưa? Chưa làm thì cũng như cây không trái!

- Và rất nhiều câu hỏi tương tự để chúng ta tự vấn mình, xem mình là cây vả sai trái làm vui lòng Chúa hay chỉ là cây vả cằn cỗi không hoa không trái khiến Ngài thất vọng đòi bứng bỏ chúng ta đi.

 Lạy Chúa Giê-su,

Nếu cây vả trong vườn không chịu sinh trái sau khi được chăm sóc đầy đủ thì sẽ bị bứng bỏ đi, và qua đó, Chúa cho chúng con biết rằng nếu chúng con không chịu sinh hoa trái thiêng liêng như Chúa đòi buộc thì số phận chúng con cũng y như thế.

Xin cho chúng con đừng làm Chúa phải ê chề thất vọng vì không sinh hoa kết quả, nhưng đem lại cho Chúa niềm vui là đã sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như lòng Ngài mong đợi. Amen.

Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà

 

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY

Tin mừng Luca 13,1-9

1Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.   2Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?   3Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.   4Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao?   5Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy."

   6Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7nên bảo người làm vườn: 'Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?'   8Nhưng người làm vườn đáp: 'Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.   9May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.

THÁNH GIUSE, MẪU GƯƠNG TIN TƯỞNG NƠI THIÊN CHÚA

Mặc dù các sách Tin Mừng không ghi lại bất cứ lời nào mà Thánh Giuse có thể đã nói, nhưng sự im lặng đó, vốn còn hùng hồn và đầy ý nghĩa hơn nhiều lời nói khác, cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về tính cách của Ngài.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô giảng giải về sự im lặng này của Thánh Giuse:

  • Các sách Tin Mửng không chứa một lời nào do Giuse thành Nadarét thốt ra: không có lời nào, Ngài không bao giờ nói. Điều này không có nghĩa là Ngài ít nói, không phải thế: có một lý do sâu xa hơn tại sao trong các sách Tin Mừng Thánh Giuse không nói một lời nào. Với sự im lặng của mình, Thánh Giuse xác nhận điều mà Thánh Augustinô viết: “Lời - nghĩa là Ngôi Lời làm người - càng lớn lên trong chúng ta, thì lời nói càng giảm đi. Chúa Giêsu, vốn là sự sống Thiên Chúa, càng lớn lên, thì lời nói càng giảm đi. Những gì chúng ta có thể mô tả là “nói đi nói lại”, nói như vẹt, nói liên tục, sẽ giảm đi. Chính Gioan Tẩy Giả, là “tiếng nói của người kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường cho Chúa” (Mt 3:3) nói về Lời, “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga  3:30). Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu phải nói và tôi phải im lặng, và qua sự im lặng của mình, Thánh Giuse mời gọi chúng ta dành chỗ cho sự hiện diện của Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, cho Chúa Giêsu. Sự im lặng của Thánh Giuse không phải là câm lặng, ngài không ít nói; đó là sự im lặng đầy lắng nghe, sự im lặng cần mẫn, sự im lặng làm nổi bật nội tâm vĩ đại của Ngài” (Tiếp kiến chung, ngày 15 tháng 12 năm 2021, bài giáo lý số 3 về Thánh Giuse).

Thánh Giuse đã trải qua những khó khăn giống như chúng ta trong cuộc sống, nhưng Ngài đã sống một cuộc đời gương mẫu. Đức Giáo Hoàng Phanxicô suy ngẫm:

  • Trong Tin Mừng Mátthêu, Giuse bước vào bối cảnh với tư cách là người đính hôn của Đức Maria, khi Ngài phát hiện ra việc Đức Maria mang thai và tình yêu của ngài bị thử thách dẫn đến việc chấm dứt hôn ước, Luật đã gợi ý hai giải pháp khả thi: hoặc là một hành vi pháp lý mang tính chất công khai, chẳng hạn như triệu tập người phụ nữ ra tòa, hoặc một hành động riêng tư như đưa cho người phụ nữ một lá thư từ chối. Giuse, người mà Tin Mừng xác định là người công chính, tuân theo Lời Chúa, đã hành động một cách chu đáo: Ngài không để bản thân bị chế ngự bởi những cảm xúc bản năng và nỗi sợ hãi khi chấp nhận Maria đi cùng mình, nhưng thích được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài chọn cách chia tay Maria một cách lặng lẽ, riêng tư. Và đây là sự khôn ngoan của Giuse, giúp Ngài không mắc sai lầm và khiến Ngài cởi mở và ngoan ngoãn trước tiếng nói của Thiên Chúa. Và vì vậy, Ngài nghe thấy một giọng nói vang vọng trong lòng mình qua giấc mơ, một yếu tố mà theo cách này, Giuse thành Nadarét gợi nhớ đến một Giuse khác, con trai của Giacóp, được mệnh danh là chúa tể của những giấc mơ, được cha mình vô cùng yêu quý và bị các anh em của mình rất ghét, người mà Thiên Chúa đã nâng lên bằng cách để ông ngồi trong triều đình của Pharaô. Giuse thành Nadarét không yêu cầu thêm bằng chứng; Ngài tin tưởng vào Thiên Chúa, chấp nhận giấc mơ của Thiên Chúa về cuộc đời Ngài và về người đính hôn của Ngài. Do đó, Ngài bước vào ân sủng của một người biết cách sống lời hứa của Thiên Chúa, với đức tin, đức cậy và đức mến” (Tiếp kiến chung, 29 tháng 01 năm 2025).

Thánh Giuse là một người có đức tin không lay chuyển và tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa là trên hết và quan trọng nhất trong cuộc đời của Thánh Giuse. Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích ý nghĩa tên gọi của Thánh Giuse:

  • “Tiếng Do Thái có nghĩa là xin Chúa tăng trưởng, xin Chúa ban cho sự phát triển. Đó là một lời chúc, một phúc lành dựa trên sự tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và đặc biệt ám chỉ đến khả năng sinh sản và nuôi dạy con cái. Thật vậy, chính cái tên này cho chúng ta thấy một khía cạnh cốt yếu trong tính cách của Thánh Giuse thành Nadarét: Ngài là một người tràn đầy đức tin vào Thiên Chúa, vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Mọi hành động của Thánh Giuse, như được thuật lại trong Tin Mừng, đều được xác quyết bởi sự tin chắc rằng Thiên Chúa làm cho lớn lên, làm tăng thêm, thêm vào: nghĩa là Thiên Chúa lo liệu để tiếp tục kế hoạch cứu độ của Ngài” (Tiếp kiến chung, hội trường Phaolô VI ở Vatican, 17 tháng 11 năm 2021).

Thánh Giuse là một người ngay thẳng, có đức tin và các nhân đức nổi bật. Thánh Giuse là người chính trực, vâng lời, trong sạch, khiêm nhường, im lặng suy ngẫm. Thánh Giuse là người chồng, người bảo vệ và người giám hộ của Đấng Cứu Thế và Đức Trinh Nữ Maria.Vì vậy, Ngài là một hình mẫu tuyệt vời cho chúng ta trong nền văn hóa hỗn loạn ngày nay.

Đối với Thánh Giuse, việc thực hiện ý Thiên Chúa là tối quan trọng. Thánh Giuse không bao giờ thắc mắc về những gì Thiên Chúa đã nói với Ngài. Thánh Giuse thực hiện những soi sáng của Thiên Chúa mà không do dự hay chậm trễ. Ngài thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh riêng của mình theo cách Thiên Chúa muốn. Sau khi thiên thần hiện ra với Ngài trong giấc mơ, đảm bảo với Ngài rằng người con Đức Maria cưu mang là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, thì Thánh Giuse đã đưa Đức Maria về nhà làm vợ:

  • Sau đây là gốc tích Chúa Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Ngài, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1: 18-24).

Khi Chúa bảo Thánh Giuse chỗi dậy và ra đi, Ngài không ngần ngại trỗi dậy và ra đi. Sau cuộc viếng thăm của các nhà thông thái, khi nhận được lời cảnh báo của thiên thần, Thánh Giuse không lãng phí thời gian, ngay lập tức chỗi dậy và đưa gia đình nhỏ của mình chạy trốn đến Ai Cập giữa đêm khuya để thoát khỏi cơn thịnh nộ chết người của Vua Hêrôđê:

  • Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Ngài trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Ngài trốn sang Ai cập” (Mt 1: 13-14).

Sau khi Vua Hêrôđê qua đời, thiên thần một lần nữa chỉ dẫn Thánh Giuse rằng đã đến lúc trở về đất Israel, và có lẽ Ngài định trở về Bêlem ở Giuđê, nhưng Ngài đã chọn đến Nadarét ở Galilê sau khi được thiên thần cảnh báo rằng Áckhêlao, con trai của Hêrôđê, cai trị Giuđê thay cho cha mình:

  • Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Ngài về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Ngài sẽ được gọi là người Nadarét” (Mt 1: 19-23).

Thánh Giuse trung thành và dịu dàng yêu thương, bảo vệ và chăm sóc Chúa Hài Đồng Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là một người hành động, tuân theo ý Chúa trong những bổn phận thường ngày của cuộc sống, luôn luôn với tình yêu thương. Ngài tuân giữ luật Môsê một cách chu đáo:

  • Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (Lc 2:22-24).

Ngài giữ ngày Sabát và lên Đền thờ ở Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua:

  • Hằng năm, cha mẹ Chúa Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” (Lc 2:41).

Bằng cách noi gương Thánh Giuse, tin tưởng và tuân theo Lời Thiên Chúa, chúng ta có thể tìm thấy sự bình an trong tâm hồn khi biết rằng chúng ta đang trung thành làm những việc nhỏ nhặt, bình thường mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm mỗi ngày.

  • Xin cho anh chị em tìm thấy nơi Thánh Giuse chứng nhân và đấng bảo vệ để trông cậy. Xin Thánh Giuse, người luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và đã đưa ra những lựa chọn của mình theo sự hướng dẫn của Ngài, dạy chúng con đừng quá trông cậy vào những kế hoạch của riêng mình mà hãy trông cậy vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Là người đến từ vùng ngoại vi, xin Thánh Giuse giúp chúng con hoán cải cái nhìn và ưa thích những gì thế gian loại bỏ và gạt ra ngoài lề. Xin an ủi những ai cảm thấy cô đơn và nâng đỡ những ai âm thầm đấu tranh để bảo vệ sự sống và phẩm giá con người. Amen” (Đức Giáo Hoàng Phanxicô, buổi tiếp kiến chung, tại hội trường Phaolô VI, Vatican, 17 tháng 11 năm 2021).

 

Phêrô Phạm Văn Trung.

Subcategories