3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

LÒNG THƯƠNG XÓT

(Tđcv 5, 12-16; Kh 1, 9-11a. 12-13. 17-19; Ga 20, 19-31) 

Truyện kể: Một võ sĩ đã trở lại đạo. Ngày kia, người bạn của anh gặp mặt và hỏi: Tôi nghe anh mới tòng giáo, thật tức cười. Võ sĩ nói: Sao lại tức cười, đó là điều tốt mà anh. Người bạn nói thêm: Nếu vậy, liệu anh xóa nổi chân tướng du côn cao bồi trước chăng? Những vết sẹo trên mặt anh sẽ tố cáo tung tích của anh. Võ sĩ trả lời: Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo kia, nay trở thành cửa sổ cho ơn Chúa chảy vào hồn tôi. Cũng vậy những tội của chúng ta đã được tha, tuy còn dấu vết, nhưng là dấu vết của tình thương Chúa vậy. 

Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu còn giữ những vết sẹo trên lòng bàn tay, bàn chân và cạnh sườn từ khi bị đóng đinh thập giá? Vì khi Chúa Phục Sinh, Chúa có thể chọn bất cứ hình hài và thân xác hoàn hảo như các thiên thần. Khi xuất hiện, Chúa đã giữ nguyên những vết sẹo để các môn đệ có thể thấy và có thể sờ chạm. Sự kiện Chúa Kitô phục sinh sẽ không hoàn toàn thuyết phục, nếu không có những vết sẹo trên tay, chân và cạnh sườn của Chúa. Chúng ta biết khi con người mơ ước, ai trong chúng ta cũng ước mong có khuôn mặt tươi tắn, hàm răng đẹp, da nốt mịn màng và khung hình thon đẹp. Chúng ta mong ước một thân xác hoàn hảo không vết nhăn. Nhưng Chúa Kitô phục sinh đã xuất hiện một cách ngoại thường, trên thân mình vẫn mang những vết sẹo hằn sâu để nhắc nhớ chúng ta sự hy sinh đau khổ để cứu chuộc nhân loại. 

Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện với các tông đồ qua quyền năng của Ngài. Chúa trao cho các ngài uy quyền chữa lành tất cả các bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỷ. Rất nhiều người đã tuôn đến xin ơn lạ và lãnh nhận ơn cải đổi tâm hồn. Hạt giống đức tin được gieo vào lòng người. Từng tâm hồn hối cải trở về với Chúa. Họ đã được lãnh nhận ơn sủng chữa lành phần xác và tô điểm tâm hồn. Họ là những tín hữu nồng cốt xây dựng Hội Thánh sơ khai trên trần thế. Giáo Hội bắt đầu nẩy mầm và phát triển sinh hoa kết trái. 

Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia. Điều vô cùng quan trọng là Chúa Giêsu trao ban quyền tháo cởi và cầm giữ cho các tông đồ. Các tông đồ nhận lãnh ơn chữa lành và thực hành các phép lạ để đặt nền móng cho Giáo Hội sơ khai. Nhưng chìa khóa của sự tháo cởi và cầm buộc tinh thần được lưu truyền qua ngàn muôn thế hệ. Chúa Giêsu thấu tỏ sự ương ngạnh cứng cỏi cũng như sự yếu đuối thấp hèn và tội lỗi của con người. Chúa đã lập Bí tích Hòa Giải để mọi người có cơ hội hối lỗi trở về với lòng nhân từ của Chúa. Chúa tin tưởng vào quyền tài phán của các tông đồ và những người kế vị. Chúa đã trao quyền cho Giáo Hội qua biểu tượng của chiếc chìa khóa thánh Phêrô. Biết rằng trao chìa khóa cho ai là đặt niềm tin tưởng nơi người đó.

Chúa Giêsu nhắc nhở các tông đồ: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "(Ga 20, 29). Các tông đồ đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Phục Sinh nhãn tiền. Các ngài được gặp gỡ, ngồi chung bàn bẻ bánh, đàm thoại, ăn uống và được Chúa ban bình an chúc lành. Các Tông Đồ sẵn sàng ra đi làm nhân chứng. Làm nhân chứng là phải đối diện với sự sống sự chết. Tất cả mười một vị Tông đồ đã đổ máu đào chứng minh niềm tin sắt son vào Chúa Kitô Phục Sinh. Thánh Gioan là nhân chứng sống động cho tình yêu Chúa. Mọi lời rao giảng dạy dỗ của thánh Gioan đều qui về tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Các tông đồ đã can đảm sống cho tình yêu và chết cho tình yêu.

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Mỗi ngày chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô qua việc ghi dấu thánh giá trên mình. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Thầy và là Chúa. Tin vào Chúa là lắng nghe và thực hành lời Chúa. Nước Chúa rộng mở đón nhận mọi thành phần, nhưng điều quan trọng là chúng ta cần tin tưởng vào tình yêu của Chúa và tuân giữ lời Ngài. Vì đức tin không có thực hành thì đức tin chỉ là những triết thuyết viển vông và trống rỗng.

Mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta cử hành mầu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúng ta sẽ loan truyền ơn cứu độ cho tới khi Chúa lại đến. Lạy Chúa, những vết sẹo nơi thân mình đã nhắc nhở chúng con về lòng thương xót vô bờ của Chúa. Xin nguồn bình an và ân sủng của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ trên tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

TIN VÀO CHÚA KITÔ PHỤC SINH VÀ NHẬN LẤY THÁNH THẦN CỦA NGÀI

  1. Sự hoang mang ban đầu của các tông đồ về việc Thầy Giêsu phục sinh

Theo lịch Do Thái, đó là ngày đầu tiên trong tuần: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20: 1), các tông đồ đã được bà Maria Mađalêna báo rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20: 2). Phêrô và Gioan chạy đến ngôi mộ. Hai ông thấy đúng những gì bà Maria Mađalêna kể lại: thi thể Chúa Giêsu không còn trong đó nữa. Nhưng điều lạ lùng là những tấm khăn liệm thi thể Ngài vẫn còn ở đó. Chi tiết này được kể hai lần: “Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó” (Ga 20: 4-5) và: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó.” Phêrô phát hiện thêm một điều quan trọng, đó là “khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20: 6-7). Những chi tiết này ngay lập tức đập vào mắt của Phêrô và Gioan. Xác chết dĩ nhiên không thể tự cởi bỏ khăn liệm của mình. Còn nếu có những kẻ muốn cắp xác người chết, hẳn chúng không phí thì giờ ngồi gỡ bỏ những tấm khăn liệm đó, lại càng không tốn công vô ích cuộn chúng lại, sắp xếp tấm nào ra tấm đó, có lớp lang trật tự như thế. Đã xẩy ra chuyện lớn rồi. Có lẽ hai ông nhớ lại chỉ mấy ngày trước đây khi Chúa Giêsu làm phép lạ vĩ đại cho anh Ladarô sống lại, Ngài nói với cô Mátta, chị anh ấy rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11: 25). Họ bắt đầu suy nghĩ, và bàn luận với nhau rằng điều hẳn đã xảy ra là Thầy Giêsu đã sống lại. Chính thánh sử Gioan này, ngay chương hai của sách Tin Mừng của ngài, đã xác nhận điều này: “Vậy, khi Ngài từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (Ga 2: 22). 

  1. Niềm vui được tận mắt thấy Chúa Giêsu sống lại

Tuy nhiên, các ông vẫn rất hoang mang và ngay cả hoảng sợ vì những sự kiện của vài ngày trước. Các ông đã chứng kiến, ​​mắt thấy tai nghe, Chúa Giêsu chịu khổ hình dữ dội và chết thảm thương trên thập tự giá như thế nào. Hẳn các ông thất vọng với chính mình vì đã từng mạnh miệng nói sẽ trung thành với Thầy nhưng sau đó lại chối bỏ (Ga 18: 17, 25-26) và thậm chí trốn chạy khi Ngài bị bắt trong Vườn Giệtsimani. Hẳn các ông vô cùng hối hận về việc Chúa Giêsu đã phải chịu nhiều đau khổ và họ cảm thấy bất lực như thế nào khi không bảo vệ được Thầy mình. Các ông sợ chính quyền. Chắc chắn các ông sợ những nhà lãnh đạo Do Thái đứng sau âm mưu giết Chúa Giêsu. Các ông sợ cho mạng sống của chính mình, sợ cho tương lai bất định của mình. Và cũng không phải là vô lý khi có người nghĩ rằng các ông cũng sợ chính Thầy Giêsu của mình, đơn giản bởi vì các ông sẽ ăn nói sao đây với Vị Thầy mà các ông đã khiến Ngài thất vọng rất nhiều. Phêrô đã chối Ngài ba lần, và những người còn lại đã bỏ rơi Ngài, ngoại trừ “người môn đồ mà Chúa Giêsu yêu thương”, người đã ở dưới cây thập tự và đã đưa rước mẹ của Chúa Giêsu về nhà mình (Ga 19: 27). Dù sao đi nữa, cuối cùng thì có lẽ người mà các môn đệ muốn gặp nhất vào buổi tối hôm đó chính là Chúa Giêsu, đã sống lại từ cõi chết, để họ được đối mặt và trả lời Ngài về những nhát đảm và thất tín của họ. Cửa nhà thì đóng kín nhưng tâm hồn của họ đã mở sẵn rồi. Tâm hồn chúng ta có mở sẵn để đón nhận Đấng Phục Sinh chưa?

Tất nhiên, Chúa Giêsu sẽ không bị ngăn cản bởi những cánh cửa đóng kín. Chính Ngài là “cửa cho chiên ra vào” (Ga 10:7) đã đi thẳng qua những cánh cửa đóng kín đó và xuất hiện giữa bầy chiên đang sợ hãi của Ngài. Ngài đến không phải để đối chất với các môn đệ của Ngài về những thất bại của họ. Ngài không nói bất cứ lời nào trách cứ các ông nhưng Lời đầu tiên của Ngài lại là: “Bình an cho anh em” (Ga 20: 19). Đó là một lời vừa chào vừa chúc, xóa sạch không chỉ tất cả những bất trung của các môn đệ mà còn đem lại một sức mạnh mới, không còn nhuốm một chút nào mầu sắc buồn bã, lo âu, sợ hãi, áy náy, băn khoăn, hoang mang, bất định, cảnh giác, đề phòng, thủ thế…mà là một cảm giác vui tươi, bình an sâu sắc và trọn vẹn - loại bình an mà Ngài đã để lại cho các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga14:27). Xin Đấng Phục Sinh ban cho chúng ta sự bình an trọn vẹn và sâu thẳm mà Ngài đã ban cho các môn đệ đầu tiên.

Rồi thì, Chúa Giêsu “cho các ông xem tay và cạnh sườn” (Ga 20: 20) để các ông có thể thấy rằng chính Ngài, thực sự bằng xương bằng thịt, đã bị đóng đinh, chết, chôn trong huyệt mộ, nhưng bây giờ đang ở trước mặt các ông tỏ tường. Giờ thì không còn hoang mang, nghi ngờ, sợ hãi gì nữa, nên “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20: 20). đúng như Chúa Giêsu đã nói với họ trước kia: “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16:22). Chúng ta hãy thường xuyên cất lên tiếng ca Alleluia – Ngợi khen Chúa - trong vui mừng hoan hỉ không ai lấy mất được, vì Đấng Phục Sinh đã chiến thắng tử thần và chúng ta có thể gặp Ngài mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mình.

  1. Đón nhận Thánh Thần của Chúa Kitô Phục Sinh và được sai đi

Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20: 21). Các tông đồ được sai đi để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu là mặc khải Thiên Chúa cho thế giới. Các ông sẽ không bị bỏ lại một mình trong nhiệm vụ khó khăn này. Chúa Giêsu đã hứa sẽ sai một Đấng Bảo Trợ khác (παρακλητός trong Tin Mừng Gioan là Thần khí sự thật, Thánh Thần, Đấng hiện diện với, Thầy dạy, Chứng Nhân, Đấng mặc khải, Đấng dẫn đường, Ngôn sứ và Đấng tôn vinh Chúa Giêsu: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:16-17). Bây giờ, Ngài thực hiện lời hứa đó. Như hành động sáng tạo xưa kia: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (Sáng thế 2:7), thì nay “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20:22) như hành động sáng tạo mới. “Thần Khí sự thật” này “sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14: 26) và “Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (14:26; 16:12-14).

Sau đó, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:23). Như nhiều nhà chú giải đã chứng minh, “tội lỗi” trong Tin Mừng của Thánh Gioan không phải là một phạm trù đạo đức; mà về cơ bản, đó là sự không có lòng tin, là sự từ chối tiếp nhận sự mặc khải của Thiên Chúa qua con người của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu không trao cho các môn đệ của Ngài một quyền năng đặc biệt nào đó để quyết định tội lỗi của ai sẽ được tha thứ và tội lỗi của ai sẽ không được tha thứ. Thay vào đó, Ngài cho thấy rõ hơn ý nghĩa của việc được sai đi, để làm cho mọi người biết đến tình yêu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Khi mọi người biết đến và ở lại trong Chúa Giêsu, họ sẽ được “giải thoát” khỏi tội lỗi của họ. Tuy nhiên, nếu những người được Chúa Giêsu sai đi không làm chứng, thì mọi người sẽ vẫn mắc kẹt trong sự không tin của họ; tội lỗi của họ sẽ bị “cầm giữ.” Sứ mệnh này thực sự rất cao cả. Xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài để chúng ta làm chứng cho Lòng Thương Xót Cứu Độ của Thiên Chúa, bằng nghĩ suy, lời nói, hành vi, cách sống hằng ngày của chúng ta.

  1. Đức tin của Tôma

Vì một lý do nào đó mà chúng ta không biết rõ, Tôma đã vắng mặt và bỏ lỡ cuộc gặp gỡ đầu tiên vào tối Chủ Nhật này với Chúa Giêsu phục sinh. Mặc dù ông bị coi là “kẻ cứng lòng tin”, nhưng điều ông mong cầu không khác gì điều những người khác đã nhận được: được nhìn thấy Chúa Giêsu, với những vết thương: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin” (Ga 20: 25). Điều kỳ diệu của câu chuyện này là Chúa Giêsu lại xuất hiện một lần nữa một tuần sau đó để đáp ứng đúng những gì Tôma cần: “Tám ngày sau, các môn đệ Chúa Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em. Rồi Ngài bảo ông Tôma: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20: 26-27). Và Tôma đáp lại bằng lời tuyên xưng đậm tính Kitô học nhất. Đó không chỉ đơn thuần là lời tuyên xưng về giáo lý, mà là lời tuyên xưng về lòng tin và mối tương giao cá vị của ông với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20:28). Chúa Giêsu biết những mong muốn của mỗi người chúng ta nơi Ngài, và Ngài có cách giải quyết đúng nơi đúng thời.

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29) không phải là một lời khiển trách, mà đúng hơn là một chúc lành cho tất cả những ai sẽ tin dù không có một cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt với Chúa Giêsu. Thật vậy, thánh sử Gioan tuyên bố rằng đây chính là mục đích của sách Tin Mừng này: “Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20: 31).

Trong mùa Phục sinh với những tiếng hát Alleluia -Hãy ngợi khen Chúa, chúng ta dường như không một chút lo buồn, sợ hãi, hoang mang hay nghi ngờ. Chúng ta dễ quên rằng các môn đệ đầu tiên đã cảm thấy lo buồn, sợ hãi, nghi ngờ, và bối rối trước khi hiểu ra và vui mừng về những gì đã diễn ra vào ngày hôm đó. “Tám ngày sau, các môn đệ Chúa Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín” (Ga 20: 26). Việc “các cửa vẫn đóng kín” như tám ngày trước (Ga 20: 19) cho thấy Tôma không phải là người duy nhất cần sự trấn an của Chúa Giêsu rằng Ngài thực sự đã chiến thắng cái chết.

Khi Tôma muốn chắc chắn rằng người trước mặt mình là Chúa Giêsu, ông được Ngài mời đặt tay vào những vết thương của Ngài. Chúa Giêsu dùng những vết thương đó để giúp Tôma nhận ra Ngài. Chúa Kitô có những vết thương của Ngài. Chúng ta có những vết thương của mình. Chúa Kitô Phục Sinh vẫn đồng cảm và đồng hành với chúng ta trong những đau đớn thân xác và những đau khổ tâm hồn của chúng ta. Những vết thương của Đấng Phục Sinh là dấu hiệu cho thấy “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19: 30). Những đau đớn thân xác và những đau khổ tâm hồn của chúng ta cũng sẽ hoàn tất, chỉ trong Chúa Kitô chịu khổ hình, chết trên Thập tự giá và nhất là đã sống lại, như bài đọc thứ hai khẳng định: “Tôi là Gioan, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu… Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa… Lúc thấy Ngài, tôi ngã vật xuống dưới chân Ngài, như chết vậy. Ngài đặt tay hữu lên tôi và nói: Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:9-10, 17-18).

Trong Thánh Thần của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, chúng ta hân hoan ca mừng và tuyên xưng: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118: 22-24).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

 

NHỮNG VẾT SẸO...

LỄ KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA - CHÚA NHẬT II PHỤC SINH, CUỐI TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

Chắc không ai sống trong đời mà lại không có bất cứ một vết sẹo. Có thể là vết sẹo của một lần đùa giởn vô ý gây ra. Có thể là vết sẹo của một lần đứt tay, hay một vết trầy xướt trên thân thể. Cũng có thể là vết mỗ do bệnh tật lâu ngày đã liền da…

Tuy nhiên, có những vết sẹo được nhìn thấy bên ngoài, trên thân xác, nhưng cũng không ít những vết sẹo trong tâm hồn, trong trái tim, trong trí nhớ, trong cuộc đời… không bao giờ chủ nhân của nó quên được.

Mỗi vết sẹo dù trên thân xác, hoặc trĩu nặng trong tâm hồn đều gợi lại một câu chuyện, một sự tích, một lý do... Có khi là những kỷ niệm của niềm vui, nhưng cũng có khi là những đau đớn không thể nguôi ngoai…

I. VẾT SẸO - DẤU CỦA THÁNH GIÁ.

Hôm nay, Tin Mừng cho biết có đến hai lần Chúa hiện ra. Cả hai lần, thánh Gioan ghi nhận Chúa hiện ra có cùng một cách thế. Lần thứ nhất, ngay khi hiện ra,“Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”.

Có gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem? Nơi ấy, dấu thánh giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay, trên cạnh sườn còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chính những vết sẹo, cũng chính là dấu thánh giá còn mới nguyên trên thân thể Chúa.

Những vết sẹo, dấu chứng của thánh giá trở thành dấu chỉ của niềm tin nơi các tông đồ. Nhìn vào dấu của thánh giá trên thân thể của người đang hiện diện trước mặt mình, các tông đồ đã tin Thầy mình sống lại.

Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt. Thánh nhân nhất quyết không tin.

Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn, dứt khoát hơn. Chúa không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục Sinh lên tiếng: “Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin”.

Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: “Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thánh giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Một lần nữa, qua thái độ của thánh Tôma, thánh Gioan cho thấy, chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, các môn đệ mới tin, đó là Chúa của họ. Chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, họ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy “vui mừng vì xem thấy Chúa”.

Vết sẹo hay dấu chứng của thập giá trở thành bằng chứng của lòng tin: CHÚA ĐÃ PHỤC SINH.  Như vậy dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ. Dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.

Chúa Kitô đã phục sinh. Dù đã phục sinh, Chúa đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Sự phục sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của thánh giá.

Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thánh giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục Sinh, lại làm cho các môn đệ dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.

II. NHẬN RA ĐIỀU GÌ QUA CÁC SẸO ẤY?

Vết sẹo hay dấu chỉ thánh giá trên thân thể Đấng Phục Sinh cho ta nhận ra hai điều này:

  1. Dấu ấn của tình yêu trước tội lỗi.

Dấu vết thập giá không chỉ là những kỷ niệm về một cái chết nhục nhã còn ghi lại trên thân thể Đấng Phục Sinh, mà là một nhắc nhở cho ta về khuôn mặt tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu ấy, Thiên Chúa đã cúi mình thật sâu trong thân phận con người để ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa. 

Dấu vết kinh hoàng của thập giá trên thân thể Đấng Phục còn là nỗi đau trong tâm hồn nhân loại mỗi khi họ nhìn vào đó mà nhận ra sự khủng khiếp do tội lỗi của chính mình gây ra.

Mãi mãi dấu thánh giá vẫn không bao giờ mai một trong Hội Thánh nói riêng và trong nhân loại nói chung. Bất cứ nơi đâu, nếu nhìn thấy bóng dáng thánh giá, người ta vẫn nhận ra rằng, tình yêu của Thiên chúa là một tình yêu chung thủy, vẫn mãi mãi hiện diện giữa lòng đời, dẫu hết thời gian này đến thời gian khác, con người không ngừng bất trung và sai phạm.

  1. Đau khổ trong đời người.

Mặt khác, Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn...

Hay con đường tương lai, sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình…

Những lúc bi đát đến cùng cực, chúng ta hãy nhìn về phía Chúa Giêsu, để thấy thánh giá là điều hiển nhiên của cuộc đời mỗi người. Đó là cây thánh giá mà ta phải vác đi theo tiếng gọi của Chúa: “Ai theo Ta hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.

Chúng ta may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.

Nói cách khác, chúng ta có một Thiên Chúa biết đến đau khổ là gì, chết là gì, để trong nỗi đau và trong nỗi chết chóc thường ngày của ta, Chúa gần gũi với ta, Chúa chia sớt cùng ta, Chúa thấu hiểu từng thách thức mà đời ta luôn đối diện và không ngừng trải qua...

Vì thế, ta tin, trong cuộc đời của mình, không ai là đơn lẻ, không ai là mồ côi. Chúa vẫn đang đồng hành khi ta ấp ủ Chúa trong mọi buồn vui của bản thân. Thánh giá Chúa vẫn không ngừng soi rọi để cứu độ thập giá đời ta.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

MỘT BUỔI BÌNH MINH NẰM NGOÀI THỜI GIAN

  1. Sự im lặng trước Phục Sinh.

Các môn đệ của Chúa Giêsu đang lặng lẽ chìm trong nỗi nhớ thương người Thầy yêu dấu của họ. Cõi lòng họ như chứa đầy bóng tối, giống như bóng tối của khu vườn Giệtsimani, vào đêm người Thầy của họ bị bắt, giống như “bóng tối bao phủ khắp mặt đất” (Lc 22: 44) thê lương từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín trên đỉnh đồi Canvê, nơi người Thầy của họ bị xử chết cách bất công quá mức đau thương. Một người Thầy “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 29), luôn rao giảng những lời yêu thương và thực hiện những hành động vô cùng thương xót: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6: 36). Những bóng tối ấy sẽ không bao phai mờ trong tâm trí họ những ngày còn lại trong đời. Thế là hết! Hết rồi những hy vọng về một Đấng Kitô - Cứu Thế, khi họ chứng kiến tận mắt Thầy mình làm phép lạ chữa lành bệnh tật, trừ quỷ hay hồi sinh kẻ chết. Họ chỉ còn ký ức lưu giữ mọi cử chỉ, mọi khoảnh khắc vui mừng hãnh diện vì uy thế của Thầy trước toàn dân: “Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (Lc 24: 19), hay những ngày tháng vất vả lặn lội rao giảng Nước Thiên Chúa, nhưng đầy hạnh phúc êm đềm của tình Thầy trò: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14;1-3). Nhất là làm sao họ có thể quên được, chỉ vài ngày trước đây, khoảnh khắc vinh quang của Thầy tiến vào thành thánh Giêrusalem giữa những tiếng “Hosanna, Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” (Lc 19: 38). Và những giờ phút dầy đặc đau thương và thống khổ của hai ngày qua. Mọi thứ về Thầy coi như đã kết thúc: “Bấy giờ ông Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá. Chính Ngài vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; tại đó, họ đóng đinh Ngài vào thập giá… Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: Tôi khát! Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Chúa Giêsu nói: Thế là đã hoàn tất! Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 20: 16-18, 28-30). Nỗi đau buồn bắt đầu trở nên sâu sắc hơn. Vị Thầy Giêsu của họ không còn nói nữa, Ngài không thể nói nữa, họ không thể nghe gì từ môi miệng kỳ diệu của Ngài nữa. Đó là lý do các môn đệ im lặng, một sự im lặng trong nỗi vỡ mộng cay đắng!

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận xét rằng “Đôi khi chúng ta cũng nghĩ rằng niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu đã thuộc về quá khứ, trong khi hiện tại điều chúng ta biết lại là những ngôi mộ bị niêm phong: những nỗi thất vọng, những cay đắng và ngờ vực của chúng ta, những nỗi niềm “không còn làm được gì nữa”, “mọi thứ sẽ không bao giờ thay đổi”, “tốt hơn hết là sống cho qua ngày” bởi vì “không có gì chắc chắn về ngày mai”. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta từng bị đau đớn dày xéo, bị đè nén bởi nỗi buồn, tủi nhục vì tội lỗi, cay đắng vì thất bại nào đó hay ám ảnh bởi ưu tư nào đó, đã nếm trải vị đắng của mệt mỏi và đã thấy niềm vui phai nhạt trong lòng…Thêm nữa, có lẽ chúng ta đã thấy mình đối mặt với cái chết, bởi vì nó đã cướp đi sự hiện diện ngọt ngào của những người thân yêu của chúng ta hoặc vì nó đã chạm vào chúng ta trong bệnh tật hoặc tai họa, và chúng ta dễ dàng trở thành con mồi của sự vỡ mộng và dập tắt nguồn hy vọng của chúng ta” (ĐGH Phanxicô, Bài giảng đêm vọng Phục Sinh, 08 tháng Tư năm 2023). 

  1. Sự sống trỗi dậy từ nấm mồ mở toang

Chúa Giêsu im lặng trong cõi sâu thẳm của thế giới và của lịch sử, nơi mọi thứ đều im lặng, nơi không còn tiếng cười nói hay tiếng ca hát nữa. Nhưng không phải là hết. Ngài đi xuống tận huyệt mộ của thế giới những người chết, xuống những vực thẳm của địa ngục để phá hủy nó, để mở chúng ra cho sự sống, để khôi phục lại mọi câu chuyện và lịch sử của nhân loại: “Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm” (1 Pr 3: 19). Chúa Kitô xuống sâu thẳm trong lòng đất, giống như mặt trời lặn xuống, nhưng không ngừng chiếu sáng. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chết, bị giết chết, “Ngài xuống âm phủ để kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa và ai nghe thì được sống (Ga 5,25). Chúa Giêsu, Đấng khơi nguồn sự sống (Cv 3,15). Đã nhờ cái chết của Ngài, tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sự chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ (Dt 2,14-15)” (GLHTCG, số 635). Sự sống đã bị cái chết nuốt chửng, giống như cuộc hành trình xuống địa ngục của Chúa Giêsu, chính là để chờ khoảnh khắc nhảy mừng lên trong ánh sáng và chiến thắng trong tiếng ca Exsultet - Mừng vui lên.

Trong sự im lặng của chúng ta, một sự im lặng áp đảo chúng ta, những hòn đá bắt đầu phải kêu lên (Lc 19:40) và dọn đường cho sứ điệp vĩ đại nhất mà lịch sử chưa từng nghe thấy: “Ngài không còn ở đây nữa, vì Ngài đã sống lại” (Mt 28: 6). Các hòn đá trước ngôi mộ kêu lên và công bố sự khai mở một con đường mới cho tất cả mọi người. Thiên nhiên chính là người đầu tiên vang vọng khúc khải hoàn của cuộc sống trên tất cả những gì đã cố làm câm nín và bóp nghẹt niềm vui của Tin Mừng. Hòn đá trước ngôi mộ là người đầu tiên nhảy mừng và theo cách riêng của nó vang lên một bài hát trầm trồ ngợi khen, vui mừng và hy vọng, trong đó tất cả chúng ta được mời tham gia” (ĐGH Phanxicô, Bài giảng đêm vọng Phục Sinh, 31/3/2018)

Chúa Kitô xuống ngục tổ tông để giải cứu tất cả những ai đang khóc than trong câm lặng khỏi vực sâu u tối đó. Ngài cũng đi vào tận đáy sâu linh hồn của mọi người để những ai tin vào Ngài thì cuộc đời của họ được biến đổi từ bên trong, được giải thoát khỏi những giờ phút cô đơn và hoang mang, như những môn đệ khi xưa của Ngài. Không có gì là không được cứu chuộc. Để Thiên Chúa có thể lên tiếng, chúng ta phải biết im lặng, như một ngôi mộ câm lặng, ngay bây giờ và trong cõi chết mai sau, vì đó là sự chuẩn bị tuyệt vời để lắng nghe lời phán quyết của Thiên Chúa. Trong cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa dường như im lặng và vắng mặt. Nhưng sự im lặng này không phải là hư vô, nhưng chính là hy vọng. Trong cái chết của Chúa Giêsu, thế giới trở nên trống rỗng nguồn sống. Nhưng sự trống rỗng này không phải là phủ định sạch trơn mà là sự chuẩn bị cho khả năng viên mãn. Sự trống rỗng trở nên vùng đất màu mỡ chuẩn bị cho vụ mùa bội thu. Thất bại trở thành bước mở đầu cho chiến thắng.

“Mừng vui lên hỡi chư thần chư thánh,

cấp thừa hành của Chúa cõi thiên cung.

Trổi vang lên, kèn loan ơn cứu độ,

Kính chào Đức Vua chiến thắng oai hùng.

Mừng vui lên, hỡi khắp miền dương thế,

bốn bề đang rực rỡ ánh hào quang:

Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng,

Đẩy lùi xa bóng tối của trần gian….”

(Mở đầu thánh thi Exsultet)

  1. Buổi bình minh của sự sống viên mãn

Vào buổi sáng kỳ lạ ấy, một buổi bình minh dường như nằm ngoài thời gian, “đẩy lùi xa bóng tối của trần gian.” Đó là buổi bình minh mở đầu “chiến thắng oai hùng” của “Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng” và kết thúc những ngày chết chóc mãi mãi tăm tối của loài người. Đó là một buổi sáng với thứ tin tức nghẹt thở, khi các tông đồ thấy bà Maria Mađalêna “chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20: 2). Một xác chết bị đâm thâu bởi một ngọn giáo, không còn máu, bị chôn chặt trong mộ đá niêm phong, đã sống lại với một sự sống mới mầu nhiệm. Cái chết, kẻ thù lâu đời nhất của loài người, đã bị chế ngự. Chúa Giêsu đã giữ lời hứa của mình: “Quả vậy, Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Ngài, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18: 32-33). Thánh Gioan thuật lại lời hứa này cách cao vời và thấm đẫm chất suy tư thần học: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui…Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16: 16, 20, 28, 32). Trong bài đọc thứ nhất, trích sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô làm chứng cụ thể rõ ràng, không úp mở, bóng gió xa xôi: “Chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại” (CvTđ 10: 39-41).

  1. Thông điệp từ những tấm vải liệm

Câu chuyện về Ladarô, vốn chỉ có trong sách Tin Mừng Gioan, là bài Tin mừng được phép đọc bất cứ ngày nào trong tuần thứ Năm Mùa Chay vừa qua. Phụng vụ Hội Thánh muốn nói với con cái của mình điều gì khi cho phép như vậy? Khi Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại, Ngài giải thoát Ladarô khỏi tấm vải liệm: “Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Chúa Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (Ga 11: 44). Dù đã được Chúa Giêsu dùng quyền năng của Ngài làm cho sống lại từ cái chết, Ladarô rồi một lần nữa sẽ lại phải chết, như bao người khác sẽ phải chết. Dấu chỉ “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” là minh chứng cho thực tại chết chóc không thể tránh khỏi của thân phận phàm nhân, không có ngoại lệ nào vượt ra khỏi quy luật sinh lão bệnh tử. Chúa Giêsu cũng phải chết, không ngoại lệ, đúng theo quy luật đó. Tuy nhiên, điều ngoại lệ, ngoại thường nơi Chúa Giêsu là Ngài tự nguyện chọn cái chết: “Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9: 51). Cụ thể là khi nghe Thầy mình tỏ cho biết Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16: 21), Phêrô tỏ ý ngăn cản Ngài: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16: 22) và ngay lúc ấy ông bị trách mắng nặng lời: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16: 23). Sau này thánh Phaolô khẳng định: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2: 6-8).

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã giải thích: “Tất cả những điều này không phải là kết quả của một cơ chế mơ hồ hay số phận mù quáng: đúng hơn, đó là sự lựa chọn tự do của chính Ngài, thông qua sự tuân thủ quảng đại vào kế hoạch cứu độ của Chúa Cha. Và cái chết mà Ngài phải chịu là cái chết đóng đinh, cái chết nhục nhã và hạ nhục nhất mà người ta có thể tưởng tượng được. Chúa tể vũ trụ đã làm tất cả những điều này vì tình yêu dành cho chúng ta: vì tình yêu, ngài đã chọn tự hạ mình và trở thành anh em của chúng ta; vì tình yêu, Ngài chia sẻ tình trạng của chúng ta, tình trạng của mọi người nam và mọi người nữ…Ngài đã chọn sự khiêm nhường sâu xa nhất và mang hình dạng của một con người” (Buổi tiếp kiến chung, Quảng trường Thánh Phêrô, Thứ tư, ngày 8 tháng 4 năm 2009).

Nếu việc Chúa Giêsu chịu chết không phải là một ngoại lệ, nhưng đúng theo quy luật sinh hóa, vật lý của kiếp người. thì việc Ngài “trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9) lại là một điều không đúng chút gì theo những quy luật đó. Đó là một sự kiện có một không hai, một việc phi thường. Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó” (Ga 20: 5). Điều này khác hẳn việc Ladarô được Chúa Giêsu làm cho sống lại nhưng tay chân mặt mũi còn bị quấn trong vải liệm. Hai tông đồ Phêrô và Gioan thấy chiếc khăn mà Giuse và Nicôđêmô đã dùng để quấn mặt và đầu của Chúa Kitô ở một nơi riêng biệt: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20: 6-7). Chúa Giêsu đã gấp khăn liệm của chính Ngài và đặt nó sang một bên. Trong ngôi mộ là một quang cảnh trật tự và yên tĩnh vì Chúa Giêsu Phục Sinh vượt qua tấm khăn liệm của Ngài. Ngài để lại một quang cảnh bình an để tất cả những ai nhìn vào và tin thì có được sự bình an trong lòng rằng Ngài vẫn sống và khỏe mạnh. Đó là loại bình an mà chỉ có Chúa Giêsu mới có thể ban tặng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Gioan 14:27). Ngôi mộ là hình ảnh hoàn hảo về trật tự, một trật mới mẻ và tuyệt đối! Chúa Giêsu làm chủ cái chết: “Ngài đón nhận cái chết tự nội tâm Ngài và biến nó thành một cử chỉ yêu thương. Xem bề ngoài đó là chuyện tàn bạo dữ dội – việc đóng đinh vào thập giá – nhưng bên trong là hành vi yêu thương tận hiến toàn vẹn” (Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, 21-8-2005, Youcat số 210). Và bằng cách thế đó, Chúa Giêsu vượt lên trên cái chết. Ngài thực hiện “cuộc vượt qua cứu độ này từ cõi chết sang cõi sống, nhờ việc chết và sống lại của Ngài, ngay cả trong thời hiện tại này” (Youcat, số 212).

Chúng ta có muốn đứng bên cạnh lối vào ngôi mộ của Chúa Giêsu và chăm chú nhìn vào ngôi mộ trống đó như Gioan không: “Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó…” (Ga 20: 5)? Chúng ta có như Gioan nhận ra sự khác biệt giữa việc trở lại cuộc sống phàm nhân của Ladarô và Sự Phục Sinh của Chúa Kitô không? “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20: 9).

Hôm nay, chúng ta là những người chấp nhận sứ điệp Tin mừng về sự Phục Sinh bằng đức tin đơn sơ. Chúng ta không thấy Chúa Giêsu sống. Chúng ta không thấy Ngài chết và chúng ta không thấy ngôi mộ. Tuy nhiên, những chiếc khăn liệm đó vẫn đang rao giảng cho chúng ta, nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng mặc dù chúng ta không thấy Ngài ngay bây giờ, Ngài sẽ trở lại và chúng ta sẽ thấy Ngài vào lúc đó: “Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Ngài, và thánh danh Ngài ghi trên trán họ…Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Khải Huyền 22:20).

Việc còn lại chúng ta cần làm là sống theo lời dạy của thánh Phaolô, trong bài đọc thứ hai: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Chúa Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3: 1-4).

 

Phêrô Phạm văn Trung

Subcategories