3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Lễ Mình Máu Thánh Chúa

Bẻ ra để nhân lên

Trong ngày lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hoá nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Phúc Âm thuật lại. Đây cũng là một phép lạ công khai, trước mắt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng 5000 người, mà vẫn còn dư mười hai thúng miếng vụn. Thánh Luca nhấn mạnh đến vai trò của Nhóm Mười Hai trong phép lạ này (c.12). Chính họ đã chủ động xin Đức Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở, khi "ngày đã bắt đầu tàn". Đức Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho Nhóm Mười Hai: "Chính anh em hãy cho họ ăn đi." Hãy lo cho bao tử của họ sau khi họ đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa và được chữa lành khỏi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này, dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng và chữa bệnh và đã thành công (Lc 9, 6). Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá. Nhưng điều ấy thì thấm vào đâu so với nhu cầu của dân. Ỡ nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh. Đức Giêsu cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi dân. Các môn đệ, theo lệnh của Đức Giêsu đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Đức Giêsu, để rồi nhận lại từ tay Ngài, và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh và cá, sau khi Ngài chúc lành và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng. Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hằng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới. Trong tay chúng ta chỉ vọn vẹn vài tấm bánh nhỏ. Chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hoá những cố gắng bé nhỏ của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tác của Thầy Giêsu để phục vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới, no nê và dư dật.

Tấm bánh nuôi nhân loại

Chúng ta nên đọc lại câu 16 của đoạn Tin Mừng trên: "Đức Giêsu cầm lấy 5 cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông." Khi kể lại cử chỉ của Đức Giêsu lúc lập bí tích Thánh Thể, thánh Mác-cô cũng sử dụng 4 động từ trên đây (Mc 14,22). Và trong truyện hai môn đệ về Emmau ta cũng thấy thánh Luca dùng lại 4 động từ này: "Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ và trao cho họ." (Lc 24,30). Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Thầy Giêsu. Như những người Do Thái khác, Đức Giêsu dâng lời nguyện chúc tụng Thiên Chúa trước bữa ăn; Việc cầm bánh bẻ ra, trao cho người khác cũng là cử chỉ quen thuộc của người chủ tọa bữa ăn.

Giáo Hội sơ khai hẳn đã thấy có sự liên hệ giữa phép lạ bánh hoá nhiều và bí tích Thánh Thể. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều dùng cùng một cử chỉ mà mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể đã được khơi mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất chỉ làm giảm cơn đói của một số người nhất định, và trong một thời gian nhất định. Manna ngày xưa trong sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết (Xh 16,4-36). Bữa Tiệc Ly không phải là một hành vi đột xuất, không suy nghĩ trước. Trái lại Đức Giêsu đã phải bận tâm với ước mơ nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu. "Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em… Này là chén Máu Thầy, sẽ đổ ra cho anh em." Đức Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến, để thông hiệp vào cái chết và sự phục sinh của Ngài, vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm. Cựu Ước đã hứa rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật (Tv 37,19; 81,17; 132,15). Đức Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào, qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Giêsu phục sinh dưới dạng bánh rượu, chúng ta còn cần đến đức tin. Chúng ta mong chờ ngày được tham dự vào bữa tiệc trên trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài không qua bức màn đức tin nữa.

Đức Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong đời Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa Tiệc Ly đã trở thành tấm thân Ngài, được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết thập giá. "Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy". Giáo Hội sơ khai đã không quên mệnh lệnh đó. Họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ "bẻ bánh" (Cv 2,42), tại các nhà riêng của tín hữu (Cv 2,46). Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần (Cv 20,7)

Thánh Lễ và đời thường

Thánh Lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh Lễ là một hy tế lặp lại hy tế Núi Sọ. Theo Công Đồng Vaticanô II, hy tế này là "nguồn cội và là chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô hữu" (LG 11). Là nguồi cội, vì tất cả đời sống Kitô hữu phát sinh từ đó; là chóp đỉnh, vì tất cả đời sống Kitô hữu phải qui về đó. Ấy thế mà một số giáo dân coi việc tham dự Thánh Lễ như chuyện miễn cưỡng phải giữ. Nhiều giáo dân cảm thấy thánh lễ không có liên quan gì đến cuộc sống của họ ngoài đời, không có ảnh hưởng gì trên đời thường của họ. Rốt cuộc thánh lễ bị họ bỏ rơi, nhà thờ ngày Chúa Nhật cũng vắng người. Đó đã là chuyện của các nước Tây phương, nhưng cũng sẽ là chuyện của chúng ta.

Thật ra người tín hữu bước vào thánh lễ mang theo thế giới mình sống như hành trang, như lễ vật, rồi bước ra thánh lễ để vào lại thế giới, để biến thế giới thành thánh lễ nối dài. Nhiều khi vì nghĩ rằng thánh lễ là chuyện của linh mục, lễ vật dâng lên là hy tế của Đức Kitô, nên có người dự lễ với hai bàn tay trắng. Thực ra, thánh lễ đòi hỏi con người nhiều nỗ lực, cả trước lẫn sau thánh lễ; những nỗ lực đụng chạm đến cuộc sống thâm sâu của con người. Tham dự thánh lễ một cách nghiêm chỉnh không dễ như ta tưởng. Càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, thánh lễ càng sinh nhiều hiệu quả. Linh mục Teilhard de Chardin đã dùng lễ vật của trái đất để dâng lễ: "Tôi linh mục của Ngài, trên bàn thờ là toàn thể trái đất, tôi sẽ dâng lên Ngài lao động và nỗi đau thương của thế giới. Tôi sẽ đặt trên dĩa thánh mùa gặt được đợi chờ từ những cố gắng mới. Tôi sẽ rót vào chén lễ chất nước cốt của tất cả những hoa trái sẽ được nghiền nát trong ngày hôm nay. Chén thánh và dĩa thánh của tôi là những phần thâm sâu nhất của một tâm hồn được mở rộng để đón nhận tất cả mọi năng lực, trong chốc lát, sẽ dâng lên từ muôn phương của địa cầu và sẽ qui tụ về thần linh." Việc dâng lễ sẽ trở nên xa lạ, nếu thực sự bánh và rượu không tượng trưng chút đóng góp của người đến dự lễ và của thế giới. Khi được biến đổi, vật chất sẽ thành thần linh.

Công đồng Vaticanô II đã nói nhiều đến việc dâng lễ của người Kitô hữu. Lễ vật là bản thân tôi, là cuộc đời tôi, là mọi hoạt động của tôi (LG 34; SC 12). Như thế việc dâng hy tế của Đức Kitô không loại bỏ việc con người dâng hy tế đời mình. Thánh lễ đưa con người trở lại với cuộc sống. Thánh lễ dạy con người biết bẻ bánh cho nhau trong đời thường. Một số tín hữu ở Côrintô đã để cho tình trạng "mỗi người lo cho bữa ăn riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say" (1C 11,21). Thái độ ích kỷ trên đây hoàn toàn ngược với tinh thần hiệp thông, chia sẻ của tiệc Thánh Thể. Chính việc rước lễ liên kết chúng ta nên một Thân Thể, vì "tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm Bánh" (1C 10,17). Sống hiệp thông và chia sẻ với tha nhân là dấu hiệu cho thấy ta đã thực sự tham dự thánh lễ.

Thánh lễ còn giúp chúng ta đón nhận thập giá hàng ngày. Chúng ta không nên quên rằng rước lễ là đón lấy Mình Máu của Đấng đã bị nộp và bị giết, là thông hiệp vào cái chết của Đức Giêsu. Người rước lễ thường xuyên sẽ được sức mạnh để hy sinh chính mình mà sống cho người khác. Khi lãnh nhận Bánh Thánh, tôi được Chúa biến đổi tôi thành tấm Bánh bẻ ra cho anh chị em tôi. Tôi chấp nhận bị vỡ tan, bị nghiền nát, trở thành thức ăn cho con người. Đó là hy tế của tôi xin được kết hợp với hy tế của Chúa. "Các con hãy cho họ ăn đi." Tôi hiểu rằng thức ăn mà con người hôm nay cần là chính cuộc đời tôi, hiến trao với nhiều tình yêu.

Một số câu hỏi gợi ý

1. Có người nhận xét rằng người công giáo Việt Nam giữ đạo trong nhà thờ; ra tới cửa nhà thờ họ lại mang một bộ mặt hoàn toàn khác. Nhận xét này có đúng không? Nếu đúng thì làm sao phá bỏ hố sâu giữa thánh lễ và đời thường?

2. Theo bạn, một thánh lễ lý tưởng phải hội đủ những điều kiện nào? Bạn có thể góp phần ra sao cho thánh lễ đó?

Lm Augustine, SJ
VietCatholic Network

Thái độ sống

Chúa Giêsu và các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như đói cơm bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang vắng. Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.

Các môn đệ thì đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái ăn và nghỉ ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi bận tâm vất vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng xáo trộn có thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà nguyên số đàn ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là không có những siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn thức uống. Cảnh giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng ấy hiển nhiên là trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao giảng cho họ. Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa Giêsu vào những việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà xét, vào lúc này không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy. Giải pháp riêng xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho các môn đệ. Bởi vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho họ ăn đi. Các ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi chúng con phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.

Nhưng Chúa Giêsu thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã đi theo Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu tìm cơm áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông tìm Ngài để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê. Nhưng Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi làm ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này. Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại, khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.

Và Chúa Giêsu đã thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài, bởi vì Ngài đã ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho kẻ khác: Các con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy mà uống vì này là máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của Chúa Giêsu: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là một nghi lễ, nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự dấn thân vì hạnh phúc của người khác.

 

Nguồn: Sưu Tầm

BÍ TÍCH THÁNH THỂ BAN SỰ SỐNG THẦN LINH 

Khi đọc lại những dòng Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước, người ta nhận ra một mạch xuyên suốt chương trình cứu độ của Thiên Chúa: ban cho sự sống muôn đời, mà đỉnh cao là Bí tích Thánh Thể, lương thực thần linh.

  1. Menkixêđê: tiên báo mầu nhiệm Thánh Thể

Trong sách Sáng Thế, khi tổ phụ Ápram chiến thắng trở về, ông được đón tiếp bởi một nhân vật lạ lùng: Menkixêđê, vua thành Salem, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, mang bánh và rượu ra

Menkixêđê là một nhân vật đầy huyền nhiệm. Thánh Vịnh 110 loan báo rằng: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê” (Tv 110: 4). Tác giả Thánh Phaolô sau này giải thích: “Trước hết, ông tên là Menkixêđê, nghĩa là vua công chính; rồi ông lại là vua Salem, nghĩa là vua bình an. Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế” (Hípri 7: 2- 3). Bánh và rượu ông dâng, chính là hình bóng của Thánh Thể – Mình và Máu Chúa Kitô.

Thánh Gioan Kim Khẩu viết: “Chúa Giêsu không theo phẩm trật Lêvi, nhưng theo Menkixêđê – tư tế không có khởi đầu hay kết thúc, dâng bánh và rượu, báo trước bàn tiệc Thánh Thể” (Bài giảng về thư Hípri, số 7).

Chính trong Bữa Tiệc Ly chức vị tư tế này được thể hiện trọn vẹn. Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, đã ghi lại chính xác lời Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em… Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới” (1Cr 11: 24 - 25).

Bánh và rượu ở đây không còn là biểu tượng nữa, mà trở thành thực tại thánh thiêng – Mình và Máu thật của Chùa Kitô, hiến tế cho nhân loại. Qua lời truyền phép của linh mục trong Thánh Lễ, người Kitô hữu không chỉ tưởng niệm biến cố xưa, mà còn thực sự được tham dự vào chính hy tế của Chúa Kitô trên Thập Giá, nay hiện diện một cách không đổ máu.

Thánh Tôma Aquinô xác tín: “Trong Bí tích Thánh Thể, không còn là hình bóng nữa, mà là chính Chúa Kitô – Ngôi Lời Nhập Thể, hiện diện thật sự” (Tổng luận Thần học III, quyển.75).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định trong Tông thư Desiderio Desideravi ban hành năm 2022: “Ước muốn vô hạn của Chúa Kitô là tái lập sự hiệp thông với chúng ta, vốn đã và vẫn là kế hoạch ban đầu của Ngài, sẽ không được thoả mãn cho đến khi mọi người nam nữ, từ mọi bộ tộc, mọi ngôn ngữ, mọi dân tộc và mọi quốc gia (Kh 5: 9), sẽ được ăn Mình và uống Máu Ngài. Và vì lý do này, cũng một Bữa Tối đó sẽ được làm cho hiện diện trong việc cử hành Bí Tích Thánh Thể cho đến khi Ngài trở lại lần nữa” (số 4).

Đức Giáo Hoàng giải thích lý do: “Chúng ta cần Ngài. Trong Bí tích Thánh Thể và trong tất cả các bí tích, chúng ta được bảo đảm khả năng gặp gỡ Chúa Giêsu và được quyền năng của Mầu nhiệm Vượt qua của Ngài đến với chúng ta…Chúng ta là Nicôđêmô, là người phụ nữ Samaria bên giếng, là người bị quỷ ám ở Caphácnaum, là người bại liệt trong nhà Phêrô, là người đàn bà tội lỗi được ân xá, là người đàn bà bị băng huyết, là con gái của Giaia, là người mù thành Giêricô, là Giakêu, là Ladarô, là tên trộm và là Phêrô, tất cả đều được ân xá. Chúa Giêsu, Đấng không chết nữa, Đấng sống đời đời với các dấu chỉ cuộc Khổ nạn của Ngài tiếp tục tha thứ cho chúng ta, chữa lành chúng ta, cứu chúng ta bằng quyền năng của các bí tích” (số 11).

  1. Phép lạ hoá bánh ra nhiều – bánh cho cộng đoàn

Trong một khung cảnh hoang vắng, với hàng ngàn người đang đói khát, Chúa Giêsu nói một điều lạ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9,13).

Với chỉ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát. Mọi người đều ăn và no nê, lại còn dư mười hai thúng đầy. Trình thuật này mang đậm hình ảnh Thánh Thể: dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao ban. Điều đáng chú ý là phép lạ không xảy ra trực tiếp từ tay Chúa Giêsu cho dân chúng, mà qua các môn đệ. Điều này báo trước vai trò của Hội Thánh trong việc phân phát Thánh Thể cho dân Chúa. Thánh Augustinô viết: “Điều nằm trên bàn thờ là chính Mình Ngài. Và Ngài muốn chính chúng ta trở nên bánh – được bẻ ra và chia sẻ cho người khác” (Bài giảng 272, Các giáo phụ Công đồng Nixêa và sau Nixêa, tập I).

Bí tích Thánh Thể là bánh sự sống, là quà tặng tình yêu cho mọi người. Bí tích Thánh Thể không chỉ dành cho việc thờ phượng, mà là sức sống nuôi dưỡng người tín hữu trên hành trình dương thế. Như dân Israel được nuôi bằng manna trong sa mạc (Xh 16), người Kitô hữu hôm nay được nuôi bằng chính Mình Máu Chúa Kitô. Hội Thánh khẳng định: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô giáo. Những bí tích khác cũng như mọi thừa tác vụ trong Hội Thánh, và các hoạt động tông đồ, đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và quy hướng về bí tích đó. Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó là chính Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta” (GLHTCG, số 1324).

Trong Tông huấn Sacramentum Caritatis, Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh: “Hội Thánh sống nhờ Bí tích Thánh Thể. Vì trong bí tích này hy tế cứu độ của Chúa Kitô thực sự hiện diện, buộc mọi người phải chân nhận có một ảnh hưởng nhân quả của Bí tích Thánh Thể vào chính nguồn gốc của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể chính là Chúa Kitô, Đấng tự hiến ban chính mình cho chúng ta và không ngừng xây dựng chúng ta trở thành thân thể của Ngài. Vì thế, trong liên hệ hỗ tương giữa Bí tích Thánh Thể là bí tích xây dựng Hội Thánh, với chính Hội Thánh là nơi làm nên Bí tích Thánh Thể” (số 14).

  1. Các dấu chứng Thánh Thể

Phép lạ Thánh Thể đã xảy ra trong suốt lịch sử Công giáo, liên quan đến những phẩm chất sinh học của máu, thịt hoặc cả máu và thịt của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Những sự kiện phi thường này đã giúp mọi người thấy được thực tại linh thánh của bàn tay Thiên Chúa đằng sau thế giới vật chất, nhắc nhở những người Công giáo ngày nay rằng sự sống của chúng ta còn có nhiều điều hơn những gì chúng ta chỉ có thể hiểu bằng năm giác quan của mình.

*LM Otty Ossa Aristizábal là tuyên úy của Đền thánh Đức Mẹ Finca Betania, tại Cúa, Venezuela, vào năm 1991. Trong Thánh lễ nửa đêm kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, ngày 8 tháng 12 năm 1991, Cha Otty và nhiều tín hữu hành hương đã chứng kiến ​​Mình Thánh Chúa xuất hiện một đốm đỏ, và từ đốm đó dường như có chất lỏng màu đỏ chảy ra, như thể máu đang chảy ra. Cha Otty và những người hành hương đã xác định rằng máu không phải từ vị linh mục. Sau Thánh lễ, Cha Otty đã cất Bánh Thánh an toàn trong Phòng thánh của Đền thờ qua đêm. Ngày hôm sau, Cha Otty vẫn thấy một ít máu tiếp tục chảy và bắt đầu khô. Ngài nhận thấy rằng máu chỉ chảy từ một bên, mà không thấm sang phần còn lại của Mình Thánh. Sau khi Đức Hồng Y Pio Bello Ricardo, Giám mục Los Teques lúc bấy giờ, cho phép xét nghiệm và nghiên cứu, kết quả cho thấy máu thuộc nhóm AB. Mình Thánh hiện đang được lưu giữ tại tu viện các nữ tu Augustinô Thánh Tâm ở Los Teques. Nhiều khách hành hương đến đó để tôn thờ và chầu Thánh Thể (https://veym.net)

* Vào tháng 10 năm 2006, một giáo xứ trong Giáo phận Chilpancingo-Chilapa của Mexico đã tổ chức một buổi tĩnh tâm. Trong thánh lễ, hai linh mục và một nữ tu đang trao Mình Thánh Chúa thì vị nữ tu nhìn linh mục chủ tế với đôi mắt đẫm lệ. Mình Thánh mà vị nữ tu đang cầm bắt đầu chảy ra một chất lỏng màu đỏ.

Để thẩm định tính xác thực của sự kiện này, Đức Giám Mục Alejo Zavala Castro đã yêu cầu Tiến sĩ Ricardo Castañón Gómez, người nghiên cứu phép lạ Thánh Thể ở Buenos Aires, và nhóm của ông tiến hành nghiên cứu khoa học. Năm 2013, nghiên cứu kết luận rằng: “Chất màu đỏ được phân tích tương ứng với máu có chứa hemoglobin và DNA có nguồn gốc từ con người. . . Nhóm máu là AB, tương tự như nhóm máu được tìm thấy trong Bánh thánh Lancianô và trong Tấm vải liệm Turinô” (https://www.magistercenter.com).

*Vào ngày Giáng sinh năm 2013, tại Nhà thờ Saint Hyacinth ở Legnica, Ba Lan, một bánh thánh đã được thánh hiến rơi xuống sàn. Bánh thánh được đặt vào một thùng chứa nước để hòa tan. Thay vì tan ra, Bánh thánh đó tạo thành các vết màu đỏ. Vào tháng 2 năm 2014, bánh thánh đã được nhiều viện nghiên cứu khác nhau kiểm tra, bao gồm cả Khoa Y học Pháp y ở Szczecin, tuyên bố: “Trong hình ảnh mô bệnh học, các mảnh vỡ được tìm thấy chứa các phần bị phân mảnh của cơ vân chéo, rất giống với cơ tim.” Nghiên cứu phát hiện ra rằng mô có những thay đổi vốn chỉ xuất hiện trong tình trạng rất đau đớn.

Bánh Thánh chảy máu đã được Đức Giám mục Zbigniew Kiernikowski của Legnica chấp thuận cho tôn kính vào tháng 4 năm 2016. Ngài cho biết rằng Bánh Thánh chảy máu đó “có dấu hiệu của một phép lạ Thánh Thể” (https://www.magistercenter.com).

Mẹ Têrêsa Calcutta từng nói: “Nếu chúng ta có Chúa ở giữa chúng ta, với Thánh lễ và Rước lễ hằng ngày, tôi không sợ gì cho các chị em hay cho chính mình; Ngài sẽ chăm sóc chúng ta. Nhưng nếu không có Ngài, tôi không thể - tôi bất lực” (Mother Teresa: Come Be My Light, trang 26, 1947, Brian Kolodiejchuk).

Trong mỗi Thánh Lễ, Chúa Giêsu vẫn lặp lại: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26: 26) và “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy” (Mt 26: 27-28). Và chúng ta đáp lại, không chỉ bằng việc rước lễ, mà bằng chính đời sống được “bẻ ra” cho anh em, như chính Chúa đã làm. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Mỗi Thánh Lễ là một cuộc sai đi – sai chúng ta đến với người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi” (Evangelii Gaudium, số 179, năm 2013).

Phêrô Phạm Văn Trung

THÁNH THỂ, BÀN TIỆC TÌNH YÊU

Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật sống. Khi tôi ăn uống, thức ăn, thức uống trở thành tôi. Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên… nhờ bao nhiêu chất dinh dưỡng từ chút rau xanh, cá tươi, hoa trái…

Trừ những bữa tiệc, những độ nhậu phi nghĩa, phi đạo đức, nhằm mua quan, bán chức, hối lộ, mãi lộ, nịn hót... Hoặc những bữa tiệc, những độ nhậu mà người ta dùng như một cuộc hẹn hò làm ăn, bàn tính, thậm chí qua đó, người ta lên chương trình cho cả một hệ thống phi luân lý như cùng hợp tác giết người, cướp của, bóc lột dân lành, mánh mung, trả thù, bớt xén của công, chạy chọt để thoát sự trừng trị của pháp luật…

Trừ tất cả những bữa tiệc ấy, những bữa cơm, dù toàn những thức ăn sang giàu, hay chỉ đạm bạc, đơn giản vài trái cà gém, một chút mắm tôm của những gia đình nghèo, vẫn không bao giờ mất đi tính thiêng liêng và vẻ đẹp của nó. Nó cần nhận được sự tôn trọng của mọi người như: tránh gây gỗ, cãi vã, hiềm khích, đánh đập nhau...

Câu nói nổi tiếng của ông bà từ ngàn xưa để lại cho con cháu: “Trời đánh tránh bữa ăn”, là câu nói hữu ích, có sức giáo dục lòng tôn trọng sự thiêng liêng và vẻ đẹp của bữa cơm. Những bữa cơm giàu tình yêu, nồng ấm tình gia đình, tràn ngập sự thành thực…, dù là những bữa cơm sang giàu hay đạm bạc đều là những bữa cơm quý phái, cần thiết cho cuộc đời.

Chúa Kitô nhiều lần sử dụng bữa cơm để mạc khải nhiều chân lý quý giá cho Hội Thánh. Càng suy nghĩ, ta càng nhận thấy, Chúa Kitô thật là một nhà giáo dục tài ba. Vì có lúc nào tình yêu đằm thắm, lòng người tin tưởng nhau, và là nơi trổ sinh niềm vui cho bằng bữa cơm!

Chúa dùng khung cảnh tốt đẹp của bữa cơm để nâng hôn nhân lên hàng bí tích tại tiệc cưới Cana. Chúa đã đến và dùng bữa trong nhà cô Maria, một phụ nữ tội lỗi, để tha tội cho chị, khi chị gục đầu khóc bên chân Chúa.

Và trong một bữa cơm, Chúa dạy người ta hãy ngồi vào chỗ rốt hết, vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Chúa đã ăn với các môn đệ trên biển hồ sau khi sống lại để bày tỏ mầu nhiệm phục sinh… Còn nhiều, nhiều nữa những bữa cơm mạc khải như thế.

Liên quan tới bí tích Thánh Thể, Thánh Kinh cho thấy nhiều bữa ăn mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể. Chẳng hạn hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân trong thời gian Chúa giảng dạy.

Đặc biệt, chính trong bữa ăn cuối cùng trước khi rời xa các môn đệ, Chúa Giêsu chính thức thành lập bí tích Mình Máu Thánh qua lời truyền phép mà thánh Phaolô nhắc lại trong trong bài đọc I: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” và: “Chén này là Tân Ước trong Máu Thầy. Mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 24-26).

Hôm nay, lễ Mình Máu Thánh Chúa, Hội Thánh mời gọi ta suy niệm một trong ba bữa ăn ấy. Đó chính là lần Chúa làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi sống năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ con.

Chúa không làm phép lạ chỉ như một phép lạ mà thôi, càng không bao giờ làm phép lạ để khoe mẽ tài năng của mình. Nhưng phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá, gọi về một phép lạ khác lớn lao hơn. Đó là phép lạ hóa nên Mình Máu của chính Chúa Kitô để nuôi dưỡng linh hồn con người, không phải năm ngàn hay mười ngàn, nhưng là lớp lớp người từ đời này sang đời khác.

Hóa ra phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là để hướng lòng ta về chính Bánh là của ăn muôn đời trường tồn, là Bánh bất tử đưa ta vào sự sống nhiệm mầu và vĩnh cửu của Thiên Chúa. Bánh ấy chính là Thịt Máu Chúa Kitô.

Bữa ăn Thánh Thể do Thiên Chúa dọn cho chúng ta là một cuộc hạ sinh mới trong lòng người. Nếu đã có lần Chúa Giêsu sinh ra trong trần gian một cách thể lý, thì cuộc sinh hạ của Chúa trong lòng người ta là một cuộc sinh hạ không ngơi nghỉ.

Mỗi khi ta rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mình, là mỗi lần Chúa chấp nhận giáng sinh lại trong lòng ta. Chúa chấp nhận hạ sinh lại không vì lợi ích cho riêng mình, nhưng cho chính chúng ta. Vì các của ăn phàm trần, khi ăn vào, sẽ biến thành máu thịt ta, nhưng ăn Máu Thịt Chúa Giêsu, ta được “Thiên Chúa hóa” (ngôn ngữ chuyên môn của thần học gọi là “thần hóa”), nghĩa là trở nên giống Chúa hơn.

Ngài sẽ ban cho ta sức mạnh của lòng tin, của tình mến để ta tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa, vững vàng trước mọi cám dỗ, không sa ngã và bảo vệ đức tin của mình thành toàn. Tắt một lời, Chúa Giêsu hạ sinh trong lòng ta qua bí tích Thánh Thể để ta ngày một nên thánh thiện như Chúa.

Trên mọi bữa ăn, Thánh Thể là bữa ăn của hiệp thông trong tình yêu. Cuộc hiệp thông trong tình yêu này là cuộc hiệp thông lớn lao đến mức tuyệt vời: Thiên Chúa tìm đến viếng thăm tâm hồn người thế, từ đó, con người được diễm phúc đón nhận chính Thiên Chúa vô cùng cao cả ấy.

Cuộc hiệp thông ấy vừa lớn lao, vừa lạ lùng: siêu nhiên đến với tự nhiên, Thánh ở với người, cái vô cùng ở cùng cái hữu hạn.

Một cuộc hiệp thông lớn đến thế, chỉ có thể thực hiện bởi tình yêu của Thiên Chúa mà thôi. Ngoài tình yêu ấy, không còn một sự hiệp thông nào sánh ví.

Cuộc hiệp thông cao cả như vậy, mang lại giá trị cho con người. Bởi Thiên Chúa đã không trao ban bất cứ một cái gì ngoài bản thân Ngài, nhưng là trao ban chính Con Một của mình cũng là Thiên Chúa của chúng ta.

Nơi cuộc hiệp thông được thực hiện trong tình yêu của Chúa, chúng ta kín múc nguồn hạnh phúc là chính Thiên Chúa, Đấng Tuyệt Đối.

Có ai ngờ, nơi bí tích Thánh Thể, loài người bé nhỏ là thế, lại được gần Thiên Chúa đến nỗi nên một trong nhau. Do đó, loài người không còn chỉ là thụ tạo đơn thuần, nhưng là thụ tạo mang chiều kích vĩnh cửu.

Lãnh nhận tình yêu hiệp thông nơi bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi sống yêu thương và hiệp thông với anh chị em của mình.

Kinh Tạ Ơn II nói lên điều đó: “Chúng con tha thiết nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần".

Hoặc kinh Tạ Ơn III: “Xin cho chúng con được bổ dưỡng bởi Mình và Máu Con Chúa, và được tràn đầy Thánh Thần của Người, thì trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”.

Lời cầu xin ơn hiệp thông khi cử hành Thánh Thể phải được cả cộng đoàn sống và áp dụng trên từng cá nhân.

Chính vì điều này, chúng ta có thể nói, để đánh giá sức sống của một cộng đoàn Thánh Thể, tiêu chuẩn đúng nhất là sự hiệp thông mà cộng đoàn đó thể biểu lộ.

Một cộng đoàn chia rẽ không thể nói về “một thánh lễ sốt sắng”. Cũng như mỗi thành viên trong gia đình mà chia rẻ, rạn nứt, gia đình đó, dù chuyên chăm tham dự thánh lễ, lãnh bí tích Thánh Thể đến đâu, vẫn là gia đình đánh mất ơn hiệp thông, lẽ ra phải có, nhờ Thánh Thể Chúa Kitô.

Chúng ta có những bữa cơm hằng ngày, có khi đạm bạc, có khi sang trọng. Những bữa cơm ấy là nơi gặp gỡ và nuôi dưỡng tình gia đình, tình bạn, tình lối xóm, và biết bao nhiêu thứ tình cần thiết trong cuộc sống.

Trong chiều kích thánh thiêng của tâm hồn, chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể, để múc lấy tình yêu của Thiên Chúa. Từ đó sống với anh chị em quanh mình.

Tình yêu nơi bàn tiệc Thánh Thể không đơn thuần nuôi dưỡng tình con người, nhưng đi một bước cao hơn: thánh hóa và vĩnh cửu hóa mọi tình yêu nhân loại. Tình yêu nơi bàn tiệc Thánh Thể còn thần hóa những người yêu nhau và biến họ nên đồng hình, đồng dạng với Chúa Kitô.

Vì thế, mỗi lần rước Chúa Giêsu Thánh Thể, bạn và tôi xin hãy cầu xin Chúa ban cho mình được chìm ngập trong tình yêu của Chúa, để nên một với Thiên Chúa và với anh chị em.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

LỄ CHÚA BA NGÔI: DUY NHẤT

(Chn 8, 22-31; Rm 5, 1-5; Ga 16, 12-15)

Sách Phương Ngôn còn gọi là Châm Ngôn (Proverb) nói về sự Khôn Ngoan. Người Do-thái ví sự khôn ngoan như người phụ nữ cố gắng kiên trì dẵn dắt mọi người ra khỏi con đường gian tà và tội lỗi. Trong đoạn sách Châm Ngôn hôm nay, sự Khôn ngoan được diễn tả như một nhân vật đã hiện diện với Thiên Chúa trước khi tạo dựng vũ trụ. Sự khôn ngoan ở cùng Thiên Chúa qua mọi công trình sáng tạo. Tiến trình lịch sử cứu độ được hé mở một cách rất tiệm tiến. Dân Do-thái tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và độc thần. Mầu nhiệm về Ngôi Ba Thiên Chúa được mạc khải từ từ từng bước. Hình bóng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần còn được ẩn giấu.

Nguồn Kinh Thánh mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuở xưa, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, nay Chúa dạy chúng ta qua chính Con Một của Người. Chúa Giêsu đã mạc khải về ngôi vị Thiên Chúa: Tôi và Chúa Cha là một (Ga 10, 30). Chúa Giêsu là hiện thân và là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi chúng ta biết Chúa Giêsu, là biết Chúa Cha. Thánh Luca diễn tả hình ảnh Thiên Chúa trong ngôi vị khác nhau qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Chính Chúa Giêsu đã dùng cách tuyên xưng Ba Ngôi Vị Thiên Chúa khi sai các tông đồ ra rao giảng Tin Mừng: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28, 19).

Giáo Hội tin kính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm vì sự giới hạn của ngôn ngữ, sự hiểu biết và trí khôn con người. Qua sự tìm hiểu và kinh nghiệm, chúng ta cũng chỉ học biết một chút về cơ cấu của các sự vật hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn mọi thứ từ thời gian, không gian, kiến thức hẹp hòi và sự hiểu biết nông cạn. Tin vào lời Chúa. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đòi hỏi hiểu thấu về Thiên Chúa, tôi sợ rằng đó chỉ có thể là chúa do con người nắn nên. Dựa vào lời mạc khải, Kinh Thánh không bao giờ dùng từ Chúa Ba Ngôi. Khoảng năm 115-120, thời Giáo Hội sơ khai, một triết gia tin đạo là Tertullian đã dùng từ ‘Chúa Ba Ngôi’ (Trinity) để cố gắng tìm cách đưa đức tin vào ngôn ngữ của loài người. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa Cha là ‘Abba’, thánh Tôma tông đồ khi nhận diện ra Chúa đã thưa: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi. Chúa Giêsu là Chúa và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha.

Chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự hy sinh của Chúa Giêsu chết trên cây thánh giá. Mỗi lần chúng ta ghi dấu thánh giá trên thân mình, tuyên xưng rằng: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi kết hợp trong tình yêu. Trao ban tình yêu và hiến mình vì tình yêu. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu vì tình yêu như biển trời mênh mông có thể dung chứa mọi thứ. Chúng ta được ngụp lặn trong biển tình yêu của Thiên Chúa. Tình Chúa lan tỏa như khí trời. Tình Chúa bao la hơn biển cả. Mỗi tâm hồn đều được mời gọi để mở đón tình yêu, sống tình yêu và trao ban tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn.

Qua Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta trở nên con cái và được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là những người được thừa kế ân sủng cứu độ. Mỗi người đều phải chu toàn sứ vụ Kitô hữu của mình. Đời sống người Kitô hữu phải gắn bó với tình yêu Chúa Kitô thập giá. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta đặt niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của ơn cứu độ. Hãy trông cậy vào nguồn ân sủng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống này. Tất cả qui về sự thật là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã chịu chết và sống lại để chuộc tội cho nhân loại.

Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mọi nơi và mọi lúc. Mỗi khi làm dấu thánh giá trên thân xác, xin cho chúng con ý thức và nhận biết tình yêu tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho loài người chúng con. Chúng con tôn thờ, ca ngợi và cảm tạ hồng ân Chúa đến muôn muôn ngàn đời.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Subcategories