- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
- Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Ngài quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
- Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám hy sinh mạng sống vì chiên.
- Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài (Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên: “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt (Ga 10,9.16).
Chúa Giêsu còn cho thấy tính tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi lần thứ 50 viết: “Các ơn gọi linh mục và tu sĩ được phát sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, và nhờ vào cuộc trao đổi chân thành riêng tư với Ngài, người ta đi đến chỗ đón nhận ý muốn của Ngài. Do đó, cần phải lớn lên trong kinh nghiệm đức tin, nghĩa là tăng trưởng sâu xa mối liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu, bằng cách lắng nghe tiếng nói của Ngài được vọng lên trong nơi sâu thẳm của lòng mình. Tiến trình này giúp chúng ta đón nhận lời mời gọi của Chúa, có thể phát sinh nơi cộng đoàn Kitô hữu biết sống đức tin cách mãnh liệt, quảng đại làm chứng cho Tin Mừng, nhiệt thành truyền giáo đến độ quên mình vì Nước Thiên Chúa, siêng năng nhận lãnh các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và chuyên chăm cầu nguyện”.
Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại Thánh địa Lavang.
Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3 Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.
1. Doctrine, về giáo thuyết. Mỗi Linh mục hôm nay được mời gọi nắm vững giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn Giáo hội, học thuyết xã hội của GHCG, bởi vì nếu không nắm vững những hướng đi trong đó, thì trong cách ứng xử một Linh mục ở tại giáo xứ nhiều khi có những cái chưa chuẩn mực và nếu như cả một Giáo hội mà lại không nắm vững về Doctrine này thì rất nguy hiểm, sẽ đưa Giáo hội đến chỗ không cứu vãn được. Tại sao Tòa Thánh phải lên tiếng về Giáo hội Trung Quốc? Câu trả lời cho biết vì yếu về giáo thuyết. Nếu hiểu Giáo hội không thể tự lực tự cường được thì người ta sẽ có chọn lựa khác. Chẳng phải nói đâu xa, trường hợp của GHVN ngày nay cũng cho thấy thấp thoáng nguy cơ. Hết rồi thời đối đầu, đã bước sang thời đối thoại. Nhưng đối thoại như thế nào để mình vẫn là GHCG, đó lại là cả một tuyến mở ra cho suy nghĩ và vì vậy quan trọng là nắm vững giáo thuyết để có những quyết định phù hợp.
2. Discipline, về kỷ luật. Đây là một vấn đề thường gây khủng khoảng cho các Giáo hội phương Tây. Vấn đề Linh mục lạm dụng tình dục là do việc không tuân thủ kỷ luật của Giáo hội, để đến khi bùng nổ ra thì không vớt vát được. Hiện nay ở nhiều địa phận của Hoa Kỳ đã phải bán hết cơ sở của mình đi để trang trải cho việc xao lãng kỷ luật của một thời. Đây là một vấn đề đau lòng. Do đó, tuân thủ kỷ luật đời sống Linh mục là một cách để giúp Linh mục một đàng thánh hóa bản thân và đàng khác tránh tất cả những hậu quả tai hại. Thời mới bước chân vào Chủng viện, chắc chắn các chủng sinh đều thuộc lòng câu: Ai sống theo kỷ luật là sống theo ý Chúa, và sau này trên bước đường lớn hơn, Linh mục vẫn thường được nghe nhắc nhở: hãy giữ luật thì luật sẽ giữ cho mình, sẽ bảo vệ mình. Cho nên chữ Discipline mời gọi mỗi người trong hướng đi đời Linh mục cũng gắn bó với luật lệ của Giáo hội cách khít khao.
3. Dévotion, lòng đạo đức sốt sắng. Ở đây theo như lời chú giải của ĐHY Dias, thì nó gắn liền với những phong trào đạo đức, có một thời tưởng như bị bỏ rơi vì đi liền với lòng đạo đức bình dân của đại chúng. Thí dụ: tràng hạt Mân Côi, có một thời người ta rẻ rúng cho là loại kinh dành cho phụ nữ, người nhàn rỗi, người già… nhưng sau này người ta cảm nghiệm được sức mạnh của kinh Mân Côi, nhất là sức mạnh hoán cải, sức mạnh thánh thiêng giúp người ta tiến xa trên đường nên thánh. Những cái thuộc loại Dévotion thì thường gắn liền với những hình thức văn hóa. Ví dụ: hành hương coi như chuyện đi chơi, nhưng ở đó cũng là một thứ Dévotion mời gọi Linh mục không nên xem thường. Tất nhiên không thể loại trừ những hình thức Dévotion truyền thống tôn sùng Thánh Tâm, Chầu Thánh Thể, hay là những hình thức khác nhau dành cho các Thánh. Một Linh mục mà rẻ rúng những hình thức đạo đức bình dân thì coi chừng, tưởng là mình ở trên đỉnh cao trí thức, biết đâu lúc nào đó mình rớt xuống vực mà không hay. Lần hạt Mân Côi, đó là một lời kinh tháp tùng Linh mục trên mọi bước đường, trong mọi hoàn cảnh, đó là lời kinh còn lại duy nhất sau khi đã quên đi tất cả. Gắn bó với một sự đạo đức như thế cũng là một cách giúp cho đời Linh mục được vươn lên, được thăng tiến. (x. Huấn từ khai mạc Tình tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết, ngày 10.1.2011, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Trở nên mục tử tốt lành nhờ biết trau dồi giáo thuyết Kinh Thánh (Doctrine), sốt sắng trong lời cầu nguyện gắn bó với Chúa Giêsu (Dévotion) và có tinh thần kỷ luật trong đời sống tu trì (Discipline).
Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi” (Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những Mục Tử tốt Lành mà Thánh Kinh đã mô tả :
- Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11).
- Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18, 12-13).
- Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34, 14).
- Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23, 1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (23, 4).
- Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34, 16).
- Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên” (Dc 9, 16).
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Tốt Lành, xin ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa để góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá và thông truyền đức tin Kitô giáo trong thời đại hôm nay Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Lễ Chúa chiên lành, hơn bất kỳ thành phần nào trong Hội Thánh Chúa Kitô, những nhà lãnh đạo từ cấp cao đến cấp thấp được đặc biệt chú ý, được quan tâm cầu nguyện, được "tự do" mời gọi để "xin", thậm chí "đòi" dân Chúa cầu nguyện cho mình.
Chắc chắn, ngày trọng đại này, không thiếu những lời "có cánh" trên tòa giảng để nói về nỗ lực, sự cố gắng, công sức, thậm chí công đức của các mục tử. Chúng ta không phê phán hay chê bai gì những lời giảng dạy ấy.
Tuy nhiên, dù phải cao rao, nhất là khi nói công khai, phải nói về những gương lành, gương thánh thiện, chúng ta, những mục tử của Chúa không được phép tự ru ngủ mình. Chúng ta không bao giờ được quên, bản thân mình cũng chỉ là xác đất, vật hèn.
I. TỰ Ý THỨC.
Chỉ khi nào tự ý thức thường xuyên, bền bỉ, tự ý thức như là chuyện phải ăn, phải uống hàng ngày, tôi phải nên thánh trong chức vụ, trong bổn phận, trong tư cách mục tử của tôi, khi ấy các mục tử mới có thể được xem là đi đúng đường của một mục tử, mới có thể được xem là mục tử đang đi về phía ánh sáng của ơn cứu chuộc, đang mon men đến gần sự thánh thiện của Chúa Kitô, Đấng là Mục Tử của mọi mục tử.
Chỉ có tự ý thức không mệt mỏi nhưng lâu bền như thế, người mục tử mới mong có thể tự giáo dục, tự đào tạo nhằm thiết lập cho mình tập quán, đời sống, thói quen, nhất là phản xạ của người đang có "chất thánh", thuộc về "thế giới thánh".
Vì nếu bên trong không có "thánh", thì dù bên ngoài có "tô vẽ", có "gượng gạo" để "tạo hình", không sớm thì muộn cũng sẽ lồ lộ vẻ xù xì, lồ lộ cái "không thật" của một "vị thánh" đang cố làm cho... có "thánh"...
Nỗ lực của bản thân quyết bước theo ơn gọi nên thánh, đó là chọn lựa cần thiết và là chọn lựa đúng đắn không phải ngày một ngày hai, nhưng phải là sự quyết đoán cho cả một đời làm người và từng ngày trong trách vụ.
Vì thế để sống cho chọn lựa ấy là cả một sự hiến tế suốt đời. Đã là sống hiến tế đời mình, hiến tế ấy không đơn giản, không dễ dàng chút nào. Nó đòi hỏi chấp nhận đau đớn, hy sinh, thua thiệt, từ bỏ…
Trên hết là trung thành với tình yêu dành cho chính chọn lựa nên thánh. Cần luôn sống hiến tế để hoàn thành chọn lựa. Sự hiến tế chính là nỗ lực của bản thân dấn bước theo Chúa trên đường nên thánh.
Bởi trên đường tiến tới trọn lành, nỗ lực của bản thân là điều cầng thiết. Nó làm nên yếu tố quyết định cho sự tồn tại trong Thiên Chúa của chính bản thân.
II. ĐỂ NÊN THÁNH, KHÔNG CHỈ CÓ BẢN THÂN.
Bên cạnh sự tự ý thức để nên thánh trong bổn phận hiến tế, các mục tử càng phải chân nhận, họ không nên thánh một mình. Ơn cứu độ không bao giờ là của cải độc quyền. Trên đường nên thánh có anh chị em cùng bước đi với mình. Ngoài anh chị em, sẽ còn rất nhiều những yếu tố khác, Thiên Chúa dùng để tác thánh. Chẳng hạn:
- Tình yêu của Chúa và ơn Chúa ban: Dù cho nỗ lực của bản thân là cần thiết. Nhưng không thể loại trừ tình yêu và ơn của Chúa.
Bởi nếu Chúa không yêu thương, không chia sẻ sự thánh thiện của Chúa cho ta, nỗ lực của ta chỉ là công “dã tràn se cát”.
Mặt khác, dù đã quyết tâm để nỗ lực hiến tế đời mình cho ơn gọi nên thánh, trước sau ta vẫn mang kiếp người yếu đuối, vẫn là một thụ tạo thấp hèn. Nếu Chúa không yêu thương tha thứ, nếu Chúa không tuôn đổ muôn ơn gìn giữ, ta sẽ không bao giờ có thể tự mình thánh thiện.
- Ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện trong Hội Thánh: Nếu chúng ta có tự hiến tế đời mình, thì hiến tế ấy vẫn là nối tiếp hiến tế của Chúa Kitô. Hiến tế của ta phải hội nhập hiến tế của Chúa Kitô, mới làm thành hiến tế cứu độ, mang lại hiệu quả cứu độ cho ta.
Nhưng đó vẫn chưa phải là điểm kết. Bởi Chúa Kitô đã trao ban kho tàng ơn cứu độ từ hiến tế của Ngài cho Hội Thánh, vì thế, vâng lời Hội Thánh dạy, sống theo giáo huấn của Hội Thánh và gắn bó đời mình với mọi chiều kích của Hội Thánh, ta sẽ lãnh lấy ơn cứu độ của Chúa Kitô. Đường nên thánh của các Kitô hữu, phải có Chúa Kitô và Hội Thánh của Ngài làm định hướng để ta bước tới.
- Lời cầu nguyện, sự hy sinh của các linh hồn và của mọi anh chị em: Đây cũng là một trong những yếu tố không thể không kể đến.
Với kinh nghiệm của riêng bản thân, tôi thấy, tôi phải biết ơn nhiều anh chị em. Họ có thể là những người tôi biết mặt, biết tên, nhưng cũng có thể là những người xa lạ hoàn toàn với tôi, âm thầm cũng có, sôi nổi cũng có, trung thành cả một đời, hay một giai đoạn cần thiết nào đó, hy sinh và cầu nguyện cho tôi, cho mọi người, cho các linh mục và tất cả những ai thánh hiến cho Thiên Chúa.
Tôi hiểu rất rõ, sự nên thánh của tôi có tất cả các anh chị em ấy, dù họ còn sống hay đã qua đời.
Bản thân tôi, đã không ít lần xin anh chị em cầu nguyện cho mình. Nhất là khi viếng thăm những gia đình khổ sở, những cá nhân gặp tai ươn, hay thăm các bệnh nhân, khi dâng thánh lễ hay làm các phép cuối cùng để tiễn biệt những người rời bỏ cuộc sống để về Nhà Cha…, tôi đều xin các anh chị em ấy cầu nguyện cho tôi.
Cũng thế, bản thân tôi đã nhiều lần hy sinh và cầu nguyện đặc biệt cho nhiều người, cũng có khi cầu nguyện chung chung cho các linh hồn, cho cả Hội Thánh, cho tất cả mọi người và cho thế giới… Tôi tin rằng trong sự thánh thiện của nhiều anh chị em, đều có bản thân tôi góp phần.
Vì thế, tôi quả quyết một cách mạnh mẽ, trên đường đạt tới ơn gọi nên thánh, tôi không đi một mình, nhưng còn có biết bao nhiêu anh chị em của tôi cùng tiến bước.
Tôi không lẻ loi, càng không bao giờ cô đơn trong cuộc đời, vì tôi tin, mọi nẻo đường tôi sống, dẫu có lúc vấp váp, cả đến tội lỗi, thì trong ý hướng ngay lành của bản thân, vẫn là tìm về Thiên Chúa, vẫn là cùng song hành với Chúa, với tình yêu, với ân huệ của Ngài, cộng với biết bao nhiêu sự trợ lực của mọi anh chị em xung quanh.
Chúa Kitô chính “là Đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6) của chúng ta. Bước theo Chúa Kitô là bước vào con đường nên thánh như chính Ngài mời gọi: “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành”.
Nhưng bước theo Chúa Kitô để nên thánh cũng đồng nghĩa với việc can đảm đặt dấu chân đời mình vào dấu chân thánh giá mà Chúa đã mang, đã gánh bằng tất cả tình yêu và lòng vâng phục.
Nên thánh là trở nên giống Chúa Kitô. Vì thế, nên thánh là con đường khó, là đi vào lối hẹp, là hoàn thành cây thánh giá đời mình trong tình yêu và vâng phục như Chúa Kitô.
Xin Chúa ban cho ta hạnh phúc được vác thánh giá với Chúa. Xin Chúa ban cho ta bình an để chấp nhận thánh giá trong đời mình, để nên giống Chúa và giống như “Cha trên trời là Đấng trọn lành”.
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG