3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Cửa hẹp đưa đến hạnh phúc

Khi có người hỏi: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát thôi, phải không" Chúa Giê-su không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít là tuỳ vào sự định đoạt của mỗi người. Và nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su chỉ dạy một lối đi giúp cho con người đạt được ơn cứu độ: Đó là đi vào cửa hẹp. Ngài nói: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”

Thế là, muốn vào Nước Trời, muốn nhận được ơn cứu độ, phải theo cửa hẹp, đường hẹp mà vào.

Nhưng tại sao phải đi vào cửa hẹp?

Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Ngài quy định cho nó phải quay quanh mặt trời theo một quỹ đạo nhất định và không bao giờ được đi trệch ra ngoài. Thế là trái đất phải quay theo đúng quỹ đạo Chúa vạch ra cho mình không hề sai lệch.

Bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc sống sẽ ổn định, hài hoà. Nhưng giả sử trái đất không đi theo quỹ đạo gò bó, chật hẹp nầy, mà đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải mái, thì đó là ngày tận cùng của thế giới!

Trong lĩnh vực giao thông đường sắt, nhà thiết kế đã tạo ra hai đường ray chật hẹp cho con tàu chạy trên đó. Bao lâu con tàu nương theo hai đường sắt chật hẹp ấy mà tiến tới, thì nó sẽ về ga cuối an toàn. Nhưng nếu đầu tàu muốn thoát ra khỏi hai đường sắt gò bó, để được tự do trên những con đường thênh thang, để băng mình qua những cánh đồng bát ngát, thì nó sẽ gây ra thảm họa đau thương!

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa cũng vạch ra cho họ một “quỹ đạo”, đó là quy luật yêu thương. Đây cũng là con đường hẹp, vì muốn sống yêu thương thì phải từ bỏ lòng tham lam ích kỷ, phải quên mình để phục vụ tha nhân. Nhưng nếu con người đi trật ra ngoài “quỹ đạo yêu thương”, họ phải nhận lấy hậu quả vô cùng tai hại.

Đường hẹp đưa đến vinh quang

Con đường hẹp của học sinh, sinh viên, của nhà nghiên cứu là gác bỏ những thú vui và nếp sống an nhàn… để miệt mài nghiên cứu học tập, nhờ đó, họ đạt được những thành quả lớn lao.

Nói chung, bất kỳ một thành tích hay một kết quả lớn lao trong bất cứ lĩnh vực nào cũng chỉ được gặt hái bằng những hy sinh phấn đấu, bằng những nỗ lực kiên trì, tức là phải thông qua đường hẹp mới đạt được chúng.

Không theo đường hẹp là tự rước hoạ cho mình

Nếu mỗi người chúng ta không đi theo đường hẹp Chúa Giê-su đề nghị mà cứ sống buông thả theo đam mê dục vọng hư hèn của mình, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường ray; chúng ta sẽ gánh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có nài van với Chúa rằng:  “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!”, thì Chúa sẽ bảo: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” và “bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng...” (Lc 13, 28)

Lạy Chúa Giê-su,

Mặc dù là Thiên Chúa cao cả và quyền năng, thế mà Chúa cũng đã chọn con đường hẹp, là tự xóa bỏ mình đi, trở thành tôi tớ trung thành của Thiên Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết. (Philip 2: 6-11)

Xin cho đoàn con biết vâng theo lời Chúa dạy, noi theo việc Chúa làm để đi theo con đường hẹp mà Chúa mời gọi, là sống theo luật yêu thương bác ái, nhờ đó, chúng con  sẽ được an bình hạnh phúc đến muôn đời.

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Hy sinh mười ngàn đô

Anh Hướng đã chia sẻ kinh nghiệm anh sống liên quan tới "cửa hẹp" (c.24) trong bài Tin Mừng hôm nay như sau.

Đã 32 năm nay anh vẫn làm cho một công ty. Trong những năm ấy, 5 lần anh được đề cử thăng chức. Nếu nhận, anh sẽ không có đủ thời giờ cho vợ và 4 con trai của anh vì anh sẽ phải làm các ngày cuối tuần nữa. Bù vào đó lương anh sẽ được tăng thêm mười ngàn đô. Nhưng anh Hướng đã khước từ vì tin rằng "tình yêu" mà anh dành cho vợ con quí giá hơn nhiều.

Cách đây hai năm ban điều hành của công ty một lần nữa, đề cử để anh được thăng chức. Lần này anh nhận, lý do vì các con anh đã khôn lớn mà vợ anh lại không thể đi làm được. Không may cho anh là vào đúng thời gian ấy, người chị ruột của anh qua đời khiến anh không chú tâm học hành được nên về cuối khóa anh đã thi rớt. Trở về công ty anh bị ông giám đốc quăng hồ sơ lên bàn rồi giận dữ nói: "Đáng lý tôi không cho anh đi học. Đáng lý ra tôi không nghe lời ai hết. Anh đánh mất cơ hội cuối cùng này của anh rồi, biết chưa!"

Thật là ê chề nhục nhã cho anh Hướng. Anh chia sẻ nguyên văn như sau: "Lòng tôi tan nát. Điều đáng buồn là tôi đã để cho lời lẽ ông giám đốc hủy diệt tôi. Mọi sự đều trở nên vô nghĩa. Ý chí quyết tâm phụng sự Chúa bấy lâu nay bỗng trở nên vô dụng. Tôi thấy tôi không thể nào bước theo Chúa trong tình trạng này. Tôi tự hỏi "Tại sao lại xảy ra việc này?" Có vẻ như tôi không còn có thể yêu thương được nữa. Tệ hơn nữa là tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Cái chết của người chị làm tôi đau khổ nay lại đưa đến việc ông chủ hạ nhục tôi."

"Mọi sự như sụp đổ quanh tôi. Tôi thấy tôi không còn đối diện được với việc làm ở sở cũng như với gia đình và cuộc sống. Tôi ngại ra khỏi giường mỗi sáng và chỉ muốn thu mình để tránh né thế giới bên ngoài. Mỗi khi gặp mặt ông giám đốc, tôi càng thấy thêm phẫn uất tức giận. Tôi trở nên cay đắng thù hằn. Suốt đời tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế đối với ai cả. Tôi thấy tôi có bổn phận yêu thương nhưng vẫn bướng bỉnh cãi lại."

Chọn theo một con người bị bỏ rơi

"Ngày kia tôi phải thú thực với vợ tôi: Anh không thể sống nổi mãi thế này. Vợ tôi chú ý lắng nghe và đề nghị cùng nhau cầu nguyện để xin Chúa giúp sức. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện và khi ấy tôi biết mình phải chọn theo Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Tôi cảm thấy được bình an và mạnh mẽ hơn."

"Ngày kia khi rời khỏi văn phòng ông giám đốc, tôi cảm thấy có sức thôi thúc tôi quay lại nói với ông: "Tôi xin thưa là không phải tôi muốn lên án ai hoặc xin xỏ điều gì. Sau khóa huấn luyện khi ông nói chuyện với tôi, tôi bị mất tinh thần đối với công ty. Tôi trở nên oán hờn và nhiều lần tôi đã có những thái độ không tốt đối với ông."

"Ông giám đốc ngắt lời anh Hướng khi nói: "Tôi chẳng bao giờ cố y làm cho anh buồn. Anh biết tôi giận thì la lối rồi sau lại quên ngay." Khi anh Hướng xin ông giám đốc tha cho anh về cách anh đối xử với ông ta thì người đàn ông thường có vẻ lạnh nhạt ấy đã ứa đầy nước mắt. Ông thinh lặng một lúc rồi cất tiếng: "Tôi xin lỗi ông, tôi thật không ngờ việc tôi làm khiến ông phải buồn phiền." Rồi ông bắt đầu thăm hỏi về tôi và gia đình tôi một cách thân mật. Tôi thấy chúng tôi đã nối lại được nhịp cầu đã đứt đoạn."

Điều bất ngờ xảy ra là khi ông giám đốc về hưu, một người đàn ông trẻ hơn nhiều, đứng đầu công ty. Anh chỉ mới có 32 tuồi. Vì thiếu kinh nghiệm, anh gặp khó khăn. Anh đã xin gặp riêng tất cả các nhân viên trong công ty, mỗi lần bốn người. Chỉ có anh Hướng một mình được ông giám đốc mới mời riêng tới văn phòng để gặp. Kết quả là anh đã được gởi đi học một khóa huấn luyện rồi được thăng chức một cách ngon lành.

Câu chuyện kể trên gợi ý để ta suy nghĩ về cửa hẹp trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu khuyến cáo ta "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào" (c.24). Nhưng lời dạy đó được nêu trong bối cảnh nào? Làm thế nào hiểu và áp dụng lời khuyên đó một cách chính xác? Nhất là ta được Chúa Giêsu khuyến cáo phải chiến đấu để qua cửa hẹp nhằm đạt tới điều gì đáng kể?

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy đây là lần thứ hai tác giả Luca nhắc nhớ ta về cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm tới đích điểm là Giêrusalem (c.27).

Luca cho thấy khó khăn và thử thách

Lần thứ nhất Luca gắn liền Giêrusalem dưới đất với Giêrusalem trên trời, dĩ nhiên ngang qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Đó là lúc Luca trịnh trọng loan báo: "Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem" (9,51). Ngay ở lần loan báo đầu tiên về cuộc hành trình đi Giêrusalem, Luca đã cho thấy khó khăn và thử thách. Thoạt tiên Đức Giêsu và các môn đệ bị một làng Samari từ khước (cc. 53-54). Kế đến chính Đức Giêsu muốn thách đố những ai muốn bước theo Người. Người thứ nhất xin theo liền được cho biết rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." Người thứ hai xin về chôn táng cha già trước đã, thì đã không được phép vì "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa." Người thứ ba cũng được yêu cầu phải có thái độ dứt khoát vì "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." (cc. 57-62).

Bây giờ là lần thứ hai, Luca cho biết Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem (c. 22). Vấn đề được nêu trầm trọng hơn lần thứ nhất nhiều với câu hỏi "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?" (c.23). Bởi lẽ ơn cứu thoát nói đây là chính sự sống còn của con người, tức là ơn cứu độ, chứ không phải chỉ là vấn đề từ bỏ mọi sự hoặc phải từ bỏ ngay như nói ở trên (Lc 9,56-62).

Chính Đức Giêsu là cửa hẹp

Và để trả lời, Đức Giêsu đòi hỏi một sự chính xác. Người muốn người ta nhắm thẳng bản thân Người theo bề sâu, tức là biết Người. Không có gì có thể thay thế được cái biết nội tâm đó. Cho nên cả những kẻ sống sát bên Người, "ăn uống trước mặt Người, và Người cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố" của họ (c.26), họ cũng vẫn bị loại ra ngoài nếu họ thực sự không biết Người.

Như vậy, chính Đức Giêsu là cửa như Người tuyên bố trong Tin Mừng của Gioan: "Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu." (Ga 10,9). Cửa hẹp trong Luca còn có ý nói về chính bản thân Đức Giêsu chứ không thể là ai khác. Điều này Tin Mừng của Gioan cũng nói rõ với lời tuyên bố của Đức Giêsu là "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Đức Giêsu còn là cửa hẹp theo nghĩa Tân Ước như lời tông đồ Phêrô lớn tiếng công bố trong ngày lễ Ngũ Tuần rằng: "Toàn thể nhà Israen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô" (Cv 2,36) và "Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ." (4,16).

Biết Đức Giêsu nơi con tim

Nhưng như vậy thì phải cắt nghĩa thế nào về Tin Mừng của Matthêu về cuộc phán xét chung? Nếu biết Đức Giêsu là điều kiện tiên quyết để vào hưởng Nước Thiên Chúa, theo bài Tin Mừng hôm nay, thì phải hiểu như thế nào về tình trạng hết sức sửng sốt của những người công chính chưa hề nhận biết Chúa khi họ thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, v.v… (Mt 25,37tt)? Thưa, những người công chính ấy đã được biết Đức Giêsu tận gốc do họ được đánh động bởi chính Thần Trí của Đức Giêsu phục sinh là Thần Trí luôn được ban cho họ để giúp họ làm việc lành. Họ không chỉ biết Đức Giêsu theo cái biết hời hợt nông cạn theo ý nghĩ mà thôi, nhưng còn biết Người thâm sâu nơi con tim mình.

Quả thật, cũng chính cái biết nội tâm ấy đã giúp anh Hướng sống tinh thần chiến đấu để vào cửa hẹp. Anh và vợ anh đã cùng nhau cầu nguyện xin Chúa giúp sức để lướt thắng cơn khủng hoảng. Nhờ vậy anh nhận ra mình phải chọn theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Đó là lúc anh được bình an và có sức mạnh để giải quyết trực diện vấn đề khó khăn với ông giám đốc nơi sở làm việc của anh.

Một số câu hỏi gợi ý

1. Trong câu chuyện anh Hướng chia sẻ, anh đã chọn dành thì giờ mỗi cuối tuần cho vợ con thay vì nhận làm việc thêm cuối tuần để lương được thêm 10 ngàn đô. Bạn nghĩ chọn lựa như anh Hướng, theo cái nhìn của bạn, có lợi hay có hại? Theo cái nhìn của những người cùng xóm ngõ của bạn thì chọn lựa ấy đúng hay sai?

2. Dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay, bạn thấy anh Hướng đã phấn đấu để sống tinh thần "cửa hẹp" như thế nào?

Lm Augustine S.J
VietCatholic Network

VỰC KHIÊM HẠ

Thứ Bảy Tuần 20 Thường Niên C

“Ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên!”.

Ngày kia, khi còn trai trẻ, Benjamin Franklin - ông tổ lập quốc Hoa Kỳ - tràn đầy nhiệt huyết, chân bước sải đến thăm một bậc vị vọng. Vào nhà, Franklin vấp đầu vào một khung cửa khá thấp, đau điếng. Chủ nhà thấy bộ dạng nhăn nhó của người bạn trẻ, liền xuýt xoa, “Đau lắm? Tuy nhiên, đây là thu hoạch lớn nhất của cậu khi đến thăm tôi. Cậu biết, một người muốn bình an, hãy luôn ghi nhớ một điều, ‘Hạ mình xuống!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến hạ mình, không chỉ để bình an, nhưng để cứu mình và cứu người khác. Và sẽ rất bất ngờ khi chúng ta khám phá ra rằng, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa lại là con cháu của một goá phụ ‘mót lúa’. Ngài tự hạ tận ‘vực khiêm hạ’ để cứu độ chúng ta.

Thánh Bernard Clairvaux sánh người khiêm nhượng như lũng sâu, kẻ kiêu hãnh như đỉnh núi. Xuân về, tuyết tan; nước trôi xuống chứ không ngược lại. Người kiêu căng ở vào vị thế không có khả năng giữ lấy ân sủng; đang khi, ở chân núi, người khiêm nhượng nhận được trọn vẹn ân sủng Chúa. Họ sinh hoa kết trái bốn mùa, làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc đời. “Ân sủng, như dòng nước, luôn tìm đến chỗ thấp nhất!” - Andrew Murray.

Bài đọc một nói về gốc gác ‘Bà Tổ’ của Chúa Giêsu. Đó là một nàng dâu ngoại kiều hiền thảo, một goá phụ xinh đẹp có tên là ‘Cô Rút’. Thánh Kinh coi nàng “đáng quý hơn bảy người con trai”. Nàng không bỏ quê chồng theo sự rộng lượng của mẹ chồng. Ngày kia, cô được phép đi mót lúa và ‘mót luôn’ trái tim Bôát, làm bạn với ông, sinh “Obed, vốn sẽ là thân phụ Giessê, ông nội Đavít”, tổ tiên của Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu. “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến những người “ưa ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường” - cũng là những lãnh đạo “nói mà không làm!”. Ở đây, Ngài dạy sự khiêm nhượng. “Sự cao cả thật không ở chỗ ngồi ghế đầu bàn tiệc, nhưng ở chỗ phục vụ những người ngồi tận cuối!” - Fulton Sheen. Phần chúng ta, việc sống theo sự thật không phụ thuộc vào việc người khác có sống nó hay không, nhưng phụ thuộc vào việc nó giúp bạn nên thánh hơn đến mức nào; vì lẽ, các giáo huấn không phải của ai, mà là của Chúa.

Anh Chị em,

“Ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên!”. Con Thiên Chúa xuống trần, nhập đoàn với cháu chắt của một ‘Bà Tổ’ ngoại giáo goá bụa; chấp nhận hết khinh khi này đến khinh dể nọ cũng vì gia tộc không chút tiếng tăm. Cuối cùng, Ngài xuống tận ‘vực khiêm hạ’ khi chết trên thập giá để trở nên căn nguyên ơn cứu rỗi đời đời cho nhân loại. Rõ ràng, sự khiêm hạ của Ngài - quyến rũ lớn nhất của mọi quyền năng - mời gọi chúng ta nên giống như Ngài để được bình an, cứu được mình và cứu cả người khác. “Đức Kitô đã chọn con đường xuống thật thấp, để mọi kẻ bé mọn và hèn yếu đều có thể được nâng lên với Ngài!” - Fulton Sheen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khiêm hạ - quyến rũ lớn nhất của mọi quyền năng. Đừng để kiêu căng đẩy con xa Chúa, xa anh em; như thế, chẳng cứu được mình, không cứu được ai!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

CỬA VÀO NƯỚC TRỜI LÀ CỬA HẸP

Hôm nay thánh Luca kể lại, trong hành trình Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem: “Có kẻ hỏi Ngài: Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13:23). Đây là một câu hỏi không chỉ của người Do Thái thời Chúa Giêsu, mà cũng là của chúng ta hôm nay. Ai sẽ được cứu? Nhiều hay ít người được vào Nước Trời?

Câu trả lời của Chúa Giêsu không nói gì đến số lượng, nhưng hướng đến thái độ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24). Như thế, vấn đề không phải là “nhiều hay ít”, mà là mỗi người có can đảm bước đi con đường hẹp, con đường đức tin, từ bỏ, trung thành, để được tham dự vào bàn tiệc Nước Trời hay không. Lời Chúa mở ra một viễn tượng phong phú: ơn cứu độ là phổ quát cho muôn dân, nhưng để được tham dự, con người phải chiến đấu để qua được cửa hẹp và chấp nhận sự sửa dạy yêu thương của Thiên Chúa.

  1. “Cửa hẹp” là một thái độ sống đức tin thật sự

Khi hỏi Chúa Giêsu “Bao nhiêu người sẽ được cứu?”, người hỏi cho rằng sự cứu rỗi của dân Israel hầu như được đảm bảo, miễn là họ tuân giữ Lề Luật Môsê. Nói cách khác, Vương quốc của Chúa chỉ dành riêng cho người Do Thái, và dân ngoại sẽ bị loại trừ. Sách giáo lý Do Thái, Mishnah, dạy rằng: “Tất cả người Israel đều có phần trong thế giới mai sau.” Do đó, câu trả lời của Chúa Giêsu hẳn đã gây sốc. Chúa Giêsu khẳng định rằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được hưởng sự sống đời đời, và Ngài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải trung thành và cảnh giác liên tục trong suốt cuộc đời chúng ta. Chúa Giêsu nhắc nhở rằng, mặc dù Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta được cứu, nhưng tất cả chúng ta cần phải nỗ lực vì điều đó. Chúa Giêsu nói rõ: “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13:24). Đây là một lời cảnh tỉnh. Không phải nghe giảng, “gần gũi Chúa” theo kiểu lễ nghi bên ngoài là đủ: “Bấy giờ anh em mới nói: Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”  (Lc 13:26). Nhưng Ngài sẽ đáp: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:26–27).

Việc vào Nước Trời không phải được ban cho cách đương nhiên, chỉ dựa trên danh xưng tôn giáo, chủng tộc  hay quốc tịch. Người ta không thể ỷ lại vào lòng thương xót của Thiên Chúa mà không làm gì để đáp lại lời mời gọi của Ngài. Chúa Giêsu tuyên bố rằng không ai có thể tự cho rằng mình đã được “thị thực cứu rỗi”. Ai sẽ được cứu rỗi là một quyết định thuộc về Thiên Chúa, tùy thuộc vào Công Lý và Lòng Thương Xót của Ngài.

Đức tin không phải là hình thức bên ngoài, một vé máy bay mua trước hay một thứ “thẻ căn cước” tôn giáo giữ sẵn cho chúng một chỗ trên thiên đàng. Đức tin là hành trình bước theo Chúa Kitô, bước qua một cánh cửa hẹp. Nói cách khác, “cửa hẹp” chính là quyết tâm liên lỉ từ bỏ chính mình hằng ngày để sống trung tín, yêu mến Thiên Chúa và những người chung quanh.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói: “Đừng sợ: Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn. Hãy can đảm, hãy can đảm bước qua cánh cửa của Ngài. Mọi người đều được mời gọi bước qua ngưỡng cửa này, bước qua ngưỡng cửa đức tin, bước vào cuộc đời Ngài và để Ngài bước vào cuộc đời chúng ta, để Ngài biến đổi, đổi mới và ban cho nó niềm vui trọn vẹn và lâu dài…Chúng ta đừng sợ bước qua ngưỡng cửa đức tin vào Chúa Giêsu, để Ngài ngày càng bước vào cuộc đời chúng ta, và chúng ta bước ra khỏi sự ích kỷ, khép kín, thờ ơ với tha nhân để Chúa Giêsu soi sáng cuộc đời chúng ta bằng một ánh sáng không bao giờ tắt” (Kinh Truyền Tin, Chủ Nhật, 25 tháng 8 năm 2013).

  1. Ơn cứu độ dành cho muôn dân – viễn tượng Isaia

Thông điệp Tin Mừng của Chúa Giêsu là không một người nào, không một dân tộc, quốc gia, chủng tộc hay giai cấp nào, bị loại trừ khỏi tình yêu và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng. Chính trong thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã mở ra viễn tượng rộng lớn đó: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ… Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta” (Is 66:18–19).

Thiên Chúa không chỉ muốn cứu một số người, nhưng là tất cả. Đây là tầm nhìn phổ quát của Kinh Thánh. Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về các dân ngoại được dẫn về Giêrusalem, thậm chí được chọn làm tư tế và thầy Lêvi (Is 66: 21). Đối với người Do Thái, đây hẳn là một chướng kỳ. Nhưng đó chính là sự đảo ngược mà Chúa Giêsu cũng nhắc đến: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13: 29).Thánh Phaolô cũng nói: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2: 4).

Thánh Irênê, giám mục Lyon, trong chuyên luận “Chống lạc giáo”, được viết vào năm 185, đã thốt lên những lời đáng kinh ngạc này: “Gloria Dei vivens homo - Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống” (Chống lạc giáo IV, 20,7). Ơn cứu độ chính là sự sống chan chứa mà Thiên Chúa muốn trao cho nhân loại.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhắc lại điều này: “Sự cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện và Hội Thánh vui mừng loan báo là ơn được dành cho hết mọi người. Thiên Chúa đã tìm ra một cách để kết hợp với mọi con người trong mọi thời đại. Ngài đã quyết định kêu gọi họ trong tư cách một dân tộc chứ không phải từng cá nhân riêng lẻ…Đức Giêsu không bảo các môn đệ hợp thành một nhóm ưu tú và độc quyền. Ngài nói: “Không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, ... vì tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô” (Gl 3: 28). Với những ai cảm thấy xa cách Thiên Chúa và Hội Thánh, với tất cả những ai sợ hãi hay dửng dưng, tôi muốn nói thế này: với đầy lòng tôn trọng và yêu thương, Chúa cũng đang kêu gọi anh chị em trở thành dân của Ngài!” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 113).

Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, nhưng con đường cứu độ đó không phải chuyện dễ dãi. Thánh Phaolô giải thích: “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Ngài mới cho roi cho vọt” (Hípri 12: 6). Ngài khích lệ: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.” (Hípri 12: 11). Vì thế, ta được mời gọi kiên trì, nâng đỡ nhau: “Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ” (Hípri 12: 12). 

Cửa hẹp chính là sự thanh luyện trong thử thách và đau khổ. Nhưng thử thách không phải là dấu hiệu Chúa bỏ rơi, mà là bằng chứng của tình yêu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy: “Trong chương trình cứu thế của Chúa Kitô, đồng thời cũng là chương trình của Vương quốc Thiên Chúa, đau khổ hiện diện trên thế giới để giải phóng tình yêu, để khai sinh những công trình yêu thương đối với tha nhân, để biến đổi toàn bộ nền văn minh nhân loại thành một "nền văn minh tình yêu". Trong tình yêu này, ý nghĩa cứu độ của đau khổ được hoàn thành trọn vẹn và đạt đến chiều kích quyết định của nó” (Tông thư Salvifici Doloris, số 30). Ơn gọi của các Kitô hữu là loan báo cho mọi người Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian, và làm chứng cho Tin Mừng này qua đời sống yêu thương, chia sẻ và phục vụ.

  1. Đảo ngược giá trị: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết”

Một trong những câu gây sốc là: “Có những kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Lc 13: 30). Đây là sự đảo ngược mọi tiêu chuẩn thế gian: địa vị, dòng dõi, quyền thế không bảo đảm được gì.

Điều này khớp với viễn tượng Isaia: dân ngoại, vốn bị coi là “sau hết”, nay được chọn để bước vào vai trò thánh thiêng. Và điều này vẫn đúng cho Giáo hội hôm nay: ai tưởng mình “trước hết” dễ sa vào tự mãn, còn ai khiêm nhường sẽ được Thiên Chúa nâng lên.

Ngôn sứ Isaia kết thúc bằng một viễn tượng hy vọng: “Vì trời mới đất mới do chính Ta làm ra tồn tại trước mặt Ta thế nào, sấm ngôn của Chúa, thì dòng dõi và tên tuổi các ngươi cũng sẽ tồn tại như vậy” (Is 66: 22). Đó chính là lời hứa vĩnh cửu. Ơn cứu độ không dành cho một nhóm nhỏ, nhưng mở ra cho tất cả những ai can đảm bước qua cửa hẹp, kiên trì trong tình yêu, và đón nhận sự sửa dạy của Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Trong Nước Trời, không có người thất nghiệp, mọi người đều được kêu gọi đóng góp phần của mình; và cuối cùng, tất cả mọi người sẽ được đền bù bởi sự công bằng của Thiên Chúa, không phải công bằng của con người, thật may mắn cho chúng ta! Đó là ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã mang lại cho chúng ta qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Một ơn cứu độ không phải do xứng đáng, nhưng được ban tặng, ơn cứu độ là miễn phí, “những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Kinh Truyền Tin, 24.09.2017).

Một lần kia, tại một giáo xứ nhỏ vùng quê, cha xứ tổ chức Thánh lễ tạ ơn để ghi nhận công lao của những người âm thầm phục vụ giáo xứ. Nhiều người trong cộng đoàn nghĩ rằng những người được xướng tên đầu tiên chắc chắn sẽ là các ân nhân giàu có, hoặc những người có uy tín và chức quyền.

Nhưng thật bất ngờ, cha xứ lại mời lên trước cộng đoàn một cụ bà nghèo, quanh năm ngày tháng chỉ lặng lẽ quét sân nhà thờ, dọn dẹp ghế bàn. Bà cụ ngỡ ngàng, lúng túng, cúi mặt vì không bao giờ nghĩ rằng mình đáng được gọi tên. Cha xứ mỉm cười nhỏ nhẹ nói: “Trong mắt người đời, bà chỉ làm những việc nhỏ bé và âm thầm. Nhưng trong mắt Thiên Chúa, bà lại là người đã trung tín và khiêm nhường nhất. Dĩ nhiên còn nhiều người khác cũng được Chúa cùng cộng đoàn ghi nhận và cám ơn, nhưng chính những người như bà mới là những người thật sự sẽ lên hàng đầu.”

Xin Chúa cho chúng con biết bước đi trên con đường hẹp mỗi ngày, nhưng đầy hy vọng vào lời Chúa hứa, để cùng với mọi người và muôn dân tộc, được ngồi chung nơi bàn tiệc Nước Trời, nơi “có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu” (Lc 13: 30).

 

Phêrô Phạm Văn Trung 

 

SỨ MỆNH

(Gr 38, 4-6. 8-10; Dt 12, 1-4; Lc 12, 49-53)

Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Jerusalem khoảng năm 627 tới sau năm 587 trước Công Nguyên. Tiên tri đã cảnh báo thần dân, vì tội lỗi mà họ đã phạm đến Chúa. Dân thành sẽ bị phá hủy bởi vua Nebuchadrezzar, người Babylon. Khi nghe cảnh cáo, nhiều nhà chức trách đạo đời cảm thấy khó chịu và muốn diệt trừ tiên tri Giêrêmia. Tuy nhiên, trong số đó có những người trung thành và biết lắng nghe lời sự thật. Thay vì bỏ mặc tiên tri để chết trong giếng cạn, vua đã truyền cứu ngài ra khỏi giếng.

Trong cuộc sống, chúng ta luôn phải đối diện với hai chọn lựa: Tốt xấu, phải trái, lành dữ, đúng sai, yêu ghét và tội phúc… Dù tốt hay xấu, phía nào cũng có người phò theo. Phe lành và phe dữ song hành trong cuộc sống như bóng tối và ánh sáng. Làm sao chúng ta có thể rút ra những nhận định đúng đắn trong xã hội vàng thau lẫn lộn? Vì mỗi bên, mỗi phía đều có chia sẻ ít nhiều sự tốt lành và xấu dữ. Đâu là chân lý? Mỗi xã hội con người có những chủ trương riêng biệt. Văn hóa này có thể thích hợp ở đây, nhưng không thể thực hành nơi khác. Tất cả những nền văn hóa do con người kết cấu thành đều là tương đối. Các luật lệ do con người đặt ra cũng rất tương đối. Sự phán đoán về sự đúng sai của con người xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi quan niệm sống mỗi vùng, nên dân luật hay tục lệ có thể thay đổi.

Cảm giác về tội lỗi phai nhạt dần. Chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Con người xã hội tìm kiếm và thỏa mãn những gì mình ưa thích. Nhiều người chủ trương sống hưởng thụ và đáp ứng mọi nhu cầu cảm xúc thể xác. Những nét đẹp của Công, Dung, Ngôn, Hạnh từ từ biến dạng. Chúng ta không thể ngồi ung dung tự tại mặc cho con tạo xoay vần. Là các bậc phụ huynh, những người giáo dục và thầy dậy, chúng ta cố gắng khơi lên ngọn lửa cháy sáng soi đường. Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đem lửa xuống thế gian và ước mong lửa bừng cháy. Lửa của tình yêu và lửa của sự thật. Chúa là tình yêu. Chúa là sự thật và là sự sống.

Đối diện với cuộc sống đa dạng, đa văn hóa và đa tôn giáo của thời đại hôm nay, chúng ta cần học hỏi và nhận định rõ ràng hơn. Rất nhiều chính thể chủ trương triết thuyết tương đối. Họ cho rằng không có gì tuyệt đối là đúng hay sai và tốt hay xấu hoàn toàn . Theo họ, đúng hay sai, dựa vào sự quyết định của đa số áp đặt. Trước tiên, sự tốt xấu và lành dữ được đánh giá qua vấn đề lợi nhuận kinh tế. Chúng ta đang va chạm với những chủ trương cởi mở và qúa cấp tiến. Những điều đang xảy ra hằng ngày về vấn đề đạo đức luân lý. Thí dụ: Một số Tiểu Bang ở Hoa Kỳ, các nhà Lập Pháp đã bỏ phiếu đa số đồng thuận về hôn nhân đồng tính, về sự ngừa thai, phá thai không giới hạn, về án tử và trợ tử…

Các nhà làm luật phán đoán và quyết định những điều đối nghịch với đạo đức luân lý, nhưng họ đâu có chịu trách nhiệm. Sự dữ, sư xấu và sự sai trái đổ trên đầu người dân thấp cổ bé miệng. Các nhà lập pháp đâu có cảm thông và hiểu thấu những sầu khổ oan khiên trong thâm tâm của mỗi người. Các quan tòa vui mừng mở rượu vang chúc mừng nhau, khi thành công bỏ phiếu thành luật về một vấn đề luân lý nghịch đạo. Họ đâu có lường được những hệ lụy khổ đau kéo theo từ dòng dõi này qua dòng dõi khác. Biết bao tâm hồn bị tổn thương và rơi vào cô đơn giá lạnh. Chỉ có một Người cảm thông nỗi đớn đau tuyệt vọng và có uy quyền chữa lành tâm hồn là chính Chúa Kitô trên thập giá.

Thánh Phaolô khuyên dạy: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính nguồn chân thiện mỹ. Đức Kitô là Đấng trung gian giữa đất trời. Ngài là Lời của Thiên Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về con đường cứu độ qua thập giá. Ngài đã chấp nhận cái chết đau thương trên khổ giá để minh chứng cho lời rao giảng và sự thật Nước Trời. Muốn đạt được quê trời, chúng ta cũng phải phấn đấu một cách kiên vững và gian khổ. Bước qua cửa hẹp. Từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Muốn bước theo Chúa, chúng ta không thể bắt cá hai tay. Cần có sự chọn lựa dứt khoátTránh kiểu sống nửa vời tương đối vô thưởng vô phạt.

Nhắm hướng nhìn lên. Suy gẫm sự khổ đau của Chúa Kitô trên thập giá để tìm hướng đi. Chúng ta có thể hỏi rằng tại sao Chúa phải chịu khổ nhục như thế? Chúa có thể chọn cách khác nhẹ nhàng hơn chứ! Không, Chúa Kitô đã ước ao hoàn tất chén đắng mà Cha đã trao đề kéo lôi chúng ta ra khỏi vực sâu của tội lỗi và sự chết. Mầu nhiệm Chúa Kitô chịu chết và sống lại là một chân lý. Chân lý của sự giải thoát. Để tìm câu trả lời cho sự lành sự dữ, sự tốt sự xấu, tội hay phúc, chúng ta hãy tìm câu trả lời nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Lạy Chúa, Chúa đang giang tay chờ đón chúng con. Chúa nới với chúng con rằng ai yêu nhiều sẽ được tha nhiều. Chúng con chạy đến với Chúa, xin Chúa dủ lòng thương xót chúng con.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

Subcategories