- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Hôm nay thánh Luca kể lại, trong hành trình Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem: “Có kẻ hỏi Ngài: Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13:23). Đây là một câu hỏi không chỉ của người Do Thái thời Chúa Giêsu, mà cũng là của chúng ta hôm nay. Ai sẽ được cứu? Nhiều hay ít người được vào Nước Trời?
Câu trả lời của Chúa Giêsu không nói gì đến số lượng, nhưng hướng đến thái độ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24). Như thế, vấn đề không phải là “nhiều hay ít”, mà là mỗi người có can đảm bước đi con đường hẹp, con đường đức tin, từ bỏ, trung thành, để được tham dự vào bàn tiệc Nước Trời hay không. Lời Chúa mở ra một viễn tượng phong phú: ơn cứu độ là phổ quát cho muôn dân, nhưng để được tham dự, con người phải chiến đấu để qua được cửa hẹp và chấp nhận sự sửa dạy yêu thương của Thiên Chúa.
- “Cửa hẹp” là một thái độ sống đức tin thật sự
Khi hỏi Chúa Giêsu “Bao nhiêu người sẽ được cứu?”, người hỏi cho rằng sự cứu rỗi của dân Israel hầu như được đảm bảo, miễn là họ tuân giữ Lề Luật Môsê. Nói cách khác, Vương quốc của Chúa chỉ dành riêng cho người Do Thái, và dân ngoại sẽ bị loại trừ. Sách giáo lý Do Thái, Mishnah, dạy rằng: “Tất cả người Israel đều có phần trong thế giới mai sau.” Do đó, câu trả lời của Chúa Giêsu hẳn đã gây sốc. Chúa Giêsu khẳng định rằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được hưởng sự sống đời đời, và Ngài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải trung thành và cảnh giác liên tục trong suốt cuộc đời chúng ta. Chúa Giêsu nhắc nhở rằng, mặc dù Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta được cứu, nhưng tất cả chúng ta cần phải nỗ lực vì điều đó. Chúa Giêsu nói rõ: “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13:24). Đây là một lời cảnh tỉnh. Không phải nghe giảng, “gần gũi Chúa” theo kiểu lễ nghi bên ngoài là đủ: “Bấy giờ anh em mới nói: Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13:26). Nhưng Ngài sẽ đáp: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:26–27).
Việc vào Nước Trời không phải được ban cho cách đương nhiên, chỉ dựa trên danh xưng tôn giáo, chủng tộc hay quốc tịch. Người ta không thể ỷ lại vào lòng thương xót của Thiên Chúa mà không làm gì để đáp lại lời mời gọi của Ngài. Chúa Giêsu tuyên bố rằng không ai có thể tự cho rằng mình đã được “thị thực cứu rỗi”. Ai sẽ được cứu rỗi là một quyết định thuộc về Thiên Chúa, tùy thuộc vào Công Lý và Lòng Thương Xót của Ngài.
Đức tin không phải là hình thức bên ngoài, một vé máy bay mua trước hay một thứ “thẻ căn cước” tôn giáo giữ sẵn cho chúng một chỗ trên thiên đàng. Đức tin là hành trình bước theo Chúa Kitô, bước qua một cánh cửa hẹp. Nói cách khác, “cửa hẹp” chính là quyết tâm liên lỉ từ bỏ chính mình hằng ngày để sống trung tín, yêu mến Thiên Chúa và những người chung quanh.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói: “Đừng sợ: Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn. Hãy can đảm, hãy can đảm bước qua cánh cửa của Ngài. Mọi người đều được mời gọi bước qua ngưỡng cửa này, bước qua ngưỡng cửa đức tin, bước vào cuộc đời Ngài và để Ngài bước vào cuộc đời chúng ta, để Ngài biến đổi, đổi mới và ban cho nó niềm vui trọn vẹn và lâu dài…Chúng ta đừng sợ bước qua ngưỡng cửa đức tin vào Chúa Giêsu, để Ngài ngày càng bước vào cuộc đời chúng ta, và chúng ta bước ra khỏi sự ích kỷ, khép kín, thờ ơ với tha nhân để Chúa Giêsu soi sáng cuộc đời chúng ta bằng một ánh sáng không bao giờ tắt” (Kinh Truyền Tin, Chủ Nhật, 25 tháng 8 năm 2013).
- Ơn cứu độ dành cho muôn dân – viễn tượng Isaia
Thông điệp Tin Mừng của Chúa Giêsu là không một người nào, không một dân tộc, quốc gia, chủng tộc hay giai cấp nào, bị loại trừ khỏi tình yêu và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng. Chính trong thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã mở ra viễn tượng rộng lớn đó: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ… Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta” (Is 66:18–19).
Thiên Chúa không chỉ muốn cứu một số người, nhưng là tất cả. Đây là tầm nhìn phổ quát của Kinh Thánh. Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về các dân ngoại được dẫn về Giêrusalem, thậm chí được chọn làm tư tế và thầy Lêvi (Is 66: 21). Đối với người Do Thái, đây hẳn là một chướng kỳ. Nhưng đó chính là sự đảo ngược mà Chúa Giêsu cũng nhắc đến: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13: 29).Thánh Phaolô cũng nói: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2: 4).
Thánh Irênê, giám mục Lyon, trong chuyên luận “Chống lạc giáo”, được viết vào năm 185, đã thốt lên những lời đáng kinh ngạc này: “Gloria Dei vivens homo - Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống” (Chống lạc giáo IV, 20,7). Ơn cứu độ chính là sự sống chan chứa mà Thiên Chúa muốn trao cho nhân loại.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhắc lại điều này: “Sự cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện và Hội Thánh vui mừng loan báo là ơn được dành cho hết mọi người. Thiên Chúa đã tìm ra một cách để kết hợp với mọi con người trong mọi thời đại. Ngài đã quyết định kêu gọi họ trong tư cách một dân tộc chứ không phải từng cá nhân riêng lẻ…Đức Giêsu không bảo các môn đệ hợp thành một nhóm ưu tú và độc quyền. Ngài nói: “Không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, ... vì tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô” (Gl 3: 28). Với những ai cảm thấy xa cách Thiên Chúa và Hội Thánh, với tất cả những ai sợ hãi hay dửng dưng, tôi muốn nói thế này: với đầy lòng tôn trọng và yêu thương, Chúa cũng đang kêu gọi anh chị em trở thành dân của Ngài!” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 113).
Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, nhưng con đường cứu độ đó không phải chuyện dễ dãi. Thánh Phaolô giải thích: “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Ngài mới cho roi cho vọt” (Hípri 12: 6). Ngài khích lệ: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.” (Hípri 12: 11). Vì thế, ta được mời gọi kiên trì, nâng đỡ nhau: “Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ” (Hípri 12: 12).
Cửa hẹp chính là sự thanh luyện trong thử thách và đau khổ. Nhưng thử thách không phải là dấu hiệu Chúa bỏ rơi, mà là bằng chứng của tình yêu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy: “Trong chương trình cứu thế của Chúa Kitô, đồng thời cũng là chương trình của Vương quốc Thiên Chúa, đau khổ hiện diện trên thế giới để giải phóng tình yêu, để khai sinh những công trình yêu thương đối với tha nhân, để biến đổi toàn bộ nền văn minh nhân loại thành một "nền văn minh tình yêu". Trong tình yêu này, ý nghĩa cứu độ của đau khổ được hoàn thành trọn vẹn và đạt đến chiều kích quyết định của nó” (Tông thư Salvifici Doloris, số 30). Ơn gọi của các Kitô hữu là loan báo cho mọi người Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian, và làm chứng cho Tin Mừng này qua đời sống yêu thương, chia sẻ và phục vụ.
- Đảo ngược giá trị: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết”
Một trong những câu gây sốc là: “Có những kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Lc 13: 30). Đây là sự đảo ngược mọi tiêu chuẩn thế gian: địa vị, dòng dõi, quyền thế không bảo đảm được gì.
Điều này khớp với viễn tượng Isaia: dân ngoại, vốn bị coi là “sau hết”, nay được chọn để bước vào vai trò thánh thiêng. Và điều này vẫn đúng cho Giáo hội hôm nay: ai tưởng mình “trước hết” dễ sa vào tự mãn, còn ai khiêm nhường sẽ được Thiên Chúa nâng lên.
Ngôn sứ Isaia kết thúc bằng một viễn tượng hy vọng: “Vì trời mới đất mới do chính Ta làm ra tồn tại trước mặt Ta thế nào, sấm ngôn của Chúa, thì dòng dõi và tên tuổi các ngươi cũng sẽ tồn tại như vậy” (Is 66: 22). Đó chính là lời hứa vĩnh cửu. Ơn cứu độ không dành cho một nhóm nhỏ, nhưng mở ra cho tất cả những ai can đảm bước qua cửa hẹp, kiên trì trong tình yêu, và đón nhận sự sửa dạy của Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Trong Nước Trời, không có người thất nghiệp, mọi người đều được kêu gọi đóng góp phần của mình; và cuối cùng, tất cả mọi người sẽ được đền bù bởi sự công bằng của Thiên Chúa, không phải công bằng của con người, thật may mắn cho chúng ta! Đó là ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã mang lại cho chúng ta qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Một ơn cứu độ không phải do xứng đáng, nhưng được ban tặng, ơn cứu độ là miễn phí, “những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Kinh Truyền Tin, 24.09.2017).
Một lần kia, tại một giáo xứ nhỏ vùng quê, cha xứ tổ chức Thánh lễ tạ ơn để ghi nhận công lao của những người âm thầm phục vụ giáo xứ. Nhiều người trong cộng đoàn nghĩ rằng những người được xướng tên đầu tiên chắc chắn sẽ là các ân nhân giàu có, hoặc những người có uy tín và chức quyền.
Nhưng thật bất ngờ, cha xứ lại mời lên trước cộng đoàn một cụ bà nghèo, quanh năm ngày tháng chỉ lặng lẽ quét sân nhà thờ, dọn dẹp ghế bàn. Bà cụ ngỡ ngàng, lúng túng, cúi mặt vì không bao giờ nghĩ rằng mình đáng được gọi tên. Cha xứ mỉm cười nhỏ nhẹ nói: “Trong mắt người đời, bà chỉ làm những việc nhỏ bé và âm thầm. Nhưng trong mắt Thiên Chúa, bà lại là người đã trung tín và khiêm nhường nhất. Dĩ nhiên còn nhiều người khác cũng được Chúa cùng cộng đoàn ghi nhận và cám ơn, nhưng chính những người như bà mới là những người thật sự sẽ lên hàng đầu.”
Xin Chúa cho chúng con biết bước đi trên con đường hẹp mỗi ngày, nhưng đầy hy vọng vào lời Chúa hứa, để cùng với mọi người và muôn dân tộc, được ngồi chung nơi bàn tiệc Nước Trời, nơi “có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu” (Lc 13: 30).
Phêrô Phạm Văn Trung
- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
(Gr 38, 4-6. 8-10; Dt 12, 1-4; Lc 12, 49-53)
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Jerusalem khoảng năm 627 tới sau năm 587 trước Công Nguyên. Tiên tri đã cảnh báo thần dân, vì tội lỗi mà họ đã phạm đến Chúa. Dân thành sẽ bị phá hủy bởi vua Nebuchadrezzar, người Babylon. Khi nghe cảnh cáo, nhiều nhà chức trách đạo đời cảm thấy khó chịu và muốn diệt trừ tiên tri Giêrêmia. Tuy nhiên, trong số đó có những người trung thành và biết lắng nghe lời sự thật. Thay vì bỏ mặc tiên tri để chết trong giếng cạn, vua đã truyền cứu ngài ra khỏi giếng.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn phải đối diện với hai chọn lựa: Tốt xấu, phải trái, lành dữ, đúng sai, yêu ghét và tội phúc… Dù tốt hay xấu, phía nào cũng có người phò theo. Phe lành và phe dữ song hành trong cuộc sống như bóng tối và ánh sáng. Làm sao chúng ta có thể rút ra những nhận định đúng đắn trong xã hội vàng thau lẫn lộn? Vì mỗi bên, mỗi phía đều có chia sẻ ít nhiều sự tốt lành và xấu dữ. Đâu là chân lý? Mỗi xã hội con người có những chủ trương riêng biệt. Văn hóa này có thể thích hợp ở đây, nhưng không thể thực hành nơi khác. Tất cả những nền văn hóa do con người kết cấu thành đều là tương đối. Các luật lệ do con người đặt ra cũng rất tương đối. Sự phán đoán về sự đúng sai của con người xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi quan niệm sống mỗi vùng, nên dân luật hay tục lệ có thể thay đổi.
Cảm giác về tội lỗi phai nhạt dần. Chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Con người xã hội tìm kiếm và thỏa mãn những gì mình ưa thích. Nhiều người chủ trương sống hưởng thụ và đáp ứng mọi nhu cầu cảm xúc thể xác. Những nét đẹp của Công, Dung, Ngôn, Hạnh từ từ biến dạng. Chúng ta không thể ngồi ung dung tự tại mặc cho con tạo xoay vần. Là các bậc phụ huynh, những người giáo dục và thầy dậy, chúng ta cố gắng khơi lên ngọn lửa cháy sáng soi đường. Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đem lửa xuống thế gian và ước mong lửa bừng cháy. Lửa của tình yêu và lửa của sự thật. Chúa là tình yêu. Chúa là sự thật và là sự sống.
Đối diện với cuộc sống đa dạng, đa văn hóa và đa tôn giáo của thời đại hôm nay, chúng ta cần học hỏi và nhận định rõ ràng hơn. Rất nhiều chính thể chủ trương triết thuyết tương đối. Họ cho rằng không có gì tuyệt đối là đúng hay sai và tốt hay xấu hoàn toàn . Theo họ, đúng hay sai, dựa vào sự quyết định của đa số áp đặt. Trước tiên, sự tốt xấu và lành dữ được đánh giá qua vấn đề lợi nhuận kinh tế. Chúng ta đang va chạm với những chủ trương cởi mở và qúa cấp tiến. Những điều đang xảy ra hằng ngày về vấn đề đạo đức luân lý. Thí dụ: Một số Tiểu Bang ở Hoa Kỳ, các nhà Lập Pháp đã bỏ phiếu đa số đồng thuận về hôn nhân đồng tính, về sự ngừa thai, phá thai không giới hạn, về án tử và trợ tử…
Các nhà làm luật phán đoán và quyết định những điều đối nghịch với đạo đức luân lý, nhưng họ đâu có chịu trách nhiệm. Sự dữ, sư xấu và sự sai trái đổ trên đầu người dân thấp cổ bé miệng. Các nhà lập pháp đâu có cảm thông và hiểu thấu những sầu khổ oan khiên trong thâm tâm của mỗi người. Các quan tòa vui mừng mở rượu vang chúc mừng nhau, khi thành công bỏ phiếu thành luật về một vấn đề luân lý nghịch đạo. Họ đâu có lường được những hệ lụy khổ đau kéo theo từ dòng dõi này qua dòng dõi khác. Biết bao tâm hồn bị tổn thương và rơi vào cô đơn giá lạnh. Chỉ có một Người cảm thông nỗi đớn đau tuyệt vọng và có uy quyền chữa lành tâm hồn là chính Chúa Kitô trên thập giá.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính nguồn chân thiện mỹ. Đức Kitô là Đấng trung gian giữa đất trời. Ngài là Lời của Thiên Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về con đường cứu độ qua thập giá. Ngài đã chấp nhận cái chết đau thương trên khổ giá để minh chứng cho lời rao giảng và sự thật Nước Trời. Muốn đạt được quê trời, chúng ta cũng phải phấn đấu một cách kiên vững và gian khổ. Bước qua cửa hẹp. Từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Muốn bước theo Chúa, chúng ta không thể bắt cá hai tay. Cần có sự chọn lựa dứt khoát. Tránh kiểu sống nửa vời tương đối vô thưởng vô phạt.
Nhắm hướng nhìn lên. Suy gẫm sự khổ đau của Chúa Kitô trên thập giá để tìm hướng đi. Chúng ta có thể hỏi rằng tại sao Chúa phải chịu khổ nhục như thế? Chúa có thể chọn cách khác nhẹ nhàng hơn chứ! Không, Chúa Kitô đã ước ao hoàn tất chén đắng mà Cha đã trao đề kéo lôi chúng ta ra khỏi vực sâu của tội lỗi và sự chết. Mầu nhiệm Chúa Kitô chịu chết và sống lại là một chân lý. Chân lý của sự giải thoát. Để tìm câu trả lời cho sự lành sự dữ, sự tốt sự xấu, tội hay phúc, chúng ta hãy tìm câu trả lời nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Lạy Chúa, Chúa đang giang tay chờ đón chúng con. Chúa nới với chúng con rằng ai yêu nhiều sẽ được tha nhiều. Chúng con chạy đến với Chúa, xin Chúa dủ lòng thương xót chúng con.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng.