3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

TIN VÀO CHÚA KITÔ PHỤC SINH VÀ NHẬN LẤY THÁNH THẦN CỦA NGÀI

  1. Sự hoang mang ban đầu của các tông đồ về việc Thầy Giêsu phục sinh

Theo lịch Do Thái, đó là ngày đầu tiên trong tuần: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20: 1), các tông đồ đã được bà Maria Mađalêna báo rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20: 2). Phêrô và Gioan chạy đến ngôi mộ. Hai ông thấy đúng những gì bà Maria Mađalêna kể lại: thi thể Chúa Giêsu không còn trong đó nữa. Nhưng điều lạ lùng là những tấm khăn liệm thi thể Ngài vẫn còn ở đó. Chi tiết này được kể hai lần: “Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó” (Ga 20: 4-5) và: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó.” Phêrô phát hiện thêm một điều quan trọng, đó là “khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20: 6-7). Những chi tiết này ngay lập tức đập vào mắt của Phêrô và Gioan. Xác chết dĩ nhiên không thể tự cởi bỏ khăn liệm của mình. Còn nếu có những kẻ muốn cắp xác người chết, hẳn chúng không phí thì giờ ngồi gỡ bỏ những tấm khăn liệm đó, lại càng không tốn công vô ích cuộn chúng lại, sắp xếp tấm nào ra tấm đó, có lớp lang trật tự như thế. Đã xẩy ra chuyện lớn rồi. Có lẽ hai ông nhớ lại chỉ mấy ngày trước đây khi Chúa Giêsu làm phép lạ vĩ đại cho anh Ladarô sống lại, Ngài nói với cô Mátta, chị anh ấy rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11: 25). Họ bắt đầu suy nghĩ, và bàn luận với nhau rằng điều hẳn đã xảy ra là Thầy Giêsu đã sống lại. Chính thánh sử Gioan này, ngay chương hai của sách Tin Mừng của ngài, đã xác nhận điều này: “Vậy, khi Ngài từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (Ga 2: 22). 

  1. Niềm vui được tận mắt thấy Chúa Giêsu sống lại

Tuy nhiên, các ông vẫn rất hoang mang và ngay cả hoảng sợ vì những sự kiện của vài ngày trước. Các ông đã chứng kiến, ​​mắt thấy tai nghe, Chúa Giêsu chịu khổ hình dữ dội và chết thảm thương trên thập tự giá như thế nào. Hẳn các ông thất vọng với chính mình vì đã từng mạnh miệng nói sẽ trung thành với Thầy nhưng sau đó lại chối bỏ (Ga 18: 17, 25-26) và thậm chí trốn chạy khi Ngài bị bắt trong Vườn Giệtsimani. Hẳn các ông vô cùng hối hận về việc Chúa Giêsu đã phải chịu nhiều đau khổ và họ cảm thấy bất lực như thế nào khi không bảo vệ được Thầy mình. Các ông sợ chính quyền. Chắc chắn các ông sợ những nhà lãnh đạo Do Thái đứng sau âm mưu giết Chúa Giêsu. Các ông sợ cho mạng sống của chính mình, sợ cho tương lai bất định của mình. Và cũng không phải là vô lý khi có người nghĩ rằng các ông cũng sợ chính Thầy Giêsu của mình, đơn giản bởi vì các ông sẽ ăn nói sao đây với Vị Thầy mà các ông đã khiến Ngài thất vọng rất nhiều. Phêrô đã chối Ngài ba lần, và những người còn lại đã bỏ rơi Ngài, ngoại trừ “người môn đồ mà Chúa Giêsu yêu thương”, người đã ở dưới cây thập tự và đã đưa rước mẹ của Chúa Giêsu về nhà mình (Ga 19: 27). Dù sao đi nữa, cuối cùng thì có lẽ người mà các môn đệ muốn gặp nhất vào buổi tối hôm đó chính là Chúa Giêsu, đã sống lại từ cõi chết, để họ được đối mặt và trả lời Ngài về những nhát đảm và thất tín của họ. Cửa nhà thì đóng kín nhưng tâm hồn của họ đã mở sẵn rồi. Tâm hồn chúng ta có mở sẵn để đón nhận Đấng Phục Sinh chưa?

Tất nhiên, Chúa Giêsu sẽ không bị ngăn cản bởi những cánh cửa đóng kín. Chính Ngài là “cửa cho chiên ra vào” (Ga 10:7) đã đi thẳng qua những cánh cửa đóng kín đó và xuất hiện giữa bầy chiên đang sợ hãi của Ngài. Ngài đến không phải để đối chất với các môn đệ của Ngài về những thất bại của họ. Ngài không nói bất cứ lời nào trách cứ các ông nhưng Lời đầu tiên của Ngài lại là: “Bình an cho anh em” (Ga 20: 19). Đó là một lời vừa chào vừa chúc, xóa sạch không chỉ tất cả những bất trung của các môn đệ mà còn đem lại một sức mạnh mới, không còn nhuốm một chút nào mầu sắc buồn bã, lo âu, sợ hãi, áy náy, băn khoăn, hoang mang, bất định, cảnh giác, đề phòng, thủ thế…mà là một cảm giác vui tươi, bình an sâu sắc và trọn vẹn - loại bình an mà Ngài đã để lại cho các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga14:27). Xin Đấng Phục Sinh ban cho chúng ta sự bình an trọn vẹn và sâu thẳm mà Ngài đã ban cho các môn đệ đầu tiên.

Rồi thì, Chúa Giêsu “cho các ông xem tay và cạnh sườn” (Ga 20: 20) để các ông có thể thấy rằng chính Ngài, thực sự bằng xương bằng thịt, đã bị đóng đinh, chết, chôn trong huyệt mộ, nhưng bây giờ đang ở trước mặt các ông tỏ tường. Giờ thì không còn hoang mang, nghi ngờ, sợ hãi gì nữa, nên “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20: 20). đúng như Chúa Giêsu đã nói với họ trước kia: “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16:22). Chúng ta hãy thường xuyên cất lên tiếng ca Alleluia – Ngợi khen Chúa - trong vui mừng hoan hỉ không ai lấy mất được, vì Đấng Phục Sinh đã chiến thắng tử thần và chúng ta có thể gặp Ngài mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mình.

  1. Đón nhận Thánh Thần của Chúa Kitô Phục Sinh và được sai đi

Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20: 21). Các tông đồ được sai đi để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu là mặc khải Thiên Chúa cho thế giới. Các ông sẽ không bị bỏ lại một mình trong nhiệm vụ khó khăn này. Chúa Giêsu đã hứa sẽ sai một Đấng Bảo Trợ khác (παρακλητός trong Tin Mừng Gioan là Thần khí sự thật, Thánh Thần, Đấng hiện diện với, Thầy dạy, Chứng Nhân, Đấng mặc khải, Đấng dẫn đường, Ngôn sứ và Đấng tôn vinh Chúa Giêsu: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:16-17). Bây giờ, Ngài thực hiện lời hứa đó. Như hành động sáng tạo xưa kia: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (Sáng thế 2:7), thì nay “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20:22) như hành động sáng tạo mới. “Thần Khí sự thật” này “sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14: 26) và “Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (14:26; 16:12-14).

Sau đó, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:23). Như nhiều nhà chú giải đã chứng minh, “tội lỗi” trong Tin Mừng của Thánh Gioan không phải là một phạm trù đạo đức; mà về cơ bản, đó là sự không có lòng tin, là sự từ chối tiếp nhận sự mặc khải của Thiên Chúa qua con người của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu không trao cho các môn đệ của Ngài một quyền năng đặc biệt nào đó để quyết định tội lỗi của ai sẽ được tha thứ và tội lỗi của ai sẽ không được tha thứ. Thay vào đó, Ngài cho thấy rõ hơn ý nghĩa của việc được sai đi, để làm cho mọi người biết đến tình yêu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Khi mọi người biết đến và ở lại trong Chúa Giêsu, họ sẽ được “giải thoát” khỏi tội lỗi của họ. Tuy nhiên, nếu những người được Chúa Giêsu sai đi không làm chứng, thì mọi người sẽ vẫn mắc kẹt trong sự không tin của họ; tội lỗi của họ sẽ bị “cầm giữ.” Sứ mệnh này thực sự rất cao cả. Xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài để chúng ta làm chứng cho Lòng Thương Xót Cứu Độ của Thiên Chúa, bằng nghĩ suy, lời nói, hành vi, cách sống hằng ngày của chúng ta.

  1. Đức tin của Tôma

Vì một lý do nào đó mà chúng ta không biết rõ, Tôma đã vắng mặt và bỏ lỡ cuộc gặp gỡ đầu tiên vào tối Chủ Nhật này với Chúa Giêsu phục sinh. Mặc dù ông bị coi là “kẻ cứng lòng tin”, nhưng điều ông mong cầu không khác gì điều những người khác đã nhận được: được nhìn thấy Chúa Giêsu, với những vết thương: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin” (Ga 20: 25). Điều kỳ diệu của câu chuyện này là Chúa Giêsu lại xuất hiện một lần nữa một tuần sau đó để đáp ứng đúng những gì Tôma cần: “Tám ngày sau, các môn đệ Chúa Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em. Rồi Ngài bảo ông Tôma: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20: 26-27). Và Tôma đáp lại bằng lời tuyên xưng đậm tính Kitô học nhất. Đó không chỉ đơn thuần là lời tuyên xưng về giáo lý, mà là lời tuyên xưng về lòng tin và mối tương giao cá vị của ông với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20:28). Chúa Giêsu biết những mong muốn của mỗi người chúng ta nơi Ngài, và Ngài có cách giải quyết đúng nơi đúng thời.

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29) không phải là một lời khiển trách, mà đúng hơn là một chúc lành cho tất cả những ai sẽ tin dù không có một cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt với Chúa Giêsu. Thật vậy, thánh sử Gioan tuyên bố rằng đây chính là mục đích của sách Tin Mừng này: “Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20: 31).

Trong mùa Phục sinh với những tiếng hát Alleluia -Hãy ngợi khen Chúa, chúng ta dường như không một chút lo buồn, sợ hãi, hoang mang hay nghi ngờ. Chúng ta dễ quên rằng các môn đệ đầu tiên đã cảm thấy lo buồn, sợ hãi, nghi ngờ, và bối rối trước khi hiểu ra và vui mừng về những gì đã diễn ra vào ngày hôm đó. “Tám ngày sau, các môn đệ Chúa Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín” (Ga 20: 26). Việc “các cửa vẫn đóng kín” như tám ngày trước (Ga 20: 19) cho thấy Tôma không phải là người duy nhất cần sự trấn an của Chúa Giêsu rằng Ngài thực sự đã chiến thắng cái chết.

Khi Tôma muốn chắc chắn rằng người trước mặt mình là Chúa Giêsu, ông được Ngài mời đặt tay vào những vết thương của Ngài. Chúa Giêsu dùng những vết thương đó để giúp Tôma nhận ra Ngài. Chúa Kitô có những vết thương của Ngài. Chúng ta có những vết thương của mình. Chúa Kitô Phục Sinh vẫn đồng cảm và đồng hành với chúng ta trong những đau đớn thân xác và những đau khổ tâm hồn của chúng ta. Những vết thương của Đấng Phục Sinh là dấu hiệu cho thấy “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19: 30). Những đau đớn thân xác và những đau khổ tâm hồn của chúng ta cũng sẽ hoàn tất, chỉ trong Chúa Kitô chịu khổ hình, chết trên Thập tự giá và nhất là đã sống lại, như bài đọc thứ hai khẳng định: “Tôi là Gioan, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu… Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa… Lúc thấy Ngài, tôi ngã vật xuống dưới chân Ngài, như chết vậy. Ngài đặt tay hữu lên tôi và nói: Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:9-10, 17-18).

Trong Thánh Thần của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, chúng ta hân hoan ca mừng và tuyên xưng: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118: 22-24).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

 

MỘT BUỔI BÌNH MINH NẰM NGOÀI THỜI GIAN

  1. Sự im lặng trước Phục Sinh.

Các môn đệ của Chúa Giêsu đang lặng lẽ chìm trong nỗi nhớ thương người Thầy yêu dấu của họ. Cõi lòng họ như chứa đầy bóng tối, giống như bóng tối của khu vườn Giệtsimani, vào đêm người Thầy của họ bị bắt, giống như “bóng tối bao phủ khắp mặt đất” (Lc 22: 44) thê lương từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín trên đỉnh đồi Canvê, nơi người Thầy của họ bị xử chết cách bất công quá mức đau thương. Một người Thầy “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 29), luôn rao giảng những lời yêu thương và thực hiện những hành động vô cùng thương xót: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6: 36). Những bóng tối ấy sẽ không bao phai mờ trong tâm trí họ những ngày còn lại trong đời. Thế là hết! Hết rồi những hy vọng về một Đấng Kitô - Cứu Thế, khi họ chứng kiến tận mắt Thầy mình làm phép lạ chữa lành bệnh tật, trừ quỷ hay hồi sinh kẻ chết. Họ chỉ còn ký ức lưu giữ mọi cử chỉ, mọi khoảnh khắc vui mừng hãnh diện vì uy thế của Thầy trước toàn dân: “Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (Lc 24: 19), hay những ngày tháng vất vả lặn lội rao giảng Nước Thiên Chúa, nhưng đầy hạnh phúc êm đềm của tình Thầy trò: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14;1-3). Nhất là làm sao họ có thể quên được, chỉ vài ngày trước đây, khoảnh khắc vinh quang của Thầy tiến vào thành thánh Giêrusalem giữa những tiếng “Hosanna, Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” (Lc 19: 38). Và những giờ phút dầy đặc đau thương và thống khổ của hai ngày qua. Mọi thứ về Thầy coi như đã kết thúc: “Bấy giờ ông Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá. Chính Ngài vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; tại đó, họ đóng đinh Ngài vào thập giá… Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: Tôi khát! Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Chúa Giêsu nói: Thế là đã hoàn tất! Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 20: 16-18, 28-30). Nỗi đau buồn bắt đầu trở nên sâu sắc hơn. Vị Thầy Giêsu của họ không còn nói nữa, Ngài không thể nói nữa, họ không thể nghe gì từ môi miệng kỳ diệu của Ngài nữa. Đó là lý do các môn đệ im lặng, một sự im lặng trong nỗi vỡ mộng cay đắng!

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận xét rằng “Đôi khi chúng ta cũng nghĩ rằng niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu đã thuộc về quá khứ, trong khi hiện tại điều chúng ta biết lại là những ngôi mộ bị niêm phong: những nỗi thất vọng, những cay đắng và ngờ vực của chúng ta, những nỗi niềm “không còn làm được gì nữa”, “mọi thứ sẽ không bao giờ thay đổi”, “tốt hơn hết là sống cho qua ngày” bởi vì “không có gì chắc chắn về ngày mai”. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta từng bị đau đớn dày xéo, bị đè nén bởi nỗi buồn, tủi nhục vì tội lỗi, cay đắng vì thất bại nào đó hay ám ảnh bởi ưu tư nào đó, đã nếm trải vị đắng của mệt mỏi và đã thấy niềm vui phai nhạt trong lòng…Thêm nữa, có lẽ chúng ta đã thấy mình đối mặt với cái chết, bởi vì nó đã cướp đi sự hiện diện ngọt ngào của những người thân yêu của chúng ta hoặc vì nó đã chạm vào chúng ta trong bệnh tật hoặc tai họa, và chúng ta dễ dàng trở thành con mồi của sự vỡ mộng và dập tắt nguồn hy vọng của chúng ta” (ĐGH Phanxicô, Bài giảng đêm vọng Phục Sinh, 08 tháng Tư năm 2023). 

  1. Sự sống trỗi dậy từ nấm mồ mở toang

Chúa Giêsu im lặng trong cõi sâu thẳm của thế giới và của lịch sử, nơi mọi thứ đều im lặng, nơi không còn tiếng cười nói hay tiếng ca hát nữa. Nhưng không phải là hết. Ngài đi xuống tận huyệt mộ của thế giới những người chết, xuống những vực thẳm của địa ngục để phá hủy nó, để mở chúng ra cho sự sống, để khôi phục lại mọi câu chuyện và lịch sử của nhân loại: “Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm” (1 Pr 3: 19). Chúa Kitô xuống sâu thẳm trong lòng đất, giống như mặt trời lặn xuống, nhưng không ngừng chiếu sáng. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chết, bị giết chết, “Ngài xuống âm phủ để kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa và ai nghe thì được sống (Ga 5,25). Chúa Giêsu, Đấng khơi nguồn sự sống (Cv 3,15). Đã nhờ cái chết của Ngài, tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sự chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ (Dt 2,14-15)” (GLHTCG, số 635). Sự sống đã bị cái chết nuốt chửng, giống như cuộc hành trình xuống địa ngục của Chúa Giêsu, chính là để chờ khoảnh khắc nhảy mừng lên trong ánh sáng và chiến thắng trong tiếng ca Exsultet - Mừng vui lên.

Trong sự im lặng của chúng ta, một sự im lặng áp đảo chúng ta, những hòn đá bắt đầu phải kêu lên (Lc 19:40) và dọn đường cho sứ điệp vĩ đại nhất mà lịch sử chưa từng nghe thấy: “Ngài không còn ở đây nữa, vì Ngài đã sống lại” (Mt 28: 6). Các hòn đá trước ngôi mộ kêu lên và công bố sự khai mở một con đường mới cho tất cả mọi người. Thiên nhiên chính là người đầu tiên vang vọng khúc khải hoàn của cuộc sống trên tất cả những gì đã cố làm câm nín và bóp nghẹt niềm vui của Tin Mừng. Hòn đá trước ngôi mộ là người đầu tiên nhảy mừng và theo cách riêng của nó vang lên một bài hát trầm trồ ngợi khen, vui mừng và hy vọng, trong đó tất cả chúng ta được mời tham gia” (ĐGH Phanxicô, Bài giảng đêm vọng Phục Sinh, 31/3/2018)

Chúa Kitô xuống ngục tổ tông để giải cứu tất cả những ai đang khóc than trong câm lặng khỏi vực sâu u tối đó. Ngài cũng đi vào tận đáy sâu linh hồn của mọi người để những ai tin vào Ngài thì cuộc đời của họ được biến đổi từ bên trong, được giải thoát khỏi những giờ phút cô đơn và hoang mang, như những môn đệ khi xưa của Ngài. Không có gì là không được cứu chuộc. Để Thiên Chúa có thể lên tiếng, chúng ta phải biết im lặng, như một ngôi mộ câm lặng, ngay bây giờ và trong cõi chết mai sau, vì đó là sự chuẩn bị tuyệt vời để lắng nghe lời phán quyết của Thiên Chúa. Trong cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa dường như im lặng và vắng mặt. Nhưng sự im lặng này không phải là hư vô, nhưng chính là hy vọng. Trong cái chết của Chúa Giêsu, thế giới trở nên trống rỗng nguồn sống. Nhưng sự trống rỗng này không phải là phủ định sạch trơn mà là sự chuẩn bị cho khả năng viên mãn. Sự trống rỗng trở nên vùng đất màu mỡ chuẩn bị cho vụ mùa bội thu. Thất bại trở thành bước mở đầu cho chiến thắng.

“Mừng vui lên hỡi chư thần chư thánh,

cấp thừa hành của Chúa cõi thiên cung.

Trổi vang lên, kèn loan ơn cứu độ,

Kính chào Đức Vua chiến thắng oai hùng.

Mừng vui lên, hỡi khắp miền dương thế,

bốn bề đang rực rỡ ánh hào quang:

Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng,

Đẩy lùi xa bóng tối của trần gian….”

(Mở đầu thánh thi Exsultet)

  1. Buổi bình minh của sự sống viên mãn

Vào buổi sáng kỳ lạ ấy, một buổi bình minh dường như nằm ngoài thời gian, “đẩy lùi xa bóng tối của trần gian.” Đó là buổi bình minh mở đầu “chiến thắng oai hùng” của “Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng” và kết thúc những ngày chết chóc mãi mãi tăm tối của loài người. Đó là một buổi sáng với thứ tin tức nghẹt thở, khi các tông đồ thấy bà Maria Mađalêna “chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20: 2). Một xác chết bị đâm thâu bởi một ngọn giáo, không còn máu, bị chôn chặt trong mộ đá niêm phong, đã sống lại với một sự sống mới mầu nhiệm. Cái chết, kẻ thù lâu đời nhất của loài người, đã bị chế ngự. Chúa Giêsu đã giữ lời hứa của mình: “Quả vậy, Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Ngài, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18: 32-33). Thánh Gioan thuật lại lời hứa này cách cao vời và thấm đẫm chất suy tư thần học: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui…Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16: 16, 20, 28, 32). Trong bài đọc thứ nhất, trích sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô làm chứng cụ thể rõ ràng, không úp mở, bóng gió xa xôi: “Chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại” (CvTđ 10: 39-41).

  1. Thông điệp từ những tấm vải liệm

Câu chuyện về Ladarô, vốn chỉ có trong sách Tin Mừng Gioan, là bài Tin mừng được phép đọc bất cứ ngày nào trong tuần thứ Năm Mùa Chay vừa qua. Phụng vụ Hội Thánh muốn nói với con cái của mình điều gì khi cho phép như vậy? Khi Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại, Ngài giải thoát Ladarô khỏi tấm vải liệm: “Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Chúa Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (Ga 11: 44). Dù đã được Chúa Giêsu dùng quyền năng của Ngài làm cho sống lại từ cái chết, Ladarô rồi một lần nữa sẽ lại phải chết, như bao người khác sẽ phải chết. Dấu chỉ “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” là minh chứng cho thực tại chết chóc không thể tránh khỏi của thân phận phàm nhân, không có ngoại lệ nào vượt ra khỏi quy luật sinh lão bệnh tử. Chúa Giêsu cũng phải chết, không ngoại lệ, đúng theo quy luật đó. Tuy nhiên, điều ngoại lệ, ngoại thường nơi Chúa Giêsu là Ngài tự nguyện chọn cái chết: “Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9: 51). Cụ thể là khi nghe Thầy mình tỏ cho biết Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16: 21), Phêrô tỏ ý ngăn cản Ngài: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16: 22) và ngay lúc ấy ông bị trách mắng nặng lời: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16: 23). Sau này thánh Phaolô khẳng định: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2: 6-8).

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã giải thích: “Tất cả những điều này không phải là kết quả của một cơ chế mơ hồ hay số phận mù quáng: đúng hơn, đó là sự lựa chọn tự do của chính Ngài, thông qua sự tuân thủ quảng đại vào kế hoạch cứu độ của Chúa Cha. Và cái chết mà Ngài phải chịu là cái chết đóng đinh, cái chết nhục nhã và hạ nhục nhất mà người ta có thể tưởng tượng được. Chúa tể vũ trụ đã làm tất cả những điều này vì tình yêu dành cho chúng ta: vì tình yêu, ngài đã chọn tự hạ mình và trở thành anh em của chúng ta; vì tình yêu, Ngài chia sẻ tình trạng của chúng ta, tình trạng của mọi người nam và mọi người nữ…Ngài đã chọn sự khiêm nhường sâu xa nhất và mang hình dạng của một con người” (Buổi tiếp kiến chung, Quảng trường Thánh Phêrô, Thứ tư, ngày 8 tháng 4 năm 2009).

Nếu việc Chúa Giêsu chịu chết không phải là một ngoại lệ, nhưng đúng theo quy luật sinh hóa, vật lý của kiếp người. thì việc Ngài “trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9) lại là một điều không đúng chút gì theo những quy luật đó. Đó là một sự kiện có một không hai, một việc phi thường. Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó” (Ga 20: 5). Điều này khác hẳn việc Ladarô được Chúa Giêsu làm cho sống lại nhưng tay chân mặt mũi còn bị quấn trong vải liệm. Hai tông đồ Phêrô và Gioan thấy chiếc khăn mà Giuse và Nicôđêmô đã dùng để quấn mặt và đầu của Chúa Kitô ở một nơi riêng biệt: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20: 6-7). Chúa Giêsu đã gấp khăn liệm của chính Ngài và đặt nó sang một bên. Trong ngôi mộ là một quang cảnh trật tự và yên tĩnh vì Chúa Giêsu Phục Sinh vượt qua tấm khăn liệm của Ngài. Ngài để lại một quang cảnh bình an để tất cả những ai nhìn vào và tin thì có được sự bình an trong lòng rằng Ngài vẫn sống và khỏe mạnh. Đó là loại bình an mà chỉ có Chúa Giêsu mới có thể ban tặng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Gioan 14:27). Ngôi mộ là hình ảnh hoàn hảo về trật tự, một trật mới mẻ và tuyệt đối! Chúa Giêsu làm chủ cái chết: “Ngài đón nhận cái chết tự nội tâm Ngài và biến nó thành một cử chỉ yêu thương. Xem bề ngoài đó là chuyện tàn bạo dữ dội – việc đóng đinh vào thập giá – nhưng bên trong là hành vi yêu thương tận hiến toàn vẹn” (Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, 21-8-2005, Youcat số 210). Và bằng cách thế đó, Chúa Giêsu vượt lên trên cái chết. Ngài thực hiện “cuộc vượt qua cứu độ này từ cõi chết sang cõi sống, nhờ việc chết và sống lại của Ngài, ngay cả trong thời hiện tại này” (Youcat, số 212).

Chúng ta có muốn đứng bên cạnh lối vào ngôi mộ của Chúa Giêsu và chăm chú nhìn vào ngôi mộ trống đó như Gioan không: “Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó…” (Ga 20: 5)? Chúng ta có như Gioan nhận ra sự khác biệt giữa việc trở lại cuộc sống phàm nhân của Ladarô và Sự Phục Sinh của Chúa Kitô không? “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20: 9).

Hôm nay, chúng ta là những người chấp nhận sứ điệp Tin mừng về sự Phục Sinh bằng đức tin đơn sơ. Chúng ta không thấy Chúa Giêsu sống. Chúng ta không thấy Ngài chết và chúng ta không thấy ngôi mộ. Tuy nhiên, những chiếc khăn liệm đó vẫn đang rao giảng cho chúng ta, nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng mặc dù chúng ta không thấy Ngài ngay bây giờ, Ngài sẽ trở lại và chúng ta sẽ thấy Ngài vào lúc đó: “Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Ngài, và thánh danh Ngài ghi trên trán họ…Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Khải Huyền 22:20).

Việc còn lại chúng ta cần làm là sống theo lời dạy của thánh Phaolô, trong bài đọc thứ hai: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Chúa Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3: 1-4).

 

Phêrô Phạm văn Trung

Chúng ta sống Niềm Vui và Đức Tin Phục Sinh

Bằng chính niềm vui đầy mạnh mẽ và cá vị, bằng chính đức tin phục sinh rất riêng của bản thân mình, thánh Gioan tông đồ quả quyết: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20, 3-9).

Tiếp nối niềm vui phục sinh mà thánh Gioan khám phá và rao giảng, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm này hết sức long trọng. Hội Thánh dạy con cái mình, đó là mầu nhiệm trọng đại của năm phụng vụ, mà không còn bất cứ mầu nhiệm nào có thể lấn át.

Hội Thánh mời gọi mỗi con cái mình, cần phải chuẩn bị tâm thế thật xứng đáng, thật nghiêm túc, thật yêu mến để thực sự mừng lễ phục sinh, thực sự để cho mầu nhiệm phục sinh chi phối đời sống mình. Nhờ đó mà mỗi người sẽ được ơn phục sinh thấm đẫm vào cuộc đời, vào cách sống, vào tâm tư mỗi cá nhân, để từng cá nhân thực sự phục sinh, thực sự vươn tới đời sống mới và canh tân toàn diện con người mình.

Vì thế, mỗi một người hãy mang lấy chính tâm tư vỡ òa của thánh Gioan tông đồ, của cả Hội Thánh, của biết bao nhiêu anh chị em đồng đạo, dám băng mình trên mọi nẻo đời, công bố cách không mệt mỏi đức tin cao cả, quý trọng, độc nhất vô nhị: Chúa đã phục sinh, mà vươn tới sự sống phục sinh cách bền bỉ trong Đấng Cứu Chuộc mình.

Niềm vui và đức tin phục sinh phải là lẽ sống, là tâm niệm sống, là định hướng sống của từng Kitô hữu.

Hãy để niếm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn đời sống. Một đời sống mà biết để niềm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn, sẽ là một đời sống phong phú, một đời sống không chỉ mang đậm niềm hạnh phúc, nhưng còn trào tràn hạnh phúc ấy ra mọi nơi, mọi hoàn cảnh mà đời sống ấy hiện diện.

Hãy để niềm vui và đức tin phục sinh đồng hành, giúp từng người vững tâm bước qua tăm tối, chông gai, thử thách của đời sống mình. Qua tất cả những thăng trầm ấy, ta đóng đinh chính mình, đóng đinh tính xác thịt của mình vào thánh giá của Chúa, nhờ đó, ta sẽ cùng Chúa tiến vào cõi phục sinh vinh thắng.

Chúa đã phục sinh. Ta cần phải phục sinh với Chúa, cần phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.

Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,

Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.

Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.

Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong hồn. Đó là cách duy nhất để ta sống niềm vui và đức tin phục sinh.

Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.

Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa và trong Chúa.

Khi chiến đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.

Người tham dự vào niềm vui và đức tin phục sinh, luôn luôn dược đòi hỏi phải chiến đấu với kẻ thù của linh hồn mình. Vì thế, hãy chiến đấu để đi tới chiến thắng. Chỉ có chấp nhận chiến đấu để vươn tới chiến thắng, ta mới thực là người mang lấy và sống niềm vui và đức tin phục sinh.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

Rao truyền ơn Phục Sinh

Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.

Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?

2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?

3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?

4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

NGÀY THÁNH

Thứ Bảy Tuần Thánh C

Hôm nay là ngày Thứ Bảy Tuần Thánh. Sự vắng lặng bao trùm khuôn viên thánh đường thật linh thiêng. Nhà thờ trống vắng như mồ đá. Không có nhang đèn, hoa lá hay khăn phủ. Con Thiên Chúa đã hiến mình chịu chết. Ngài đã chết thật và đã được mai táng trong mồ đá. Ngày ấy, tâm tư của Đức Maria, các Tông đồ và những người bà con lối xóm thân cận có lẽ buồn nhiều. Họ đều trở về nhà vì hôm sau là ngày Sabát. 

Mẹ Maria đã xa cách người con duy nhất. Mẹ nuốt vào tâm dòng nước mắt đau thương. Mẹ không phiền trách, không to tiếng nhưng âm thầm lãnh nhận như một hiến lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Có lẽ hôm nay là ngày vắng lặng nhất trong đời sống của mẹ Maria. Sự vắng lặng linh thiêng trong niềm mong chờ hy vọng. Mẹ đã luôn sống trong niềm tin yêu và phó thác. Riêng các tông đồ thì mỗi người một hoàn cảnh. Có vị thì buồn rầu chán nản chuẩn bị bỏ về quê. Có vị thì bồn chồn lo sợ và đau buồn. Có vị rơi vào bước hẫng lặng thinh. Dù trong tâm trạng nào, các tông đồ vẫn vây quanh Đức Maria để an ủi và được sự ủi an. Mẹ Maria như cột trụ dẫn đàng cho các tông đồ trong thời điểm thương đau nhất. 

Dân chúng ai về nhà nấy. Phần đông dân chúng thờ ơ như những khách bàng quan. Có lẽ nhiều người trong họ cũng đã từng chứng kiến những cảnh tử hình đóng đinh trên cây như thế. Họ không quan tâm phân biệt đúng sai hay phải trái, nhưng cứ hùa theo dư luận của đám đông để lên án và kết án. Trách nhiệm trao lại cho nhà cầm quyền và các vị lãnh đạo tôn giáo. Không biết có được mấy người cảm thông, chia sẻ và nhận ra sự thật của cuộc hành quyết trên đồi Calvê. Phúc âm ghi lại sau khi Chúa Giêsu trút hơi thở thì một viên sĩ quan ca tụng: Ông này qủa thật là người công chính (Lc 23, 47). Thế rồi mọi người từ các quan chức chính quyền, các tử tế, luật sĩ và biệt phái cùng đoàn dân trở về nhà. Họ nghĩ thế là mọi truyện đã hoàn tất. Các nhà lãnh đạo đã yên tâm diệt trừ được một người luôn làm cho họ cảm thấy chướng tai gai mắt. Có lẽ các nhà lãnh đạo rất hả hê khi đã giết Chúa.

Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời các tiên tri đã loan báo về Ngài. Ngài đã kinh qua mọi khổ đau của người Tôi Trung được diễn tả trong sách tiên tri Isaia. Giao Ước mới đã được ký kết bằng chính máu của Con Chúa để cho nhiều người được ơn tha tội. Một kỷ nguyên mới đang hé mở. Ngày Sabát đạo cũ sắp qua và ngày thứ nhất trong tuần ló dạng, Chúa Giêsu đã vượt qua sự chết để bước vào sự sống mới.

Chúa Giêsu đã hiến thân mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Chúa đã dâng hiến với tình yêu vô điều kiện, yêu chỉ vì yêu: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15, 13). Chúng ta không thể thấu hiểu tình yêu mà Chúa đã dành cho nhân loại. Tình yêu qúa cao vời và huyền diệu. Chúa đắp đổi hận thù bằng sự tha thứ. Chúa cúi đầu chấp nhận mọi sự xỉ vả và lăng nhục của con người. Chúa đứng lặng yên trước những cáo buộc gian dối và thách thức quyền hành. Chúa hiện diện đó như một người Tôi Tớ hiền lành và nhân từ. Qua thái độ khiêm hạ, Chúa đang thầm gieo những hạt giống tốt vào những mảnh hồn chai cứng để cải đổi đời sống con người.

Lạy Chúa, mầu nhiệm tình yêu của Chúa cao vượt trên mọi suy tưởng của con người. Chúa đã hạ thân làm người đem tin mừng cứu độ. Chúa đã mở cửa nước trời mời đón mọi người. Chúa đã chữa lành và tha thứ mọi tội lỗi của con người. Vậy mà chúng con cứ ngoảnh mặt làm ngơ và chối từ ơn Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ và xin thương xót chúng con.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Subcategories