- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Thứ Bảy Tuần Thánh C
Người ta kể rằng: Có một nhà vua kia cảm thấy rất buồn. Nhà Vua mới nghe tin có một thiền sư rất thông thái và có tình hài hước có thể làm nhà vua nguôi cơn buồn. Nhà Vua mới mời thiên sư vào trong hoàng cung. Và nói: Trẫm nghe nói ngươi có thể làm cho ta vui. Vậy hôm nay ta đang buồn, ngươi có thể làm gì đó cho ta vui được không. Thiền sư mới nói: Xin bệ hạ nói một câu nào trước rồi hạ thần mới nói được. Nhà vua bèn nói: Ta nhìn ngươi giống y con heo. Vị Thiền sư liền đáp: Thần nhìn bệ hạ giống y như Phật. Nhà Vua thắc mắc tại sao ta nói ngươi là heo mà ngươi lại cho ta là Phật. Thiền sư đáp: Vì nếu trong tim của mình chứa Phật thì mình sẽ nhìn thấy tha nhân là Phật, còn nếu chứa heo thì sẽ nhìn thấy tha nhân là heo.
Khi con người chỉ mang tâm địa loài vật, ắt hẳn nó cũng cư xử theo bản năng như bao loài vật. Khi con người mang tâm địa loài vật chắc chắn nó cũng nhìn đồng loại với cái nhìn hẹp hòi, thiển cận. Loài người có lý trí để suy nghĩ điều hay lẽ phải, có ý chí để tự chủ bản năng trước cám dỗ, có tự do để chọn lựa, đây là nét đẹp cao quý của con người mà các loài khác không có. Đây là những khả năng làm nên sự cao quý nơi phẩm giá của con người hơn muôn loài muôn vật.
Ky-tô giáo cũng nhắc chúng ta: loài người là hình ảnh Thiên Chúa. Con người là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người ngoài sự sống thể xác như loài vật còn có sự sống siêu nhiên là linh hồn trường sinh, bất tử. Con người sinh ra trong cuộc đời này chỉ là bến tạm để chuẩn bị một cuộc sống hoàn hảo và viên mãn hơn. Đó là thiên đàng, là cõi phúc, là nước trời hằng sống. Con người phải biết sống đúng với phẩm giá làm người của mình là sống yêu thương, là ăn ngay ở lành theo lề luật mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm khảm con người.
Thế nhưng, nhìn vào cuộc sống hôm nay, xem ra rất nhiều người đã không sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Họ phạm tội. Họ sống mất lương tri. Họ tranh giành và giết hại lẫn nhau thật dễ dàng và thảm khốc. Nếu theo dõi báo chí thì hàng ngày biết bao tin chẳng lành xảy ra, khiến con người ngày càng lo sợ, bất an. Nguyên những ngày đầu năm người ta đã cảm thấy sững sờ trước những tin giật gân như: Chồng dùng búa đập vợ chết vì bị “ép” sống chung với vợ bé, nữ sinh bị hiếp, bị giết sau va chạm giao thông … là những thảm án đau lòng xảy ra trong dịp nghỉ Tết nguyen đán Qúy Tỵ 2013.
Đây chính là một dấu chứng của một xã hội đang đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa đã làm cho xã hội loạn lạc, bạo lực. Một xã hội không Thiên Chúa chính là hỏa ngục tại thế mà con người hiện nguyên hình là quỷ dữ cắn xé đồng loại của mình. Khi con người không nhìn thấy Thiên Chúa nơi tha nhân, thì họ chỉ nhìn đồng loại mình như những con vật để rồi dễ dàng ra tay sát hại lẫn nhau.
Thế nên, trước những tục hóa và bạo lực ngày một gia tăng do con người đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa, và hiểu lệch lạc về phẩm giá của mình. Thiết nghĩ, người ky-tô hữu chúng ta cần đào sâu đức tin để sống đức tin và làm chứng cho tin mừng trong một thế giới đang vắng bóng Thiên Chúa hôm nay.
Hôm nay lễ Chúa Phục sinh là lời nhắc nhở chúng ta có sự sống đời sau. Có một sự sống thần linh vượt lên sự sống vật chất tạm bợ trần gian. Cuộc sống đó hoàn hảo hơn sự sống trần gian này. Chúa Giê-su đã đi qua kiếp người này bằng cái chết thập tự giá. Người ta tưởng rằng thế là hết. Công sức, sự nghiệp của Ngài cũng tiêu tan. Thế nhưng, Chúa đã sống lại. Chúa nói, Chúa về cùng Cha. Chúa nói, Chúa được chia sẻ vương quyền với Cha sau cuộc đời làm đẹp lòng Chúa Cha. Nhìn vào sự kiện Chúa Phục sinh cũng giúp chúng ta biết sống có trách nhiệm hơn với cuộc sống hôm nay. Đời sau là hệ quả của kiếp sống này. Đời sau con người được ân thưởng hay bị phạt trầm luân cũng tùy thuộc vào cuộc sống hôm nay.
Thiên Chúa ban cho con người có lý trí để biết làm điều lành tránh điều dữ. Ngài cũng cho con người có ý chí để vượt thắng cám dỗ và có tự do để chọn lựa. Hạnh phúc đời sau tùy thuộc vào những chọn lựa cách sống hôm nay. Vâng nghe lời Chúa hay bất tuân? Sống theo đạo lý hay vô đạo lý? Tất cả sẽ nhận lại ở đời sau khi mà Chúa sẽ trả lại sự công bằng cho con người. Hạnh phúc hay bất hạnh đời đời? Tất cả tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại hôm nay.
Xin cho chúng ta dám sống điều mình tin thể hiện qua việc tuân theo Lời Chúa, biết sống theo giáo huấn của Chúa, biết thực thi công bình và bác ái. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết tin tưởng vào Chúa phục sinh để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống này trong niềm trung kiên theo Chúa. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Theo trình thuật Tin Mừng hôm nay, “Các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình” (Ga 8:3). Họ làm như thế là “nhằm thử Ngài, để có bằng cớ tố cáo Ngài” (Ga 8: 6).
- Bối cảnh câu chuyện
Đây là cái bẫy ‘tiến thoái lưỡng nan” mà nhóm kinh sư và Pharisêu giăng ra một cách tinh quái nhằm buộc tội và triệt hạ Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu bảo không được ném đá người phụ nữ, Ngài sẽ bị buộc tội là vi phạm Luật Môsê: “Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20:14 ) và như thế Ngài sẽ mất uy thế trước mặt dân chúng, bị dân Israel coi là nghịch đạo. Còn nếu Chúa Giêsu đồng ý việc ném đá, Ngài làm ngược với những gì Ngài giảng dạy. Vì Ngài đã từng tuyên bố: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngai, mà được cứu độ” (Ga 3,17). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả” (Ga 8,15). Như thế, Ngài không đáng tin vì ngôn hành bất nhất. Những kẻ đem người phụ nữ ngoại tình đến cho Chúa Giêsu là những kẻ có quyền thế: các Kinh sư tinh thông Lề luật, và các Pharisêu nổi tiếng là những người tuân giữ Lề luật cách tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Thực ra, họ không tốt lành gì, ít là trong việc này. Nếu họ thực sự quan tâm đến việc thực thi công lý thì hẳn họ đã đem người phụ nữ này đến những kỳ mục địa phương, chứ không đem đến Chúa Giêsu, vì Ngài không phải là thẩm quyền chính thức giải quyết các vấn đề về Luật Môsê. Hơn nữa, họ đã tự ý thao túng Lề luật theo ý đồ riêng của họ, bởi vì trong trường hợp ngoại tình, Luật Môsê qui định cả người đàn ông và người phụ nữ phải chết: “Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10), và “Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, và cả người đàn bà” (Đnl 22,22). Vậy mà, họ chỉ đem người phụ nữ đến, không nói gì tới người đàn ông kia. Họ hẳn biết người đàn ông đó là ai chứ? Có gì mờ ám ở đây không? “Bị bắt gặp đang ngoại tình” mà sao không bắt luôn người đàn ông?
- Người phụ nữ ngoại tình là ai?
Tác giả sách Tin Mừng Gioan mô tả rõ ràng “Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8: 3-5).
Tuy nhiên, theo trình thuật này của Gioan, người ta không biết gì về người phụ nữ này. Bà ấy quê ở đâu? Bà ấy tên là gì? Bà ấy không van xin Chúa Giêsu bất cứ điều gì. Người ta có thể khẳng định rằng lúc này bà là một người bất hạnh. Nhưng cuộc sống trước đó của bà như thế nào? Không lẽ bà ấy không biết đến rủi ro to lớn mà bà sẽ phải chịu khi gần gũi một người đàn ông không phải là chồng mình? Bà ấy hẳn phải biết rõ cái giá phải trả nếu bị phát hiện. Nhưng bà ấy vẫn chấp nhận rủi ro này. Để làm gì? Dường như không ai quan tâm đến hoàn cảnh sống riêng của bà. Nếu có ai đó để ý đến bà thì chỉ là mấy ông kinh sư và Pharisêu; họ hẳn đã bàn tán lên kế hoạch theo dõi, rình mò nhiều ngày đêm hòng bắt quả tang bà. Lúc này, gia đình bà đâu rồi, cả người chồng của bà nữa? Vì nếu chồng của bà thực sự yêu bà, bà đã không cần phải đi tìm kiếm tình yêu nơi người đàn ông khác. Người đàn ông đã quyến rũ bà giờ ở đâu? Anh ta không chung tình, không đủ dũng cảm, nên đã bỏ trốn và bỏ rơi bà. Hẳn bà tuyệt vọng khi đối mặt với phán quyết không thể tránh khỏi của Luật Môsê, biết rằng mình không có cơ hội thoát khỏi việc bị ném đá. Sẽ không có ai dám bảo vệ bà. Tất cả dường như chống lại bà. Bà thấy mình đang ở ngõ cụt, không có lối thoát. Chỉ trong vài phút nữa thôi, những viên đá sẽ chấm dứt cuộc sống của bà, một cuộc sống không có tình yêu đích thực.
Người phụ nữ ngoại tình vô danh tính đó là ai? Câu hỏi này có thể dẫn đến một câu hỏi khác: người ngoại tình có thể là ai khác nữa không, kể cả tôi, người đang đọc bài Tin Mừng này? Trong Cựu Ước, lòng chung thủy trong hôn nhân bắt nguồn từ Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, một mối tương giao trung tín mãi mãi. Do đó, lệnh cấm ngoại tình được nêu rõ trong Mười Điều Răn: “Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20:14). Lệnh này nhấn mạnh đến sự thánh thiện của hôn nhân và tầm quan trọng của lòng chung thủy hôn nhân trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã tái khẳng định lệnh này, mở rộng ý nghĩa ngoại tình không chỉ là hành vi thể xác mà còn cả những suy nghĩ dâm ô dẫn đến hành động: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:27-28). Điều này chỉ ra rằng, theo quan điểm của Kitô giáo, ngoại tình bắt đầu từ trong cõi lòng và tâm trí, không chỉ là một lỗi phạm về thể xác mà còn là một lỗi phạm về đạo đức và tâm linh. Một trong những hậu quả tâm linh của việc ngoại tình là xa rời Thiên Chúa. Tự bản chất, tội lỗi đã tách con người ra khỏi Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện. Khi một người phạm tội ngoại tình, họ chủ động chống lại lề luật của Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài dành cho các mối tương quan giữa con người. Sự bất tuân này tạo ra một rào cản tâm linh trong mối tương quan giữa mỗi người và Thiên Chúa. Bài thánh vịnh ăn năn của Đavít sau khi ông phạm tội với Bétsabê đã cho thấy rõ sự xa rời này và nỗi khao khát được Thiên Chúa phục hồi: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (Tv 51:10-11). Như thế, ngoại tình là từ bỏ Thiên Chúa, đi thờ ngẫu tượng, bất trung không chỉ với chồng/vợ của mình mà trước hết là bất trung với Thiên Chúa.
Đối với chúng ta ngày nay, bất trung với Thiên Chúa không nhất thiết phải là ngoại tình thể xác hay tư tưởng, hoặc thờ ngẫu tượng gỗ đá, nhưng là dành thời gian và sức lực của mình cho những thứ khiến người ta từ bỏ Thiên Chúa. Những ngẫu tượng đó chiếm vị trí số một trong cuộc sống của chúng ta và cuối cùng thống trị chúng ta. Những ngẫu tượng đó có thể là tiền bạc, giầu sang, danh tiếng, khao khát người khác biết về mình, khao khát cảm giác mới lạ, thú vui, thèm muốn một người cụ thể nào đó, v.v. Mỗi người chúng ta đều bận tâm đến một điều gì đó trong trần thế này mà chúng ta không muốn bỏ qua, dù điều đó buộc chúng ta phải để lại mọi thứ khác phía sau, kể cả Thiên Chúa.
Ngẫu tượng của chúng ta là gì? Điều gì khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa? Điều gì thu hút chúng ta đến mức chúng ta mạo hiểm sức khỏe, mạng sống và nhất là không cần lắng nghe Lời Thiên Chúa trong tiếng lương tâm cảnh báo?
- “Ai trong các ông sạch tội?”
Đã hơn một lần các kinh sư và người Pharisêu muốn thử thách Chúa Giêsu để gài bẫy buộc tội Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Lc 20: 21-22). Nhưng điều khác biệt và xảo quyệt ở đây là họ sử dụng con người, một người phụ nữ cô thân cô thế, như một kế sách, không chỉ trước mắt là đẩy bà vào cái chết, mà còn đẩy chính Chúa Giêsu vào chung một số phận, loại trừ kẻ mà họ coi là nguy hiểm cho uy thế và quyền lực của họ.
Ở đây, Chúa Giêsu giữ im lặng, giống như trước mặt Philatô sau này (Ga 19: 9). Ngài không chấp nhận việc sử dụng con người cho mưu kế gian trá này, cũng như kiểu ăn nói gây hấn và qui kết tội lỗi. Ngài phát biểu bằng cách dùng ngón tay viết trên mặt đất: ngôn ngữ Ngài viết trong trường hợp này không phải là ngôn ngữ của các kinh sư và người Pharisêu. Ở đây, việc Chúa Giêsu dùng ngón tay để viết xuất hiện lần đầu trong sách Tin mừng theo thánh Gioan. Cử chỉ này nhắc tới “Hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết” (Xh 31,18) và câu nói của Chúa Giêsu: “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11: 20). Chúa Giêsu, với “ngón tay của Thiên Chúa,” đã viết lên một điều luật mới, thiết lập Triều Đại Thiên Chúa, nơi nguồn gốc mọi tội lỗi là quỷ dữ bị trừ khử, và con người tội lỗi được giải thoát khỏi cái chết muôn đời. Chúa Giêsu sắp thực thi luật mới này cho người phụ nữ ngoại tình đang câm lặng và cam chịu giữa vòng vây của những người vin vào lề luật nhưng không biết tinh thần tối thượng của lề luật: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15: 17). Sự im lặng của Chúa Giêsu như muốn nói với mọi người hãy bỏ đi những qui kết ầm ĩ bên ngoài để có thể im lặng bước vào bên trong đáy sâu tăm tối lòng mình và nhận ra rằng không ai không là người ngoại tình, không là tội nhân đáng chết.
“Vì họ cứ hỏi mãi, nên Ngài ngẩng lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8: 7). Lời của Chúa Giêsu “Ai trong các ông sạch tội,…” khiến các kinh sư và người Pharisêu phải có một lối nhìn nhận khác. Thay vì chỉ kêu gọi người ta đứng ra làm chứng về tội ngoại tình của người phụ nữ, Chúa Giêsu kêu gọi bất cứ ai vô tội hãy bắt đầu thi hành án. Như thế, Ngài chỉ ra tình trạng tội lỗi những người buộc tội người phụ nữ và vạch trần sự giả hình của họ: cứ vin vào luật lệ, quy tắc, nhất là chuẩn mực của riêng mình, để bắt lỗi người khác, mà không biết tự xem xét lại lòng dạ, lương tâm và đời sống riêng tư của mình.
Khi không biết xét lại bản thân mình cách trung thực thì người ta rất dễ thấy người khác là kẻ tội lỗi mà quên mất rằng bản thân mình cũng tội lỗi không kém. Chúa Giêsu soi sáng cõi lòng của mỗi người chúng ta và vạch trần những tội lỗi ẩn kín nơi đó. Chúa Giêsu thúc giục mỗi người chúng ta, vốn hay phán xét và kết tội những người khác với thái độ tự cho mình là đúng, hãy xem xét lại cuộc sống của chính mình. Chúng ta hãy bỏ những viên đá xuống và trở về nhà mình, vì biết rằng chính mình cũng đáng bị ném đá như vậy.
Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian để cứu chúng ta khỏi sự lên án mà chúng ta đáng phải chịu: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Sự thật này được diễn tả một cách hoàn hảo trong cung cách Chúa Giêsu thấu hiểu, xót thương và mở ra con đường sự sống mới cho người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình.
Chúng ta cần nhớ rằng không ai trong chúng ta có quyền ném đá người khác vì chính chúng ta đã được Chúa Giêsu tha thứ và mong mỏi chúng ta được sống kết hợp với Ngài nhiều như thế nào. Như thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc thứ nhất, Chúa Giêsu muốn chúng ta “được kết hợp với Ngài… cùng được thông phần những đau khổ của Ngài, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong cái chết của Ngài, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết… chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Ngài kêu gọi trong Chúa Kitô Giêsu” (Philípphê 3:8-14).
Phêrô Phạm Văn Trung