3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

LUẬT SAMARITANÔ

Câu chuyện kể của Chúa Giêsu về người Samarianô nhân hậu đã khởi hứng cho một câu chuyện phim khá lý thú. Nội dung chuyện phim như sau: Một cô sinh viên trường y đang học năm cuối chương trình y khoa một lần kia chứng kiến một người đứng tuổi mập mạp đang trong cơn đột quỵ. Hoàn cảnh lúc ấy thật cấp bách, theo sự hiểu biết về y khoa mà cô sinh viên đã tiếp thu ở nhà trường thì cần phải có một tiểu phẩu nhỏ nơi cổ nạn nhân mới có thể cứu sống nạn nhân kịp thời trước khi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Cô sinh viên ngành y ấy đã theo tiếng lương tâm mà làm tiểu phẩu trước khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nạn nhân được cứu sống, nhưng lại bị một di chứng là khó phát âm vì khi làm tiểu phẩu, cô sinh viên chưa tốt nghiệp ấy bị một sai sót nhỏ. Cô sinh viên bị nạn nhân kiện. Nhiều thế lực không tốt cũng nhân cơ hội ấy để kiện luôn cả khoa và trường mà cô sinh viên đang theo học. Vụ kiện làm xôn xao dư luận, trở thành đề tại “hot” và cô sinh viên đang ở trong cảnh thế bí chỉ vì lý do chính là chưa tốt nghiệp, chưa có bằng chứng nhận được phép hành nghề y khoa. Và nhà trường cũng như bị liên lụy trách nhiệm đáng kể. Câu chuyện tưởng như không có hậu ấy đã thay đổi vào phút chót khi viên luật sư trẻ đầy tâm huyết đã tìm ra một luật để bào chữa đó là luật Samaritanô. Câu chuyện phim trở thành có hậu khi cô sinh viên được tòa tuyên vô tội.

Thánh tông đồ dân ngoại nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn mọi Lề Luật” (Rm 13,8). Có thể nói rằng luật tình yêu là luật của các luật. Tuy nhiên cần xác định thế nào là yêu thương. Dưới khía cạnh tiêu cực, “đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại”(Rm 13,10). Khổng Tử dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Theo Tanmút Do Thái giáo thì Rapbi Hinlen cũng nói: “Đừng làm cho người khác điều chính mình không thích”. Ông Tobia cha, đã khuyên bảo người con một đạo lý tương tự như trên: “Này con, hãy cẩn thận trong mọi việc con làm, và hãy tỏ ra con là nhà gia giáo trong mọi cách ăn thói ở của con. Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả”(Tb 4,14-15). Chúa Kitô đã đưa luật tình yêu này đến tận cùng với chiều kích tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môsê và các lời ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

Bài Tin mừng Chúa Nhật XV TN C tường thuật khi được Chúa Giêsu hỏi rằng trong Luật đã viết những gì thì vị thông luật đã trả lời đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng ông ta trả lời chính xác và hãy làm như vậy thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp (x.Lc 10,25). Kitô hữu chúng ta ít băn khoăn hay tranh luận về giới luật phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn. Quả thật nếu đã tin nhận Thiên Chúa là căn nguyên và là cứu cánh của mọi vật mọi loài, nhất là loài người chúng ta thì việc phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là lẽ tất yếu. Tuy nhiên, cũng như vị thông luật kia, chúng ta nhiều khi cảm thấy khó khăn với giới luật yêu tha nhân như chính mình.

Cựu Ước ghi rõ là phải yêu người thân cận như chính mình. Thế thì ai là người thân cận của chúng ta? Hạn từ người thân cận dường như giả thiết một sự giới hạn nào đó cả về mối tương quan cũng như điều kiện hoàn cảnh. Người Do Thái vốn ưu tiên đặt nặng mối dây tương quan niềm tin tôn giáo, kế đến là là mối tương quan màu da quốc tịch… Và chắc chắn kẻ thù không hề có trong phạm trù người thân cận. Chúng ta nhận ra điều này khi họ được dạy rằng “hãy yêu thương đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43).

Chúa Giêsu đã làm chưng hửng vị thông luật kia, khi mở rộng phạm trù người thân cận đến tất cả mọi người, không trừ ai. Người lại còn khẳng định tính tất yếu và vô điều kiện của giới luật yêu người. Câu chuyện “người Samaritanô nhân hậu” là một ví dụ minh họa rõ nét. Dù là luật của nghi lễ tế tự như trường hợp vị tư tế hay dù là một sự cẩn trọng, khôn ngoan cần có như trường hợp của vị trợ tế hay dù bất cứ lý do gì cũng không thể là nguyên cớ khiến ta xao nhãng hay thoái thác nghĩa vụ sống yêu thương. Theo nội dung câu chuyện kể, khi truyền cho vị thông luật là hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu thì Chúa Giêsu nhắc nhớ vị ấy cũng như chúng ta rằng đừng hỏi ai là người thân cận của tôi mà hãy tự hỏi tôi là người thân cận của những ai. Chúng ta phải trở nên người thân cận của tất cả những ai đang cần đến lòng xót thương, ngay ở đây và lúc này.

Là Kitô hữu, chúng ta không thể bỏ qua nội dung dụ ngôn cuộc phán xét chung trong Tin mừng Matthêu đã được Giáo hội viết thành lời kinh “mười bốn mối thương người”. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống…Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta….Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không choTa ăn; Ta khát các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc…”(Mt 25,31-46).

“Hãy đi và hãy làm như người Samaritanô nhân hậu!” Một lệnh truyền mang tính cấp thiết vì nó liên hệ đến hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, con phải là người thân cận của ai đây? Không phải ở đâu xa hay là ngày mai, nhưng hôm nay và ở nơi này, lạy Chúa, những ai đang cần lòng thương xót, sự cứu giúp và nâng đỡ của con? Nếu thật lòng và xác tín với lời cầu nguyện trên, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

RỈ TAI

Thứ Bảy Tuần 14 TN C

“Điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng!”.

Mary, một học sinh hở hàm ếch, điếc một tai. Nhưng ngày kia, kiểm tra thính giác, cô giáo Léonard đã dành cho Mary một ánh mắt ấm áp và một phép mầu! Học sinh xếp hàng để nghe một lời rất khẽ của cô giáo; sau đó, viết ra giấy. Và đây, những gì Mary viết ra: “Ước gì con là con gái nhỏ của mẹ!”. Đó là một lời rỉ tai thay đổi một cuộc đời!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cũng nói đến những lời ‘rỉ tai’. Đó là trối trăng mà các anh của Giuse ‘cho là’ đã nhận từ cha trước khi ông qua đời; đó còn là những lời “rỉ tai” lúc đêm hôm của Chúa Giêsu mà các môn đệ sẽ “nói ra giữa ban ngày” và “lên mái nhà rao giảng!”.

Sợ rằng, Giuse nhớ lại chuyện xưa, các con của Giacóp sai người đến nói với Giuse những lời ‘rỉ tai’ được cho là của cha – bài đọc một. “Cha của chú trước khi chết đã truyền rằng: Các con hãy nói thế này với Giuse: Thôi ! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con!”. Nghe thế, Giuse bật khóc. “Không phải Giuse khiến các anh mình run sợ, mà là chính lương tâm của họ tố cáo. Khi lòng mình không ngay chính, người ta nhìn sự tha thứ cũng thành mối đe dọa!” – Augustinô; đang khi “Hỡi những ai nghèo hèn, hãy tìm kiếm Thiên Chúa, là tâm hồn phấn khởi vui tươi!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Với bài Tin Mừng, lời ‘rỉ tai’ Chúa Giêsu nói lúc đêm hôm là gì? Đây là một câu hỏi quan trọng. Hãy nhớ lại cách thức Ngài giảng dạy! Đầu tiên, Ngài nói xa gần bằng dụ ngôn để khơi gợi sự tò mò; một khi người nghe đã lớn lên trong đức tin, Ngài sẽ bắt đầu nhỏ to những lẽ thật sâu sắc – lẽ thật sâu sắc nhất là Chúa Cha! Ngài sẽ truyền đạt theo những cách thức vượt quá ngôn từ – che đậy bởi các hình tượng – để rồi, tỉ tê về Chúa Cha và con người Ngài theo những cách thức ‘không lời’ thầm kín nhất.

Như vậy, rất nhiều điều Chúa Giêsu muốn nói, nhưng Ngài chỉ nói “lúc đêm hôm” của đời sống nội tâm; qua đó – nhờ cầu nguyện, chiêm ngắm và soi rọi của Thánh Thần – ngay cả giữa tối tăm, chúng ta sẽ nghe được những lời ‘rỉ tai’ sâu sắc nhất vượt quá ngôn từ, khái niệm và hình ảnh. “Chúa nói với linh hồn trong thinh lặng. Và những lời thì thầm ấy, linh hồn chỉ nghe được khi đêm xuống và mọi tiếng ồn bên ngoài lặng đi!” – Gioan Thánh Giá.

Anh Chị em,

“Điều anh em nghe rỉ tai!”. Dưới ánh quang Thánh Thể, chúng ta lắng nghe Chúa Giêsu ‘rỉ tai’ từ bóng tối của đức tin những lời vốn có thể thay đổi cả một cuộc đời. Hãy để Thánh Thể lôi kéo chúng ta vào niềm tin sâu sắc nhất, chắc chắn nhất về tình yêu, sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa. “Hãy ở lại với Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Chính trong im lặng của sự hiện diện ấy, Ngài sẽ nói với bạn những lời không ai khác có thể nói – những lời có thể thay đổi đời bạn từ cội rễ!” – Gioan Phaolô II.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, không ao ước những ‘thủ thỉ’ của Chúa, con sẽ bị mê hoặc bởi những ‘thì thầm’ của thế gian. Dạy con chìm sâu hơn trong cầu nguyện và chiêm ngắm mỗi ngày!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

TRAO TẶNG KHO BÁU TIN MỪNG

Sứ mạng loan báo Tin mừng cho muôn dân là sứ mạng hàng đầu của Chúa Giê-su và cũng là sứ mạng tối thượng của Hội thánh.

Hội thánh là một Thân thể huyền nhiệm gồm có Chúa Giê-su là Đầu và mỗi một tín hữu là một chi thể trong Thân thể nầy. Do đó, bất cứ ai là chi thể của Chúa Giê-su đều phải tham gia vào sứ mạng cao quý, trọng đại nầy.

Chính vì thế, trước hết, Chúa Giê-su tuyển chọn 12 Tông đồ; sau đó, Ngài chọn 72 môn đệ khác và sai các ngài ra đi loan báo Tin mừng.

Hôm nay, trong thế kỷ 21 này, Ngài tuyển chọn thêm nhiều môn đệ khác, trong số đó phải kể đến một tỷ ba trăm triệu người Công giáo và hơn một tỷ người khác thuộc các Giáo hội của Chúa Ki-tô, để tham gia vào công việc loan Tin mừng cho gần tám tỷ người trên thế giới.

Hôm xưa, khi sai bảy mươi hai môn đệ ra đi, Chúa Giê-su căn dặn các ông rằng : "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về."  Lời căn dặn nầy hôm nay cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta.

Đáp lời Chúa mời gọi, chúng ta sẵn sàng cầu xin có thêm thợ gặt, nhưng vấn đề là chúng ta sẽ cầu cho ai đi làm thợ gặt đây?

Ai là thợ gặt của Chúa?

Khi cầu xin cho được bình an, sức khoẻ và may mắn… thì chúng ta cầu cho bản thân mình trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho những người khác, ngoại trừ ta!

Nhưng, dù muốn dù không thì chúng ta đã là thợ gặt chính danh ngay từ khi được lãnh Bí tích Thánh tẩy. Nhờ Bí tích nầy, chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giê-su và được thông dự vào chức vụ ngôn sứ, tức sứ vụ loan Tin mừng của Ngài. Vậy thì loan báo Tin mừng là trách nhiệm của chúng ta, của từng chi thể Chúa Giê-su, không thể thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân thể Chúa.

Trao tặng kho báu Tin mừng

Người ta chỉ có thể tặng ban cho người khác những gì mình đang có. Không ai có thể cho điều mình không có.

Vì thế, người đi loan báo Tin mừng cho người khác không thể thiếu thốn Tin mừng.

Tiếc thay, nhiều tín hữu còn ‘nghèo thiếu’ Tin mừng, vì chưa đọc và nghiền ngẫm Lời Chúa dạy hằng ngày, chưa khám phá kho tàng khôn ngoan chứa đựng trong đó và đời sống của họ chưa thấm đẫm Tin mừng!

Nếu Tin mừng của Chúa Giê-su chưa sáng lên trong cuộc đời ta, chưa bừng cháy trong tim ta… thì làm sao chúng ta có thể đem lửa ấy thắp lên cho người khác được? Không ai có thể cho điều mình không có.

Thế nên, việc quan trọng nhất là chúng ta phải đọc và suy niệm Tin mừng hằng ngày rồi mới có thể ban tặng cho người khác được.   

Lạy Chúa Giê-su,

Sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Thế là từ hôm đó, Chúa chuyển giao trọn vẹn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa nhận lãnh từ Chúa Cha cho các môn đệ cũng như cho chúng con là chi thể trong Thân mình Chúa.

Xin cho chúng con luôn ý thức sứ mạng thiêng liêng cao cả Chúa trao và ra công gắng sức thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, để muôn người khắp nơi được đón nhận Tin mừng và ơn cứu độ của Chúa. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  

Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 10, 1-12).

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi'.

"Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".

THUỶ CHUNG

Thứ Sáu Tuần 14 TN C

“Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói!”.

Trong “Những Điều Nhỏ Nhặt” – “Bits & Pieces” – tác giả nhận xét, “Chính những gì mà những con người không quan trọng làm mới thực sự có ý nghĩa và quyết định tiến trình lịch sử nhân loại. Thế giới sẽ sớm tàn nhưng sự thuỷ chung, lòng trung thành và sự cống hiến của những con người vô danh này lại làm nên lịch sử!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay không chỉ nói đến những con người ‘thuỷ chung’ vô danh góp phần làm nên lịch sử, nhưng còn nói đến những con người ‘thuỷ chung’ hữu danh được Chúa sai đi làm nên lịch sử! Và Ngài, Đấng Thuỷ Chung – kiến tạo lịch sử – luôn ở cùng họ!

Câu chuyện Giuse – người được sai đi để cứu một dân – tiếp tục. Sau khi tỏ mình cho các anh, Giuse được Pharaô ban xa mã để nghinh đón cha già và họ hàng – bài đọc một. Khi Giacóp vừa vui mừng, vừa lo lắng vì sắp rời quê, thì Thiên Chúa trấn an, “Đừng sợ xuống Ai Cập. Chính Ta sẽ xuống với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên!”. Ôi! Đấng uy dũng, quyền năng sẽ ‘di cư’ với dân; để về sau, chính Ngài – rất ‘thuỷ chung’ – sẽ ‘hồi hương’ họ lên lại quê nhà! “Chúng ta có một Thiên Chúa của lịch sử, không ở trên mây, mà là Đấng cùng bước với dân – Ngài xuống Ai Cập với nhà Giacóp và không rời họ cho đến khi họ trở về đất hứa!” – Phanxicô.

Trong Tin Mừng hôm nay, khi sai các môn đệ đi, Chúa Giêsu không yêu cầu họ có khả năng đối mặt với những con sói; trở nên đông đảo, có uy tín và thế giới sẽ lắng nghe… và họ sẽ đánh bại bầy sói. Không! Ngài sai họ đi như chiên, và điều này quan trọng! Nếu bạn không muốn làm chiên, Chúa không bảo vệ bạn; nếu bạn là chiên, hãy yên tâm! Ngài yêu cầu bạn luôn là chiên – nhu mì, trong trắng, sẵn sàng hy sinh; và Ngài, Mục Tử ‘thuỷ chung’ sẽ nhận ra chiên mình và bảo vệ nó khỏi sói! “Có những lúc tôi thấy mình như một con chiên giữa bầy sói. Chính trong sự yếu đuối ấy, tôi nhớ rằng, Chúa đã chọn sống như chiên – để chiên không bao giờ đơn độc!” – Madeleine Delbrêl.

Anh Chị em,

“Như chiên đi vào giữa bầy sói”. “Chừng nào bạn và tôi còn là chiên con, chúng ta sẽ thắng; ngay cả khi bị vây hãm bởi nhiều con sói! Nhưng nếu chúng ta trở thành sói – ‘Ồ, thông minh làm sao, tôi cảm thấy hài lòng về bản thân!’ – chúng ta sẽ bị đánh bại, bởi sẽ bị tước mất sự giúp đỡ của Người Chăn Chiên. Ngài không chăn sói, mà chăn chiên!” – Gioan Kim Khẩu. Thánh Vịnh đáp ca tiết lộ, “Người công chính được Chúa thương cứu độ!”. Mỗi ngày, ‘Giêsu Thuỷ Chung’ – Emmanuel – đang ở với chúng ta. Vấn đề còn lại là liệu chúng ta có biết đến với Ngài để kín múc sức mạnh và nghị lực hầu có thể đương đầu với đủ ‘loại hình sói’ trong cuộc sống. “Chúng ta yếu đuối không phải vì không có sói, mà vì đã quên tìm đến Mục Tử. Sức mạnh thật không nằm nơi gươm giáo, nhưng nơi lòng gắn bó với Đấng đã chiến thắng thế gian!” – Fulton J. Sheen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con đi vào thế giới, không vô danh chút nào. Cho con luôn là chiên ‘thuỷ chung’; đừng để con là sói, ‘vô danh’ cũng không và ‘hữu danh’ lại càng không!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

SAI HAI NGƯỜI MỘT

Hôm nay bài Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng, và sai các ông đi từng hai người một. "Sai đi từng hai người một," đó là đề tài hôm nay. Chúa có ý gì khi sai từng hai người một?

  1. Để hỗ trợ

Chắc chắn là để hỗ trợ (nhau). Chị ngã em nâng. (chứ không phải: Tưởng rằng chị ngã em nâng

Ai ngờ chị ngã em bưng miệng cười !).

Nếu đi một mình thì khi gặp khó khăn -chẳng hạn khi bị người đời từ chối không tiếp- các ông sẽ không biết bàn hỏi với ai, không được ai khích lệ ủi an, nên sẽ dễ nản lòng bỏ cuộc. Hơn nữa có lúc Chúa còn nói rõ, Thầy sai anh em đi như chiên giữa sói rừng, nên cần có nhau chống đỡ kẻ dữ là điều hiển nhiên.

Trong Bộ Giáo Luật mới, có một hình thức coi xứ mà trước đó đã manh nha một vài nơi, đó là coi xứ tập thể. Nhiều cha sở thay vì ở một mình tại xứ, thì cùng với các cha xứ khác, ở chung một nơi, rồi toả đi các xứ. Về ăn chung, nghỉ đêm cùng một nhà. Có thời gian nâng đỡ trò chuyện hỏi han nhau. VN chưa thấy nhưng nhà dòng thì có nhiều.     

Nhưng cho dẫu được sai đi một mình, thì đâu phải một mình mình đi, mà có Chúa ở cùng. Có Chúa ở cùng nào ta sợ chi. Côn trượng Ngài làm ta an lòng. Thánh Vịnh 22 cho ta biết điều đó. Cho nên Chúa sai từng hai người một để nâng đỡ nhau chưa hẳn là lý mạnh. Lý mạnh là: Cần hai người để làm chứng.

  1. Để làm chứng

Có hai điều cần làm chứng.

1) làm chứng cho sự thật. Trong Luật Mô-sê mà Chúa Giêsu có lần nhắc tới, nói rằng: chứng của hai người là chứng thực… Cho dẫu là chứng gian, nhưng hai người cùng làm chứng như nhau thì người ta tin là thật. Câu chuyện bà Suzanna bị hai ông già” dê, tuổi mùi, ước muốn phạm tội với bà mà không được bà đáp trả, nên đã cáo gian bà phạm tội với một chàng trai nào đó, mạnh khoẻ chạy nhanh quá nên hai ông già không chụp bắt được chàng, là một ví dụ về chứng hai người thì hiệu quả đến mức nào. Chỉ cần hai người tố cáo y một tội là bà Suzanna bị đưa đi ném đá chết ngay. Cũng may mà câu bé Daniel được Chúa soi sáng để giải oan cho bà Suzanna bằng một câu hỏi, hỏi riêng từng ông: bà Suzanna phạm tội dưới gốc cây nào, thì, ông già Dê trả lời dưới gốc cây chò, ông lão Mùi trả lời dưới gốc cây tùng. Thế là chỉ còn có một chứng. Một chứng cây tùng, một chứng cây chò. Nên không đủ 2 chứng. Nên cũng lộ ra là chứng gian luôn.

Hai người đi rao giảng, cùng nói về một điểm, cùng kêu gọi sám hối, thì người ta tin là cần phải sám hối thật, hơn là chỉ một tiếng kêu, gọi mời hoán cải.

Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với một anh em trong dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang con đường bên phải, rẽ phải con đường bên trái, rồi ung dung đi con đường khác trở về nhà dòng. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao ?”

Giá như Phanxicô chỉ đi có một mình. Làm sao làm chứng mạnh mẽ được như đi hai người, ăn mặc giống nhau, thái độ giống nhau, mắt nhìn về một hướng, để kêu gọi người ta hoán cải.

Cần có ít là hai người để làm chứng cho sự thật.

Nhưng đó có lẽ cũng chưa phải là lý mạnh lắm để Chúa Giêsu sai từng hai người một. Lý mạnh để Chúa sai đi từng hai người một là: làm chứng cho yêu thương.

2) làm chứng cho yêu thương. Cần ít là hai người ngang nhau thì mới diễn tả yêu thương được chứ. Có cấp bậc chỉ là thương, xót thương. Ý thức được điều đó, nên đức TGM Saigon trước đây không cử các cha phó xứ, mà chỉ gửi bài sai các cha phụ tá. Bởi vì cũng có cả ngàn lẻ một chuyện giữa cha chính và cha phó. Còn giữa cha sở và linh mục phụ tá, thì nằm ở hai cấp độ xa nhau, nên ít xảy ra chuyện này chuyện kia hơn. Cha phó là gần ngang với cha chánh. Mà hai cha này, nơi nào chẳng may không yêu thương nhau thì càng phản chứng hơn là thà chỉ có một mình cha xứ. Đó cũng là lý lẽ mà các cha triều dọn bài giảng không thấy khai thác đề tài sai đi từng hai người một. Linh mục dòng thì nói được, vì luôn có cộng đoàn là những anh em ngang hàng hỗ trợ, chẳng khác gì sai đi từng hai người một. Sai đi từng hai người một là để làm chứng cho yêu thương. Người không cùng máu mủ ruột thịt nhưng yêu thương nhau như thế đó.

Khi các nhà truyền giáo đến Việt-Nam giảng đạo và có người theo. Các người không theo, nhìn những người theo, xem đặt tên cho họ là đạo gì, vì lúc đó chưa chữ Kitô, chưa có tiếng Thiên Chúa như sau này, thì … quả là điều tốt lành cho đạo ta: những người không theo đạo gọi những người theo đạo là họ theo “đạo yêu nhau,” vì thấy họ yêu thương nhau dường nào (ví như cộng đoàn tiên khởi mà Luca mô tả trong sách Công Vụ). Đây là chi tiết chúng ta biết được nhờ nhà thừa sai Gaspar d’Amaral gửi báo cáo về cho bề trên của mình ở Bồ Đào Nha.

Có một giám mục đến thêm sức cho một xứ đạo. Trước khi thêm sức, ngài hỏi vài câu giáo lý xem trình độ tới đâu. Ngài hỏi: cái gì là dấu hiệu của đạo chúng ta. Không cánh tay nào giơ lên. Ngài hỏi lại cộng với gợi ý như  ghi dấu thánh giá trên mình. Chợt một cánh tay giơ lên, và nói: yêu thương. Đức cha bịp miệng mình kịp trước khi phát ra tiếng wrong: sai. Mà đâu có sai. Quá đúng.

Chúa Giêsu nói người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy: là các con yêu nhau, chứ đâu phải là các con vác thánh giá, là các con nhăn mặt lại chịu khổ đau. Này ta ban điều răn mới, điều răn của riêng ta, là yêu thương, chứ không phải đau khổ.

Sai đi từng hai người một là để làm chứng cho sự thật và nhất là làm chứng cho yêu thương.

Chúng ta không được sai đi để truyền giáo ở đâu xa, nhưng chúng ta ở trong gia đình. Một gia đình chứng tá, là một gia đình mà chồng và vợ, hai người bình đẳng yêu thương nhau, chứ không phải chồng chúa thương xót vợ tôi, hay vợ là trời thương hại chồng là đất. Yêu chứ không chỉ là thương. Như thế mới xứng danh là gia đình công giáo, mà cốt tuỷ của đạo là yêu thương và Chúa sai đi từng hai người một cũng là để làm chứng cho yêu thương.

Trong một cuộc hội thảo về truyền giáo, nhiều học giả phát biểu hùng hồn, nhiều thừa sai kể ra kinh nghiệm. Một người da đen ngồi ở góc, cuối cùng cũng được mời phát biểu. Chị nói : ở đất nước tôi, Phi Châu, khi truyền giáo cho một vùng nào, người ta gửi tới đó một gia đình công giáo.

Kìa họ yêu thương nhau biết là chừng nào. Đó là lời giảng hùng hồn nhất. Tại nhà thờ các linh mục thương yêu nhau, (một linh mục thì khó làm chứng được điều này), tại nhà mình cha mẹ yêu thương nhau, thế là Chúa đã sai đi từng hai người một.

Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Subcategories