3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Phú Hộ và Lazarô

Trong dụ ngôn Phú hộ và Lazarô, Chúa Giêsu kể: Người nghèo Lazarô kết thúc cuộc đời được tổ phụ Abraham bồng ẵm về thiên đàng, còn ông phú hộ lại bị hành hình trong hỏa ngục.

Chắc chắn Chúa không có ý dạy rằng: Tất cả người giàu đều có tội, còn tất cả những người nghèo đều được cứu. Cũng không phải sự giàu làm cho người ta phải sa hỏa ngục, còn người nghèo đương nhiên vào thiên đàng. Đúng hơn, tất cả mọi người đều được mời gọi sống ơn gọi nên thánh theo mẫu gương thánh thiện của Chúa Kitô.

Người phú hộ sở dĩ phải chịu cực hình trong hỏa ngục, phải trầm luân muôn kiếp, không do ông giàu, không vì ông ăn uống thoải mái. Nhưng ông bị mất sự sống, mất ơn nghĩa với Chúa đời đời, vì ông không biết cho đi, không biết san sẻ. Ông làm ngơ trước người anh em của ông đang đau khổ. Ông không nhìn người nghèo ngay bên thềm nhà ông bằng cái nhìn yêu thương, quan tâm. Thậm chí, ông còn không mảy may một chút để ý gì đến người nghèo ấy, ngược lại còn yến tiệc linh đình, hết sức vô tâm, vô tình, vô nhân ngay bên cạnh sự nghèo khổ, đói rách của người anh em mình.

Như vậy, khi kể dụ ngôn người phú hộ và Lazarô nghèo khó, Chúa không nhằm đe dọa người giàu về sự giàu của họ, cũng không cho phép người nghèo ỷ lại vào tình thương của Chúa mà không lo cố gắng sống đời hoàn thiện.

Một mặt, Chúa thương người nghèo. Chúa chúc lành cho sự nghèo khó. Nhưng mặt khác, Chúa cũng chúc lành cho tất cả những ai có tinh thần nghèo khó. Vì tinh thần này mà dù nghèo hay giàu, con người phải vượt lên trên của cải, vượt lên trên thói tham lam, sự ham mê vật chất của mình mà sống bác ái, sống khiêm nhường, rèn giũa đời sống cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng….

Do đó, Điều quan trọng trong sứ điệp của Chúa hôm nay là: Chúa cảnh báo sự nguy hiểm trong việc sử dụng tiền của. Đừng tham lam, đừng sống ích kỷ, đừng xem vật chất là mục đích, nhưng hãy phó thác đời mình trong tay Chúa.

Hãy mở rộng bàn tay để sống bác ái. Chúng ta không giàu đến nỗi có thể cho mọi thứ. Chúng ta cũng không nghèo đến nỗi không có bất cứ cái gì để cho. Hãy thiết lập lòng bác ái nơi tâm hồn, để khi tâm hồn có đức bác ái, nhân đức này sẽ dạy ta biết phải cho gì, dù ta nghèo hay ta giàu.

Hãy cho bằng cả tấm lòng. Hãy giúp đỡ những anh chị em túng thiếu, bệnh tật, đau buồn, bị bỏ rơi, bị từ chối tình yêu, bị đói khát tình người, bị khinh thường, bị ngược đãi, bị tù đày, bị xã hội chê cười, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp mất danh dự và nhân phẩm…

Ta có thể cho anh chị em mình tiền của, nhà cửa, mọi thứ vật chất cần thiết. Nhưng đâu nhất thiết phải có tiền, có của, có vật chất mà thôi. Mọi người đều có thể cho nhau niềm cảm thông, lòng yêu mến, sự tha thứ, sự chia sới tinh thần, sự đồng cảm… Ta có thể cho cả trái tim, cho cả đôi tay, cho cả con người, thậm chí cả cuộc đời của mình.

Chúa đâu chỉ đong đo tình cảm của ta, lòng bác ái của ta qua vật chất. Người nhìn thấy lòng ta, Người thấu suốt tâm tư ta. Chúa đòi phải sống thật, phả bác ái thật, phải yêu thương thật.

Sẽ có một ngày từng người phải ra khỏi cuộc đời, phải trình diện trước tôn nhan và sự công thẳng của Chúa, rồi sau đó mới bước vào một thế giới mới. Giấy thông hành cho chuyến đi này không là tiền của, không là vật chất mà mình đã cố công cả một đời xây đắp, nhưng là tình yêu, lòng bác ái, là sự rộng lượng của bản thân.

Nhân suy niệm về hai hình ảnh tương phản trong Tin Mừng hôm nay: Người nghèo Lazarô được Chúa ân thưởng nơi lòng Tổ phụ Apraham và người phú hộ bị trầm luân đời đời, chúng ta hãy nghe lại lời phát biểu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân cuộc thăm viếng nước Mỹ ngày 2.10.1979, mà suy nghĩ về đời sống bác ái của ta:

“Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta, nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo Lazarô của thế kỷ XX vẫn còn đang đứng chờ ngoài cửa… Chúng ta hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình của mình”.

Hãy lắng nghe và sống giáo lý của Chúa, để mai ngày, dù giàu hay nghèo, khi đi qua khỏi chốn trần ai, ta được đưa vào lòng Tổ Phụ Abraham, như hình ảnh người ngèo Lazarô trong dụ ngôn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống quảng đại. Biết yêu thương như là bổn phận trên hết mọi bổn phận trong đời Kitô hữu của chúng con. Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, vì nhiều lần, chúng con đã làm ngơ trước những anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng con. Xin cho chúng con từ đây, biết quyết tâm thực hành đức bác ái một cách nghiêm túc như Chúa dạy. Amen.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

CÁI TÔI: VẬT CẢN CỦA MỤC ĐÍCH CAO CẢ

Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta thường nghe về sự cần thiết khẳng định “cái tôi” mạnh mẽ để thành công. Tuy nhiên, cái tôi lại chính là rào cản lớn nhất ngăn chúng ta đạt được sự cao cả mà chúng ta có thể có theo đúng mục đích tạo dựng ban đầu của Thiên Chúa. Sự lớn lao ở đây không phải là danh vọng hay quyền lực, mà là khả năng sống yêu thương và phụng sự cách trọn vẹn.

  1. Bản chất của cái tôi - ego

Cái tôi vị kỷ không phải là bản chất cốt lõi của chúng ta, mà là nơi trú ngụ của sự ích kỷ, kiêu hãnh và cả những nỗi sợ hãi. Nó là phần trong con người chúng ta luôn muốn bám víu vào những thứ vật chất, danh vọng, hoặc thậm chí là một chút quyền lực kiểm soát nhỏ nhoi. Cái tôi vị kỷ khiến chúng ta chỉ nhìn thấy bản thân và nhu cầu của mình, dẫn đến việc chúng ta sẵn sàng làm tổn thương người khác để đạt được điều mình muốn.

Cái tôi vị kỷ giống như một bức tường dày cộm che khuất tâm hồn rộng lớn của chúng ta, khiến chúng ta không thể nhận ra những chiều sâu tiềm ẩn bên trong. Bức tường này được xây nên từ những tổn thương, những nỗi sợ hãi từ quá khứ và những lời dối trá mà chúng ta tin vào. Nó khiến chúng ta nói về bản thân vượt quá sự thật, nghĩ quá cao về mình, phủ nhận hoặc quên rằng những gì mình có là một ân sủng, một món quà. Thánh Phaolô nói: “Nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7). Chính vì vậy, thay vì sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy tình yêu, chúng ta lại trở nên nhỏ bé, chỉ dám bơi ở “vùng nước nông” thay vì “chèo ra chỗ nước sâu” (Lc 5: 4) mà Thiên Chúa mời gọi.

  1. Cái tôi và sự mù quáng

Một trong những tác hại lớn nhất của cái tôi là nó khiến chúng ta trở nên mù quáng trước tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa và khả năng trao hiến bản thân cho người khác. Khi cái tôi vị kỷ chiếm lấy vị trí trung tâm, nó biến mọi người thành đối thủ, và chúng ta trở thành trung tâm bị đe dọa. Mỗi người chung quanh, ngay cả Thiên Chúa, đều có thể bị coi là mối hiểm họa đối với khát khao rằng chúng ta phải điều khiển và làm chủ mọi thứ, mà không biết đó chỉ là ảo tưởng.

Sự mù quáng này thực ra xuất phát từ nỗi sợ hãi trong sâu thẳm cõi lòng. Chúng ta nhìn thế giới bằng một tâm trí đầy sợ hãi thay vì tin tưởng. Khi sợ hãi, chúng ta bám chặt vào những gì mình có, những gì mình là, và coi mọi thứ bên ngoài như kẻ thù tiềm tàng. Mối tương quan giữa chúng ta và người khác thường xuyên bị chi phối bởi nỗi sợ này, dẫn đến xung đột và tan vỡ. Hầu hết các vấn đề trong gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp đều bắt nguồn từ sự chi phối của cái tôi vị kỷ và đỉnh điểm là sự kiêu ngạo. Thánh Augustinô nhận định: “Sự kiêu ngạo đã biến thiên thần thành ác quỷ” [1]. Cái tôi kiêu ngạo không thực sự hướng tới sự cao cả mà chỉ là thể hiện sự rỗng tuếch, một khao khát của bản thân muốn mọi người tụng ca giá trị của mình, dù thực ra những giá trị ấy không đáng gì.

  1. Kiêu ngạo – Tội lỗi tàn phá nhất

Kiêu ngạo là tội lỗi tàn phá và nguy hiểm nhất. Đó là một dạng đặc biệt của cái tôi vị kỷ, đặt chúng ta vào vị trí cao hơn cả Thiên Chúa và mọi người. Kiêu ngạo không chỉ gây ra sự mù quáng trong đời sống tâm linh mà còn là nguyên nhân sâu xa của mọi sự chia rẽ. Nó chính là ước muốn trở thành Thiên Chúa, “nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (Stk 3: 5), khao khát nắm giữ quyền lực tuyệt đối.

Kiêu ngạo khiến chúng ta sợ hãi yêu thương và coi việc yêu thương người khác là một mối đe dọa vì phải buông bỏ khả năng làm chủ đời mình, phải tùy thuộc vào lòng thương xót của người khác. Thực ra tình yêu ngược lại với nỗi sợ hãi đó. Nỗi sợ hãi phát sinh từ cái tôi chỉ muốn quy mọi sự vào chính mình, trong khi tình yêu vô biên đến từ Thiên Chúa thì “không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Gioan 4:18). Chúng ta sợ bị tổn thương, sợ mất đi vị thế, và do đó, chúng ta khép mình lại. Để phá vỡ lớp vỏ kiêu ngạo này, Thiên Chúa đôi khi phải dùng những biện pháp mạnh thông qua các mối tương quan để xé toạc tội lỗi này ra khỏi chúng ta, vì cái tôi kiêu ngạo đối lập với ân sủng của Thiên Chúa: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Phêrô 5: 5).

  1. Tình yêu và sự tự do

Tình yêu đến từ Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4: 8). Tình yêu là tự do, ngược lại với sự kìm kẹp của cái tôi khống chế. Khi chúng ta đặt Thiên Chúa vào trung tâm, chúng ta sẽ cảm thấy tự do, bình an và hạnh phúc nhất. Đây là trạng thái mà chúng ta không còn bị nỗi sợ hãi chi phối và có thể yêu thương người khác một cách trọn vẹn.

Cốt lõi của mỗi người chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (Stk 1: 26). Điều này có nghĩa là chúng ta được ôm ấp và nâng đỡ bởi tình yêu vô hạn. Khi nhận ra và sống trong sự thật này, chúng ta biết rằng mình được cứu độ, được an toàn một cách căn cơ, và có thể buông bỏ mọi nỗi sợ hãi để sống trong sự tin tưởng tuyệt đối.

Triết gia Soren Kierkegaard viết: “Khi người ta hoàn toàn bước vào vương quốc của tình yêu, thì thế giới - dù không hoàn hảo đến thế nào đi nữa - vẫn trở nên đẹp đẽ và phong phú, vì chỉ còn lại toàn những cơ hội để yêu thương” [2]. Nỗi sợ hãi chỉ có thể được chinh phục bởi một niềm tin tuyệt đối vào một điều gì đó vượt quá tầm kiểm soát của chúng ta. Chúng ta vượt qua nỗi sợ hãi của cái tôi vốn chỉ qui về mình, bằng cách thực hiện: “một cuộc xuất hành thường xuyên ra khỏi bản ngã khép kín, để tiến tới cuộc giải phóng qua sự tự hiến, và như thế hướng tới khám phá lại chính mình, rồi từ đó, khám phá ra Thiên Chúa” (Deus Caritas est, số 6). Cái tôi cùng với nỗi sợ hãi sâu xa của nó, sẽ bị vượt qua khi chùng ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng vinh quang: “Vì chúng ta tin, nên Chúa Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5: 2). Đây là lời khẳng định về sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa khi họ sống trong niềm tin vào tình yêu thương xót của Ngài.

  1. Sống một cuộc đời thánh thiện

Chúng ta được kêu gọi mạnh mẽ: hãy chiến đấu chống lại cái tôi mỗi ngày. Chúng ta cần nhận ra rằng cái tôi khiến chúng ta sống một cuộc đời nhỏ bé, trong khi chúng ta được tạo ra để trở nên cao cả. Tình yêu thương người khác dễ dàng hơn nhiều so với việc luôn giữ sự tức giận và xa lánh họ. Khi chúng ta từ bỏ sự kiêu ngạo, chúng ta chọn lấy sự tự do, chọn yêu thương và công nhận rằng Thiên Chúa mới là trung tâm của mọi thứ: vũ trụ, thế giới, con người và chính bản thân mình.

Cuộc sống thánh thiện mà Thiên Chúa mời gọi là một cuộc sống hiệp thông với Ngài và với mọi người. Để làm được điều đó, chúng ta phải có lòng dũng cảm. Và không gì cản trở lòng dũng cảm hơn chính cái tôi vị kỷ, cái tôi quy kỷ của chúng ta, vốn luôn nghĩ mọi thứ cho mình, lấy mình làm chuẩn mực, làm trung tâm. Bằng cách đặt Thiên  Chúa vào trung tâm, chúng ta có thể sống trong tình yêu của Ngài và lan tỏa tình yêu đó đến thế giới, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: “Chúng ta không phải là tổng hòa của những yếu đuối và thất bại; chúng ta là tổng hòa của tình yêu Chúa Cha dành cho chúng ta và khả năng thực sự của chúng ta để trở nên hình ảnh của Con Ngài” (Bài giảng Thánh lễ Ngày Giới trẻ Thế giới Toronto, 28 tháng 7 năm 2002).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

phỏng theo Constance T. Hull

https://catholicexchange.com

[1] https://staugustineparish.ca.

[2] https://www.tudiendanhngon.vn, “When one has once fully entered the realm of love, the world — no matter how imperfect — becomes rich and beautiful, it consists solely of opportunities for love.”

 

HƯƠNG THINH LẶNG

Thứ Sáu Tuần 25 TN C

“Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người”.

“Khi thế giới quên Thiên Chúa và các ngả đường vang dội tiếng người bất an, lời cầu nguyện thầm kín của bạn trở thành trụ cột giữ cho bầu trời khỏi sụp đổ!” - Fulton Sheen.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay thật lạ, Chúa Giêsu cầu nguyện một mình - dù các môn đệ ở bên. Dẫu quanh mình náo động, Ngài vẫn toả hương cầu nguyện, gắn bó sâu xa cùng Cha. Bài học cho chúng ta: giữa công việc, “giữa các ngả đường vang dội tiếng người bất an”, người môn đệ được mời toả ‘hương thinh lặng’ bằng lửa cầu nguyện luôn cháy!

Dường như Chúa Giêsu không cần phải tách biệt khỏi mọi người để có thể cầu nguyện; Ngài hiệp thông sâu sắc với Chúa Cha ngay khi ở bên các môn đệ. Đôi khi chúng ta nghĩ, cần một môi trường hoàn hảo để có thể cầu nguyện đúng cách; cần một mình để có được bình an và tĩnh lặng hoàn toàn. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho biết, cầu nguyện có thể thực hiện ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào; chỉ cần chú tâm đến sự hiện diện của Chúa, Đấng luôn chú tâm đến chúng ta; chú tâm đến Chúa cả khi ở giữa những người khác không cầu nguyện. “Trái tim biết cầu nguyện có thể mang thinh lặng xuyên qua những con phố ồn ào nhất!” - Henri Nouwen.

Sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu đặt ra hai câu hỏi. Dường như Luca muốn nói, những gì Chúa Giêsu đặt ra đã hình thành trong Ngài khi Ngài cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Ngài cách nào đó đã định hình nên những lời Ngài nói với người khác. Cũng thế, lời cầu nguyện của chúng ta cũng sẽ định hình chúng ta; định hình ‘những gì chúng ta nói’, ‘cách chúng ta nói’; ‘những gì chúng ta làm’, ‘cách chúng ta làm’, mặc dù chúng ta có thể không luôn nhận thức được mối liên hệ giữa lời cầu của mình và phần còn lại của cuộc sống. Đó là ‘hương thinh lặng’ của người môn đệ! “Cầu nguyện chạm khắc linh hồn, và linh hồn được chạm khắc - sẽ chạm khắc thế giới bằng lời nói và việc làm của nó!” - Søren Kierkegaard.

Khi cầu nguyện, chúng ta mở lòng mình trước Chúa; cho Ngài thêm không gian và phạm vi để tác động đến suy nghĩ, lời nói và hành động, thực sự là toàn bộ cuộc sống. Chính ở đó, Thiên Chúa âm thầm uốn nắn, để từng ngày, cả cuộc đời chúng ta dần mang dấu ấn của Ngài. Khi chúng ta bền bỉ dành thời gian cho Chúa, các quyết định lớn nhỏ, những phản ứng tự phát, thậm chí cả những ánh mắt nụ cười cũng được thấm nhuần bởi sự dịu dàng và khôn ngoan của Ngài.

Anh Chị em,

Giữ lửa cầu nguyện, chúng ta không chỉ tìm sức mạnh cho riêng mình, nhưng còn để trở nên dấu chỉ của Chúa cho người khác. Giữa công sở ồn ào, trên tàu xe đông đúc hay trong những buổi họp căng thẳng, một tâm hồn quen thuộc với Chúa sẽ tự nhiên toả ra bình an, cảm thông, và một sự kiên nhẫn hiếm thấy. Khi đó, người khác có thể không nghe lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng họ cảm được ‘hương thinh lặng’ chúng ta mang theo. Và hương ấy là chứng tá âm thầm, bền vững và mạnh mẽ nhất.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ước gì giữa đám đông ồn ã, con vẫn mang theo một ‘góc trời’ bình an, để bất cứ nơi nào con hiện diện cũng phảng phất hương thơm của Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

NGƯỠNG MỘ

Thứ Bảy Tuần 25 TN C

“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

“Bạn không thể trải qua một ngày ‘cách thành kính’ trừ khi bạn coi đó là ngày cuối đời. Thật đáng ngưỡng mộ với một người luôn nghĩ về cái chết. Ai cống hiến hết mình cho nó hàng giờ chắc chắn sẽ là một vị thánh! Một người từng nghe bản án tử hình của mình sẽ không lo lắng về cách vận hành của các rạp hát!” - John Climacus.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay chỉ ra ‘vị thánh’ Climacus phác hoạ - Chúa Giêsu! Bởi lẽ, đang khi mọi người ‘ngưỡng mộ’ Ngài, thì Ngài - như không quan tâm về cách vận hành của các rạp hát - tuyên bố cuộc khổ nạn của mình, “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

Luca ghi nhận, “Mọi người bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm”; đang khi chỉ mình Ngài biết, sự ‘ngưỡng mộ’ đó chỉ nhất thời, Ngài sắp lên Giêrusalem với những gì đang đợi. Ngài nói, “Con Người sắp bị nộp!”; “Các môn đệ không hiểu”. Họ không hiểu là phải, vì điều Ngài nói quá nghịch thường với những gì họ kỳ vọng. “Sự ngưỡng mộ phai nhạt khi sứ điệp chạm vào vùng an toàn của người nghe!” - Brennan Manning. Giả thiết Ngài nói, ‘Tuần sau, Thầy sẽ đăng quang làm vua’; họ hiểu ngay! Thứ đến, họ quá ‘ngưỡng mộ’ Ngài - dẫu là tốt - và sự ‘ngưỡng mộ’ lấn át lý trí này là vật cản khiến họ không hiểu kế hoạch tiềm ẩn của Chúa Cha - hiến dâng mạng sống để cứu độ nhân loại. “Sự ngưỡng mộ chỉ là một đam mê ngắn ngủi; nó sớm phai nhạt thành dửng dưng!” - Joseph Addison.

Chúa Giêsu không bị thúc đẩy bởi nhu cầu khen lao từ phía con người. Ngài được thúc đẩy bởi sự khen lao của Chúa Cha, chỉ ước muốn làm theo ý Cha, đó là lý do tại sao Ngài lên Giêrusalem, nơi không hứa hẹn điều gì khác ngoài cái chết. Điều tương tự cũng xảy ra với chính Giêrusalem. Niềm tự hào thực sự về nó không phải vì nó “Rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu”, nhưng vì nó “Được Thiên Chúa ở cùng!” - bài đọc một - vì “Chúa canh giữ chúng ta, như mục tử canh giữ đàn chiên!” - Thánh Vịnh đáp ca. “Nơi Thiên Chúa ngự, kích thước hay huy hoàng chẳng còn nghĩa lý gì!” - C.S. Lewis. Vì thế, thay vì mải mê tìm kiếm sự tán dương phàm nhân, chúng ta được mời gọi tìm “nụ cười của Thiên Chúa” trong từng bổn phận nhỏ bé mỗi ngày. “Tiếng hoan hô của đám đông sớm tàn; nụ cười của Thiên Chúa tồn tại mãi mãi!” - Max Lucado.

Anh Chị em,

Chúa Giêsu biết rõ lòng người. Ngưỡng mộ hôm nay có thể đổi thành khước từ mai ngày. Vì thế, Ngài không tìm sự ủng hộ hay sự uỷ lạo từ thế gian; thay vào đó là sự hiện diện và vinh quang của Chúa Cha, làm trọn ý Cha, dù ý ấy dẫn đến thập giá. Ngài cho thấy, chỉ khi tâm hồn được neo trong sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể bước đi bình an, bất chấp mọi tán thưởng hay chê bai. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta là trọng tâm của mọi lời hứa!” - Dietrich Bonhoeffer. Chính sự đồng hành của Thiên Chúa mới là vinh quang của Giêrusalem, cũng là vinh quang của mỗi người chúng ta.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cứu con khỏi bệnh “ghiền like” và “nghiện vỗ tay”. Dạy con ghi nhớ, gió đến thì đi, còn hơi thở của Cha mới là điều giữ con đứng vững!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

 

Chuyển đổi của cải phù du thành kho tàng vĩnh cửu

Tất cả những gì ta có là do Chúa tạm ứng cho ta

Thân xác của ta không do ta mà có, mà là do Chúa ban. Mai đây Chúa sẽ lấy đi, ta không thể giằng lại được. Đến ngày Chúa gọi ta về thế giới bên kia, ta không thể nói: “Con không đi! Con không đi! Con phải ở lại đời này, con đang quyến luyến đời này, không đi đâu hết!”

Sức khỏe của ta không do ta mà có, nhưng là do Chúa ban. Về phần ta, lúc nào ta cũng  muốn mình được khỏe mạnh, cường tráng, muốn sống lâu trăm tuổi chưa vừa; ngoài ra, ai cũng rất sợ đau ốm, sợ ung thư, sợ đột quỵ… Nhưng không ai có thể duy trì sức khỏe trong tình trạng tốt mãi được. Nay mai, ta phải già đi, phải suy yếu đi, phải mắc hết bệnh này tới bệnh khác, phải nằm liệt giường, phải rên la đau đớn… chẳng còn chút hơi sức nào!

Ngôi nhà của ta, xe cộ, vàng bạc châu báu và rất nhiều đồ dùng của ta… hôm nay, chúng còn thuộc về ta, nhưng mai đây, tất cả những thứ đó đều không còn là của ta nữa mà phải sang tay cho người khác.

“Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”

Đúng vậy, sức khỏe, của cải, vàng bạc, châu báu … đến với ta cũng như luồng gió lùa vào gian nhà trống, chúng chợt đến rồi chúng lại bay đi. Không ai có thể nhốt được gió cho riêng mình. Cũng thế, không ai ôm ghì lấy sức khỏe, tài sản, vàng bạc châu báu cho mình mãi được. Chúng chợt đến rồi chúng chợt đi. Ai khư khư giữ lấy chúng là chưa khôn ngoan sáng suốt.

Tốt nhất là biết cấp tốc chuyển đổi chúng thành tài sản vĩnh cửu cho mình.

Công nghệ năng lượng gió

Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều tua-bin (turbine) gió được lắp đặt nhiều nơi. Những cánh quạt của tua-bin vươn ra đón lấy những làn gió thoảng qua rồi biến chúng thành nguồn năng lượng hữu ích cho muôn người, trước khi để gió thổi vèo qua nơi khác. Biến gió thành điện là một công nghệ tuyệt vời.

Vậy thì chúng ta cũng nên ứng dụng “công nghệ” này vào cuộc sống của mình, bằng cách đón lấy của cải chóng qua đời này, như những cánh quạt của tua-bin đón gió, rồi biến chúng thành kho tàng thiêng liêng cho cuộc sống mai sau.

Người quản lý trong Tin mừng hôm nay đã nắm được “công nghệ” này. Khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, anh nghĩ ra một diệu kế:

Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị sa thải, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.

Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su dạy ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”  hay nói khác đi, hãy dùng của cải ta có hôm nay mà mua lấy một chỗ ở trên thiên đàng.

Đó là một chọn lựa khôn ngoan, vì cho dù hôm nay, ta cố sức bám trụ vào mặt đất nầy, bám víu thật chắc vào những tài sản của mình, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, chúng ta cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…

Tất cả những gì ta mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì ta đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Rốt cuộc, ta chẳng còn gì !

Vì thế, người khôn ngoan là người biết chuyển đổi của cải chóng qua thành gia tài vĩnh cửu trên trời, y như tua-bin của các giàn điện gió chuyển đổi những làn gió thoảng qua thành năng lượng hữu ích cho muôn người.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi quyến luyến của cải đời này, nhưng biết khôn ngoan đánh đổi những tài sản phù du để thu về những lợi ích vĩnh cửu.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Luca 16, 1-13

1 Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng: "Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông.2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: "Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!3 Người quản gia liền nghĩ bụng: "Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!

5 "Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?6 Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.7 Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.

8 "Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
9 "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?

13 "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."

 

Subcategories