3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

KHO TÀNG VÔ GIÁ

Hôm ấy, khi được Chúa Giê-su đến thăm nhà, Mác-ta vui mừng tiếp đón và tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo của mình.

Vậy mà Chúa Giê-su lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mác-ta: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi" (Lc 10, 41-42).

Maria đã chọn phần tốt nhất, vì lắng nghe Lời Chúa là việc hệ trọng nhất trên đời, là khai thác một kho tàng vô giá, là nắm lấy bí quyết để được sống hạnh phúc muôn đời...    

Lời Chúa biến đổi lòng người

Trong nhiều trường hợp, người ta chỉ cần đón nhận một câu Lời Chúa thôi cũng đủ để thay đổi cuộc đời. Xin nêu lên vài trường hợp tiêu biểu:

- Thứ nhất: Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e sinh tại Tây Ban Nha năm 1506. Năm 19 tuổi, anh đến Pa-ri, vào đại học với ước mơ trở thành giáo sư.

Tại đây, anh gặp thánh I-nha-xi-ô và được ngài lấy Lời Chúa nhắc nhở rằng: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mt 16,16).

Những lời nầy đã xoay chuyển hoàn toàn cuộc đời Phan-xi-cô, soi cho anh thấy công danh sự nghiệp đời nầy chỉ là phù du, hư ảo. Thế là Phan-xi-cô dứt khoát từ bỏ danh vọng thế gian, hiến dâng đời mình để phụng sự Chúa và cứu rỗi các linh hồn, mang Tin mừng Chúa đến với các dân tộc Á Châu tại Ấn-độ, Malaysia, Indonesia và Nhật Bản.

- Thứ hai: Một câu Lời Chúa quen thuộc khác là: “Những gì các con đã làm cho những anh em bé mọn của Ta đây là đã làm cho chính Ta” cũng tác động mạnh mẽ tâm hồn mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta, thôi thúc mẹ cũng như hàng ngàn chị em trong Hội dòng Thừa sai Bác ái do mẹ thành lập, tận hiến cả cuộc đời, dấn thân phục vụ hết sức tận tình những người bất hạnh khắp nơi trên thế giới.

Lời Chúa xóa bỏ hận thù, xây đắp tình yêu thương

Cụ thể là:

- Nhờ Lời Chúa soi sáng, người ta sẽ không xem người khác là xa lạ, là kẻ thù… nhưng là anh chị em ruột thịt có chung một người Cha là Thiên Chúa; nhờ đó, thay vì sống thờ ơ, vô cảm, ghét bỏ người khác… mọi người sẽ yêu thương đùm bọc nhau.

- Nhờ Lời Chúa dạy, người ta nhận ra Chúa Giê-su đang hiện diện nơi những người chung quanh, đang thực sự sống trong mỗi người; nhờ đó, người ta sẽ tôn trọng nhau như tôn trọng Chúa, ân cần phục vụ người khác tận tình như phục vụ chính Chúa Giê-su.

- Nhờ ánh sáng của Lời Chúa, người ta nhận biết sự thật tuyệt vời là có cuộc sống đời sau; biết trần gian chỉ là quán trọ, thiên đàng mới là quê hương; biết cùng đích của đời người không phải là nấm mồ hoang lạnh, nhưng là cõi phúc hoan lạc đời đời trên thiên quốc.

- Ngoài ra, Lời Chúa còn cải thiện cuộc sống con người, giúp họ diệt trừ thói hư tật xấu để sống quảng đại, tốt lành, nhân ái hơn.

Tóm lại, Lời Chúa đẩy lùi sự gian ác, xóa bỏ hận thù, dập tắt lửa chiến tranh.

Lời Chúa mang lại hòa bình, vun đắp tình yêu thương, mang lại hạnh phúc cho muôn người.

Chính vì vậy, lắng nghe và thực hành Lời Chúa là việc cần thiết và quan trọng nhất trên đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Lời Chúa như ngọn hải đăng soi đường cho nhân loại giữa biển đời tăm tối; Lời Chúa là kim chỉ nam chỉ lối cho người lạc bước giữa rừng sâu.

Xin cho chúng con luôn quý trọng Lời Chúa và để cho Lời Chúa hướng dẫn mọi hoạt động hằng ngày của mình; nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ trở nên thánh thiện, an vui và hạnh phúc. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Lu-ca (Lc 10, 38-42)

38 Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. 39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói : "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" 41 Chúa đáp : "Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! 42 Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."

Maria đã chọn phần tốt nhất

A. DẪN NHẬP.

Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn được người ta tôn trọng và đón tiếp, ai cũng ca tụng tính hiếu khách vì hiếu khách là một đức tính tốt, và người hiếu khách là người có tinh thần bác ái. Sách Sáng thế cho biết ông Abraham là một người hiếu khách, ông đã mời ba người khách lạ vào lều và hầu hạ họ như tôi tớ. Đáp lại tấm thịnh tình của ông, ba vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho ông biết là ông sẽ có con trai trong tuổi già (Bài đọc 1). Martha và Maria cũng là người hiếu khách, hai chị em đã đón tiếp Đức Giêsu vào nhà và đã phục vụ Ngài một cách tận tình, tuy mỗi người có một cách phục vụ khác nhau (Tin mừng).

Trong cách tương giao, câu chuyện giữa chủ và khách  là một cuộc đối thoại chứ không phải là độc thoại. Theo tâm lý chung, ai cũng thích nói, muốn bộc lộ hết tâm tư cho người kia, nhưng người sành tâm lý và được người ta ưa chuộng là người biết lắng nghe, tạo cơ hội cho người kia bộc bạch hết tâm tình của mình.  Trong cuộc đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Martha chỉ bận rộn cho bữa ăn mà bỏ quên Ngài, còn Maria thì biết tạo cơ hội cho Ngài thổ lộ tâm tình và được hiểu biết những chân lý mà Ngài muốn mạc khải cho. Trong hai cách phục vụ thì Chúa thích lối phục vụ của Maria hơn, đó là biết lắng nghe :”Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Trong cuộc sống Kitô hữu, nhất là trong cuộc sống tông đồ, sinh hoạt để làm sáng danh Chúa là một điều tốt, nhưng những sinh hoạt ấy chỉ đem lại lợi ích nếu nó được đan dệt bằng sự cầu nguyện, bằng suy niệm và bằng sự thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta đừng đặt câu hỏi : Chúa có nói với chúng ta không, mà phải  hỏi ngược lại : chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để nghe Ngài hay không ?

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc 1 : St 18,1-10a.

Bài đọc 1 hôm nay nói lên lòng hiếu khách của ông Abraham. Câu chuyện ấy như sau : Trong một bữa trưa nóng bức, Abraham đang ở trong lều thấy có ba người khách lạ đang đứng ở ngoài lều. Ông vội vàng mời ba người khách lạ vào nhà và tiếp đãi một cách rất nồng hậu : lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, lấy con bê béo tốt làm thịt đãi khách. Ông không ngờ đây là ba vị sứ giả của Thiên Chúa.

Đáp lại lòng hiếu khác và quảng đại của Abraham, ba vị sứ giả đã loan báo cho ông : Thiên Chúa sẽ ban cho ông một đứa con trai đầu lòng mà ông hằng mơ ước, mặc dầu hai ông bà  đều già quá tuổi sinh con.

+  Bài đọc 2 : Cl 1,24-28.

Mầu nhiệm được giữ kín nơi Thiên Chúa, nay được vén mở : đó là bản thân Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Là những người được hưởng nhờ mầu nhiệm này, chúng ta cũng phải chia sẻ cho người khác biết.

Thánh Phaolô đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cũng muốn chia sẻ cho người khác khi Ngài thi hành sứ mạng tông đồ. Vì thế, ngài vui sướng vì được chịu đau khổ, biến những đau khổ ấy thành niềm vui. Sở dĩ có được tinh thần ấy vì ngài ý thức rằng nhờ đó mà ngài được bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.

+  Bài Tin mừng : Lc 10,38-42.

Khi Đức Giêsu đến viếng thăm Martha và Maria, ta thấy mỗi người có một cung cách tiếp khách : Martha thì cho, còn Maria thì nhận .  Martha thì bận rộn lo đủ mọi chuyện để dâng cho Đức Giêsu một bữa cơm ngon miệng. Cô bận rộn đến nỗi phải xin Ngài bảo em giúp mình một tay. Còn Maria thì không làm gì cả, cô chỉ cung kính lắng nghe những lời Ngài dạy.

Câu chuyện này dạy cho chúng ta một bài học : điều Thiên Chúa muốn, không phải là chúng ta làm cho Ngài điều này điều nọ mà là để Ngài giáo huấn chúng ta , để chúng ta được biến đổi nhờ những lời giáo huấn ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi : biết lắng nghe Lời Chúa.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Lắng nghe Lời Chúa.

Truyện mở đầu : Vị vua đến thăm.

Ngày xưa có một vị vua muốn tìm cách giúp cho dân nước ấm no và hạnh phúc. Vua dự tính đi thăm viếng dân làng và hỏi ý kiến họ về tình hình đất nước. Nhà vua gửi sứ giả đến trước gặp hai gia đình ngài muốn thăm viếng để hỏi họ về những niềm hy vọng và ước mơ cho quê hương xứ sở.

Ngày đầu tiên vua đến với gia đình thứ nhất. Vì muốn làm cho vua vui lòng bằng một bữa tiệc  với những đồ ăn ngon quí giá chưa từng có, nên khi vua đến nơi, gia đình chủ nhà vẫn còn đang bận rộn vất vả dọn tiệc linh đình. Nhà vua và các quan cận thần phải ngồi ở sân trước nhà  để chờ đợi họ sửa soạn  bữa ăn. Bữa ăn rất ngon, nhưng khi dọn lên thì mọi người trong gia đình  đã quá mỏi mệt, không còn thì giờ và hứng thú để nói chuyện với vua về những điều vua muốn biết. Vua ra về và không mấy hài lòng.

Ngày hôm sau, vua đến thăm nhà thứ hai. Cả nhà ra đón tiếp vua một cách niềm nở. Mặc dù họ chỉ chuẩn bị một bữa ăn rất đơn sơ đạm bạc, nhưng buổi tối hôm đó mọi người trong gia đình đều ngồi quây quần bên vua, chia sẻ cởi mở  những uớc mơ và niềm hy vọng  của gia đình và dân làng. Họ rất phấn khởi  khi vua cho họ biết  những dự tính muốn thực hiện cho đất nước. Mặc dù không ăn uống thịnh soạn như tối hôm trước, nhưng khi ra về vua rất hài lòng  với buổi gặp gỡ đúng như ý ngài muốn.

Bài Tin mừng hôm nay (Lc 10, 38-42) cũng mang một nội dung như vậy : chị em Martha và Maria tiếp đón Đức Giêsu vào nhà mình, mỗi người có một cung cách tiếp đón. Vậy Đức Giêsu thích cách tiếp đón nào ? Của Martha hay của Maria ?

I. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TIẾP ĐÃI KHÁCH.

1. Ông Abraham tiếp đón khách.

Bài sách Sáng thế ghi lại việc ông Abraham tiếp đãi sứ giả của Thiên Chúa một cách nồng hậu. Abraham đang ngồi hóng mát trước cửa lều trong buổi trưa nóng bức. Ông thấy ba người khách lạ đi ngang qua. Ông vội chạy ra mời họ quá bộ vào nghỉ mát, bưng nước cho khách rửa chân, dẫn khách nằm nghỉ dưới bóng cây. Ông bắt con bê béo làm thịt. Bà nhồi bột làm bánh. Ông hầu hạ khách như mình là tôi tớ. Đáp lại lòng hiếu khách của ông, sứ giả nói với ông :”Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”.

2. Martha và Maria đón tiếp Đức Giêsu.

Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu ghé vào nhà chị em Martha , Maria và Lazarô ở làng Bêtania, cách Giêrusalem ba cây số. Martha đón rước Đức Giêsu vào nhà. Cô là chủ nhà và chưa có gia đình vì cô đón tiếp khách. Nếu có chồng thì chồng sẽ tiếp đón khách. Cách đón tiếp của Martha  đã chứng tỏ rằng gia đình này đã từng quen biết Ngài và đã có nhiều lần Ngài đến nhà như người quen biết thân mật (Ga 11,1-14).

Hai chị em có hai tính tình khác nhau : Martha là một người hoạt động, còn Maria là một người trầm lặng. Cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Ngài. Còn cô Martha thì lăng xăng lo lắng đón tiếp Chúa, một vị khách quí mà cô muốn bầy tỏ hết lòng kính trọng. Martha cảm thấy khó chịu vì cô em không giúp mình một tay, sợ trễ giờ, đến nỗi phải xin Chúa can thiệp, với một giọng trách móc:”Xin Thầy bảo em con giúp con với”. 

Không biết câu trả lời của Đức Giês có làm cho Martha buồn không :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi : Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”(Lc 10,42).

II. CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤC VỤ VÀ LẮNG NGHE.

Như vậy, Martha và Maria xuất hiện ở đây như hai hai môn đệ nhiệt thành đón tiếp Đức Giêsu Thầy mình, nhưng Maria chỉ lắng nghe Lời Thầy, còn Martha lo dành riêng cho Thầy một sự đón tiếp nồng hậu.

1. Một Martha năng động. 

Martha là con người rất yêu mến Đức Giêsu, biết quan tâm tới sức khỏe của Ngài. Trên cuộc hành trình đi vào làng, Ngài mệt mỏi, đói bụng, phải được ăn uống bồi dưỡng để tiếp tục đi rao giảng Tin mừng. Sự lo lắng cho sức khỏe của người khác là nét tinh tế của người phụ nữ. Vì yêu Chúa nhiều, Martha mới lo lắng và lăng xăng như thế. Trong khi đó Ngài lại trách yêu Martha :”Martha, Martha, con lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá”(Lc 10,42). Nói như vậy, phải chăng là Ngài phê bình Martha chỉ đặt trọng tâm vào việc ăn uống ?

Căn cứ vào sự kiện Martha hối thúc nói với Maria giúp cô, một học giả Rachel Conrad Wehberg giải thích với một nét nhân từ hơn : Người ta phải suy luận rằng đây là công việc trong bếp hai người đã quen làm. Maria vẫn thường phụ giúp Martha. Nếu họ đã phân chia công tác: Martha nấu ăn, Maria tiếp khách, thì chẳng có vấn đề gì, vì mỗi người đều chấp nhận và kính trọng nhau. Nhưng ở đây, theo thói quen, cả hai chị em cùng làm công việc nấu nướng. Nếu cả hai cùng làm, sẽ mau có bữa ăn hơn, và cả hai chị em đều có cơ hội ngồi tâm sự với Chúa lâu giờ hơn. Do đó, Martha than phiền không phải vì bà chỉ bận tâm đến việc ăn uống, cũng không phải vì ghen tương, nhưng vì trái tim bà hối thúc muốn được cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng ở bên Chúa với Maria. Đó là lý do Martha đã than phiền (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa lòng đời, năm C, tr 255-256).

Tuy nhiên, Đức Giêsu đang trong lúc bồn chồn lo lắng chuẩn bị cho cuộc tử nạn, Ngài muốn có người biết chia sẻ tâm tình hơn để làm vơi nỗi lòng mình, còn việc ăn uống lúc này thì chỉ là phụ thuộc, không cần thiết mấy. Maria đã đáp ứng đúng tâm trạng của Đức Giêsu.

Truyện : Thèm lòng chứ không thèm thịt.

Một người cha có thói quen, sau giờ làm việc, đi dạo chung với cô con gái. Ông cảm thấy rất hạnh phúc được chuyện trò với con. Thình lình, cô gái bắt đầu cáo lỗi vì không thể đi dạo hằng ngày với cha được. Người cha cảm thấy đau khổ nhưng không nói ra. Sau cùng vào ngày sinh nhật của ông, cô con gái mang đến tặng cha  một cái áo len mà cô mới đan. Người cha đã nhận thấy rằng cô con gái đã đan áo len trong lúc ông đi dạo một mình. Ông nói với con :”Martha. Martha, Ba rất quí chiếc áo này. Nhưng Ba thích con đi dạo với Ba hơn. Một cái áo len Ba có thể mua ở bất cứ tiệm bán quần áo nào. Nhưng con gái cưng của Ba, Ba không thể mua được. Con làm ơn đừng bao giờ bỏ rơi Ba nữa nhé”.

2. Một Maria trầm lặng. 

Cả hai chị em đều có đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thầy và ước ao được làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Martha đã làm quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Maria thì trực giác hơn được điều Chúa muốn, nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Ngài dạy. Cô biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, cô phải để ý đến ý muốn của vị khách trước, phải lắng nghe người khác nói. Trong việc tiếp đãi Thầy, cô đã làm được việc lớn hơn chị cô.

Bà Carnegie viết rất nhiều sách học làm người nổi tiếng. Trong cuốn “Đắc nhân tâm”, bà viết :”Cách làm cho khách vui lòng nhấùt là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như  vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc”. 

Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln chia sẻ.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln  viết thư mời ông bạn cũ ở Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung là Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ  về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành  việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu, Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại : “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân thiết biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

3. Một sự cần thiết mà thôi. 

Đức Giêsu trả lời cho Martha :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”. Câu trả lời của Đức Giêsu đã gây nên nhiều tranh luận và tùy cách hiểu mà dịch ra khác nhau.

Một cách theo như nghĩa trong truyện thì cô Martha lo lắng cho nhiều làm chi, một món  ăn là đủ rồi.

Một cách khác theo như bản Phổ thông lấy theo nghĩa thiêng liêng. Đối nghịch với những bận rộn đón tiếp của cô Martha, chỉ có một sự cần thiết là lắng nghe Lời Chúa.

Ở đây thực ra không có ý so sánh những của đời này với của duy nhất trên trời, mà là lấy làm hơn thái độ của Maria chăm chú nghe Chúa, cô Martha chia trí lo lắng quá nhiều sự. Vì thế,  Đức Giêsu đã tuyên bố Maria đã chọn phần nhất là nghe Lời Chúa.

III. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÔNG ĐỒ BIẾT LẮNG NGHE.

1. Lạc giáo hoạt động (Hérésie de l’action). 

Ngày nay, trong Giáo hội, có phong trào tư tưởng cho rằng Giáo hội phải lăn xả vào công việc xã hội nhiều hơn, phải đi đến với người nghèo trước đã. Đạo có chiều dọc và chiều ngang. Hàng dọc hướng về Thiên Chúa, hàng ngang hướng về anh em. Tư tưởng  dấn thân trước tiên cho kẻ khác được cổ võ mạnh. Môn Thần học Giải phóng muốn đặt lại căn bản Đức tin : Mến Chúa yêu người, nhưng cứu người trước đã. Từ ngữ “giải phóng” được đem thay thế từ ngữ “cứu rỗi” của Thần học, vì “nó minh bạch và sáng sủa hơn”(Seguido – Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm C, tr 99).

2. Hoạt động và lắng nghe.

Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Martha với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, Nhưng dù sao Ngài cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất : đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.

R. Meynet chú giải thêm :”Martha đón tiếp Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ Ngài đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Ngài, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sự, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe Lời Chúa. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng : chính cô được Ngài tiếp đón mới đúng (Fiches dominicales, năm C, tr 253-154).

Ngày nay, người đàn bà danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Martha thời đại : chân phước Têrêsa Calcutta. Bà đã hiểu và truyền lại cho con cái thiêng liêng của Bà tinh thần bài Tin mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc kẻ nghèo hoặc đi vào trong các “nhà chết”.

Trong khi tiếp xúc với Chúa chúng ta phải biết trao đổi như người ta nói :”Có đi có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là phải biết nói và biết nghe, biết cho và biết nhận. Nhiều khi chúng ta rất hào phóng chỉ biết cho Chúa mà không biết nhận. Trong lúc Chúa muốn cho chúng ta  tạo điều kiện để Chúa có cơ hội ban cho chúng ta nhiều ơn, để chúng ta tiếp nhận, nhưng tiếc thay, Ngài không có cơ hội.

Câu chuyện trong Tin mừng cho chúng ta thấy sự khác biệt chủ yếu giữa Martha và Maria. Martha không có khả năng nhận, trong khi Maria thì có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Martha, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì.

3. Quân bình trong hoạt động và lắng nghe

Đặt thái độ của Martha và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe Lời Chúa, còn Martha tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Ngài; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Ngài, lời của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống của người môn đệ, có lúc “tất bật”, và có lúc  “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình một thái độ không thể thiếu của một môn đệ : là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Ngài... Nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình (Fiches dominicales).

Các triết gia Tây phương có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Đông phương trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là :”Cầu nguyện và hoạt động”. Martha phải đi đôi vơiù Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.

P. Graef nói một câu rất thâm thúy :”Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.  

Một nhà tâm lý trị liệu và nhà văn Mỹ, ông Thomas Moore nói :“Không còn nghi ngờ việc một số người có thể tiết kiệm chi phí và tránh cho mình sự phiền toái về tâm lý trị liệu chỉ vì họ đã dành mỗi ngày ít phút để nguyện ngắm. Hành động đơn giản này cung cấp cho họ điều họ thiếu trong cuộc sống – một thời gian bất động chủ yếu là để nuôi dưỡng linh hồn”.

Truyện : Bác học Ampère cầu nguyện

Frédéric Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quìø cầu nguyện cách sốt sắng ở dẫy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy  không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông  về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi :

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không ?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ :

- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn :

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.

Chàng sinh viên liền hỏi :

- Thưa giáo sư, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh vên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời :

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.

4. Sống dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.

Đời sống Kitô hữu phải được đan dệt bằng hoạt động và cầu nguyện. Các tu sĩ sống đời chiêm niệm không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải làm việc; còn các tu sĩ sống đời hoạt động cũng phải cầu nguyện chứ không phải chỉ có hoạt động. Cha Don Marmion nói :”Sự cầu nguyện hỗ trợ cho công việc tông đồ là linh hồn của mọi sứ vụ truyền giáo”.

Người Kitô hữu sống ở trần gian, nhiều lúc phải tất bật với những công việc, nhưng không thể thiếu được sự cầu nguyện. Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh, nhưng đọc kinh chỉ là một trong những hình thức cầu nguyện. Cốt yếu của sự cầu nguyện là kết hợp với Chúa. Nhiều khi chúng ta không đọc kinh, chỉ thinh lặng trước sự hiện diện của Chúa cũng là một cách cầu nguyện rất hay. Thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện.

Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không làm gì cả. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nếu chúng ta dành một số thời giờ cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa, thì không phải là thời gian lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.

Với cái nhìn nông cạn, nhiều người cho là phần việc của Maria có vẻ dễ dàng vì chỉ có ngồi đó, còn phần việc của Martha thì khó khăn hơn. Nhưng nếu suy cho kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú trọng hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh lợi ích rất lớn lao.

Truyện : Dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.

Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin Ngài một lời khuyên khi ngài được truyền chức thánh là một bà cụ. Bà nói :

- Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng  suốt bốn mươi năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Ngài hỏi :

- Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không ?

Bà nói :

- Ồ không ! Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao ?

Ngài nói :

- Không. Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này : con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa.

Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì ? Không lâu sau, bà trở lại và nói :

- Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác, khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh ặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Ngươiø.

(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 514-515)

Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần xác tín rằng:”Câu hỏi thường đặt ra  không phải Thiên Chúa có nói với chúng ta hay không, nhưng là chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để lắng nghe Ngài hay không”.

 

Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Làm gì để được sống đời đời

Chúng ta hãy xét xem hai việc sau đây: Một là thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ, hai là phục vụ người đau yếu, nghèo khổ… ngoài xã hội, việc nào quan trọng hơn?

Làm việc nào trong hai việc đó thì sẽ được sống đời đời?

Thầy Tư tế và thầy Lê-vi trong bài Tin mừng hôm nay tiêu biểu cho những người chọn việc thờ phượng Thiên Chúa là việc cần phải làm để được sống đời đời, còn việc phục vụ người hoạn nạn, khốn khổ là việc thứ yếu, chẳng cần quan tâm.

Chính vì thế, khi thấy một nạn nhân nằm thoi thóp bên đường, mình đầy thương tích, đang rên la kêu cầu trợ giúp, các thầy lánh sang một bên, vội vã tiến về nhà cho kịp giờ cầu nguyện hay dâng lễ vật lên Thiên Chúa; còn chuyện cứu khổ cứu nạn, thì đừng dại dột giây mình vào làm chi cho phiền hà rắc rối, chẳng được ích gì.

Còn người Sa-ma-ri tiêu biểu cho những người chọn phục vụ người hoạn nạn khốn khổ là việc cần làm để được sống đời đời, nên khi thấy nạn nhân nằm thoi thóp bên đường, ông liền cho lừa dừng lại, bước xuống cúi mình trên nạn nhân, cảm thương thân phận người xấu số. Ông mở hành trang lấy rượu rửa sạch vết thương, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay trở về quán trọ để chăm sóc chu đáo…"

Về phần chúng ta, chúng ta chọn làm theo bên nào, theo cách hành xử của thầy tư tế và Lê-vi hay theo cung cách phục vụ của người Sa-ma-ri?

Tốt nhất, chúng ta hãy học cách hành xử đúng như Chúa Giê-su muốn, dựa theo bài Tin mừng hôm nay.

Khi có người thông luật hỏi: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”

Chúa Giê-su giúp anh tìm ra câu đáp chính xác, đó là mến Chúa và yêu người.

"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn ngươi và yêu mến người thân cận như chính mình."  

Như thế là phải chọn cả hai, vừa yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, vừa yêu thương người thân cận như chính mình. Cả hai việc này đều phải được ưu tiên như nhau, nếu chúng ta thiếu một trong hai thì không được hưởng phúc thiên đàng.

Tại sao thế?

Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 cho ta biết lý do:

Ta phải chọn cả hai, vừa yêu mến Thiên Chúa, vừa phải yêu thương phục vụ những người quanh ta, vì Thiên Chúa và con người chỉ là một. Ngài viết như sau :

“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Mến Chúa và yêu người đã trở thành một: Trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta gặp được Thiên Chúa. (Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” số 15 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô)

Và chính vì thế, ngài dạy:

“Việc bác ái cũng như việc ban phát bí tích và rao giảng Lời Chúa đều là hoạt động cốt yếu của Hội thánh;

Yêu thương những người bất hạnh cũng như ban phát bí tích và rao giảng Lời Chúa đều thiết yếu đối với Hội thánh;

Do đó, Hội thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban bí tích và rao giảng Tin mừng” (Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô).

Chính vì Chúa Giê-su là một với những người quanh ta, nên chúng ta không chỉ thờ phượng Ngài trong nhà thờ mà còn phải ân cần phục vụ Ngài đang hiện diện nơi những người bất hạnh. Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của thánh Gioan kim khẩu về bổn phận này như sau:

“Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Ki-tô ư? Thì chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi: Đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Ngài mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi.…

Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia thì cần được chăm lo tận tình.” (thánh Gioan Kim Khẩu)

Lạy Chúa Giê-su,

Lâu nay chúng con nghĩ rằng chỉ cần thờ phượng Chúa cho sốt sắng là đủ để được lên thiên đàng, hóa ra không phải thế. Nếu chúng con lơ là không quan tâm chăm lo cho người người bất hạnh thì chúng con phải mang án phạt đời đời (Mt 25,41).

Xin ban thêm cho chúng con đức tin và lòng yêu mến để chúng con tin Chúa hiện diện nơi mọi người, đặc biệt là nơi những người đau khổ và đem hết khả năng để phục vụ và yêu mến họ. Có như thế, chúng con mới được hưởng phúc thiên đàng.

 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Lc 10, 25-37

Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp:

"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

THIÊN CHÚA MỜI GỌI SỐNG THƯƠNG XÓT

  1. Thế giới cần một trái tim

Bạn có bao giờ cảm thấy thế giới này quá lạnh lùng không? Tin tức mỗi ngày đầy rẫy những vụ bạo lực, chiến tranh, lừa dối, phản bội. Người ta dễ dàng “loại bỏ” nhau chỉ vì một lỗi nhỏ. Trên mạng xã hội, một lời nói thiếu suy nghĩ cũng có thể khiến ai đó tổn thương sâu sắc. Trong một thế giới như vậy, điều gì có thể chữa lành? Điều gì có thể làm cho con người gần nhau hơn?

Câu trả lời là: Lòng thương xót. Không phải là sự thương hại từ xa, mà là một tình yêu biết cúi xuống, biết cảm thông, biết tha thứ. Và điều tuyệt vời là: Thiên Chúa chính là nguồn mạch của lòng thương xót ấy.

  1. Lòng thương xót – “thương” và “xót”

“Thương xót” nghĩa là gì? “Thương” là yêu, là quan tâm, là muốn điều tốt cho người khác. “Xót” là đau cùng nhau, là cảm thấy nhói tim khi thấy người khác khổ đau. Khi hai từ này đi cùng nhau, nó tạo nên một sức mạnh kỳ diệu: một tình yêu không chỉ ở trong tim, mà còn thúc đẩy hành động. Thiên Chúa không chỉ “thương” chúng ta từ xa, mà Ngài “xót” – nghĩa là Ngài đau cùng chúng ta, Ngài cúi xuống, Ngài hành động để cứu độ.

  1. Thiên chúa – nguồn mạch của lòng thương xót

Trong Kinh Thánh, lòng thương xót của Thiên Chúa được nhắc đến rất nhiều lần. Ngay từ Cựu Ước, Thiên Chúa đã được gọi là “Đấng từ bi và nhân hậu, chậm bất bình và giàu tình thương” (Tv 103,8).

Nhưng đỉnh cao của lòng thương xót là nơi Chúa Giêsu Kitô – Con Một của Thiên Chúa – đến trần gian. Ngài không đến để kết án, mà để cứu độ. Ngài không đến để đòi hỏi, mà để trao ban. Ngài không đến để xét xử, mà để tha thứ.

Hãy nhớ lại cảnh tượng trên thập giá: khi bị đóng đinh, bị sỉ nhục, bị phản bội, Đức Giêsu không nguyền rủa, không oán hận. Ngài chỉ nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó là lòng thương xót đích thực – một tình yêu vượt qua mọi giới hạn.

  1. Lòng thương xót không phải là yếu đuối

Nhiều người nghĩ rằng thương xót là yếu đuối, là dễ dãi, là “bị lợi dụng”. Nhưng không! Lòng thương xót đòi hỏi một sức mạnh nội tâm rất lớn. Tha thứ cho người làm tổn thương mình không phải là việc dễ dàng. Yêu thương người không đáng yêu là một thử thách.

Nhưng chính khi ta biết thương xót, ta trở nên giống Thiên Chúa hơn. Và đó là điều mà Chúa Giêsu mời gọi: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36)

  1. Làm sao để sống lòng thương xót?

Bạn có thể nghĩ: “Mình chỉ là một người bình thường, làm sao sống lòng thương xót như Chúa được?” Nhưng thật ra, sống lòng thương xót không cần phải làm điều gì to tát. Lòng thương xót bắt đầu từ những điều rất nhỏ:

  • Tha thứ

Khi ai đó làm bạn tổn thương, thay vì trả đũa, hãy học cách tha thứ. Tha thứ không có nghĩa là quên hết, nhưng là không để nỗi đau điều khiển mình.

Năm 1993, tại Mỹ, một cậu bé tên là Oshea Israel, 16 tuổi, đã bắn chết một thanh niên 20 tuổi tên là Laramiun Byrd trong một vụ xung đột giữa các băng nhóm. Mẹ của nạn nhân, bà Mary Johnson, đã sống trong đau khổ và thù hận suốt nhiều năm.

Sau 12 năm, bà Mary quyết định đến nhà tù để gặp Oshea. Bà nói rằng Chúa đã thúc đẩy bà phải tha thứ. Cuộc gặp gỡ đầu tiên đầy nước mắt, nhưng cũng là khởi đầu của một hành trình chữa lành.

Sau khi Oshea được thả, bà Mary đã giúp cậu tái hòa nhập cộng đồng. Họ thậm chí sống gần nhau như mẹ con. Bà Mary nói: “Tha thứ không có nghĩa là quên đi, mà là giải thoát chính mình khỏi xiềng xích của hận thù” (BBC News, The mother who forgave her son's killer).

  • Giúp đỡ người khác

Một lời hỏi thăm, một hành động nhỏ, một nụ cười – đôi khi đủ để ai đó cảm thấy được yêu thương. Hãy để ý đến những người bị bỏ rơi, bị cô lập, bị tổn thương quanh bạn.

Tháng 1 năm 2022, bà Teresa Fernández, một bác sĩ nghỉ hưu người Tây Ban Nha, đi du lịch một mình đến Ấn Độ. Bà bị đột quỵ và rơi vào hôn mê tại Mumbai.

Dù biết mẹ mình không thể qua khỏi, hai người con của bà – cũng là bác sĩ – đã quyết định hiến tạng của mẹ để cứu sống những người khác tại Ấn Độ. Họ nói rằng đó là điều bà Teresa luôn mong muốn: sống để phục vụ và chết để trao ban.

Nội tạng của bà đã cứu sống ít nhất 5 người tại Ấn Độ, bao gồm cả một bé gái 12 tuổi. Hành động của gia đình bà Teresa được truyền thông Ấn Độ và Tây Ban Nha ca ngợi như một biểu tượng của lòng nhân ái không biên giới. (nguồn: El Faro de Ceuta, Teresa Fernández, la doctora que donó vida en la India).

  • Không phán xét

Trên mạng xã hội, đừng vội “ném đá” ai đó chỉ vì một lỗi lầm. Đôi khi, những gì ta thấy không phải là sự thật trọn vẹn. Một hành động có vẻ “sai” có thể xuất phát từ một ý định rất đẹp. Đừng vội “ném đá” ai đó chỉ vì một lỗi lầm hay một khoảnh khắc, vì bạn không biết hết câu chuyện của họ. Hãy nhớ rằng ai cũng có câu chuyện riêng, nỗi đau riêng mà bạn không biết. Người ta dễ dàng phán xét khi họ không biết bạn đã trải qua những gì. Chúng ta cũng vậy dễ dàng phán xét khi không biết người khác đã trải qua những gì. Im lặng không phải là yếu đuối – đôi khi đó là sức mạnh của người đã hiểu rõ nỗi đau và chọn yêu thương thay vì oán hận.

Một buổi chiều, một người mẹ bước vào phòng và thấy cô con gái nhỏ đang cầm hai quả táo trong tay. Mẹ mỉm cười và nhẹ nhàng hỏi: “Con yêu, con có thể cho mẹ một quả táo được không?”

Cô bé ngước nhìn mẹ, rồi nhìn hai quả táo trên tay mình. Bất ngờ, cô bé cắn một miếng vào quả táo bên tay phải, rồi lại cắn thêm một miếng vào quả táo bên tay trái.

Người mẹ sững lại. Nụ cười trên gương mặt bà trở nên gượng gạo. Trong lòng bà thoáng hiện lên một chút thất vọng, bà nghĩ con mình ích kỷ, không muốn chia sẻ. Nhưng ngay sau đó, cô bé giơ lên một trong hai quả táo và rạng rỡ nói: “Quả táo này dành cho mẹ nè, nó ngọt hơn đấy ạ!”

Nhiều khi chúng ta đã vội vàng phán xét người khác chỉ dựa trên hành động bề ngoài, mà không hiểu được ý định tốt đẹp phía sau. (vndoc.com/6-cau-truyen-cuoc-song-cuc-ky-y-nghia-ma-ban-nen-doc).

  • Cầu nguyện cho người khác

Khi bạn thấy ai đó đang đau khổ, hãy cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện là một hành động của lòng thương xót rất mạnh mẽ.

Một phụ nữ trẻ tên là Anna, sống tại một vùng quê ở châu Phi, bị một nhóm người vũ trang tấn công trong một cuộc xung đột sắc tộc. Cô bị đánh đập, mất người thân, và bị bỏ lại trong tình trạng thập tử nhất sinh. Sau nhiều tháng điều trị và phục hồi, Anna không chọn con đường oán hận hay trả thù. Thay vào đó, cô bắt đầu cầu nguyện mỗi ngày cho những kẻ đã làm hại mình. Cô nói: “Tôi không thể mang lại công lý bằng tay mình, nhưng tôi có thể mang họ đến trước mặt Thiên Chúa. Tôi cầu xin Chúa chạm vào trái tim họ, để họ không làm điều đó với ai khác nữa.”

Lời cầu nguyện của Anna không chỉ giúp cô chữa lành vết thương tâm hồn, mà còn truyền cảm hứng cho nhiều người trong cộng đồng. Một số người trong nhóm tấn công sau đó đã ra đầu thú và xin lỗi. Câu chuyện của cô trở thành biểu tượng của lòng thương xót và sức mạnh của lời cầu nguyện chuyển cầu (Bài viết “Sức mạnh của lời cầu nguyện chuyển cầu” của Mữ tu Maria Trần Thị Ngọc Hương, dòng Đa Minh Thánh Tâm, trên trang daminhtamhiep.net).

Cầu nguyện cho người khác – đặc biệt là người làm tổn thương ta – là hành động cao cả nhất của lòng thương xót. Lời cầu nguyện có thể thay đổi trái tim con người, ngay cả những trái tim chai đá nhất.

  1. Lòng thương xót trong đời sống

Chúng ta có rất nhiều cơ hội để sống lòng thương xót:

  • Trong gia đình: kiên nhẫn với cha mẹ, anh chị em, biết lắng nghe và chia sẻ.
  • Trong cơ quan: không bắt nạt, không cô lập bạn bè, sẵn sàng giúp đỡ người yếu thế.
  • Trên mạng xã hội: lan tỏa điều tích cực, không chia sẻ tin giả, không xúc phạm người khác.
  • Trong cộng đoàn: tham gia các hoạt động bác ái, thiện nguyện, giúp đỡ người nghèo, người già neo đơn.

Lòng thương xót không phải là một trong nhiều “lựa chọn”, đó là “cốt lõi” của đời sống Kitô hữu. Lòng thương xót không cần được người khác đồng tình, chỉ cần được sống thật sự.

  1. Khi bạn cảm thấy mình không xứng đáng

Có thể bạn từng phạm lỗi, từng làm tổn thương người khác, từng sống ích kỷ. Và bạn nghĩ: “Mình không xứng đáng với lòng thương xót của Chúa.” Bạn biết không? Không ai xứng đáng cả. Nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựa trên thành tích, mà dựa trên tình yêu. Ngài luôn chờ bạn trở về. Dù bạn có đi xa đến đâu, chỉ cần bạn quay lại, Chúa sẽ ôm bạn vào lòng.

  1. Trở thành “gương mặt của lòng thương xót”

Thế giới hôm nay không cần thêm những người giỏi chỉ trích, giỏi tranh luận, giỏi “bóc phốt”. Thế giới cần những người biết yêu thương, biết tha thứ, biết cảm thông. Bạn có thể là một trong số đó.

  • Hãy để lòng thương xót của Chúa chạm đến bạn – và qua bạn, chạm đến người khác.
  • Hãy trở thành “gương mặt của lòng thương xót” – trong ánh mắt, trong lời nói, trong hành động mỗi ngày.

Chúa Giêsu, Đấng giàu lòng thương xót, đã yêu mỗi người chúng ta vô điều kiện. Dù chúng ta yếu đuối, tội lỗi, nhiều lần làm Chúa buồn, Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, vẫn mở rộng vòng tay đón chúng ta trở về. Ước gì chúng ta biết đón nhận lòng thương xót ấy, và thương xót những người xung quanh với trái tim biết cảm thông, với đôi mắt biết nhìn người khác bằng ánh mắt yêu thương, và đôi tay sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến.

Lạy Chúa, xin biến đổi con, để con trở thành khí cụ bình an và tình yêu của Chúa giữa thế giới hôm nay. Con muốn sống như Chúa – yêu thương, tha thứ, và không ngừng hy vọng. Con cầu xin, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa. Amen.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

LỀ LUẬT VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT

Các trang Kinh Thánh hôm nay giúp chúng ta khám phá hai chủ đề chính: sự vâng phục Thiên Chúa qua việc thực hành các mệnh lệnh của Ngài và lòng thương xót được thể hiện qua tình yêu thương dành cho người lân cận.

  1. Vâng Phục Thiên Chúa Dẫn Đến Hạnh Phúc

Thiên Chúa hứa ban phúc lành cho những ai vâng phục Ngài: “Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho anh em thành công trong mọi công việc tay anh em làm, cho anh em sinh nhiều con cái, gia súc anh em sinh sôi nảy nở, đất đai anh em sinh nhiều hoa trái, để anh em được hạnh phúc… miễn là anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Ngài, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ” (Đnl 30: 9-10).

Những lời này cho thấy rằng sự vâng phục không chỉ là một nghĩa vụ, mà là một lời mời gọi để sống trong mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Các mệnh lệnh của Ngài không phải là gánh nặng hay điều gì xa vời: “Lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30:14). Lời Chúa không ở trên trời hay bên kia biển, mà ở trong lòng chúng ta, để chúng ta sẵn sàng đem ra thực thi trong đời sống.

Thánh Augustinô đã nhấn mạnh rằng sự vâng phục Thiên Chúa là con đường dẫn đến tự do thực sự: “Lòng con thao thức cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa” (Tự thú, I, 1). Thánh nhân giải thích rằng con người chỉ tìm thấy niềm vui và sự viên mãn khi sống theo ý muốn của Thiên Chúa, bởi vì ý muốn ấy được khắc ghi trong tâm hồn mỗi người. Sự vâng phục không phải là sự áp đặt, mà là sự trở về với cội nguồn của chính mình.

Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong thông điệp Laudato Si’ (Vatican, 2015), nhấn mạnh rằng việc vâng phục Thiên Chúa không chỉ là tuân giữ các điều răn, mà còn là sống một đời sống hài hòa với Thiên Chúa, với tha nhân, và với thụ tạo. Ngài viết: “Sự vâng phục Thiên Chúa dẫn chúng ta đến việc chăm sóc ngôi nhà chung và yêu thương những người xung quanh, bởi vì tất cả đều được liên kết trong kế hoạch của Thiên Chúa” (Laudato Si’, số 66). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng sự vâng phục không chỉ là một hành động cá nhân, mà còn là một cam kết với cộng đồng và môi trường.

Một gia đình người Ba Lan mới được phong chân phước. Józef và Wiktoria Ulma cùng bảy đứa con của họ đã bị Đức Quốc xã giết hại vào năm 1944 vì che chở cho tám người Do Thái.

Sau quyết định tàn bạo của Hitler thực hiện “giải pháp cuối cùng”, gia đình Ulma, dù biết rõ rủi ro đối với bản thân nhưng bất chấp tình hình tài chính khó khăn, và được thúc đẩy bởi lệnh truyền của tình yêu và tấm gương của Người Samaritanô tốt lành, đã che giấu một gia đình Do Thái trong một năm rưỡi trước khi họ bị tố giác với mật vụ Gestapo. Sau khi giết những người Do Thái mà họ tìm thấy, các mật vụ của chế độ Đức Quốc xã hành quyết cả gia đình Ulma vì đã che chở những người Do Thái đó như một lời cảnh cáo cho những người khác. Bảy đứa con của hai vợ chồng Józef và Wiktoria Ulma cũng chia sẻ đức tin và cái chết của cha mẹ chúng, kể cả đứa bé còn trong bụng mẹ Wiktoria cũng đã nhận được phép rửa tội bằng máu (https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2022-12)

  1. Đức Kitô, Nguồn Viên Mãn và Hòa Giải

Thánh Phaolô tôn vinh Chúa Kitô là trung tâm của mọi thụ tạo và là nguồn mạch của sự hòa giải: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo… Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:15, 20).

Chúa Kitô không chỉ là Đấng Tạo Hóa mà còn là Đấng Cứu Chuộc, mang lại sự hòa giải giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa con người với nhau, và giữa con người với các thụ tạo khác. Sự viên mãn của Thiên Chúa hiện diện trong Ngài, và qua Ngài, chúng ta được mời gọi tham dự vào kế hoạch cứu độ.

Thánh Irênê thành Lyon khẳng định rằng Chúa Kitô là “sự tóm lược” của toàn thể vũ trụ (Chống lạc giáo, III, 16, 6). Ngài giải thích rằng mọi sự được tạo dựng trong Chúa Kitô và hướng về Ngài, và qua thập giá, Chúa Kitô đã tái lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại. Sự vâng phục của Chuá Kitô đối với ý muốn của Chúa Cha trở thành mẫu mực cho chúng ta.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh rằng Chúa Kitô là nguồn hy vọng của chúng ta: “Nhờ Chúa Kitô, chúng ta biết rằng chúng ta không bước đi trong bóng tối, mà được hướng dẫn bởi ánh sáng của sự sống đời đời” (Spe Salvi, số 4, 2007). ĐGH mời gọi các Kitô hữu sống trong sự kết hiệp với Chúa Kitô, để qua đó, họ có thể mang lại bình an và hy vọng cho thế giới.

Micae Hồ Đình Hy (1808–1857) là một vị quan tam phẩm trong triều đình nhà Nguyễn, thời vua Tự đức, nhưng dù ở trong cảnh quyền lực và danh vọng, ngài không chạy theo “bóng tối” của thế gian. Ngài được biết đến không chỉ là một vị quan thanh liêm, mà còn sống trong ánh sáng của đức tin, trở thành chứng nhân rạng ngời cho Chúa Kitô giữa thời kỳ bách hại Công giáo.

Khi nhà vua cấm đạo, ngài không hề giấu giếm đức tin: “Tâu bệ hạ, đã ba mươi năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Chúa Kitô”. Vào năm 1857, ngài đã chấp nhận bị xử trảm vì đức tin Công giáo của mình. Trong khổ hình, ngài đã nói với lính canh: “Thà linh hồn tôi được sống lại đời đời bên Chúa, còn hơn sống trên đời trong bóng tối tội lỗi.” Đây chính là lời minh chứng cho việc nhờ Chúa Kitô, ngài bước đi trong ánh sáng khác hẳn đời sống thế tục. Quan thái bộc Micae Hồ Ðình Hy được nâng lên bậc chân phước ngày 02-5-1909 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988 (hdgmvietnam.com/chi-tiet/thanh-micae-ho-dinh-hy-tu-dao-ngay-22-thang-5-nam-1857-48926).

III. Yêu thương người thân cận là thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa

Dụ ngôn người Samaritanô tốt lành trong là một lời dạy mạnh mẽ về lòng thương xót và tình yêu dành cho người thân cận. Khi được hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10:29), Chúa Giêsu kể câu chuyện về người Samaritanô, người đã dừng lại, chăm sóc, và giúp đỡ một người bị cướp đánh nhừ tử, trong khi thầy tư tế và thầy Lêvi đã bỏ qua. Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10:37).

Dụ ngôn này không chỉ định nghĩa “người thân cận” vốn là bất cứ ai cần sự giúp đỡ, mà còn kêu gọi chúng ta hành động với lòng thương xót, vượt qua mọi rào cản về tôn giáo, văn hóa, hay định kiến.

Thánh Gioan Kim Khẩu, trong bài giảng về lòng thương xót, nhấn mạnh: “Nếu bạn không thấy Chúa trong người nghèo khổ, bạn sẽ không tìm thấy Ngài ở bất cứ đâu khác” (Bài giảng về Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, 50, 3). Ngài dạy rằng lòng thương xót là dấu chỉ của một Kitô hữu đích thực, bởi vì nó phản ánh tình yêu của Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong tông sắc Misericordiae Vultus - Dung mạo Lòng thương xót (2015), tuyên bố rằng lòng thương xót là “là trái tim sống động của Tin Mừng” (số 12). Ngài kêu gọi các Kitô hữu sống lòng thương xót qua những hành động cụ thể: “Cơ man nào là những vết thương mang trên thân xác của những người không có tiếng nói bởi vì tiếng kêu của họ bị bóp nghẹt và bị át đi bởi sự thờ ơ của kẻ giàu có!..Chúng ta được được mời gọi để chữa lành những vết thương này, xoa dịu chúng với dầu an ủi, băng bó chúng với lòng thương xót và chữa lành chúng với tình liên đới và sự chăm sóc chu đáo…Chúng ta hãy mở to mắt và nhìn thấy sự đau khổ của thế giới, và những vết thương của những anh chị em chúng ta đang bị từ chối phẩm giá, và chú ý đến tiếng kêu muốn được giúp đỡ của họ!” (Misericordiae Vultus, số 15).

Lời Chúa hôm nay đều nhấn mạnh một chân lý cốt lõi: vâng phục Thiên Chúa và thương xót người khác là hai mặt của cùng một đời sống Kitô hữu. Sự vâng phục dẫn chúng ta đến việc sống theo Lời Chúa, và lòng thương xót là cách chúng ta thể hiện tình yêu ấy trong cuộc sống hằng ngày. Như Chúa Giêsu đã dạy: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10:27). Hai điều răn này không thể tách rời:

  • Sống Lời Chúa mỗi ngày: Hãy dành thời gian đọc và suy niệm Kinh Thánh, để Lời Chúa thấm sâu vào lòng.
  • Thực thi lòng thương xót: Hãy bắt đầu bằng những hành động nhỏ, như một nụ cười, một lời an ủi, hay một hành động cụ thể có thể thay đổi cuộc sống của người khác.
  • Gắn bó với cộng đoàn: Tham gia vào các hoạt động của giáo xứ hoặc các tổ chức từ thiện để chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa với cộng đoàn.

Lòng thương xót, được thể hiện qua dụ ngôn người Samaritanô tốt lành, là cách chúng ta sống Lời Chúa và phản chiếu tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã hòa giải muôn vật qua thập giá của Ngài, như lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “chúng ta tìm thấy cốt lõi của Tin Mừng và đức tin của chúng ta, vì lòng thương xót được trình bày như là một lực vượt qua tất cả mọi thứ, làm đầy trái tim với tình yêu và mang lại ủi an qua sự tha thứ…thiếu vắng chứng tá cho lòng thương xót, cuộc sống trở thành vô ích và vô sinh, như thể bị cô lập trong một sa mạc cằn cỗi” (Misericordiae Vultus, số 9 và 10). Chúng ta được mời gọi “đi và làm như vậy” (Lc 10:37), mang tình yêu và bình an của Thiên Chúa đến với thế giới.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

Subcategories