3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

YÊU MẾN CHÚA GIÊSU VÀ TUÂN GIỮ LỜI NGÀI

Bài Tin Mừng hôm nay là một phần trong bài từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Ngài chịu khổ nạn. Đây là lời dạy về mối tương quan tình yêu dành cho Chúa, sự vâng phục Lời Ngài, vai trò của Chúa Thánh Thần, và ân huệ bình an mà Chúa Giêsu để lại cho những ai tin theo Ngài.

  1. Tình yêu và sự vâng giữ Lời

Chúa Giêsu khẳng định: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14:23). Lời này nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa tình yêu và sự vâng giữ Lời Chúa. Yêu mến Chúa Giêsu không chỉ là cảm xúc, mà phải được thể hiện qua hành động cụ thể: tuân giữ lời của Ngài.

Thánh Augustinô đã giải thích về tình yêu này: “Tình yêu dành cho Chúa không nằm ở lời nói, mà ở hành động. Người yêu mến Chúa là người sống theo ý muốn của Ngài” (Bài giảng về Tin Mừng Gioan, 74.2). Thánh nhân nhắc nhở rằng tình yêu đích thực phải được chứng minh qua đời sống đức tin, như Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 34-35) và “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:10).

Chị Hiền, 45 tuổi, là một người Công giáo sống ở giáo xứ Thái Hà, trong một khu phố nhỏ ở Hà Nội. Hàng ngày, chị đẩy chiếc xe ba gác đi khắp các con hẻm để nhặt ve chai, kiếm tiền nuôi hai con ăn học. Dù cuộc sống khó khăn, chị luôn tham gia các hoạt động bác ái của giáo xứ và sẵn lòng giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình. Một lần, khi đang nhặt ve chai gần ga Hà Nội, chị Hiền thấy một ông lão ăn xin, khoảng 70 tuổi, nằm co ro trên vỉa hè, quần áo rách nát và run rẩy vì đói. Ông lão tên là Tâm, thường gọi là cụ Tâm, từng phục vụ trong quân đội nhưng gia đình mất hết trong chiến tranh và giờ sống lang thang.

Không do dự, chị Hiền lấy 40.000 đồng - gần nửa số tiền chị kiếm được hôm đó - để mua một hộp cơm và chai nước cho cụ Tâm. Chị còn lấy chiếc áo khoác cũ trong xe ba gác, vốn để dành cho con trai, đưa cho cụ để giữ ấm. Khi cụ Tâm cảm ơn, chị Hiền nói: “Con chẳng có gì nhiều, nhưng con học từ cha xứ rằng giúp người nghèo là giúp Chúa Giêsu. Cụ ăn cho khỏe, con cầu nguyện cho cụ.”

  1. Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ và Thầy dạy

Chúa Giêsu hứa ban Đấng Bảo Trợ, tức Chúa Thánh Thần, để dạy dỗ và nhắc nhở các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26). Vai trò của Chúa Thánh Thần là tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu: “Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13).

Hội Thánh sơ khai ý thức rõ sự hướng dẫn của Thánh Thần khi giải quyết các tranh luận, từ đó đưa ra quyết định phù hợp với tinh thần của Chúa Giêsu: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết” (Cv 15: 28). Thánh Thần là Đấng bảo trợ và hướng dẫn Hội Thánh trong việc áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh mới “là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa” (Cv 15: 19).

Thánh Basiliô Cả, nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần là “Đấng soi sáng tâm trí, ban sự khôn ngoan để hiểu biết các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (Thánh giáo phụ thế kỷ IV, nói về Chúa thánh Thần, 9.23). Nhờ Chúa Thánh Thần, các môn đệ không chỉ nhớ lại lời dạy của Chúa Giêsu mà còn được ban sức mạnh để sống và loan báo Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh.

Câu chuyện Chị Hiền kể trên không dừng lại ở chỗ chị cho cơm áo, tiền bạc, mà Chị còn liên lạc với nhóm thiện nguyện của giáo xứ Thái Hà, nhờ tìm chỗ ở tạm cho cụ Tâm. Nhờ sự hỗ trợ đó, cụ Tâm được đưa đến một mái ấm do giáo phận Hà Nội quản lý, nơi cụ được chăm sóc và sống những ngày tháng an ổn hơn. Dù nghèo, chị Hiền, đã nhìn thấy Chúa Giêsu nơi cụ Tâm, và nhờ Chúa Thánh Thần giúp sức, soi sáng, Chị đã trở thành chứng nhân của tình yêu thương không cần phải giàu có, chỉ cần một trái tim biết sẻ chia. (Công giáo và Dân tộc, số 245, tr. 15, 12/10/2023).

  1. Bình an của Chúa Giêsu, ân huệ vượt trên thế gian

Chúa Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14:27). Bình an mà Chúa Giêsu ban tặng không phải là sự vắng bóng khó khăn, mà là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa những thử thách. Lời Ngài: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14: 27) khuyến khích các môn đệ tin tưởng vào sự chăm sóc của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu ban bình an “không theo kiểu thế gian” (Ga 14:27), với sự yên ổn tạm thời của thế gian, nhưng bắt nguồn từ mối tương quan sâu sắc với Thiên Chúa để các môn đệ không sợ hãi trước những thay đổi. Quyết định của Công đồng Giêrusalem giải tỏa căng thẳng giữa người Do Thái và dân ngoại, mang lại sự hiệp nhất và bình an cho Hội Thánh, “và làm cho họ được vững mạnh” (Cv 15:31). Đức Giáo hoàng Phanxicô giải thích: “Bình an của Chúa Giêsu là món quà nội tâm, giúp chúng ta đứng vững trước những giông tố của cuộc đời” (Bài giảng ngày 17/5/2020).

Năm 2021, trong đợt dịch COVID-19 bùng phát mạnh ở Sài Gòn, anh Phêrô Trần Văn Hùng, 40 tuổi, giáo xứ Tân Định, quận 3, Sài Gòn, chịu một cú sốc lớn khi mẹ anh, bà Anna, qua đời vì nhiễm virus. Do các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt, anh không thể ở bên mẹ trong những giờ phút cuối đời, và tang lễ chỉ được tổ chức đơn sơ với vài người thân. Nỗi đau mất mẹ, cộng với áp lực kinh tế khi công việc xe ôm gần như dừng hẳn, khiến anh Hùng rơi vào khủng hoảng. Anh chia sẻ trong một buổi sinh hoạt nhóm: “Tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Tôi sợ không biết gia đình mình sẽ sống thế nào.”

Tuy nhiên, trong một buổi cầu nguyện trực tuyến do giáo xứ tổ chức, anh Hùng được nghe cha phó xứ giảng “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14: 27). Lời Chúa như một tia sáng soi chiếu tâm hồn anh. Anh bắt đầu dành thời gian cầu nguyện nhiều hơn, suy niệm về sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa những khó khăn. Anh nói với vợ: “Chúa không hứa cho ta cuộc sống dễ dàng, nhưng Ngài hứa ban bình an. Mình phải tin Ngài đang ở đây.”

Với niềm tin mới mẻ, anh Hùng tham gia nhóm thiện nguyện của giáo xứ Tân Định để phân phát thực phẩm cho những người bị giữ lại trong khu cách ly. Dù bản thân cũng thiếu thốn, nhưng anh cảm thấy lòng mình thanh thản hơn khi giúp đỡ người khác. Anh chia sẻ: “Khi tôi mang gạo đến cho những gia đình nghèo, tôi thấy như đang gặp Chúa. Bình an của Ngài giúp tôi vượt qua nỗi buồn và sợ hãi.”

Cộng đoàn giáo xứ, biết được hoàn cảnh của anh Hùng, đã hỗ trợ gia đình anh thực phẩm và một khoản tiền nhỏ để vượt qua giai đoạn khó khăn. Đến năm 2022, khi Sài Gòn dần hồi phục sau đại dịch, anh Hùng trở lại công việc và tiếp tục tham gia các hoạt động bác ái, như một cách tạ ơn Chúa vì bình an Ngài đã ban (Tạp chí Hiệp Thông, Tổng Giáo phận TP.HCM, số 131, tr. 22, tháng 3-4/2022).

Đó là sự bình an vượt trên xáo trộn mà Chúa Giêsu hứa, không còn “xao xuyến sợ hãi” (Ga 14: 27) như trong thành thánh Giêrusalem trên trời “không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:4).

Mọi xung khắc, tranh luận, như luật cắt bì, đều được giải quyết khi con người để Thánh Thần dẫn lối, hướng về Chúa Kitô, Đền Thờ Giêrusalem Thiên Quốc đích thực, là đích đến của mọi Kitô hữu, nơi mọi phân biệt xưa cũ bị tan biến trong ánh sáng vinh quang của Con Chiên.

Hôm nay, chúng ta hãy để Lời Chúa Giêsu vang vọng trong tâm hồn: yêu mến Ngài, giữ lời Ngài, và đón nhận Thánh Thần và bình an của Ngài. Chúa Kitô là Con Chiên, là nguồn sống và ánh sáng cho dân Ngài, phá vỡ mọi ranh giới bất hòa của luật lệ phàm nhân để mở ra một giao ước mới trong Thánh Thần, trong thành Giêrusalem mới, có “Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành” (Kh 21: 22).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

 

Bình an nội tâm

Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến bình an, chúng ta hay nghĩ, đó là cuộc sống thoải mái, không đụng chạm rắc rối hay đối đầu với đau khổ.

Ngược lại, hôm nay, chính lúc Chúa đang từ giã các môn đệ để đi vào cuộc vượt qua, Chúa lại nói: “Thầy ban cho các con bình an của Thầy”. Bình an của Chúa là bình an trong tâm hồn, đó là ơn bình an nội tâm.

Giữa lúc môn đệ rơi vào bi quan nhất, giữa lúc các ông sắp phải đối diện với những mất mát tận cùng, Chúa ban ơn bình an của tâm hồn để các ông đủ can đảm mà chiến thắng.

Ơn bình an này cần thiết biết bao nhiêu cho đoàn môn đệ của Chúa. “Bình an của Thầy” là như thế. Bình an ấy không thể nào thế gian có thể có được để mà ban tặng. Đó là bình an mà thế gian phải tìm tòi.

Thực tế, bình an của thế gian thường là thứ bình an do tránh né đương đầu với khó khăn, do chạy trốn những bất ổn mua lấy sự yên thân hơn là tạo được một tâm hồn bình an. Bình an đó không bền vững, nhưng chóng vánh. Chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta.

Bình an mà Chúa ban cho chúng ta là bình an chiến thắng của nội tâm con người. Nó là kết quả của bao nhiêu cam go, dằn vặt, chấp nhận, và chịu đựng mới có thể có được.

Bình an ấy chính Chúa Giêsu đã trải qua trên thánh giá. Đó là bình an của tình yêu dâng hiến và đón nhận, cả đến chấp nhận. Thứ bình an mà nhìn bên ngoài chỉ thấy toàn thương đau ô nhục, nhưng bên trong nội tâm là trọn một lòng phó thác trong tay Thiên Chúa.

Bình an của Chúa Giêsu trên thánh giá trở thành nguồn bình an nội tâm của chúng ta. Bên ngoài, trước mắt mọi người, có khi chúng ta phải cam chịu, phải đối diện nhiều bất trắc, nhưng bên trong tâm hồn, chúng ta biết mình luôn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa, tình yêu con người.

Chúng ta biết mình thuộc về Chúa. Hãy hiến dâng cả cuộc đời, và hiến dâng tất cả mọi diễn biến xảy ra trong trọn cuộc đời ấy, để nội tâm chúng ta ngày càng trưởng thành, ngày càng nên một với thánh ý Thiên Chúa hơn.

Một khi đã có được tâm hồn bình an, không có bất cứ một hoàn cảnh nào của cuộc sống trần thế có thể cướp mất được. Bình an của tâm hồn hoàn toàn độc lập với mọi hoàn cảnh bên ngoài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con bình trong nội tâm mình, để bình an nội tâm trở thành sức mạnh giúp chúng con chiến thắng mọi hoàn cảnh của đời sống, nhất là những lúc chúng con gặp phải bi thương, chán nản. Xin ban cho chúng con bình an của Chúa. Amen.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

Yêu người như Chúa

Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.

Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ. Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.

Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

ÐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

PHẦN CÒN LẠI, NGÀI LO

Thứ Bảy Tuần 5 Phục Sinh C

“Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước!”.

“Một khi bị dồn vào đường cùng, rắn đuôi chuông sẽ tức giận tới mức tự cắn vào mình! Đó cũng là điều xảy ra nơi một người tích chứa sự căm ghét. Ôm chặt hận thù, người ấy nghĩ, họ đang ‘làm đau’ kẻ khác; nhưng tai hại lớn hơn là họ đang huỷ hoại chính mình. Tốt nhất, bạn đón nhận sự thù ghét, tìm dịp để yêu thương và phó thác cho Chúa. Phần còn lại, Ngài lo!” - E. Stanley Jones.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Phần còn lại, Ngài lo!’. Trước một nền văn hoá chống lại Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn “tìm dịp để yêu thương và phó mình cho Chúa Cha”. Trong Tin Mừng hôm nay, Ngài nói, “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước!”.

Sứ vụ của càng mở ra, các thế lực chống đối Chúa Giêsu càng trở nên tồi tệ. Nhưng Ngài sẵn lòng ôm lấy thực tế nghiệt ngã đó. Ngài vẫn yêu thương giới biệt phái, yêu Giuđa, yêu Phêrô, yêu đến cùng cả những kẻ sẽ đóng đinh Ngài. Từ việc phó mình cho Cha - với tất cả sức mạnh - Ngài vượt qua tất cả. Ai trong chúng ta - ở một giai đoạn nào đó - cũng sẽ trải nghiệm gánh nặng này khi phải gặp những sự từ chối tương tự, cả khi chúng ta chỉ muốn làm điều tốt cho người khác. Đây là thời điểm bạn nên giống Chúa Giêsu nhất. Dĩ nhiên, thật không dễ, nhưng nếu được vậy, bình an và niềm vui sẽ ùa về; với điều kiện - như Chúa Giêsu - bạn phó thác tất cả cho Chúa; ‘phần còn lại, Ngài lo!’.

Và tình yêu luôn tìm kiếm giải pháp! Các tông đồ đã làm điều tương tự. Chỗ nào đón tiếp, các ngài lưu lại; chỗ nào tẩy chay, các ngài ra đi. Tại Đerbê, Lystra, được đón tiếp, Phaolô tiếp nhận Timôthê; sau đó, đi qua Phygia, Galat, Trôa và xuống Makêđônia - bài đọc một. Nhờ đó, Tin Mừng được rao giảng; tín hữu vui, dân ngoại mừng, “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” - Thánh Vịnh đáp ca.

“Con đường của Kitô hữu là con đường của Chúa Kitô, không có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã chỉ ra với những hệ luỵ là bị thế gian căm ghét. Đó là lý do của những hận thù và khủng bố liên tục từ những ngày đầu tiên của Giáo Hội - và cho đến ngày nay - nhiều cộng đoàn Kitô trên thế giới đang bị bách hại!” - Phanxicô.

Anh Chị em,

“Hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước!”. Họ ghét Chúa Giêsu hơn ghét một tên gian phi vì Ngài nói cho họ sự thật về Thiên Chúa, về chính Ngài và về chính họ. Ngài chấp nhận tất cả và chỉ tìm dịp để yêu thương. Và tình yêu mạnh hơn sự thù ghét, mạnh hơn sự chết của Ngài đã chiến thắng để trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho nhân loại. Giữa một thế giới căm ghét Thiên Chúa; bạn cứ “tìm kiếm các giải pháp” để tiếp tục yêu thương, tiếp tục thứ tha. Và với sự trợ lực của Đấng Phục Sinh, sẽ không trở ngại nào là quá lớn; Ngài sẽ giúp bạn vượt qua tất cả. Điều quan trọng là tập trung vào việc mở mang Nước Chúa, tìm dịp để ‘xây cầu’, tín thác vào Chúa, ‘phần còn lại, Ngài lo!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để thế gian ghét con vì con dễ ghét; cứ để họ ghét con vì con dễ thương! Cho con cứ thương, dù bị ghét. Được thế, con khác nào Chúa mấy!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Yêu như Thầy đã yêu

Cv 14, 20b-26; Kh 21, 1-5a; Ga 13, 31-33a. 34-35

Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại những tâm tư của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc thương khó. Giờ đây, sau khi Ngài trỗi dậy từ cõi chết và trước khi rời xa các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu một lần nữa nhắn nhủ các môn đệ những lời từ sâu thẳm cõi lòng: anh em hãy thương mến nhau.

Chúa Giêsu không nhắc nhở các môn đệ ghi nhớ điều gì khác, không phải là những điều Ngài đã giảng dạy, không phải là các phép lạ lớn lao, nhưng là điều liên quan đến chính nội tâm của từng người, đó là khả năng để yêu mến.

Với điều răn “Anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13,34), Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ ý muốn cuối cùng và di chúc của Người: Người sẽ nhắc lại thêm hai lần nữa (x. Ga 15,12.17).

Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mộtcách thức theo đó Ngài sẽ tiếp tục hiện diện giữa các ông và Ngài quy định cách sống của các ông. Các môn đệ phải quy hướng bản thân về tình yêu của Ngài, là tình yêu mà mỗi ông đã trải nghiệm.

Trong tình yêu này, mỗi ông phải là Giêsu cho người khác, phải chấp nhận người khác, giúp đỡ người ấy, quan tâm đến điều thiện hảo của người ấy, như chính Chúa Giêsu đã làm. Như thế, các ông sẽ làm cho Chúa Giêsu hiện diện cho nhau trong cái đặc điểm tiêu biểu của Người: tình yêu. Các môn đệ được ngỏ lời với như là mộtcộng đoàn, các ông phải định hướng đời mình theo sự hiệp thông đời sống mà các ông đã có thể có với Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu không nghi ngờ lòng nhiệt thành của Phêrô, Ngài cũng không cần lo lắng về lòng trung thành của Giacôbê hay của Gioan, Chúa Giêsu đã từng khen ông Nathanaen là nơi ông “không có gì gian dối”, v.v. Chúa Giêsu hài lòng về nhiều đặc nét cá tính của môn đệ. Duy chỉ có một điều khiến Chúa Giêsu ưu tư là tương quan giữa các ông với nhau.

Chắc chắn Chúa Giêsu nhớ khi Ngài loan báo cho các ông về cuộc thương khó Ngài sắp trải qua, các ông lại lo tranh luận xem ai là người lớn nhất. Trong bối cảnh ấy, cũng dễ hiểu tại sao Chúa Giêsu chỉ căn dặn các môn đệ điều mà Ngài gọi là “điều răn mới”: “như Thầy đã yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy: là anh em có lòng yêu mến nhau.” (Ga 13, 34-35)

"Mọi gười cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau". Xin ban thêm đức tin và lòng yêu mến cho chúng con, để chúng con có thể thờ phượng Chúa với tâm tình biết ơn, chúc tụng Chúa hết con người chúng con. Để khi cảm nhận được những tình yêu Chúa, chúng con biết cho đi, biết chia sẻ những gì chúng con nhận được cho anh chị em chung quanh của chúng con, và như thế chúng con trở nên nhân chứng tình yêu Chúa cho mọi người.

Chúa Giêsu để lại cho các ông một mẫu gương của lòng yêu mến, đó là hãy yêu thương như Ngài, yêu thương hết lòng và yêu đến cùng. Khía cạnh thứ hai là chính ở dấu chỉ các môn đệ yêu mến nhau làm chứng cho người ta các ông là người của Chúa, là môn đệ của Thầy Giêsu.

Như vậy, tất cả những điều khác, dù quan trọng và hữu ích, nhưng nếu chưa có lòng yêu thương thực sự đối với nhau, hình ảnh người môn đệ có nguy cơ bị phai mờ, vai trò chứng nhân của Thầy Giêsu có thể không đủ thuyết phục. Yêu mến như Thầy trở thành khuôn mẫu và dấu chỉ cụ thể không những cho các môn đệ mà còn cho tất cả những ai bước theo Chúa.

Kinh nghiệm thực tế chỉ cho chúng ta rằng liên đới và yêu mến tha nhân là một thách đố lớn lao. Không dễ để đồng cảm với người bên cạnh và càng khó hơn để yêu thương những ai khác biệt hay thậm chí thù nghịch. Để yêu thương cần một con tim trong suốt và cõi lòng rộng mở. Con tim trong suốt để không lưu giữ những dấu vết ích kỷ và cõi lòng rộng mở để tha thứ không ngừng. Được như thế, ta mới có thể yêu mà không tính toán, thương mà không quản ngại khó khăn.

Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:
Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh.

Sau khi được cứu sống, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạn vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn ngón tay bị cắt vào miệng con để bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay của tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi ngón tay khác và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ bị mất máu chết sao?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo kiếm cái gì cho con bú để nó được sống!”.

Để yêu thương cần một con tim trong suốt và cõi lòng rộng mở. Con tim trong suốt để không lưu giữ những dấu vết ích kỷ và cõi lòng rộng mở để tha thứ không ngừng. Được như thế, ta mới có thể yêu mà không tính toán, thương mà không quản ngại khó khăn.

Ước gì lời nhắn nhủ yêu thương của Chúa cho các môn đệ được chúng ta thuộc lòng, khi chứng kiến chúng ta bày tỏ lòng thương mến anh chị em đồng loại, nhìn ra tình yêu của Chúa tiếp tục hiện hữu và người môn đệ của Chúa không ngừng bày tỏ Ngài cho thế giới. Xin Chúa Giêsu phục sinh thánh hoá chúng ta trong lửa mến để tình yêu thương không bao giờ vơi cạn nơi con tim nhỏ bé của chúng ta nhờ biết mở ra với tình yêu vô hạn của Chúa.

Subcategories