3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

NHỮNG CON TIM ĐỒNG THANH

Thứ Sáu Tuần 1 Mùa Vọng A

“Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!”.

“Cùng nhau cầu nguyện là cùng thở trong Thiên Chúa!” - Ruth Burrows.

Kính thưa Anh Chị em,

Hình ảnh hai người mù trong Tin Mừng hôm nay là một bức hoạ thật đẹp về ‘những con tim đồng thanh’ - cùng thở trong Thiên Chúa - “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!”.

Dù bước đi trong tối tăm, nhưng tâm hồn hai người mù lại bừng lên một thứ ánh sáng ‘rất Giáo Hội!’. Không thưa với Chúa Giêsu riêng lẻ - “Xin thương xót tôi!”; họ đến như một cộng đoàn - “Xin thương xót chúng tôi!”. Lời cầu ấy mang một khuôn mặt Giáo Hội. Nó là tiếng thở chung của ‘những con tim đồng thanh’ đặt niềm tin vào Chúa. Cũng thế, Chúa Giêsu chất vấn về ‘cái chung’ của họ, “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?”. Câu hỏi ấy kéo họ vào một cuộc ‘phó thác chung’. Họ đáp, “Thưa Ngài, chúng tôi tin!”. Chính ở đức tin hợp nhất ấy, ân sủng tìm thấy đường đi! “Vết thương của chúng ta có thể mở ra cho ân sủng khi chúng ta dám bước đi cùng nhau như một thân thể duy nhất!” - Henri Nouwen.

Bài đọc Isaia đơn giản phác hoạ - Thiên Chúa sẽ mở mắt dân. Không chỉ chữa lành cá nhân, Ngài phục hồi “nhà Giacóp” - một cộng đoàn - để họ lại nhận biết Ngài. Lời hứa ấy làm nền tảng cho niềm hy vọng của một Giáo Hội được chữa lành; ánh sáng của Thiên Chúa bao giờ cũng mang ‘tính quy tụ!’. Thánh Vịnh đáp ca thì ngắn gọn nhưng thật căn cơ, “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi!”. Khi đặt Chúa làm ánh sáng, Giáo Hội được soi dẫn để nhìn nhau với lòng thương xót, và cùng nhau bước ra khỏi những vùng tối của nghi kỵ, mệt mỏi, ốc đảo và cô độc.

Ước gì giữa nhịp sống mục vụ, gia đình và lao nhọc mỗi ngày, bạn và tôi không đánh mất tiếng thở chung ấy. Khi cộng đoàn là ‘những con tim đồng thanh’ cất lên cùng một lời kinh, khi gia đình biết quỳ xuống cùng nhau trước bàn thờ, khi giáo xứ biết mang lấy nỗi đau của từng người - ánh sáng Mùa Vọng sẽ trở nên rõ ràng, gần gũi, và cũng chữa lành hơn. “Chúng ta được dựng nên để cùng nhau; khi cùng chịu đau, chúng ta cùng được chữa lành!” - Desmond Tutu.

Anh Chị em,

“Xin thương xót chúng tôi!”. Mùa Vọng, mùa của cộng đoàn cùng thở, cùng cầu, cùng hy vọng. Khi chúng ta thốt lên, “Lạy Cha chúng con!” hay “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”, thì những lời cầu ấy chỉ thật sự ‘đầy đủ’ khi là một ‘lời chung’, một ‘khát vọng chung’ của toàn thể Giáo Hội. Và đó chính là vẻ đẹp của nàng! Những trái tim không giống nhau, nhưng được Thánh Thần làm cho hoà nhịp, trở thành ‘những con tim đồng thanh’ dâng lời ngợi khen chúc tụng và mọi nhu cầu lên Thiên Chúa. Ước gì trong Mùa Vọng này, mỗi người chúng ta lại bước vào nhịp thở ấy - nhịp thở của một cộng đoàn đang nài xin ánh sáng, đang san sẻ đức tin và nâng đỡ những vùng tối của nhau. Vì “Cuộc sống cầu nguyện không bao giờ sống trong cô lập; nó nảy nở trong cộng đoàn!” - Thomas Merton.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho mỗi lời cầu của chúng con thành một nhịp thở chung, nâng đỡ những góc khuất của nhau trong yêu thương, và cùng hoà vào hơi thở của Mẹ Giáo Hội!”, Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

 

ĐỜI ĐÁ, ĐỜI CÁT

Thứ Năm Tuần 1 Mùa Vọng A

“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời!”.

“Julius Caesar chinh phục 800 thành phố, nhuộm cẩm bào bằng máu của một triệu kẻ thù; thế mà ngay sau chiến thắng vĩ đại nhất, Caesar bị đâm chết bởi những người bạn chí thiết! Thành công tạm thời thường đội vương miện cho kẻ vô thần. Khi những thành tựu rực rỡ nhất không đặt nền trên Thiên Chúa, chúng chỉ kéo dài ‘lâu’ bọt nước!” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Cũng thế, một đức tin không đặt nền trên Chúa Kitô, nó chỉ bền như bọt nước. Lời Chúa hôm nay xác quyết, ai xây đời mình - ‘đời đá’ - trên Ngài, “Người ấy mới được vào Nước Trời!”.

Thế nhưng, đặt nền móng không bao giờ là một công việc hào nhoáng. Chẳng có gì đẹp đẽ ở một hố sâu nơi công trường bùn lầy! Đời sống đức tin cũng vậy, muốn đào móng sâu, phải khiêm tốn, ngay lành, kiên định cầu nguyện, bền bỉ tìm kiếm bác ái và miệt mài tự hiến. Đào móng là đi xuống, đối diện nết xấu, lột bỏ những tội lỗi tệ hại nhất, chấp nhận để Chúa “đục” vào những chỗ ngoài ý thích. Không có bước quyết liệt này, bạn và tôi chỉ xây những ‘đời cát’, tưởng vững mà không bền. “Khiêm tốn là nền móng của toàn bộ toà nhà đời sống thiêng liêng!” - Têrêxa Avila.

Một toà nhà có vẻ an toàn khi trời quang mây tạnh, chỉ khi cơn dông ập xuống mới phơi ra độ chắc của móng. Đời sống thiêng liêng cũng thế. Khi an bình bao phủ, đức tin dễ “nở hoa”; nhưng khi cám dỗ, thất bại, tổn thương hay một khủng hoảng lớn bất ngờ xảy ra, chúng ta mới nhận ra độ cứng thật sự của nó. “Thử thách cho ta thấy mình là ai; chúng xới tung mảnh đất tâm hồn và phơi ra chất liệu thật!” - Charles Spurgeon. Vậy làm sao đứng vững? Câu trả lời được tìm thấy trong bài đọc một, “Chúng ta có thành trì vững chắc: Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài để chở che”. Tường luỹ ấy chính là Chúa Kitô, Đá Tảng ngàn năm bền vững. “Chính nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô”, toà nhà đức tin - và cả lời nói của chúng ta - mới có thể đứng vững.

Anh Chị em,

“Chúng ta có thành trì vững chắc!”. Thành trì ấy là Chúa Kitô. Chỉ khi lời của chúng ta bắt nguồn từ Ngài, nó mới có lửa và ban sự sống, mới chịu nổi thử thách, mới trở thành “lời đá”. “Một lời Kitô giáo mà gốc rễ không bắt nguồn từ Chúa Kitô là một lời Kitô giáo lừa dối; chúng chỉ gây hại!” - G.K. Chesterton. Mùa Vọng, mùa “khởi sự lại từ Chúa Kitô” - trở về với Đá Tảng - đặt móng trên Ngài, lời Ngài, để Lời và Thánh Thần hướng dẫn tất cả mọi hành vi sám hối, trỗi dậy, đi tới và yêu thương. Chỉ như thế, đời sống của bạn và tôi không còn là ‘đời cát’ vốn chỉ một cơn gió nhẹ cũng có thể sụp. “Khi lời Kitô giáo thiếu Chúa Kitô, chúng bắt đầu đi vào con đường điên rồ, dẫn đến phù phiếm, tự tôn, kiêu hãnh và tham nhũng quyền lực. Chúa sẽ hạ bệ những người này!” - Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con đội vương miện của kẻ vô thần vốn chỉ thoáng qua như bọt nước. Cho con biết xây đời mình - một ‘đời đá’ - trên chính Chúa, và nó sẽ luôn đầy lửa!”. Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

 

Hãy sẵn sàng cho một tương lai tốt đẹp

"Anh em hãy sẵn sàng" (Mt 24,44)

Sợi chỉ đỏ :

- Tương lai tốt đẹp được khơi lên bởi ngôn sứ Isaia (Bài đọc I)

- Nghĩ đến nó, tác giả Tv 121 hân hoan hát mừng Thiên Chúa (Đáp ca)

- Đức Giêsu khuyên hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đón nó (Bài Tin Mừng)

- Thánh Phaolô giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng (Bài đọc II)

 

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Hôm nay Giáo Hội bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì ? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh ? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.

 

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi ?

- Xã hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy ?

- Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không ?

 

III. LỜI CHÚA

 

1. Bài đọc I (Is 2,1-5) :

Vào hậu bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.

Tương lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị :

- Đó sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh : "Núi Nhà Chúa sẽ được xây trên đỉnh các núi". Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ biết tới Chúa và tôn thờ Ngài : "Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng : Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp".

- Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình : "Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa".

 

2. Đáp ca (Tv 121)

Tâm tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121 : "Ôi tôi sung sướng biết bao khi nghe nói : Chúng ta sẽ về nhà Chúa"

 

3. Bài Tin Mừng (Mt 24,37-44)

Đức Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều :

a/ Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe : thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục "Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ".

b/ Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau : có người sẽ "được đem đi" (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ "bị bỏ lại", nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý : một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là "bị đem đi" và "được để lại").

c/ Được tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Đức Giêsu kết luận : "Vậy các con phải sẵn sàng"

 

4. Bài đọc II (Rm 13,11-14)

Thánh Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi : "Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến". Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng :

a/ Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là "từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu". Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện.

b/ Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống : Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt ; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Đức Giêsu Kitô.

 

IV. GỢI Ý GIẢNG

 

1. Phải biết nuôi hy vọng

Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Countrytrong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ : ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.

Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa : Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời ! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Đấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Đấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.

Một chuyện khác : Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Đó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.

Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.

Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Điều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.

Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được : bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau… ; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác…

Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.

 

2. "Đây là lúc chúng ta phải thức dậy"

Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi ?

Đúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù :

- Chúng ta ngủ vì "những việc làm đen tối"

- Chúng ta ngủ vì cứ "chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng"

- Chúng ta ngủ vì lòng đầy "tranh chấp đố kỵ"

- Chúng ta ngủ vì chỉ "lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt".

Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng : "Đêm sắp tàn, ngày gần đến" và "Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo", vậy "Đây là lúc chúng ta phải thức dậy".

- "Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày"

- Hãy "cầm lấy khí giới của sự sáng" để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.

- Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để "mang lấy Đức Giêsu Kitô".

 

3. Hai người, hai số phận

"Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi".

Đức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe : Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, "ăn uống, dựng vợ gả chồng". Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện "ăn uống, dựng vợ gả chồng".

Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời… Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ "được tiếp nhận", kẻ nào mãi thờ ơ thì như "đàn gãy tai trâu" và sẽ "bị bỏ lại".

 

4. Chúa cấm con thất vọng

* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ĐHV 971)

Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Đọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng :

- "Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó".

- "Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện".

- "Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói ‘Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp"

- "Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói : "Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đàng…"

- "Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa" (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)

 

5. Thức dậy

Ở Mêhicô, giáo phận của Đức Cha Samuel Ruiz có tới 80 % giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau : "Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ (sleeping fish), nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa." Chính cái biến cố đó đã làm cho Đức Cha Samuel Ruiz "thức dậy". Từ đó trở đi, Ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.

Chuyện trên cho ta thấy hai điều : 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy ; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy : thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.

 

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến

Mùa Vọng, mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng tin tưởng nguyện xin.

1- Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý nhưng hết sức khó khăn này.

2- Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng nhau hơn.

3- Thánh Phaolô kêu gọi : / "Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi cọ ghen tương" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.

4- Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ : / "Anh em hãy canh thức / vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến". / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.

CT : Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn, để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin…

(Phần "Lời nguyện cho mọi người" của Năm A này được trích từ Báo Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)

 

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi :

. (Sau lời tung hô sau truyền phép) : "Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng con tưởng nhớ… đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này…"

. (Sau truyền phép, đoạn 4) : "Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này… Còn những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với Cha…"

- Trước Kinh Lạy Cha : Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây :

- Chúc bình an : Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.

- Trước lúc rước lễ : "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng đã đến xóa tội trần gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa".

 

VII. GIẢI TÁN

Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 575)

 

SẴN SÀNG CHO GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ

Hôm nay là Chúa Nhật đầu tiên Mùa Vọng, cũng là Chúa Nhật đầu tiên trong năm phụng vụ mới của Giáo Hội. Bài Tin Mừng trích từ Thánh Mátthêu, được cho là được viết cho Cộng đoàn Do Thái sau khi Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy.

  1. Tỉnh thức và cảnh giác

Cơn lũ xảy ra tại xã Hòa Thịnh, trong đợt lũ lịch sử tuần qua tại tỉnh Phú Yên cũ, thật bất ngờ và tàn khốc. Anh Thức, 47 tuổi, là lao động chính trong gia đình, phải đi làm thuê xa nhà, trên Khánh Sơn, Khánh Hòa. Ngoài việc nuôi cha mẹ lớn tuổi, anh còn nuôi hai cháu ngoại là con nhỏ của cô con gái đi làm ở Sài Gòn. Nghe tin lũ về, anh vội vã về nhà lo cho cha mẹ già và các cháu nhỏ. Trên đường về cùng người bạn, lội qua cầu Cháy thì bị lũ cuốn. Người bạn bám được vào cột điện nên được đội cứu hộ cứu sống, còn anh bị lũ cuốn trôi…Nước ngập quá sâu và lâu rút, mấy ngày sau lực lượng cứu hộ mới phát hiện thi thể anh. Người thân đến nhận diện và tiến hành khâm liệm vào quan tài. Sáng sớm khi nước rút, mọi người dùng xe công nông đưa quan tài đi chôn...[1]

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về sự cần thiết phải tỉnh thức và cảnh giác trong khi chờ đợi Con Người đến: “Quả thế, thời ông Nôê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy…Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”  (Mt 24: 37-39).

Xuyên suốt nhiều thế kỷ, con người luôn cố gắng xác định ngày giờ này để thỏa mãn tính hiếu kỳ hoặc trì hoãn việc sửa chữa lối sống để tiếp tục hưởng thụ cuộc đời theo ý muốn luôn thay đổi của mình. Tuy nhiên đó là chuyện vô ích. Đáp lại những toan tính của con người tìm biết về “thời gian cuối cùng, ngày tận thế”, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về thời điểm trở lại của Ngài một cách rõ ràng và dứt khoát: “Nhưng về ngày hay giờ đó, không ai biết cả, ngay cả các thiên sứ trên trời, hay là Người Con cũng vậy, chỉ một mình Cha biết mà thôi” (Mt 24: 36). Sự trở lại của Chúa Kitô là một mầu nhiệm tuyệt đối, vượt ngoài sự hiểu biết của loài người, ngay cả Chúa Giêsu trong tư cách con người cũng tuân phục ngày giờ của Chúa Cha.

Điều Chúa Giêsu muốn con người làm không phải là tỉnh thức, theo kiểu mất ngủ thể lý, nhưng là phải luôn cảnh giác và chú ý đến những gì đang diễn ra chung quanh vốn có thể khiến họ sao nhãng, quên mất “lẽ sống – raison d’être” của đời mình. Ngài muốn nói rằng tỉnh thức là sống trọn vẹn ý nghĩa của cái lẽ sống ấy ngay trong hiện tại chứ không phải cứ hoài niệm quá khứ hay lo lắng tương lai, vốn thực ra chỉ là qui về cái tôi vị kỷ giới hạn và đầy thói hư tật xấu.

Đức Giáo hoàng Phanxicô khuyến khích luôn cảnh giác và tỉnh thức, nghĩa là tránh sự sao lãng hoặc đầu hàng sự lười biếng bên trong, vì Chúa đến ngay cả trong những tình huống mà chúng ta không mong đợi Ngài đến: “Vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến…Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24: 42, 44). Nhiều khi chúng ta “khép kín trong chính mình với những lo lắng, phiền muộn, ngờ vực, sợ thất bại hoặc không được yêu thương. Điều này có thể dẫn đến việc chỉ tập trung vào bản thân và mong muốn tích lũy của cải, mang lại cho chúng ta cảm giác an toàn giả tạo. Điều cần thiết là phải cảnh giác và sẵn sàng, cả trong thời điểm tốt lẫn thời điểm xấu, phản ánh sự khôn ngoan của Kitô giáo. Vào cuối cuộc đời, Ngài sẽ gọi chúng ta đến để trả lẽ về những gì Ngài đã giao phó. Vì vậy, tỉnh thức cũng có nghĩa là có trách nhiệm, tức là bảo vệ và quản lý những của cải ấy một cách trung tín.” [2] Đức Giáo Hoàng khuyến khích chúng ta suy ngẫm về cuộc sống của mình và những gì chúng ta đã nhận được, như đức tin, gia đình, các mối tương quan và cộng đồng, và tự hỏi liệu chúng ta có trân trọng và đánh giá cao những món quà này từ Thiên Chúa hay không, hay chúng ta giữ tất cả chúng cho riêng mình mà không nghĩ đến người khác.

  1. Cảnh báo về sự bất ngờ

Chuyện gì đã xảy ra vào thời Nôê? Vào thời ấy, Thiên Chúa thấy “sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày” và Ngài quyết định: “Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời” (Stk 6: 5, 7). Tuy nhiên, Nôê là một người công chính “được đẹp lòng Chúa” (Stk 6: 9), và nhờ đó, ông cùng một số người thân và một vài loài vật đã được Thiên Chúa cứu.

Ngày nay, sự gian ác và tội lỗi chắc chắn vẫn còn hiện hữu ở khắp mọi nơi. Điển hình là những cuộc chiến và xung đột như tại Ukraine do Nga phát động, tại Sudan giữa Quân đội và Lực lượng RSF đẩy đất nước này vào khủng hoảng nhân đạo tồi tệ, hay sự bất ổn kéo dài tại Myanmar gây khủng hoảng và hàng triệu người di tản. Một ví dụ sát sườn khác, dù chúng ta thừa nhận hay không, là việc nhiều người trong chúng ta vẫn tiếp tục nuôi dưỡng sự gian ác và tội lỗi trong lòng, như phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa, thờ ngẫu tượng, vi phạm các giới răn về đạo đức và luân lý như bạo lực, ngoại tình, trộm cắp, tham lam, và ủng hộ các hành vi bị cấm như phá thai, trợ tử…[3]

Vào Chúa Nhật đầu tiên Mùa Vọng này, Chúa kêu gọi chúng ta từ bỏ đời sống tội lỗi. Điều này được minh họa rõ nét nhất qua lời mời gọi của Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma trong bài đọc thứ hai: “Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ănở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương” (Rm 13: 12-13).

Lời kêu gọi đổi mới này cũng được tiên tri Isaia nhắc lại trong bài đọc thứ nhất. Vị ngôn sứ kêu gọi mọi người hãy lên núi Chúa và bước đi trong ánh sáng của Chúa: “Đến đây, ta cùng lên núi Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Giacóp, để Ngài dạy ta biết lối của Ngài, và để ta bước theo đường Ngài chỉ vẽ…Hãy đến đây, nhà Giacóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Chúa soi đường!” (Is 2: 3).

Chúa Nhật đầu tiên Mùa Vọng này cũng nhắc nhở chúng ta về sự bất định của cuộc sống. Cuộc sống có thể kết thúc bất cứ lúc nào, vì vậy chúng ta cần nghiêm túc lắng nghe sứ điệp của Chúa, kêu gọi chúng ta sám hối, từ bỏ tội lỗi và đón nhận lòng nhân từ, tha thứ và yêu thương.

Cũng trong đợt lũ vừa qua, bà Cúc, 70 tuổi, trước đó bị tai biến, không được khỏe nên không muốn sơ tán, cứ nán lại nhà. Khi nước lũ lên nhanh, bà không kịp qua nhà hàng xóm bên cạnh, bị lũ cuốn trôi xuống phía dưới bếp, chết trong căn nhà ở thôn Phú Hữu. Đám tang mùa lũ của bà đầy thiếu thốn, không cờ, không trống, chỉ vài nén nhang và người thân đưa bà đi chôn cất. Nhưng khó lại càng thêm khó vì nhà bà bị chia cắt, ngập sâu trong nước. Vì vậy con cháu phải dùng hai chiếc thuyền nhỏ (sõng) ghép lại, đặt quan tài lên trên kéo đi. (đã dẫn).

Vào ngày giờ Chúa Giêsu trở lại, cuộc sống vẫn sẽ diễn ra “như thường lệ”, các hoạt động hằng ngày vẫn tiếp diễn. Thông điệp rất rõ ràng: mọi sự sẽ xảy ra một cách đột ngột bất ngờ, dẫn đến một kịch bản bí nhiệm: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (Mt 24: 40-41).

Sự khác biệt không nằm ở hành động bề ngoài, “như thường lệ”, mà ở sự sẵn sàng trong lòng. Do đó, lời khuyên cuối cùng là: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến…Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24: 42, 44)

  1. Sống sẵn sàng hằng ngày

Nếu chúng ta không biết ngày Chúa đến, thì cách duy nhất để luôn sẵn sàng là sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng: “Hãy sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng của bạn, và một ngày nào đó bạn sẽ thấy điều đó là đúng.” Đây là câu nói của Malachy McCourt, một diễn viên sân khấu, mà sau này Steve Jobs, đồng sáng lập công ty công nghệ Apple Inc, trích dẫn lại ở lễ tốt nghiệp đại học Stanford. Còn đối với người Kitô hữu, điều này cũng có nghĩa là sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, nhưng điều quan trọng hơn là sống trong tình trạng ân sủng của Thiên Chúa: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13: 14). Sự sẵn sàng gặp gỡ Chúa không phải là một hành động cấp tốc vào phút chót, mà là một nếp sống liên tục: đón nhận Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, kết hiệp với Chúa trong lời cầu nguyện hằng ngày, phục vụ Chúa nơi người lân cận.

Đây là cách chúng ta sống những khoảnh khắc đời mình như đang lãnh nhận các bí tích của Chúa và nương tựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6: 33-34).

Chúng ta được mời gọi sống trọn vẹn mỗi ngày trong đời mình, không quá lo lắng sợ hãi đến độ tê liệt tâm trí, không còn khả năng nhận ra giá trị nào vượt cao hơn kiếp người hữu hạn, chỉ còn biết chôn mình vào lối sống thực dụng. Chúng ta được mời gọi dồn hết nỗ lực vào việc tìm kiếm Nước Trời và sự công chính, ngay hôm nay.

Chúa Giêsu không yêu cầu chúng ta thức trắng đêm, nhưng tỉnh táo nhận thức về ý nghĩa của từng giây phút hiện tại mình đang sống, để có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Ngài tỏ mình ra trong những khoảnh khắc bất ngờ khi chúng ta dành thời gian cầu nguyện, giúp chúng ta nhận ra những giá trị mà mình mà không nhận ra khi quá bận rộn đến độ đánh mất sự quân bình cả xác và hồn.

Con người dễ bị mù tâm linh, không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, không nhận ra Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi chính mình mỗi ngày. ĐTC Phanxicô khuyến khích các tín hữu: “Hãy tự hỏi: tôi có ngoan ngoãn trước Chúa Thánh Thần không? Hay tôi theo đuổi những dự án của tôi, những ý tưởng của tôi mà không để cho mình được Chúa Thánh Thần uốn nắn, thay đổi? Cách thức sống đức tin của tôi có ngoan ngùy trước Chúa Thánh Thần không, hay cứng đầu, lạnh lùng trong cuộc sống? Tôi có vội vàng phán xét, chỉ tay và đóng sầm cửa vào mặt người khác, coi mình là nạn nhân của mọi người và mọi thứ không? Hay tôi chào đón sức mạnh sáng tạo hài hòa của Chúa Thánh Thần, “ân sủng hiệp nhất” mà Ngài đã thổi vào thế giới, và ơn tha thứ của Ngài vốn mang lại bình an. Và đến lượt tôi, tôi có tha thứ, thúc đẩy hòa giải và tạo ra sự hiệp thông không hay hay tôi luôn soi mói, chỉ nhìn thấy những khó khăn để ngồi lê đôi mách, để chia rẽ, để phá hoại? Chúng ta đừng lãng phí thời gian để chỉ trích người khác và tức giận với chính mình, nhưng chúng ta hãy nài xin Chúa Thánh Thần. Ngài có khả năng giải quyết những điều này.” [4]

Xin Chúa ban cho chúng con ân sủng và sức mạnh để chúng con sống mỗi ngày trong sự sẵn sàng tiến về sự sống vĩnh cửu. Xin dạy chúng con biết nhận ra khuôn mặt Chúa ở bất cứ nơi nào chúng con sống, làm việc và nơi bất cứ ai chúng con gặp gỡ.

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] https://tuoitre.vn/nhung-cuoc-tien-dua-day-nuoc-mat-o-vung-lu-20251122192742428.htm

[2] https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2022-08/pope-at-angelus-fear-not-but-be-vigilant.html

[3] https://www.catholicculture.org/culture/library/view.cfm?recnum=767

[4] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2023-05/chua-thanh-than-hoat-dong-trong-the-gioi-giao-hoi-va-trai-tim.html

 

Hy Vọng

Một trận động đất khủng khiếp đã chôn vùi 30,000 người ở Armenia vào năm 1989. Không lâu sau khi thảm họa xảy ra, một người cha chạy đến trường của đứa con và ông rụng rời nhìn thấy ngôi trường hoàn toàn sụp đổ.

Nhớ đến vị trí lớp học của đứa con là ở một góc trường, ông chạy đến đó và bắt đầu đào xới, với hai bàn tay ông lôi ra những mảng gạch vụn.

Các phụ huynh khác, đang đứng than khóc gần đó, tìm cách ngăn cản ông, họ nói, “Trễ quá rồi! Tất cả chúng nó đều chết hết! Trễ quá rồi!” Ngay cả cảnh sát cũng tìm cách can gián ông. Nhưng ông tiếp tục đào xới.

Ông đào trong 36 giờ đồng hồ không ngừng nghỉ. Vào giờ thứ 38 ông nghe có tiếng nói. Ông la lên, “Armand!”. Tiếng đứa con trai gọi lại, “Bố!”

Sau đó là một cuộc đối thoại lạ thường. Đứa con trai la lên từ đống gạch vụn: “Bố ơi! Có 14 đứa chúng con ở đây. Con nói tụi nó là đừng có lo. Con nói với tụi nó là bố sẽ đến.”

Khi người ta nghe tiếng của Armand, họ cùng với người cha đào xới. Trong vòng nhiều phút sau đó, tất cả 14 đứa con trai được cứu sống. Chúng được bình an, chỉ sợ hãi, đói và khát một chút.

Khi tòa nhà đổ xuống, căn phòng chúng ở thì sập xuống thành hình tam giác, giữ cho chúng khỏi bị đè bẹp (trích từ câu chuyện của Mark V. Hansen trong cuốn Chicken Soup for the Soul).

Có nhiều cách để nhìn vào câu chuyện lạ thường này. Tỉ như, chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của dân chúng và cảnh sát.

Khi họ nhìn thấy tòa nhà sụp đổ, họ mất tất cả hy vọng, họ không tin rằng bất cứ ai có thể sống sót.

Hoặc chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của người cha của Armand. Ông thấy tòa nhà vụn vỡ nhưng ông không mất hy vọng, ông tin rằng con ông có thể còn sống.

Sau cùng, chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của 14 đứa trẻ bị kẹt trong đống gạch vụn của tòa nhà.

Chúng không bao giờ mất hy vọng, phần lớn là vì niềm tin lì lợm của Armand, nó tin rằng cha của nó sẽ đến giải cứu.

Từ quan điểm của các học sinh, câu chuyện này là một minh họa tuyệt vời cho câu chuyện Mùa Vọng.

Trước khi Đức Giêsu giáng lâm, dân chúng Israel ở trong một hoàn cảnh tương tự như 14 học sinh.

Họ bị giam hãm trong một thế giới suy sụp về luân lý và tinh thần. Tất cả những gì họ có thể làm là chờ đợi trong tăm tối, hy vọng sẽ có sự cứu thoát.

Nhờ các ngôn sứ như Isaia, trong bài đọc một hôm nay, họ giữ vững đức tin. Ngôn sứ Isaia luôn nói với họ là hãy tin tưởng vào Cha trên trời, cũng như Armand luôn nói với chúng bạn rằng hãy tin tưởng vào cha của nó.

Nhiều người ngày nay cũng giống như các cha mẹ than khóc đứng chung quanh ngôi trường sụp đổ sau trận động đất.

Họ thấy thế giới chúng ta trong một tình trạng suy sụp về luân lý và tinh thần. Họ không nhìn thấy gì khác hơn là cả một núi tội ác, chiến tranh, ma túy, thối nát, và không tôn trọng mọi hình thức sự sống. Họ bỏ cuộc và chỉ đứng nhìn, than khóc cho hoàn cảnh.

Cũng có những người, giống như các học sinh, bị giam trong một núi gạch vụn. Quả thật họ trong một hoàn cảnh tuyệt vọng. Điều duy nhất đem cho họ hy vọng là đức tin lạ thường của những người, giống như em Armand.

Sau cùng, có những người như cha của Armand. Họ cũng nhìn thấy một đống suy sụp về luân lý và tinh thần, nhưng họ không bỏ cuộc.

Hãy để ý đến một thí dụ thật hay của một trong những người này.

Mẹ của Bs. Ben Carson lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nàn tồi tệ ở Detroit. Chồng bà từ bỏ bà khi Ben tám tuổi.

Bà thấy hai mẹ con bị kẹt trong một sự suy sụp về luân lý và tinh thần của thế giới chung quanh. Nhưng thay vì tuyệt vọng, bà bám víu lấy tia sáng đức tin nơi Thiên Chúa, sâu thẳm trong linh hồn của bà.

Tia sáng đức tin đó đã đem cho bà sức mạnh để làm ba công việc ít lương cùng một lúc để sống còn.

Trong hoàn cảnh đó, bà tìm chút thời giờ để khích lệ Ben, bà nói, “Con có thể trở nên bất cứ gì con muốn, nếu con tin rằng Chúa sẽ giúp con, nếu con tự giúp chính mình.”

Được khích lệ bởi lời của mẹ, Ben đã thi hành đúng như vậy.

Ngày nay, Bác Sĩ Ben Carson là một trong những bác sĩ não khoa hàng đầu quốc gia và cũng là tiếng nói hy vọng hàng đầu của ngành y khoa này.

Nói với các học sinh trung học ở trường cũ của ông, bác sĩ Ben nói:

Hãy nghĩ đến điều vĩ đại! Hãy đặt tầm nhìn thật cao như ngọn Everest. Không ai được sinh ra để thất bại.” (Câu chuyện Carson, trích từ Christopher News Notes, February 1993)

Câu chuyện của Armand và người cha, câu chuyện của Isaia và dân Israel, câu chuyện của Ben và người mẹ là những tia hy vọng cho thế giới ngày nay, là nơi nhiều người mất hy vọng.

Những câu chuyện này mời chúng ta hãy trở nên tiếng nói hy vọng cho thế giới ngày nay. Và nền tảng cho niềm hy vọng đó được tìm thấy nơi đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu – một niềm tin mà chúng ta tuyên xưng trong mỗi Thánh Lễ khi chúng ta cầu nguyện rằng:
Chúa Kitô đã chết!
Chúa Kitô đã sống lại!
Chúa Kitô sẽ lại đến.

Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng. Đó là đừng mất hy vọng.

Đó là hãy tin tưởng, dù có tăm tối và tuyệt vọng thế nào đi nữa.

Đó là về niềm tin nơi Chúa Giêsu, là người đã đến thế giới của chúng ta cách đây 2,000 năm, đã sống, đã chết, đã sống lại và đã hứa là sẽ trở lại vào cuối thời gian.

Và khi Đức Giêsu trở lại, chúng ta sẽ nghe cùng một tiếng nói mà tác giả sách Khải Huyền được nghe gần 2,000 năm trước khi ông viết:

Tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Ðây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. 

Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất" (Kh 21:4).

Đây là thông điệp hy vọng trong các bài đọc hôm nay.

Đây là thông điệp hy vọng mà chúng ta cử hành trong mùa Vọng.

Đây là thông điệp hy vọng mà chúng ta tuyên xưng cho toàn thế giới khi chúng ta nói:

Chúa Kitô đã chết!
Chúa Kitô đã sống lại!
Chúa Kitô sẽ lại đến.

Lm Mark Link, S.J.

Subcategories