3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

LÝ DO VUI MỪNG

Thứ Bảy Tuần 26 Thường Niên C

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”.

John Wesley - nhà truyền giáo người Anh - trước khi qua đời ở tuổi 88, đã ngồi dậy, nhìn những người thân yêu bên giường và nói, “Sao lại khóc, hãy vui mừng chứ? Điều tuyệt vời nhất cũng là lý do vui mừng nhất là Chúa ở cùng chúng ta!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nói rằng, “Chúa ở cùng chúng ta!” hay nói, “Tên anh em đã được ghi trên trời!” có chung một ý nghĩa. Đó là ‘lý do vui mừng’ mà cả Wesley và Chúa Giêsu nói với những người thân yêu.

Tin Mừng hôm nay cho biết, sau chuyến truyền giáo tốt đẹp, các môn đệ trở về, lòng đầy hân hoan, “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con!”. Tốt! Nhưng với Chúa Giêsu, có một điều gì đó quan trọng hơn: tên của họ được ghi trên trời! Ngài không phủ nhận sự thành công của họ, nhưng Ngài tập trung vào một điều lớn hơn - mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Đây mới là nguồn vui đích thực! Chính điều này làm cho công việc của họ có kết quả; và đó là lý do tại sao Ngài tiếp tục nói, “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. “Thành công thật không phải ở điều ta làm, mà ở mối hiệp thông yêu thương ta có với Chúa!” - C.S. Lewis.

Điều đáng mừng hơn là các môn đệ ‘đã thấy, đã nghe’ và nhất là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Thầy mình. Họ cảm nhận một mối gắn kết đặc biệt của Ngài với Chúa Cha và họ đã để mình ‘được lôi kéo’ vào mối quan hệ đó. Tin Mừng nhắc nhở chúng ta rằng, sự chia sẻ của chúng ta trong mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Chúa Cha mới là niềm vui và là kho tàng đích thực, và đó là ‘lý do vui mừng’ lớn nhất chứ không phải là thành công về những gì chúng ta làm.

Chính hồng ân chia sẻ mối quan hệ này cho phép chúng ta nhìn và nghe những điều mà nhiều tiên tri và vua chúa mong ước được thấy được nghe. Ngay cả khi công việc của chúng ta ngừng lại - thậm chí là thất bại - vì bất cứ lý do gì, dù là tuổi tác, sức khoẻ kém hay thiếu cơ hội… thì hồng ân chia sẻ mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha vẫn tồn tại. “Niềm vui được tìm thấy khi chúng ta nhận ra mình thuộc về ai!” - Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”. Chúa Giêsu không quan tâm những chiến thắng trước Satan hay những gì khác kể cả những chiến công hiển hách. Điều quan trọng với Ngài là “Chúa ở cùng chúng ta” và “chúng ta ở cùng Chúa” hôm nay và mai ngày. Niềm vui đích thực phát xuất từ mối tương quan sống động khi chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong từng hơi thở, từng bước đường đời. Và như thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta có lý do để vui mừng, vì kho tàng lớn nhất đã ở trong tay chúng ta. “Ở cùng Thiên Chúa biến những khoảnh khắc đời thường thành lễ hội; chiến thắng có thể phai nhạt, nhưng sự gần gũi của Chúa vẫn tồn tại!” - Madeleine L’Engle.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu, mọi chuyện đều là phụ tuỳ; và thành công của con trước hết và trên hết là sống thân tình với Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

KHƯỚC TỪ

Thứ Sáu Tuần 26 Thường Niên C

“Ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”.

“Điều quan trọng nhất mà cha mẹ có thể giúp trẻ sáng tạo là dạy chúng không sợ thất bại. Ngoài ra, cần học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, sẵn sàng chấp nhận chỉ trích và không ngại khác biệt! Đó là một trải nghiệm cần thiết - trải nghiệm bị khước từ!” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy thời Cựu Ước cũng như Tân Ước, không phải lúc nào những ai được Chúa sai đi cũng dễ dàng thành công! Họ phải “học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, chấp nhận chỉ trích và không ngại khác biệt” - nghĩa là phải học biết thế nào là ‘khước từ!’.

Dân Chúa đã từng “phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Người” - bài đọc một; họ nhìn nhận đã từng chạy theo các thần. Thánh Vịnh đáp ca cũng là một lời xưng thú của một dân đã từng ‘khước từ’ Thiên Chúa, “Lạy Chúa, để danh Ngài rạng rỡ, xin giải thoát chúng con!”.

Trong bối cảnh sai các môn đệ đi, Chúa Giêsu đề cập sự đối kháng này, Ngài chuẩn bị cho họ điều chắc chắn sẽ xảy đến với bất cứ ai trong tư cách sứ giả của ‘một Thiên Chúa bị khước từ!’. “Đừng sợ thất bại, nhưng hãy sợ không dám bắt đầu - vì bị khước từ đôi khi chỉ là dấu chỉ bạn đã dám thử!” - Roy T. Bennett. Chúa Giêsu không ngần ngại nói thật, “Ai nghe các con là nghe Thầy; và ai khước từ các con là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”.

Là những người được sai đi, không ít lần, chúng ta trải nghiệm sự ê chề này. Đức tin của bạn, việc làm của bạn, Phúc Âm mà bạn cố sức rao giảng bằng cả cuộc sống không phải lúc nào cũng được đón nhận. Chống lại bạn không chỉ là những người không biết Chúa, nhưng còn là những anh chị em trong gia đình, trong cộng đoàn; hoặc thậm chí, những người có trách nhiệm nhất trong công cuộc rao giảng - cho dù những gì bạn cống hiến là tốt đẹp nhất, thiết yếu nhất, những công việc mà không phải ai cũng muốn làm, dám làm và có khả năng làm! “Đừng lãng phí chính mình trong sự khước từ; đừng chỉ gầm gừ chống lại cái xấu, nhưng hãy hát lên vẻ đẹp của điều thiện hảo!” - Ralph Emerson.

Anh Chị em,

“Ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”. Nhân loại đã khước từ Con Thiên Chúa, “Người đã đến nhà của Người, và người nhà của Người đã không tiếp nhận Người”; sự ‘khước từ’ thê thảm nhất là cái chết thập giá. Vậy mà, sự từ chối Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài không là tiếng nói cuối cùng; tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mới là tiếng nói sau chót! Ngài có thể tác động mạnh mẽ để thực hiện kế hoạch cứu độ thông qua những trải nghiệm thất bại mà con người không bao giờ hiểu. Hãy nhìn vào hoa trái cứu độ của thập giá! Vì thế, những gì bạn và tôi cần là cứ trung thành với lời chứng của mình, bất kể nó được đón nhận thế nào. “Mỗi lần tôi nghĩ mình bị từ chối điều gì đó tốt, thì thật ra tôi đang được dẫn hướng đến một điều tốt hơn!” - Steve Maraboli.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con học chịu đựng khi bị cười nhạo, chấp nhận chỉ trích và không ngại khác biệt, miễn sao con mải làm vui lòng Chúa và những gì Chúa muốn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

CHUYỆN HAI SỐ PHẬN

Mối tương quan của con người với của cải vật chất tạo ra nhiều thử thách. Giàu có mang lại tiện nghi nhưng có thể làm tâm hồn chai lì, mù quáng trước khổ đau của người khác. Niềm tin Kitô giáo mời gọi chiến đấu vì đức tin, và tình yêu trắc ẩn, vượt qua những sự phù hoa trần gian.

  1. Vực Thẳm Vô Cảm

Tin Mừng theo Thánh Luca đã mở ra một bức tranh đầy tương phản giữa hai con người: một “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc16: 19) và “một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc16: 20-21). Tội lỗi của người phú hộ không phải là giàu có, mà là sự vô cảm và mù lòa tinh thần. Người phú hộ không ngược đãi nhưng cũng không hề “nhìn thấy” Ladarô ngay trước cửa. Đối với ông, Ladarô chỉ là cảnh vật vô hồn, trái tim hoàn toàn đóng kín trước người nghèo khổ.

Cái chết là điểm phân rẽ cho hai số phận. Ladarô, bị từ chối trên trần gian, được “thiên thần đem vào lòng ông Abraham” (Lc16: 22), ở trong sự an ủi và vinh quang của Nước Trời. Ngược lại, người phú hộ chết và xuống “dưới âm phủ, chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ” (Lc16: 23). Khoảng cách giữa hai người, vốn là sự vô cảm trên trần thế, giờ đây đã trở thành một “vực thẳm lớn đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16: 26). Vực thẳm này không phải do Thiên Chúa tạo ra, mà là kết quả tất yếu của những lựa chọn sống của chính con người. Người phú hộ đã tự mình đào vực thẳm ấy bằng sự phớt lờ, còn Ladarô đã vượt qua nó bằng sự khó nghèo, nhẫn nhục và đau khổ của ông.

Người phú hộ xuống âm phủ vì tội thờ ơ và thiếu bác ái. Thánh Gioan Kim ngôn chỉ ra rằng: “Ông ta không gặp bất hạnh nào, mọi điều tốt lành đều tuôn chảy đến với ông ta như một nguồn suối bất tận. Không có điều gì trái ý xảy ra với ông ta…“ngày ngày yến tiệc linh đình.” Cái kết được định sẵn cho ông ta, và thậm chí trước khi ông ta chết, do sự thờ ơ của ông ta; bởi vì ông ta không hề thương hại người nghèo ở cổng nhà mình hay bất cứ ai khác, chính ông ta đã thể hiện điều đó. Bởi vì nếu ông không thương hại người đàn ông liên tục nằm ở cổng nhà mình, trước mắt ông, người mà mỗi ngày, khi ông ra vào, ông hẳn phải nhìn thấy…thì liệu ông có bao giờ động lòng trắc ẩn đối với bất cứ người đau khổ nào mà ông tình cờ gặp không? Ông ta không hề động lòng với người đàn ông tội nghiệp trông thật đáng thương, gầy gò vì đói và bệnh tật triền miên. Những điều này đều không lay chuyển được con người tàn nhẫn ấy, bỏ mặc những người đang chết đói, và khép chặt lòng trắc ẩn” [1]. Tội của ông ta không phải là điều ông ta đã làm, mà là điều ông ta đã không làm. Dù có tất cả điều kiện tốt lành để làm điều thiện, người phú hộ lại chọn cách sống trong sự nhởn nhơ, thờ ơ và lãnh đạm.

Điều đáng nói là ngay cả trong địa ngục, người phú hộ vẫn chưa thực sự thay đổi. Ông ta van xin ông Abraham sai Ladarô, người mà ông ta đã phớt lờ trên trần gian, đến để làm dịu cơn khát của mình: “Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm” (Lc 16: 24). Ông ta vẫn coi Ladarô như một người đầy tớ, một công cụ để phục vụ lợi ích của mình. Con người ông không hề thay đổi, vì trong cuộc đời trần thế, ông đã chọn trở nên vô cảm như thế. Chính vì vậy, lời thỉnh cầu ấy đã bị từ chối, không phải vì Abraham tàn nhẫn, mà vì sự công thẳng của Thiên Chúa. Ông Abraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc16:25). Lời giải thích này nhấn mạnh rằng Thiên Chúa công bằng và Ngài không bỏ rơi những người nghèo khổ, những người bị áp bức.

Khi lời van xin cho chính mình bị từ chối, người phú hộ quay sang xin cho năm người anh em của mình. Ông ta vẫn tin rằng chỉ một phép lạ phi thường, “nếu có người từ cõi chết đến với họ,thì họ sẽ ăn năn sám hối” (Lc16:30), mới đủ để lay động lòng dạ của họ. Nhưng ông Abraham đáp lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đóMôsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin” (Lc16: 29-31).

Đây là lời cảnh báo mạnh mẽ: lòng tin không cần phép lạ. Thiên Chúa đã bày tỏ ý muốn qua Lời Ngài. Nếu ta không lắng nghe, sống tự mãn và vô cảm, không phép lạ nào có thể cứu rỗi.

  1. Vượt Qua Sự An Nhiên Tự Tại

Lời ngôn sứ Amốt từ thời Cựu Ước mang đến một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6:1). Giống như người phú hộ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, những người này không phải là những kẻ độc ác về bản chất. Tội của họ là tự mãn, sống xa hoa, hưởng thụ trong khi đồng bào của họ đang sống trong cảnh lầm than.

Amốt mô tả chi tiết lối sống của họ: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đavít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng” (Am 6: 4-6). Tiên tri Amốt đã vạch trần một cách thẳng thừng sự phè phỡn, coi thường luân lý của những “nhà lãnh đạo của dân đứng đầu các dân” (Am 6: 1).

Lời kết tội của tiên tri Amốt không chỉ lên án sự xa hoa, mà còn cả sự thiếu đồng cảm với nỗi đau của dân tộc. Tội lớn nhất của những người giàu có là “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!” (Am 6: 6). “Nhà Giuse” là hình ảnh của toàn thể dân Israel đang sống trong bất công. Giống như người phú hộ và Ladarô, những người này đã tạo ra một vực thẳm giữa họ và người cùng khổ, sống tách biệt khỏi hoàn cảnh đau thương của xã hội và không thể cảm nhận nỗi đau của đồng loại mình.

Lời cảnh báo của Amốt vẫn còn vang vọng trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã lên án “các lợi ích của giới quyền lực, muốn lợi dụng sự tự ti của dân chúng, để hình thành một nền văn hóa mới phục vụ giới tinh hoa, nhờ các phương tiện truyền thông và mạng internet. Chỉ những kẻ cơ hội chuyên đầu cơ tài chính và những kẻ bóc lột là được hưởng lợi, còn người nghèo thì luôn thua thiệt” (Thông điệp Fratelli Tutti, số 52), và nhấn mạnh rằng “Một người bị tấn công trên đường, thế mà nhiều người ngoảnh mặt bỏ đi như không thấy gì. Thường có những người lái xe gây tai nạn rồi bỏ chạy luôn. Việc quan trọng duy nhất đối với họ là tránh rắc rối; ai đó có phải chết vì lỗi của họ, họ cũng chẳng quan tâm. Nhưng đây là dấu chứng cho thấy có một lối sống phổ biến được tỏ lộ bằng nhiều cách thế, có khi tinh tế khó nhận biết hơn. Lại nữa, vì tất cả chúng ta đều tập trung lo cho nhu cầu của mình, nên khi gặp ai đó đang đau khổ thì chúng ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy bị quấy rầy, bởi lẽ chúng ta không muốn tốn thời giờ để dàn xếp những vấn đề của người khác. Đó là triệu chứng của một xã hội đang đau bệnh, chỉ lo vun đắp cho mình và quay lưng lại trước khổ đau của người khác” (Fratelli Tutti, số 65). Tiên tri Amốt đã tuyên bố rằng Thiên Chúa không bao giờ quên những việc làm này: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6: 7). Đây là lời cảnh báo về sự phán xét của Thiên Chúa, về sự sụp đổ tất yếu của một xã hội thiếu công bằng và tình yêu thương.

  1. Lời Mời Gọi Sống Đời Sống Công Chính

Nếu dụ ngôn về người phú hộ và Ladarô là một lời cảnh báo, thì lời của Thánh Phaolô gửi Timôthê lại là một hướng dẫn cụ thể để không rơi vào số phận ấy. Thánh Phaolô kêu gọi Timôthê, và mỗi Kitô hữu, hãy tránh xa: “mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 10) và trở nên “người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà” (1Tm 6: 11). Đây là những nhân đức đối lập hoàn toàn với lối sống phủ phê và vô cảm của người phú hộ. Cuộc sống của Kitô hữu là một cuộc chiến, không phải để tích lũy của cải, mà là để “thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời” (1Tm 6: 12).

Đây là cuộc chiến tinh thần, đòi hỏi kiên trì và can đảm. Thánh Phaolô nhắc nhở Timôthê về “lời tuyên xưng cao đẹp” trước mặt nhiều nhân chứng. Đó là lời cam kết sống trọn vẹn theo Tin Mừng, làm chứng cho tình yêu và sự thật của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô còn truyền cho Timôthê một sứ mệnh: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (1Tm 6: 14). Sứ mệnh này đòi hỏi chúng ta phải sống một đời sống mẫu mực, làm chứng cho Tin Mừng không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động, nhất là trong một thế giới bị ám ảnh bởi quyền lực và tiền bạc.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Tôi không phải là những thứ tôi sở hữu và những thành công tôi cố gắng đạt được; giá trị cuộc sống của tôi không phụ thuộc vào việc tôi có thể khoe ra bao nhiêu, cũng không giảm đi khi tôi thất bại và gục ngã…Những bất công, những bất bình đẳng, sự phân bổ không đồng đều các nguồn lực trên trái đất, sự lạm dụng của kẻ quyền lực đối với kẻ yếu, sự thờ ơ với tiếng kêu của người nghèo, vực thẳm mà chúng ta đào bới hàng ngày tạo ra sự kỳ thị…Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta dấn thân để hoán cải hữu hiệu từ thờ ơ sang cảm thông, từ lãng phí sang chia sẻ, từ ích kỷ đến tình yêu, từ chủ nghĩa cá nhân đến tình huynh đệ” [2].

Lời khuyên của Thánh Phaolô kết thúc với một lời ca tụng Thiên Chúa: “Chỉ mình Ngài là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Ngài danh dự và uy quyền đến muôn đời. Amen.” (1Tm 6:16).

Mọi thứ trên đời đều phù du. Chỉ Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Đời sống Kitô hữu là nhận ra sự thật này và đặt hy vọng vào Ngài. Sự sống đời đời không phải món quà ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ vì tình yêu và sự sẻ chia. Lựa chọn hôm nay quyết định nơi cư ngụ vĩnh cửu của chúng ta.

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] Discourse I. A homily delivered at antioch on the second day of the month, No. 6.  https://www.tertullian.org/fathers/chrysostom_four_discourses_01_discourse1.htm

[2] Thánh lễ kết thúc Đại hội Thánh Thể toàn quốc của Ý lần thứ 27 https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-09/dtc-phanxico-thanh-le-dai-hoi-thanh-the-toan-quoc-y-matera.html

BẠN ĐƯỜNG

Lễ Thiên Thần Bản Mệnh

“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn!”.

“Nếu Chúa sai chúng ta đi trên những con đường đầy đá, Ngài sẽ cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai chúng ta đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một người bạn đường! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời, Ngài ban Con Một!” - A. Maclaren.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho mỗi người. Để canh giữ hồn xác chúng ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa ban cho mỗi người một ‘bạn đường’, yêu quý chúng ta như một vệ sĩ vô hình.

“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi!” - bài đọc một; “Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường!” - Thánh Vịnh đáp ca; đặt một em bé giữa các môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói đến sự hiện diện của những người ‘bạn đường’ này, “Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy!” - Tin Mừng. “Các Thiên Thần Hộ Thủ là những người bạn trung tín nhất, vì họ ở với chúng ta ngày đêm, luôn luôn và ở mọi nơi. Chúng ta nên thường xuyên kêu cầu các ngài!” - Gioan Vianney.

Hãy tưởng tượng, mỗi người có một vệ sĩ đồng hành chăm sóc suốt đời! Gặp nguy khốn, chúng ta không đơn độc; gặp khó khăn, các ngài gỡ rối; khi bất an, các ngài thêm can đảm. Tuy nhiên, sự có mặt thường xuyên của ‘ai đó’ cũng có thể bất tiện, vì một ‘ai đó’ luôn nhìn thấy mọi hành vi, kể cả tội lỗi chúng ta phạm. Vậy mà, người bạn đó luôn tôn trọng; không phán xét, nhưng chỉ ra sức cản ngăn khi chúng ta làm điều trái. Vì tôn trọng tự do, không ít lần, các ngài bất lực! “Chỉ ở trên thiên đàng, chúng ta mới hiểu được bao nhiêu hiểm nguy đã được thiên thần gìn giữ, và bao nhiêu tình yêu các ngài đã tuôn đổ mà không ai nhìn thấy!” - Henry Newman.

Như vậy, nếu Thiên Chúa để chúng ta bước vào thung lũng bóng tối, Ngài thắp lên một ngọn đèn soi bước chân; nếu Ngài cho chúng ta vác thập giá nặng nề, chính Chúa Kitô cũng đặt vai mình kề sát vai mỗi người! Và nếu Ngài đòi hỏi chúng ta hiến dâng tất cả, chính Ngài cũng trao ban chính mình để bù đắp gấp trăm lần.

Anh Chị em,

“Này Ta sai thiên sứ đi trước con!”. Có thể nói, người ‘bạn đường’ trung tín nhất đời của chúng ta không chỉ là thiên thần bản mệnh, mà chính là Chúa Giêsu. Ngài không chỉ ‘đi trước’ để mở đường, mà còn ‘đi cùng’ để chia sẻ mọi gian truân. Nếu thiên thần hộ thủ là người bạn vô hình giữ gìn, thì Chúa Giêsu lại là Đấng hữu hình đồng hành, mang lấy cả sự chết để đưa chúng ta vào cõi sống. Vì thế, chiêm ngắm thiên thần bản mệnh, chúng ta càng xác tín hơn: tình yêu Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, luôn gởi đến một sự hiện diện dịu dàng và bền bỉ. “Thiên thần hộ thủ giữ gìn chúng ta, nhưng chính Đức Kitô đồng hành với chúng ta - Ngài đã mang lấy thập giá để không con đường nào còn quá cô đơn!” - A.W. Tozer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, thiên thần bản mệnh canh giữ con trong thầm lặng, nhưng chính Chúa đi trước và bên con. Xin nâng đỡ khi con yếu lòng, hầu con can đảm bước tiếp!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Chia sẻ

(Am 6,1a.4-7; 1 Tm 6,11-16; Lc 16,19-31)

Truyện kể: Nhà vua kia không có con nối dòng, đã niêm yết mời những bạn trẻ điền đơn dự xét để được nhận làm con nuôi trong hoàng tộc. Hai phẩm chất cần có là mến Chúa và yêu tha nhân. Có một cậu bé nhà nghèo muốn điền đơn, nhưng cậu không có thể, vì cậu ăn mặc rách rưới nghèo nàn. Được tin, cậu đã cố gắng làm việc chăm chỉ kiếm tiền mua bộ đồ mới và vội vã lên đường tìm dịp may để được nhận nuôi trong gia đình của vua. Tuy nhiên, đi dọc đường, khi gặp một người nghèo bên vệ đường đang chết lạnh. Anh bạn trẻ tỏ lòng cảm thương và tráo đổi bộ quần áo cho lão ăn xin. Thật khó khăn cho anh bạn trẻ này để được diện kiến nhà vua, vì bây giờ anh chỉ có bộ quần áo rách tả tơi. Vì đã đi được quãng xa, anh nghĩ phải cố gắng hoàn thành được hành trình. Khi anh tới dinh thự của nhà vua, mặc dù bị khinh rẻ và cười chê bởi các cận thần của vua, nhưng cuối cùng anh cũng được diện kiến vua. Anh thật ngạc nhiên thấy vua chính là người ăn xin bên vệ đường và đang mặc bộ quần áo mà anh đã tặng cho ông. Nhà vua bước xuống khỏi ngai vàng, ôm lấy anh bạn trẻ và nói: "Chào đón, hỡi con của ta."

Sự giàu sang phú túc là ân phúc Chúa ban. Người sang giàu hay nghèo hèn cũng chẳng khác gì nhau về sứ mệnh. Người giàu có nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo có nỗi đau của kẻ nghèo. Cách thế tìm kiếm và sử dụng của cải đời này mới là điều quan trọng. Người đời thường chúc nhau làm ăn được phát tài phát đạt, của cải đầy dư, an cư lạc nghiệp và gia đình hạnh phúc. Của cải sinh lợi là dấu hiệu được chúc phúc. Giàu có không phải là cái tội, cái tội do tâm ý con người. Tiên tri Amos đã lên tiếng cảnh cáo những người giàu sang phú quý tự kiêu đã hoang phí tài sản: Đây Chúa toàn năng phán: "Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion và tự kiêu trên núi Samaria." (Am 6,1a). Những người giầu có hay lạm dụng quyền thế để chèn ép những người bé nhỏ thấp kém. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa luôn đứng về phía những người nghèo bị đối xử bất công.

Người giàu được hưởng thụ mọi sự sung sướng trên đời. Một số người giàu còn dung dưỡng xác thịt thoả mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Họ được hưởng nếm mọi của ngon vật lạ. Sự thụ hưởng qúa độ sẽ làm cho thân xác ươn lười, tinh thần yếu đuối và con người hư hỏng. Amos vạch trần những thói đời xa hoa: "Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn." (Am 6,4). Chúng ta biết rằng không phải ăn nhiều, uống nhiều và hưởng thụ nhiều là hạnh phúc. Bất cứ cái gì cũng có cái giá phải trả. Ăn nhiều sẽ béo phì, uống quá độ sẽ say sưa, và hưởng thụ nhiều sẽ gây bệnh hoạn, yếu liệt. Thật vậy, chẳng béo bở gì khi ngày nào cũng có yến tiệc linh đình. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng cần có những bữa tiệc vui, những món ngon và rượu nồng để vui thoả lòng người.

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông phú hộ giàu có và người hành khất Lazarô nghèo đói để giúp chúng ta suy nghĩ về cách đối xử với đồng loại. Ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, còn Lazarô bệnh hoạn đói khổ ngồi cạnh cổng và chẳng ai đoái hoài. Một người thì sung sướng, tiệc tùng vui vẻ và hưởng phước cuộc đời. Một người cô thân cô thế, không nơi cậy dựa và chịu thiệt thòi khổ đau. Khi mãn cuộc đời dương thế, mỗi người đi theo một hướng. Kẻ được chúc phúc, người bị luận phạt. Vậy cuộc sống của người giàu và người nghèo có liên đới với nhau. Không ai có thể nói rằng tôi chỉ có nhiệm vụ lo cho chính tôi và người hàng xóm thì mặc kệ họ. Không phải thế, chúng ta sống là sống cùng, sống với và sống hỗ tương nhau. Cùng giúp nhau hoàn thành sứ mệnh của đời người.

Nhìn xem gương của người phú hộ, dụ ngôn không nói về cách thế làm giàu của ông. Cũng không nói ông phạm tội ức hiếp, khinh bỉ người nghèo hay làm thiệt hại ai điều gì. Ông xây tường cao vui hưởng cuộc sống trong sang giàu cho riêng mình. Có một điều là ông thiếu trách nhiệm với người hàng xóm. Mắt ông không nhìn thấy được sự khổ đau của người khác. Tâm ông không cảm được nỗi cô đơn sầu khổ của người bên cạnh. Ông đã không đoái hoài đến số phận đen đủi hẩm hiu của tha nhân. Kết quả của cuộc đời, khi phải đối diện với sư thật: "Abraham nói lại: 'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ'." (Lc 16,25). Phần thưởng không nằm ở sự giàu sang hay nghèo hèn, mà là thái độ đối với tiền của và trái tim biết cảm thông chia sẻ với tha nhân.

Sự giàu có tiền bạc của cải có thể làm chúng ta bị mù loà. Khi giầu có, chúng ta dễ quên mất sự nghèo khổ. Khi chúng ta đi ngang qua người ăn xin, tại sao chúng ta thường ngó sang hướng khác? Có lẽ vì chúng ta sợ tiếng nói của lương tâm làm phiền. Chúng ta giả vờ như không nhìn thấy họ. Thường thì người nghèo không van xin, nhưng họ có đôi mắt với cái nhìn rất tha thiết. Có khi người ăn xin giơ tay van nài và chúng ta phải rất tôn trọng khi bố thí. Đừng quăng ném tiền cắc vào cóng long của người ăn xin như là vất bỏ một vật gì. Thái độ cho đi quan trọng hơn quà được cho. Có lần Mẹ Terêxa đã nói: Bệnh ghê tởm nhất của thế giới hôm nay là cảm thấy bị bỏ rơi và sự dữ lớn nhất trong thế giới là thiếu vắng tình yêu và tỏ ra dửng dưng với những nhu cầu cần thiếu của tha nhân.

Chúng ta không cần đợi người chết hiện về để nói với chúng ta cách thế sống đạo. Lời Chúa dạy quá đủ để chúng ta học hỏi và thi hành. Ông phú hộ xin Abraham cho người đã chết về loan tin. Abraham đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài.' (Lc 16,29). Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần rằng dù chỉ một bát nước, chúng ta làm cho người nghèo vì danh Chúa, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Đôi khi chúng ta dửng dưng và nghĩ rằng dụ ngôn Chúa nói là để dành cho những người giàu sang phú quý. Còn chúng ta là những người nghèo, người lao động đầu tắt mặt tối và còn đang hưởng tiền trợ cấp của chính phủ, lấy đâu ra mà giúp đỡ người này người kia chứ. Biết rằng chúng ta không giàu có về tiền tài của cải, chúng ta vẫn có cái để chia sẻ mà. Chúng ta có một trái tim đấy ắp tình thương. Chia sẻ sự cảm thông, sự hiểu biết và tình người còn quan trọng hơn. Một nụ cười, một lời nói nhẹ nhàng, một thái độ khoan dung và sự cảm mến cũng đủ nguôi lòng người đang trong cơn sầu khổ.

Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là mộn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: "Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành." (1 Tm 6,11). Các nhân đức là những bông hoa thơm hương tô điểm cho đời sống đức tin. Các đức tính tốt làm cho đời sống đạo được trổ sinh hoa trái. Đức ái là cao trọng vì đức ái sẽ mở cửa tâm hồn giúp chúng ta đến với tha nhân. Tha nhân giúp chúng ta tiến tới trên con đường trọn lành. Không phải những người giàu có đưa chúng ta tới cửa thiên đàng, nhưng nhờ chính những người bé nhỏ, thấp kém, nghèo hèn và khổ đau. Họ là những ân nhân quý báu nhất của chúng ta trong cuộc hành trần thế này.

Bước vào cuộc đua, chúng ta không thể bỏ cuộc. Phải chiến đấu anh dũng cho đến cùng đường. Đừng khi nào nản chí về việc bác ái giúp người. Bao lâu Thiên Chúa còn ban ân huệ cho chúng ta, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội chia sẻ khả năng, thời giờ và của cải của chúng ta với người chung quanh. Người nghèo là hiện thân của Chúa Giêsu giữa dòng đời. Chúng ta đừng khinh rể họ, vì họ đang được chia sẻ sự nghèo hèn thiếu thốn của Chúa Kitô. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: "Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng." (1 Tm 6,12).

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con quá nhiều hồng ân. Nhiều khi chúng con cứ khư khư giữ lại làm giầu cho chính mình mà quên những nhu cầu cần thiết của anh chị em chung quanh. Xin cho con biết mở mắt, mở tai và mở rộng tâm hồn để cùng chia sẻ niềm vui với mọi người.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Subcategories