3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

NIỀM TIN

(Gr 31, 7-9; Dt. 5, 1-6; Mc 10, 46-52). 

Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở. Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày trở về. Nhất là những người bị đi lưu đầy, tù tội hay xa xứ đều mong có ngày được trở về quê hương. Sự trở về mang lại niềm vui lớn. Cuộc sống là một cuộc nối kết những chặng đường trở về. Chúng ta cùng đang lữ hành trên trần gian đầy chông gai thử thách. Mọi cuộc lữ hành cần có cùng đích để hướng tới. Mỗi người được sinh ra đời đều có cội có nguồn, có cha có mẹ, có quê hương xứ sở và có cùng đích để trở về. Cuộc sống vô thường và thay đổi, đổi thay mỗi ngày. Cũng như thời gian đắp đổi, có hợp có tan, có vui có buồn, có đi có về, có xuất có nhập, có sáng có tối và có sinh có tử. Không có ra đi thì cũng không có trở về. Sinh ký tử qui. Cuộc sống con người kết nối bởi những biến cố nhỏ to. Đời sống thiên nhiên cũng thế, vòng xoay bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và hai mùa mưa nắng.

Dân Do-thái nhiều năm bị lưu đầy xa xứ sắp được trở về quê hương. Trong niềm vui mừng hân hoan, tiên tri Giêrêmia đã xướng lên: Vì Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!(Gr 31, 7). Niềm vui ngày trở về là ngày vui của sự xum họp trong tự do và hạnh phúc. Người Do-thái được giải thoát khỏi làm nô lệ tôi đòi cho ngoại bang. Niềm mơ ước được giải phóng trở về quê hương là một niềm mong ước vượt qúa sức của họ. Thiên Chúa đã yêu thương an bài để mọi người cùng được trở về sống chung, không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tàn tật và người bất hạnh. 

Tác giả thơ gởi tín hữu Do-thái đã diễn tả sự yếu đuối của con người, dù là những người đã được tuyển chọn giữa đoàn dânChúng ta biết rằng sự xấu có mặt trong đời sống của con người mọi thời, xưa cũng như nay. Những bản năng thú tính kéo lôi con người trở về với cách sống hoang dã. Con người dễ rơi vào những dịp tội của sự ghen tương, thù ghét, oán hờn và gian tham. Sống buông thả theo bản năng thì rất dễ dàng như bèo trôi theo dòng nước. Đi vào con đường hẹp để tu tâm luyện tính đòi hỏi sự ý thức và luyện tập chuyên cần. Tu tâm là xa tránh dịp tội, cải thiện đời sống, giảm bớt tham sân si và tập tành các nhân đức. Muốn nên người tốt, chúng ta phải chuyên tâm tu luyện và thực hành điều thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động.

Bài phúc âm, kể câu chuyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù thành Giêricô. Anh bị mù cả hai mắt và phải đi ăn xin. Có lẽ nhiều lần anh đã lảng vảng nơi đám đông tụ họp để ăn xin và nghe ngóng. Anh đã nghe và nhận diện ra Đấng có đầy lòng thương xót. Anh biết Đấng đó có uy quyền chữa trị bệnh cho anh. Anh bị mù chứ không phải quáng gà hay loạn thị. Các bác sĩ không thể chữa trị những chứng bệnh như mù, điếc, câm và què từ bẩm sinh. Anh đã chạy đến xin Chúa chữa. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10, 51). Chúa đã chữa lành cho anh ta.

Chúa chữa lành cho anh mù và tức khắc anh nhìn thấyNgày nay xuất hiện nhiều thầy lang chữa bệnh, nhưng chỉ chữa những bệnh cảm cúm, đau nhức và phong thấp thường ngày. Thời tiết đổi thay, nay khỏe mai yếu. Hằng ngày người bệnh dùng cả thuốc bắc, thuốc nam, thuốc tây và thuốc bổ đủ loại, hiệu quả sớm muộn tùy duyên. Thật khó bề mà lường được nguyên nhân và hậu qủa của các hiện tượng chữa lành xảy ra. Như lời thánh Phaolô phát biểu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em. Thời nay có rất nhiều người cả tin, dễ tin và mê tín dị đoan. Những cảm giác, ảo tưởng, tâm sinh lý, ước muốn và môi trường chung quanh cuốn hút chúng ta vào những mê hoặc và giả tưởng. Chúng ta cần thức tỉnh tâm linh và trải nghiệm những diễn tiến thật sự trong thân xác mình. Chúa Giêsu nói với anh mù: Lòng tin của anh đã cứu anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cần một niềm tin tuyệt đối vào danh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Lạy Chúa, đức tin của chúng con rất hời hợt và nông cạn, xin thêm lòng tin cho chúng con. Đã nhiều lần chúng con mê hoặc chạy theo những lời mời gọi mơ hồ, giả trá, ảo tưởng và mê tín. Chúng con đã đặt niềm tin vào con người và phương tiện khoa học kỹ thuật trần gian hơn là đặt niềm tin nơi Chúa Kitô. Giờ đây, chúng con xin phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa nâng đỡ phù trì.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

HỒNG ÂN TUYỆT VỜI

Người mù hành khất thành Giê-ri-khô có lòng khao khát thoát mù cách mãnh liệt. Vì thế, khi nghe biết có Chúa Giê-su đi ngang qua, anh liền van xin lớn tiếng: “Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi.” Dù người qua kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được ngọn lửa khao khát bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng van xin to hơn: “Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!”

Thế rồi, khi được biết Chúa Giê-su cho vời mình đến, anh vui mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị, gậy để đến với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mau mắn thưa ngay: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.”

Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh được thấy Chúa Giê-su, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu. Hạnh phúc dâng ngập tâm hồn, anh vui mừng khôn xiết. Thiết tưởng trên đời không có hạnh phúc nào lớn hơn.

Hạnh phúc được khai mở con mắt tâm hồn

Sau một thời gian dài sống trong tăm tối, u buồn, lầm than, khốn khổ… thì người mù thành Giê-ri-khô mới có diễm phúc được Chúa Giê-su mở mắt cho thấy những sự vật trên đời.

Còn chúng ta, chúng ta được may mắn triệu lần hơn, vì ngay từ lúc ấu thơ, sau khi chào đời chẳng bao lâu, chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt thân yêu của cha mẹ anh chị em họ hàng, thấy được bầu trời huy hoàng rực rỡ, thấy được muôn kỳ quan rất tuyệt vời trong vũ trụ…

Bên cạnh hồng phúc nầy, chúng ta còn được hạnh phúc lớn hơn, đó là được Chúa khai mở con mắt tâm hồn để nhận biết có một người Cha đầy quyền năng và rất nhân từ hằng yêu thương ta là Thiên Chúa Cha; nhận biết Chúa Giê-su là Đấng yêu thương ta đến nỗi gánh lấy tội lỗi và nộp mình chịu chết thay cho ta, nhờ đó, chúng ta được thoát khỏi án phạt đời đời và được lên thiên đàng vinh hiển; nhận biết Chúa Thánh Thần là Thầy dạy tuyệt vời ban tặng cho chúng ta những điều khôn ngoan Ngài mang từ trời xuống; nhận biết mình có quê thật là thiên đàng Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta từ thuở tạo thiên lập địa…

Được Chúa Cha mở mắt cho thấy những sự thật tuyệt vời nầy là một hồng ân vô cùng lớn lao, không gì sánh được.

Chúa Giê-su cho rằng đây là hồng phúc rất cao quý mà ngay cả những vị ngôn sứ vĩ đại thời xưa như I-sai-a, Ê-li-a, Giê-rê-mi-a… hay các vị vua danh tiếng như Đa-vít, Sa-lô-mon… cũng không nhận được. Ngài nói: “Phúc thay mắt nào được thấy những điều các con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều vị ngôn sứ và vua chúa đã muốn thấy những điều các con thấy, mà chẳng được thấy, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe” (Lc 10, 24).

Hồng ân nầy lớn lao đến nỗi Chúa Giê-su tỏ ra hân hoan vui sướng và cất lời tạ ơn Chúa Cha đã ưu ái ban tặng cho chúng ta. Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều nầy, nhưng đã tỏ cho những người bé mọn” (Lc 10, 21).

Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con đôi mắt phần xác để nhìn ngắm những điều kỳ diệu trên đời và nhất là Chúa đã rộng thương mở mắt tâm hồn để chúng con nhận biết những sự thật tuyệt vời về Thiên Chúa, về cuộc sống đời sau.

Xin cho chúng con sống xứng đáng với hồng ân Chúa ban và cố gắng dẫn đưa nhiều người đến với Chúa để họ cũng được Chúa ban cho diễm phúc nầy. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Mác-cô 10, 46-52

46 Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê.47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! “48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! “49 Đức Giê-su đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây! ” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy! “50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su.51 Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh? ” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”52 Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! ” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

 

HÃY LÀ NGƯỜI PHỤC VỤ

Ở đời này, ai cũng muốn những gì tốt nhất cho mình hoặc cho con cái của mình. Người ta muốn có địa vị, quyền cao chức trọng và được người khác kính nể, phục vụ mình. Điều này dĩ nhiên không xấu, nhưng liệu chúng ta có đủ khả năng đảm nhận nhiệm vụ đó không? Bởi vì ngồi ở địa vị “lãnh đạo” thôi thì chưa đủ để trở thành “hiền nhân quân tử”, mà còn phải tận tâm gánh vác trách nhiệm với tất cả sức lực và khả năng, sống chết với sứ mạng. Các môn đệ xưa kia của Chúa Giêsu cũng không phải ngoại lệ. Các ông cũng ham muốn ngồi chỗ tốt, làm “công hầu khanh tướng” trong Nước Chúa .

  1. Thật là cả gan!

Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây” (Mc 10:35). Đây là những lời rào đón trước sau của Giacôbê và Gioan với Chúa Giêsu. Những lời này cho thấy Giacôbê và Gioan hoàn toàn nhận thức rõ ràng về những gì hai ông muốn có và đang chuẩn bị nói ra. Hai ông hẳn chưa mường tượng được phản ứng của Thầy mình, nhưng chắc chắn hai ông đã hình dung ra những phản ứng của các đồng môn. Những mong muốn kín đáo cần phải được che đậy, giữ trong bí mật. Chính vì thế hai ông cảm thấy cần phải đề cập vấn đề một cách bóng gió, có phần dè chừng như vậy. Nhưng cũng chính vì vậy mà Chúa Giêsu buộc hai ông phải nói rõ ra: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Bây giờ là lúc họ cần phải nói “huỵch toẹt”, không giữ gìn ý tứ gì nữa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37).

Hai ông thật là cả gan! Sự cả gan này có thể được coi là bằng chứng của niềm hy vọng vào Chúa Giêsu, mà theo suy nghĩ của hai anh em ông, là Đấng sớm muộn sẽ khôi phục vương triều Đavít vinh quang thuở xưa. Giacôbê và Gioan muốn ở bên hữu và bên tả Chúa Giêsu trong vinh quang của Ngài, trong Vương quốc của Ngài. Chỉ vậy thôi! Các ông là những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, thậm chí là hai trong ba người bạn gần gũi nhất của Chúa Giêsu, nhưng vẫn chưa hiểu gì về kế hoạch của Thầy mình. Họ tưởng rằng Chúa Giêsu sắp tổ chức một vương quốc trên trần thế này, và đã đến lúc tranh thủ giành trước những địa vị tầm cỡ nào đó!

Đây thật là một khoảnh khắc hiếm hoi trong Tin Mừng khi bản tính tranh giành hơn thua của con người lộ ra một cách trần trụi như vậy. Quả thực, việc tranh giành này diễn ra ngay sau lần thứ ba Chúa Giêsu long trọng tiên báo cuộc khổ nạn của Ngài: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn và giết chết Ngài. Ba ngày sau, Ngài sẽ sống lại” (Mc 10:33-34).

Ngay trong lần thứ hai Chúa Giêsu báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết chết, Ngài sẽ sống lại Thánh sử Máccô nói rất rõ: “Nhưng các ông không hiểu lời đócác ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9:31- 34).

Có lẽ hai anh em ông suy tính rằng những địa vị lớn lao cần phải có sự liên kết chặt chẽ với quyền lực của Vị Thầy đầy quyền năng, một gắn kết toàn diện vì lợi ích tương lai. Lời yêu cầu của hai anh em ông cũng có thể dựa trên lời hứa: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm…” (Mc 10:28). Điều này còn rõ hơn trong Tin Mừng Thánh Mátthêu: “Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel” (Mt 19, 28).

Nhưng đối với Chúa Giêsu thì tòa xét xử, hay ghế ngồi của quan chức nơi trần gian, không xác định địa vị cao thấp trong Nước Trời, và đó không phải là việc của Ngài: “Việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho” (Mc 10:40). Qua lời này, Chúa Giêsu mặc khải ý nghĩa trọn vẹn về con đường của Ngài, về cuộc hành trình lên Giêrusalem mà Ngài đang thực hiện, vốn tạo nên bối cảnh của câu chuyện hiện tại. Đó không chỉ là một vấn đề với các môn đệ đang theo Ngài mà còn đối với chính Ngài: tự do chấp nhận tiến tới Cuộc Khổ Nạn và phó thác chính mình vào Thiên Chúa Cha với niềm tin tưởng trọn vẹn. 

  1. Lời cảnh báo cho chúng ta, những môn đệ hôm qua và hôm nay

Dẫu sao Chúa Giêsu cũng cảnh báo ý định của anh em nhà Giêbêđê khi họ thúc giục Ngài thực hiện mong muốn của họ, vì nó bộc lộ thói tranh giành địa vị “ăn trên ngồi trước” hơn những người khác: “Giữa anh em thì không được như vậy” (Mc 10:43).

Lời cảnh báo được gửi đến tất cả các môn đệ của ngày hôm qua và ngày hôm nay. Mong muốn thống trị người khác hoàn toàn không phải là đặc quyền của Giacôbê, Gioan và những ai muốn theo Chúa Kitô. Dù mọi quyền hành hợp pháp đều đến từ chính Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu khẳng định trước mặt Philatô sau này: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11) nhưng Chúa Giêsu cũng cảnh báo chống lại ảo tưởng nhìn thấy nơi Ngài một Đấng Cứu Thế đánh đuổi người La Mã ra khỏi Israel, giải phóng dân Do thái, thiết lập triều đại của Ngài theo cách “thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân” (Mc 10:42). Giấc mơ cố hữu về một chế độ chính trị thần quyền, do Giáo hội nắm giữ, vẫn còn là một cám dỗ đối với nhiều tín hữu hôm nay. Lời Chúa Giêsu vẫn mãi là một thử thách với những ai muốn bước theo Ngài: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). 

  1. Hạ mình đến chết trên thập giá

Đối với Chúa Kitô, việc sử dụng quyền lực đúng đắn là phục vụ người khác. Việc phục vụ của Chúa Kitô đi xa đến độ hạ mình xuống thành thân phận nô lệ mà Thánh Phaolô mô tả dưới ánh sáng Thập Giá: “Ngài hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philíp 2, 7-8).

Đó là việc hủy diệt chính mình cho đến khi không còn lại gì, “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Như vậy, con đường dẫn Chúa Giêsu đến vinh quang trên toàn Vũ trụ là con đường nhục nhã của thập giá và cái chết mà Ngài tự chấp nhận theo Thánh Ý Chúa Cha: “Chén Thầy sắp uống…phép rửa Thầy sắp chịu” (Mc 10:39). Do đó người theo Chúa Kitô “một khi cùng chịu đau khổ với Ngài, được thông phần đau khổ của Ngài…cũng được thông phần vinh quang của Ngài” (Rm 8:17).

Con đường để đạt tới “chỗ ngồi bên tả bên hữu” Chúa Kitô chính là những Thập Giá mỗi ngày mà những ai bước theo Ngài cần sẵn lòng chấp nhận và thậm chí mộ mến. Những Thập Giá mỗi ngày đó, dù muốn dù không, là điều không tránh khỏi, và dành cho những môn đệ của Chúa Giêsu, giống như thập giá dành cho hai tên trộm cướp: “Bên cạnh Ngài, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái” (Mc 5:27). Chỉ khác một điều, liệu chúng ta có như người trộm lành, trong đau khổ chết chóc trên thập giá, nhận ra phận tội lỗi của mình: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.  Chứ ông này đâu có làm điều gì trái đâu!” (Lc 23:41), biết tin tưởng vào Đấng chịu đóng đinh và kêu lên: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42). Đây mới đích thực là chỗ ngồi bên hữu và bên tả Con Người trong giờ Thương Khó vinh hiển của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã bảo hai anh em nhà Giêbêđê: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38).

Chén, đối với các ngôn sứ, không chỉ là biểu tượng của đau khổ, mà là “chén lôi đình, chén nồng choáng váng” dành cho dân tội lỗi, như tiên tri Isaia đã kêu lên: “Thức dậy, thức dậy đi, đứng lên nào, Giêrusalem hỡi! Từ tay Chúa, ngươi đã nhận, đã uống chén lôi đình, ngươi đã cạn chén nồng choáng váng” (Is 51,17). Đó là chén đích đáng dành cho dân tội lỗi mà Chúa Giêsu sẽ uống! Chúa Giêsu đang nói đến một huyền nhiệm, đó là cái chết, một cái chết trong bạo lực, bất công, khủng khiếp của một Đấng vô tội, nhưng lại là “giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).

Nhưng hai môn đệ tự tin chắc chắn: “Các ông đáp: Thưa được” (Mc 10:39). Các ông không chùn bước, miễn là đạt được mục đích, là tham gia vào quyền lực của Đấng Mêsia. Các ông vẫn tin rằng người ta vào Nước Thiên Chúa như khải hoàn bước vào một tòa thành; rằng bước theo Chúa Giêsu là chinh phục được những vùng đất và có quyền lực như những chiến lợi phẩm.

Một lần nữa, Chúa Giêsu lại kiên trì và hiền từ giải thích: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10: 45). Và chuẩn mực đó chiếu sáng những gì Ngài đang thực hiện trong hiện tại và soi tỏ những gì các môn đệ của Ngài sẽ làm theo Ngài trong tương lai. Hai anh em Giacôbê và Gioan sẽ theo Chúa Giêsu trên con đường phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người, và họ cũng sẽ sẵn lòng chấp nhận cái chết. Tất cả chúng ta cũng vậy khi giờ đến (Ga 17:1). Đó là con đường mà sớm hay muộn tất cả mọi người theo Chúa Kitô đều bước vào, nhưng không phải bước vào cõi chết tăm tối phi lý và vô nghĩa mà bước vào sự sống đời đời với Đấng Phục Sinh, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4: 14-16).

Phêrô Phạm Văn Trung

Tôi đang làm chứng hay phản chứng về đạo?

Một linh mục làm công tác truyền giáo lâu năm đã nhận định rằng Giáo Hội Công giáo Việt Nam chỉ thành công trong việc truyền giáo qua con đường hôn nhân mà thôi. Quả là không sai. Không cần phải nói đâu xa, ngay trong các xứ đạo, ta thấy tuyệt đại đa số những người theo đạo chủ yếu là để lấy vợ lấy chồng, còn những người theo đạo vì yêu mến đạo, yêu mến những người có đạo là rất ít. Vì thế số người Công giáo hằng năm tăng lên là không nhiều. Vậy đâu là nguyên nhân? Thiết nghĩ có hai nguyên nhân chính.

– Nguyên nhân thứ nhất là vì người Công giáo chưa ý thức việc truyền giáo và cầu nguyện cho việc truyền giáo.

Một số người Việt ở hải ngoại có nhận xét rất chí lý: “Người Công Giáo Việt Nam mới chỉ giữ đạo, chứ chưa ý thức truyền đạo?” Thực tế cho thấy điều này. Nhiều người Công giáo vẫn coi việc truyền giáo là việc của người khác, của các linh mục, các tu sĩ, hoặc các tác viên loan báo Tin Mừng, chứ không phải là việc của mình; truyền giáo là việc của các tổ chức này, đoàn hội kia, chứ không phải việc của gia đình mình. Bởi đó, họ không quan tâm đến việc nói cho người khác biết về Chúa, về đạo.

Bằng chứng là trong các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với anh chị em lương dân, người Công giáo chúng ta thường rất ít nói, hoặc không bao giờ nói về Chúa, về đạo giáo của mình. Nội dung của các cuộc trò chuyện hầu như chỉ xoay quanh chuyện cơm áo gạo tiền, xe cộ, đất đai nhà cửa, công việc làm ăn buôn bán, chuyện học hành của con cái, chuyện bệnh tật hay tai nạn của người này người nọ, hoặc chuyện vợ chồng con cái của người nọ người kia, có khi là những câu chuyện trên phim ảnh (chuyện phim Cô Dâu Tám Tuổi chẳng hạn…). Anh chị em thử nghĩ coi có đúng không? Quá đúng luôn! Có người tám hết giờ này qua giờ khác với đủ thứ chuyện trên dưới đất, trừ chuyện Chúa, chuyện đạo. Dường như nhiều người vẫn bị “á khẩu” mỗi khi nghĩ đến việc nói về Chúa hay về đạo.

Nếu ta không nói về đạo về Chúa cho họ thì làm sao họ biết Chúa biết đạo, mà không biết thì làm sao họ yêu mến Chúa, yêu mến đạo. Không yêu mến Chúa, không yêu mến đạo thì làm sao họ theo đạo được. Dĩ nhiên, truyền đạo không nhất thiết nhắm đến việc lôi kéo người khác vào đạo. Điều quan trọng là giúp người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa, để người ta không còn sống như người vô thần, hoặc không còn “tin vơ thờ quấy” lung tung nữa.

– Nguyên nhân thứ hai là do nhiều người Công giáo sống phản chứng với Tin Mừng, tức là sống nghịch lại với những gì đạo dạy.

Ta vẫn thường nghe nhiều anh chị em lương dân ca thán rằng người có đạo mà sống như người vô đạo, thậm chí còn tệ hơn. Gia đình Công giáo mà thường xuyên sống bất hoà bất thuận, anh em xâu xé nhau, vợ chồng lăng nhăng, phá thai, ly dị, … Người Công giáo mà sống bất công, trộm cắp tham lam, buôn gian bán dối. Người Công giáo mà cho vay ăn lời cắt cổ, hoặc chính mình vay mà quỵt nợ không chịu trả. Người Công giáo mà rượu chè say sưa triền miên, cờ bạc số đề số đóm tối ngày… Người Công giáo mà sống ích kỷ hẹp hòi, sẵn sàng tranh chấp kiện tụng nhau chỉ vì một mét đất, hay chỉ vì một chút lợi lộc trong việc làm ăn.

Người Công giáo mà sống cố chấp, hận thù, ganh ghét. Đụng một tí là chửi lộn đánh lộn, là ăn thua đủ điều với người khác. Miệng thì rêu rao phải sống “bao dung”, nhưng khi đụng chuyện thì sẵn sàng “bung dao” với người khác. Lòng thì tỏ ra “thương xót”, nhưng hành vi cử chỉ thì làm cho người khác đau đến “thót xương”.

Tất cả những điều này vẫn đập vào mắt những người lương dân mỗi ngày, thử hỏi làm sao người ta có thiện cảm với đạo, và với người có đạo được. Cũng vì thấy nhiều người Công giáo sống phản chứng, sống không ra gì, thậm chí còn bết bát hơn là những người vô thần, nên một số anh chị em tân tòng và cả cựu tòng cũng bỏ đạo.

Đã có những người chồng tân tòng bỏ Chúa, bỏ Giáo hội vì người vợ và gia đình vợ sống quá tệ, tệ hơn cái kệ ocan gặp nước. Đã có những người vợ bổn đạo mới bỏ đạo vì chồng và gia đình chồng sống đạo không ra gì. Rồi cũng những cô con dâu mất đức tin chỉ vì bà mẹ chồng hà bá quá sức tưởng tượng: chì chiết đay nghiến chửi bới cô con dâu suốt ngày, v.v… Những chuyện đau lòng này vẫn diễn ra ngay trong các xứ đạo Công giáo đó thôi.

Vậy trong ngày Chúa Nhật truyền giáo của Năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo Xứ, chúng ta được mời gọi nghiêm túc nhìn lại đời sống của mình, xem chúng ta có ý thức truyền giáo và cầu nguyện cho việc truyền giáo hay không? Trong các cuộc gặp gỡ chuyện trò hằng ngày với những người lương dân, chúng ta có nói được tí nào về Chúa, hay về đạo không? Chúa và Giáo hội có chỗ đứng thế nào trong những bận tâm thường nhật của chúng ta? Chúng ta đang làm chứng tá tốt lành cho Chúa và Đạo thánh của Người, hay chúng ta đang sống phản chứng “hạng nặng”, khiến cho những người chung quanh có ác cảm với đạo và xa lánh đạo?

Nếu câu trả lời nghiêng về tiêu cực thì chúng ta được mời gọi thay đổi lối nghĩ và lối sống của mình, để Chúa và Giáo hội không còn bị hàm oan dưới cái nhìn của những người lương dân đang sống bên cạnh chúng ta, và để cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội có thể gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

LÀM ĐẦY TỚ

Hai anh em nhà Giêbêđê đã to gan đến xin Chúa Giêsu cho xí phần tả hữu khi Chúa được vinh quang, theo mộng tưởng của họ là Chúa sẽ làm vua. Không riêng gì hai vị nhà Giêbêđê vốn được đặt biệt danh là “con của sấm sét” (hay thiên lôi con) mà cả mười vị còn lại đã chưng hửng trước lời của thầy Giêsu: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”(Mc 10,39-40).

Cái lầm căn bản của cả nhóm đó là mong sẽ được có chức vị cao trọng ngoài xã hội, và dĩ nhiên sẽ được hưởng vinh hoa phú quý khi đi theo Thầy Giêsu. Vị tôn sư người Nagiarét đủ đầy quyền năng trong lời nói lẫn hành động hẳn phải là Đấng Thiên Sai, và chắc chắn Người sẽ giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ ngoại bang và sẽ được phong làm vua. Ngay cả trước khi Chúa về trời thì các ngài cũng còn hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cvtđ 1,6). Các vị lầm thì cũng dễ hiểu vì chưa được nghe lời khẳng định của Thầy trước mặt Philatô rằng Người là vua nhưng nước Người không thuộc về thế gian này (x.Ga 18,33-38).

Nơi con người, song hành với tính xã hội thì có đó bản năng thống trị. Ở giữa một tập thể, người ta có khuynh hướng tìm cách làm đầu kẻ khác. Dẫu sao đi nữa, làm đầu con tôm cũng hơn là làm đuôi con rồng. Dù lớn hay bé, khi đã được làm đầu thì không chỉ sẽ được kính trọng mà còn được cung phụng. Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy đây là một chủ đề thường xuyên trở thành nguyên cớ tranh luận giữa tập thể nhóm Mười Hai.

“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Lời khẳng định của Chúa Giêsu là một mệnh lệnh. Thế nhưng, thực tế minh chứng cho thấy chúng ta vẫn còn đặt để mệnh lệnh ấy trên giấy cách nào đó. Không riêng gì người theo Chúa, quý vị nắm trọng trách ngoài xã hội cũng khẳng định rằng chính quyền là đầy tớ nhân dân. Thế mà chuyện đầy tớ ăn trên ngồi trước, còn các ông chủ thì khép nép tìm các hạt cơm thừa; đầy tớ thì chễm chệ ghế salon nệm dày, sở hữu nhà cao cửa rộng còn ông chủ lại vất vưởng trong các căn chòi ọp ẹp…đã trở thành “chuyện tử tế” của một thời qua các thước phim của đạo diễn Trần Văn Thủy và hình như là của nhiều thời, nhiều nơi.

Có thể có nhiều lý do để biện minh về việc các ngài đầy tớ sở hữu cũng như sử dụng các phương tiện sang trọng. Các vị ấy cần có phương tiện thích ứng để làm đầy tớ tốt hơn, hữu hiệu hơn. Các vị ấy không chỉ cần có tác phong tương xứng, mà còn cần có những cái bên ngoài như y phục, đồ dùng, phương tiện đi lại…cách nào đó cho phù hợp với vai vế hay chức vụ đảm nhận mà thôi (noblesse oblige). Đây có thể là lời giải thích khá hữu lý và hợp tình. Thế thì đâu là dấu chỉ một người làm đầu đang thực sự làm đầy tớ?

Chúa Giêsu đã cho chúng ta một dấu chỉ bằng chính cuộc sống, cung cách hành động của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Có thể nói việc hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người là bằng chứng của việc làm đầy tớ. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x.Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x.Is 53,10-11).

Số người được làm đầu con rồng trong Giáo hội hay ngoài xã hội quả là không nhiều, nhưng số người làm đầu con tôm, tôm to, tôm vừa, tôm bé hay các loại tép thì đếm không xuể. Có một vài người thuộc quyền của chúng ta, dưới quyền của chúng ta, trong trách vụ của chúng ta thì chúng ta đang được đặt làm đầu. Đó là đàn chiên chúng ta đang chăn dắt, đó là con cái mà ta đã sinh thành, đó là nhóm học sinh ta đang dạy dỗ, đó là những người cô thân, bé phận ngoài xã hội hay trong Giáo hội, đó là những người yếu đuối, tội lỗi đang cần chúng ta nâng đỡ, dìu dắt, chỉ lối, dẫn đường…Như thế, có thể nói hầu hết chúng ta đã được đặt làm đầu. Đã làm đầu thì phải làm đầy tớ.

Để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).

Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thịnh vượng hay không, Giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không, chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ - tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này.

Lm  Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột.

Subcategories