3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

YÊU CHÚA YÊU NGƯỜI, HAI TRONG MỘT

Những ngày đầu tháng mười một, tháng cầu cho những người đã qua đời, là thời gian thích hợp để mọi tín hữu tập trung nhiều hơn vào nội tâm của mình, tự hỏi những câu hỏi căn bản của cuộc sống đời này và tìm kiếm câu trả lời từ Chúa Kitô. Đôi khi chúng ta quên mất mục đích sống của mình. Điều quan trọng bây giờ là phải quay trở lại, đặt mọi thứ về đúng nơi của chúng. Đây là lý do tại sao câu trả lời của Chúa Giêsu cho vị kinh sư là điều cần thiết đối với chúng ta. Đời sống Kitô hữu chỉ có một điều: “Điều răn đứng đầu là: …Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12:29-31). Yêu mến Thiên Chúa bằng cách yêu thương người lân cận và tình yêu dành cho người lân cận không thể tách rời khỏi tình yêu dành cho Thiên Chúa.

  1. Thiên Chúa là nguồn sức mạnh cho mọi hành động yêu thương

Chúng ta thường bị cám dỗ tách rời hai điều này. Thật vậy, chúng ta thường bị cám dỗ tin rằng chúng ta có thể yêu thương mà không cần đến Thiên Chúa, rằng chỉ cần tử tế, quảng đại với người khác là đủ, v.v. Chúng ta muốn sống một thứ tình yêu không có Thiên Chúa, tách rời khỏi Ngài. Đó là lý do tại sao có những Kitô hữu không dành thời gian để cầu nguyện, để suy niệm lời Chúa, dự lễ ngày Chúa nhật, xưng tội… Chúng ta tự bào chữa cho mình bằng cách nói rằng chúng ta đang làm những việc tốt lành, rằng chúng ta rất quảng đại, phục vụ hàng xóm của mình, tham gia những chuyến thăm từ thiện.

Nhưng liệu nếu chúng ta không múc lấy sức mạnh từ nguồn mạch là chính Thiên Chúa thì chúng ta có thể phục vụ người lân cận bằng cả trái tim, yêu thương họ như chính mình và như Chúa yêu họ không? Liệu lòng quảng đại của chúng ta có còn sức lực không khi những người được chúng ta giúp đỡ tỏ ra vô ơn? Liệu chúng ta có còn sức mạnh để yêu thương và phục vụ những người ghét chúng ta, những kẻ hủy hoại con cái, cha mẹ, gia đình và xã hội của chúng ta không? Liệu chúng ta còn có thể cầu nguyện cho những kẻ bách hại chúng ta, thật lòng mong cho họ có được những điều tốt đẹp nhất không? Nếu chúng ta không gắn kết với Thiên Chúa, nếu lời Ngài không đổi mới và tăng sức cho chúng ta mỗi ngày, làm sao chúng ta có thể mở lòng ra làm điều tốt lành cho những người chống đối chúng ta, thậm chí không xứng đáng vì đã làm hại chúng ta?

Nguồn mạch duy nhất của tình yêu và sự sống đích thực là Thiên Chúa, như bài đọc thứ nhất nhắc nhở: “Nghe đây, hỡi Israel! Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng” (Đnl 6:4-6). Chính Ngài là Đấng tiếp thêm sức mạnh cho những người vợ / chồng có thể chịu đựng và tiếp tục yêu thương, phục vụ người bạn đời chưa đủ tận tụy chung thủy, quan tâm đến hạnh phúc của gia đình, của con cái, vì: “Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; Thiên Chúa con thờ là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:3). Chính nơi Thiên Chúa, những người lao động tìm thấy sức mạnh để làm tốt công việc của mình dù lương chưa cao, dù tất cả những đồng nghiệp khác đều nản lòng. Người chủ xí nghiệp nào thấm nhuần Lời Chúa: “Anh em biết đấy: ai làm việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em, Ngài ngự trên trời và không thiên vị ai” (Ep 6: 8-9) thì sẽ trân trọng công sức công nhân viên của mình, đối xử công bằng với họ. Nếu chúng ta rời xa Thiên Chúa thì có nguy cơ tiền bạc, quyền lực, và thú vui ích kỷ trở thành nguồn cơn khiến chúng ta áp bức, bắt những người khác làm nô lệ phục vụ chúng ta. Chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn sức mạnh vô tận để hiến thân vì người khác: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho những người mình yêu” (Ga 15:13). Đấng tuyên bố như vậy đã tự mình tiến về Cuộc Khổ Nạn của Ngài và, vì vâng phục Chúa Cha, Ngài đã hiến mạng sống mình trên Thập Giá cho tất cả mọi người: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2:6-11). Chỉ khi nào tiếp xúc trực tiếp với tình yêu của Chúa Kitô, hiệp thông với cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, thì người ta mới kín múc được khả năng yêu thương như Chúa Kitô để sống yêu thương, hiến thân và phục vụ đến mức độ bác ái tột cùng: “Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng” ( Ga 13:1).

Vì vậy, chúng ta hãy đi tìm gặp Thiên Chúa, xây đắp mối tương quan bền chặt với Thiên Chúa. Ngài cần phải là đá tảng cho cuộc sống chúng ta tựa vào. Suy ngẫm Lời Ngài mỗi ngày, coi đó là kim chỉ nam, giúp chúng ta có được sức mạnh để yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa Giêsu.

  1. Yêu những người khác vì Chúa cũng yêu họ như yêu chúng ta

Yêu Chúa và yêu người khác! Không thể tách rời hai điếu đó. Chúng ta không thể yêu Chúa nhưng lại ghét người khác, cãi vã với họ, từ chối biểu lộ tình thân với họ. Tin yêu Thiên Chúa phải dẫn đến sự sống kết hiệp với Ngài. Điều này không thể chỉ đơn giản là đọc những bài kinh có sẵn hoặc “đi xem lễ” ngày Chủ nhật chỉ “cho phải phép”. Phải xem đến những hành động trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là sống theo lời Ngài, là áp dụng các điều răn của Ngài vào cuộc sống của chúng ta, và điều đó có nghĩa là sống tôn trọng người khác. Đây là quy luật vàng của mọi đời sống Kitô hữu. Chính Chúa Giêsu công bố quy luật đó: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12: 29-30).

 Nhưng chúng ta hiểu điều răn này của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có biết yêu mến Thiên Chúa nơi người khác không, vì: “Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:31). Trong xã hội ngày nay của chúng ta, nơi sự tiêu dùng và hưởng thụ là chuẩn mực, nơi người ta coi “sở hữu mọi thứ” là một đẳng cấp, nơi người ta cố đạt được thành công, thu nhập tiền của càng nhiều càng tốt bằng bất cứ cách nào, hoặc theo đuổi mọi thú vui cá nhân mà không cần quan tâm đến người nào khác, ngay cả sẵn sàng quên đi một vài trách nhiệm cộng đồng đơn giản. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đọc lại cuộc đời mình dưới ánh sáng của tình yêu đích thực mà chúng ta cần phải dành cho Thiên Chúa và cho người khác. Thiên Chúa sẽ thay đổi chúng ta trong tình yêu chúng ta dành cho nhau. Chúng ta có thể yêu người lân cận hay không là tùy thuộc vào việc chúng ta có yêu Chúa hay không. Mối tương quan của chúng ta với người lân cận có thể được đổi mới hoặc biến đổi nhờ tình yêu của Thiên Chúa.

Khi chúng ta nhìn vào những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta, cách nhìn của chúng ta về bản thân và những người chung quanh được đổi mới. Lời Chúa cho thấy rằng chúng ta đã nhiều lần quay lưng lại với Thiên Chúa, nhưng mỗi lần như vậy Thiên Chúa lại đề nghị chúng ta quay lại trong tình yêu của Ngài. Thiên Chúa không yêu thương chỉ với những lời nói có cánh mà không có hành động kèm theo. Con Thiên Chúa trở thành con người, hiến mạng sống cho chúng ta trong cái chết và sự phục sinh, đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho nhân loại, trở nên vị tư tế chuyển cầu cho những ai đáp lại lời mời gọi của Ngài. Bài đọc thứ hai hôm nay khẳng định: “Còn Chúa Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Hípri 7: 24-25). Vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta qua Chúa Giêsu, và chúng ta hãy nhìn vào người lân cận của chúng ta dưới ánh sáng tình yêu này của Thiên Chúa.

Vì vậy, khi chúng ta nhìn vào người đang ở trước mặt chúng ta, ví dụ người hàng xóm của chúng ta, chúng ta có thấy đó là người mà Con Thiên Chúa đã hiến mạng sống vì người đó không? Dù cá nhân chúng ta nghĩ gì về người đó, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến cái giá lớn lao mà Chúa Giêsu đã trả để cứu người ấy, chúng ta sẽ có khả năng xem lại sự phán xét thiếu căn cứ của mình.

 Đây là mối liên kết giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu những người lân cận. Làm sao chúng ta có thể không yêu những người mà Chúa yêu, mà Chúa biết người ấy rõ hơn chúng ta biết? Nhà điêu khắc Michelangelo được cho là đã nhìn thấy bức tượng Pietà trong khối đá cẩm thạch sần sùi. Thiên Chúa còn thấy rõ ràng hơn vẻ xinh đẹp trong những người mà chúng ta coi như những tảng đá thô kệch. Chúng ta chỉ có được đôi mắt của Ngài khi chúng ta được tình yêu của Ngài biến đổi. Khi không yêu thương người lân cận, chúng ta như nói với Chúa Kitô hy sinh chết trên thập giá rằng người ấy không đáng để Chúa cứu độ.

 Người ta không cần phải là một Kitô hữu mới có thể yêu thương. Tất nhiên rồi, nhưng niềm tin vào Thiên Chúa, qua con người cụ thể của Chúa Giêsu, giúp chúng ta nhận ra những con người quá bất toàn chung quanh chúng ta, không có gì đáng yêu, ngay cả kẻ thù của ta, đều do Chúa dựng nên, mà vì yêu thương Ngài đã chết cho họ, không khác gì Ngài đã chết cho chúng ta. Chính tình yêu vô cùng tận này đã thay đổi mối tương quan của chúng ta với Chúa và với những người chung quanh! Và tình yêu đó biến đổi các mối tương quan của chúng ta đến mức chúng ta muốn chia sẻ sự biến đổi này của mình nhờ Chúa Kitô: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Hípri 7: 26).

Phêrô Phạm Văn Trung

LẦN CHÓT XÓT THƯƠNG

“Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời!”.

Người ta thường thích những danh ngôn giúp họ ‘sống tốt’; mấy ai màng đến những danh ngôn giúp họ ‘chết tốt!’. Chẳng hạn, trước giờ lâm chung, thi sĩ Heinrich Heine nói, “Chúa sẽ tha thứ cho tôi. Đó là công việc của Ngài!”; hoặc khi Thomas Hooker sắp qua đời, một người bạn nói với ông, “Anh sẽ nhận được phần thưởng cho công sức mình!”, Hooker khiêm tốn đáp, “Không! Tôi sẽ nhận được ‘lần chót xót thương’ của Ngài!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật chí lý khi Thomas Hooker nói đến ‘lần chót xót thương’ Chúa dành cho mình. Sự thật này có một ý nghĩa sâu sắc trong ngày Giáo Hội nhớ đến Các Linh Hồn, những người đã chết trong ân sủng Chúa nhưng chưa sẵn sàng để ra trước nhan thánh Ngài.

Giáo lý nói đến Luyện Ngục, như là ‘lần chót xót thương’ Thiên Chúa dành cho các linh hồn; qua đó, “Linh hồn được thanh luyện - sau khi chết - đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào an hưởng niềm vui thiên đàng”. Thanh tẩy mọi ràng buộc đối với tội lỗi nơi một linh hồn đã qua đời là sự thể hiện tình yêu của Thiên Chúa vượt quá những gì con người có thể tưởng tượng. Thiên Chúa không muốn bất kỳ một linh hồn nào sẽ sống đời đời với Ngài vướng víu - dù chỉ là một ràng buộc nhỏ nhất - đối với tội lỗi. Sự thật là, mọi tội lỗi trên linh hồn - dẫu nhỏ nhất - cũng là lý do đủ để chúng ta bị loại khỏi thiên nhan. Vì thế, Luyện Ngục được xem như ‘lần chót xót thương’ của Thiên Chúa - một cơ hội - nhờ đó, linh hồn hoàn toàn tự do hiệp nhất với Ngài, tuyệt đối và trọn vẹn.

Luyện Ngục là quà tặng ân sủng - dù biết rằng - cuộc vượt qua cuối cùng cho tội lỗi chắc chắn sẽ rất đau đớn, một sự đau đớn cần thiết và đáng giá; bởi lẽ sau đó, chúng ta trở thành một vị thánh. “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa” - bài đọc một. Luyện Ngục là sự khôn ngoan của Thiên Chúa! Trong cuộc vượt qua này, các linh hồn đang rất cần chúng ta cầu thay nguyện giúp; họ không thể cầu cho mình, nhưng có thể cầu cho chúng ta. Và ngày kia, trên thiên đàng, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên khi biết được hiệu quả của ‘những gì tốt lành’ chúng ta đã sống cho “mầu nhiệm Các Thánh Thông Công”. Chúng ta sẽ nhận được lòng biết ơn từ rất nhiều anh chị em không quen biết; và niềm vui sẽ phớn phở khi hội ngộ với những người thân yêu, quen biết.

Anh Chị em,

“Ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời!”. Ý muốn của Chúa Cha thật tốt lành. Như vậy cuộc sống trần gian chỉ là tạm thời, cuộc sống vĩnh cửu với Thiên Chúa mới đáng kể. “Sinh ký, tử quy” là vậy! Nhưng “ký” vào đâu mới là vấn đề! “Ký” vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta chuẩn bị từng ngày, chọn lựa mỗi ngày, hầu có thể “quy” về Ngài từng giây phút đời mình; cùng lúc, chúng ta hướng về các linh hồn - những người đang đợi chờ ‘lần chót xót thương’ của Thiên Chúa - bằng những Thánh Lễ, những hy sinh, lời cầu nguyện của chúng ta “nhờ công nghiệp tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô”. Như vậy, với tất cả những gì bạn và tôi dành cho các linh hồn, những ‘đau đớn ngọt ngào cuối cùng’ cần thiết của họ sẽ dễ chịu hơn nhường nào!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết rằng, tha thứ là việc của Chúa, và luyện hình là ‘lần chót xót thương’ để các linh hồn và chúng con được Chúa xót thương đời đời!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

MỪNG LỄ CÁC THÁNH VÀ NHỮNG ƯỚC NGUYỆN

Nếu có ai hỏi: “Chúng ta phải làm gì để trở nên thánh thiện?”, thì câu trả lời thật rõ ràng là: Chúng ta phải làm theo những gì Đức Giêsu dạy trong Bài Giảng Trên Núi.

Trong một thế giới tục hóa như hiện nay, chính trị, truyền thông, các cơ chế kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo trở nên quá rối loạn, đến nỗi hóa thành: một trở ngại cho sự phát triển xã hội và nhân văn đích thực. Ngày nay, chúng ta không dễ dàng sống Các Mối Phúc, và mọi cố gắng sống như vậy sẽ bị nghi ngờ và bị chế giễu, nhưng, chúng ta đừng nản lòng, bởi vì, Thập Giá Đức Kitô vẫn là nguồn tăng triển và thánh hóa của chúng ta.

Ước gì qua Các Mối Phúc, chúng ta sẽ gặp thấy Thầy Chí Thánh, và khao khát đáp lại lời mời gọi phản chiếu chân dung của Thầy trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cho dẫu, những lời của Đức Giêsu rõ ràng đi ngược với cách người ta sống trong thế giới hôm nay. Thật vậy, ngay cả, dù chúng ta nhận thấy sứ điệp của Đức Giêsu đầy lôi cuốn, thì thế giới vẫn không ngừng đẩy chúng ta về một lối sống khác.

Ước gì chúng ta ý thức rằng: Các Mối Phúc không bao giờ lỗi thời, hay có tính nhượng bộ và thỏa hiệp, ngược lại, chúng vẫn quyết liệt và thách đố sự dấn thân của chúng ta. Tiến trình nên thánh chỉ có thể được thực hiện bằng Các Mối Phúc, và tiến trình này chỉ có thể được thành toàn viên mãn nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người sẽ đổ đầy trong chúng ta sức mạnh của Người, và giải phóng chúng ta khỏi sự yếu hèn, ích kỷ, tự mãn và kiêu ngạo.

Ước gì chúng ta không chấp nhận tình trạng xoàng xĩnh vật vờ, mong muốn một đời sống dễ dãi, vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Để sống đúng những giá trị của Tin Mừng, chúng ta không thể kỳ vọng rằng: mọi sự sẽ dễ dàng, vì sự ham hố quyền lực và những lợi ích thế gian thường cản lối chúng ta. Chính Đức Giêsu cảnh báo rằng: con đường mà Người đề nghị thì phải đi ngược dòng: vô số người đã và đang bị bách hại, chỉ vì họ muốn đấu tranh cho công lý, và vì họ nghiêm túc dấn thân cho Thiên Chúa và cho tha nhân.

Ước gì chúng ta biết sống mối phúc kiến tạo hòa bình, để đón nhận ngay cả những người kỳ cục, những người gây phiền hay khó tính, những người khắt khe lập dị, những người chúng ta không ưa không thích. Xây dựng hòa bình thật là một việc khó, bởi vì, nó đòi chúng ta phải có tâm trí thật cởi mở, vì đây không phải là chuyện tạo ra một sự đồng thuận trên giấy tờ, hay một sự dàn hòa tạm bợ cho một thiểu số hài lòng. Đây cũng không thể là chuyện cố gắng phớt lờ, hay coi nhẹ sự xung đột; trái lại, chúng ta phải thẳng thắn đối diện xung đột, giải quyết nó, bằng sự bình tâm, sáng tạo, nhạy cảm và khéo léo, để biến nó thành một mắt xích của một tiến trình mới.

Ước gì chúng ta biết lắng nghe lời Đức Giêsu dạy về Các Mối Phúc, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng. Ước gì chúng ta biết để cho những lời của Người làm xáo trộn chúng ta, thách đố chúng ta, và đòi hỏi chúng ta có một sự thay đổi thật sự trong lối sống của mình. Nếu chẳng vậy, thì những gì chúng ta thường hay khuyến khích nhau: “cố gắng nên thánh mỗi ngày”, sẽ vẫn… không gì khác hơn là… những lời nói sáo rỗng, những cụm từ rỗng không. Ước gì Chúa Thánh Thần soi sáng, và thêm sức mạnh để chúng ta dám sống theo sự thúc đẩy của Người, trên hành trình lội ngược dòng này. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Nếu chỉ còn

Tôi chọn bài hát “Nếu chỉ còn một ngày để sống” của Nhạc sĩ Hoài An với những ca từ gợi ý để suy niệm trong thánh lễ tại nghĩa trang tối nay.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, người đưa tôi về đến quê nhà.

Để tôi thăm làng xưa nguồn cội, cho tôi mơ, mơ tiếng Mẹ Cha.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, người cho tôi một khúc kinh cầu.

Người tôi thương êm ấm môi cười, cho con tôi bước đời yên vui.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta trả ơn cuộc đời.

Làm sao ta đền đáp bao người, nâng ta lên qua bước đời chênh vênh.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta chuộc hết lỗi lầm.

Làm sao ta thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, muộn màng không lời hối lỗi chân thành.

Buồn vì ai ta làm ai buồn, xin bao dung tha thứ vì nhau.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp.

Phải chăng ta có lúc vội vàng, nên ra đi chưa được bình an.

Cho tôi như bóng mây, lang thang qua cõi này.

Cho tôi được ngắm sao trên trời, giữa hương đồng cỏ nội.

Cho tôi như khúc ca, bay đi xa rất xa.

Cho tôi được cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người.

Cho tôi được sống trong tim người, bằng những lời ca.

Tối nay, chúng ta dâng lễ hiệp thông cầu nguyện cho anh chị em đang an nghỉ nơi Đất Thánh này. Không gian tĩnh mịch, trầm lắng và thánh thiện. Cảnh vắng lặng của một thế giới an bình. Khói hương quyện bay trên các phần mộ. Nhớ về các những người thân yêu đã khuất bóng.Những kỷ niệm lung linh nhập nhoà soi vào trí nhớ bao thân thương hình bóng những người đã an giấc ngàn thu.

Ngày 1/11, có lễ kính Các Thánh là những Đấng thuộc Giáo Hội vinh hiển trên thiên đàng. Ngày 2/11 là lễ nhớ Các Đẳng là những vị thuộc Giáo Hội thanh luyện. Chúng ta đang sống thuộc Giáo Hội lữ hành chiến đấu. Bây giờ, tôi và anh chị em đứng ở giữa, chưa đi lên mà cũng chưa xuống dưới. Cứ coi như tôi là gạch nối giữa hai nơi trong nguyện cầu, tưởng niệm. Rồi đây tôi sẽ thuộc về một trong hai cộng đoàn này.

Tháng 11, ngước lên cao, tôi khẩn xin Các Thánh cầu thay nguyện giúp; nhìn xuống dưới, tôi liên kết với Các Đẳng bằng kinh nguyện thánh lễ và việc lành phúc đức. Như vậy, tháng cầu hồn là tháng cử hành thực tại thánh, một liên hệ thánh của Giáo Hội hiệp thông.

Bài ca “Nếu chỉ còn” thay lời cho người đã ra đi nói lời tri ân với người đang sống: Cho tôi được cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người, bằng những lời ca.

Những người đã ra đi yên nghỉ trong lòng đất, họ cần điều gì nhất? Họ cần đến lòng thương xót Chúa. Họ cần chúng ta nhớ đến họ bằng tình yêu thương của trái tim. Họ muốn chúng ta đừng quên họ nhưng hãy nhớ đến họ bằng kinh nguyện và thánh lễ. Ông bà cha mẹ, những thân bằng quyến thuộc cần chúng ta cầu nguyện tưởng nhớ đến họ. Người đã khuất sống mãi trong trái tim tình yêu, trong lòng nhớ ơn thiết nghĩa của chúng ta. Giọt nước mắt khi người ta khóc, chính là những viên kim cương lấy từ trái tim để tặng cho người mình nhớ thương đã an nghỉ.

Tôi nhớ lời một ca khúc “Không Tên” của Nhạc sĩ Vũ Thành An: “Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa?”. Sống mà không được nhớ tới là sống trong lạnh lẽo của mộ sâu. Đau khổ nhất của người đang sống chính là cô đơn, là không được ai nhớ đến.Thiệt thòi lớn nhất của người đã chết là bị quên lãng. Người đã chết chẳng cần ăn mặc, không nói năng, không nổi niềm, không đi đứng. Họ đã bước vào cõi thinh lặng ngàn thu. Họ chỉ cần chúng ta nhớ đến và cầu nguyện. Họ muốn chúng ta cho họ những bông hoa tưởng nhớ, những nụ hoa cầu nguyện, những mật hoa bác ái, những hương hoa hy sinh.

Người Công Giáo được khuyến khích thực hiện những điều thiết thực, như xin Lễ, dự Lễ, đọc kinh cầu nguyện, làm việc lành phúc đức… để chuyển cầu cho những người đã ra đi mà còn đang vướng mắc một vài trở ngại nào đó khiến họ chưa hoàn toàn chia sẻ vinh quang và hạnh phúc với Thiên Chúa. “Cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý tưởng lành thánh” (2 Mcb 12, 46; GH, 50). Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ giúp họ, mà còn làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn” (GLCG, số 958). Những việc lành phúc đức cho chúng ta một cảm giác hạnh phúc và ý nghĩa bởi vì thân nhân của chúng ta đã và sẽ còn được tưởng nhớ đến mãi.

Bao nhiêu tư tưởng cao siêu, bao nhiêu câu chuyện yêu đương đẹp như thần thoại cũng đều gói gọn trong cỗ quan tài. Bao nhiêu khối óc vượt nhân thế, bao nhiêu tính toán siêu vời cũng vỏn vẹn trong chiếc quan tài. Mênh mông như cuộc đời sau cùng cũng im lặng trong lòng đất. “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”, ai cũng về với cát bụi thôi.Nghĩa trang là nơi an bình yên tĩnh cho mọi người.

Tháng 11, Giáo Hội mở kho tàng ân phúc của Thiên Chúa, tạo dịp để các tín hữu mở rộng tấm lòng hướng về người đã khuất. Các nguồn ân đại xá hay tiểu xá dành cho các linh hồn nơi luyện hình chính là những quà tặng của ân tình. Trao cho người đã khuất, dù chỉ là một món quà mọn cũng là vô giá, vì các linh hồn trong luyện hình giờ đây không thể làm được gì cho bản thân. Mầu nhiệm Giáo Hội thông công là một trong những mầu nhiệm đẹp của tình yêu.

Được sống và được yêu là điều hạnh phúc nhất. Sự sống là hồng ân Chúa ban. Và nếu chỉ còn một ngày để sống, tôi sẽ làm gì?

Lời ca ước mong: Xin đưa tôi về đến quê nhà để tôi thăm làng xưa nguồn cội, để tôi nghe tiếng nói của Mẹ Cha, của người thân yêu. Xin cho tôi một khúc kinh cầu, xin chuộc hết lỗi lầm để thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp. Đẹp vì hồng ân sự sống, đẹp vì tình người chan hòa, đẹp vì hiệp thông trong mầu nhiệm thánh lễ nối kết người đang sống và người đã an giấc ngàn thu.

Tối nay, bên những người thân yêu đang an nghỉ nơi đây, xin nói thay cho họ những lời này: Cho tôi được cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người, bằng những lời ca.

Giáo hội dành tháng 11 cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, nên tháng 11 là tháng của niềm hy vọng Phục sinh. Đây là thời gian mà mỗi khi thắp nén nhang trên phần mộ người chết, nhìn theo làn khói nhẹ toả bay ta cũng nâng tâm hồn lên tới Chúa là nguồn sự sống của mình.Và mỗi khi đặt bó hoa tươi trên phần mộ người thân yêu, ta thấy được mùa xuân vĩnh cửu đang bừng lên từ khắp những nấm mồ chung quanh.Quả thật: sự sống thay đổi chứ không mất đi. Chết là cửa để bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Chuyến đi đời đời ấy lại tùy thuộc vào những tích chứa, những công phúc đã lập trong cuộc sống tại thế này.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cứu chuộc con người. Nhờ lời bầu cử của Các Thánh trên trời, và lời cầu nguyện của người lành dưới thế, xin Chúa thương xót những tín hữu đang còn thanh luyện bằng tình thương mà Chúa đã ban cho họ là cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, để họ được sớm về hưởng nhan thánh Chúa. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Lễ tại Nghĩa Trang 2/11

Mù Thành Sáng , Sáng Hóa Mù

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 10, 46-52) trình thuật phép lạ Đức Giê-su chữa lành một người mù ở Giê-ri-khô. Anh tên là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Có một điều rất đáng lưu ý là khi anh kêu to lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” thì liền bị đám người Pha-ri-sêu quát nạt, bảo anh ta im đi. Đám người Pha-ri-sêu này là ai mà hống hách vậy?

Họ chính là nhóm người cùng với nhóm Xa-đốc bị thánh Gio-an Tẩy giả gọi là “rắn độc” (Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” – Mt 3, 7). Họ sợ Đức Giê-su có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Người nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền chiếm lĩnh cảm tình của cộng đồng. Hành động đó nào có khác chi nòi rắn độc!

Đáng lẽ đám người Pha-ri-sêu này (cùng với nhóm Xa-đốc) phải hiểu được rằng họ “… là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5, 1-3). Nhưng họ đã không làm thế – không muốn Đức Giê-su có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Người – mà còn muốn truyền nọc độc từ nơi họ sang người khác. Gọi họ là rắn độc là quá đúng. Trước những con rắn độc ấy, đáng lẽ anh mù phải sợ, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể – nói theo kiểu hiện đại – “dứt phép thông công” anh ngay lập tức, khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo và đời anh đã khốn khổ sẽ càng thêm khốn khổ. Nhưng anh đã không sợ hãi và càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Sự can đảm ấy của anh đã được Đức Giê-su chúc lành: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Và thế là “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.”

Chợt nhớ tới một lần khác, Đức Giê-su chữa lành cho một người mù bẩm sinh (Ga 9, 1-41). Cũng lại là đám người Pha-ri-sêu tra vấn, vặn hỏi bệnh nhân (kể cả cha mẹ anh ta nữa) đủ điều, và cuối cùng trục xuất anh ra khỏi hội đường (“dứt phép thông công” đấy!). Nghe tin ấy, Đức Giê-su gặp lại anh mù, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh hỏi lại:

“Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói:

“Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9, 35-38). Căn cứ trên sự kiện hiển nhiên đó, Đức Ki-tô khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9, 39). Lời nói này “chạm nọc” đám người Pha-ri-sêu, khiến họ “có tật thì giật mình”, liền ngớ người ra và hỏi lại: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” khiến “Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9, 40-41).

Rõ ràng Đức Ki-tô muốn cho đám người Pha-ri-sêu biết rằng nếu phạm tội vì không biết đó là tội – phạm tội do vô tình (vì bị mù, không xem thấy) – thì không cấu thành tội; còn nếu đã biết đó là tội – đã dám tư xưng là “Chúng tôi thấy” – mà còn cố ý phạm, thì mới thực sự là có tội. Như thế thì cũng chẳng khác nào nói: Anh mù vì tin mà được sáng mắt, nhưng nhóm người Pha-ri-sêu mắt vẫn sáng, nhưng không tin, nên cũng chẳng khác kẻ đui mù. “Thấy mà không thấy – không thấy mà thấy”, đó là một nghịch lý trong cuộc sống, nhưng lại là “chuyện thường ngày ở huỵện”. Trường hợp thánh Phao-lô với biến cố Đa-mát là một minh hoạ sống động: Khi còn sáng mắt (thể lý) nhưng vì nhiễm phải giáo lý sai lầm của Pha-ri-sêu nên Sao-lô cũng chẳng khác chi người mù (mù nội tâm). Đến khi bị ánh sáng chói loà làm mù mắt (mù thể lý) ở Đa-mát thì lại là lúc được sáng mắt sáng lòng (tâm linh). Cuối cùng, cả mù thể lý lẫn mù nội tâm đều được chữa lành và trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất Phao-lô.

Thật là thú vị! Những người “sáng mắt” thuộc Kinh Thánh làu làu, từng đứng trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy, lúc nào cũng huênh hoang “chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê”, thì lại không biết gì về Con Người đã được ông Mô-sê (nhờ được Thiên Chúa mạc khải) tiên báo (“Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” – Ga 9, 28-29). Trong khi đó, một anh mù từ lúc mới sinh (chắc chắn không được học hành và giả thử có được học thì cũng chẳng tới đâu) lại biết về Thiên Chúa còn hơn cả đám người sáng mắt (“Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” – Ga 9, 30-33). Chẳng cần lý luận đanh thép, lý thuyết sâu xa, mà chỉ căn cứ vào thực tế (anh được chữa khỏi bệnh mù), mà anh mù đã khiến đám Pha-ri-sêu lâm vào thế bí, phát khùng (“Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” – Ga 9, 34), và đành giở chiêu quyền lực trục xuất anh khỏi hội đường! Thế đấy! Như vậy thì ai sáng, ai mù thực sự đây?

Chung quy thì cũng chỉ vì vấn đề cốt tuỷ: đức tin. Anh mù được chữa lành bởi anh tin vào Con Người; mà cũng không phải chỉ riêng anh, tất cả những người bệnh hoạn, tật nguyền đến với Đức Ki-tô đều được chữa lành vì “Đức tin của anh em đã chữa lành anh em”. Còn đám người Pha-ri-sêu thì mù vẫn hoàn mù, bởi họ không tin vào Con Nguời, mà chỉ tin vào những giáo lý sai lầm như thánh Phao-lô trước biến cố Đa-mát vậy. Nói đi nói lại không gì bằng mượn chính ngay lời người mắc bệnh  mù nội tâm“  và được chữa lành, để minh hoạ: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng.

Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!”  (Ep 5, 8-14).

Ôi! Lạy Chúa! Cảnh người mù kêu cầu Chúa chữa lành, bị bọn người Pha-ri-sêu quát nạt, tra vấn vặn hỏi đủ điều, vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Chúa, nhưng chúng con vẫn còn mê ngủ, vẫn luôn “cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối , mà chẳng thấy được ánh sáng của Lời Chúa. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, bệnh tật, những kẻ bị áp bức bất công, mà chỉ thích bắt chước những người Pha-ri-sêu chú trọng đến những hình thức hào nhoáng bên ngoài (những cái áo loè loẹt, những bộ vó sặc sỡ…), và nhất là bo bo thủ cựu với những quan niệm hủ hoá lỗi thời… Phải chăng chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương? Và cũng chính vì thế mà chúng con mắt vẫn sáng, tai vẫn thính, miệng vẫn nói năng lưu loát, nhưng lại thực sự là những kẻ đui mù câm điếc tâm linh.

Ôi! Lạy Chúa, Chúa muốn cho mọi người nhận biết Chúa chính là lẽ sống của mình, và Chúa không hề bỏ rơi con cái Chúa. Xin ban cho các anh chị em yếu đau bệnh tật và đang gặp hoạn nạn có thêm nghị lực để phấn đấu. Giữa cơn đau khổ, xin cho họ nghiệm thấy rằng có Chúa luôn luôn ở kề bên nhờ những anh chị em hết tình nâng đỡ và nhờ niềm trông cậy họ đặt nơi Đức Ki-tô. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.  (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho bệnh nhân).

JM. Lam Thy ĐVD

Subcategories