8. Đời Sống Tâm Linh

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 24. Ba Cây Thánh Gía

Tôi mời Bạn cùng tôi leo lên đỉnh núi Sọ. Chúng ta sẽ thấy ba cây Thánh giá dựng trên ấy. Và trên ba cây gỗ hèn hạ ấy, ta thấy ba người bị án tử hình. Chúng ta đã biết ba người ấy là những ai.

Bên tả là người tội lỗi khốn nạn, anh ta cưỡng lại với sự đau đớn.

Bên hữu là người trộm lành, anh ta vui lòng chịu khó.

Ở giữa là Chúa Giêsu, Đấng yêu mến sự đau khổ.

Thế giới cũng là một núi Sọ khổng lồ, cắm đầy những Thánh giá. Trên các Thánh giá ấy, là các con cái Adong, là Bạn, là tôi… là tất cả mọi người chúng ta.

Có người thì giẫy giụa khi phải đóng vào Thánh giá, giống như người trộm dữ.

Người khác thì nhẫn nại, chịu đau khổ, giống như người trộm lành.

Một số ít người khác, thì yêu mến Thánh giá như Chúa Giêsu, đấy là những người thánh, những người tạo nên người thánh.

Mỗi người chúng ta, Bạn, tôi… chúng ta vào hạng người nào trong ba hạng người ấy?

Trên Thánh giá người trộm dữ, chúng ta thấy gì? – Chúng ta thấy một người chửi rủa Thánh giá, một kẻ thù Thánh giá.

Lẽ ra người trộm dữ kia, trong cơn đau khổ, đã phải cảm thương Đấng chí công chí thánh, đang chịu cùng hình khổ như anh ta mới phải, bởi vì anh ta đã gần mồ, thì phải lo dọn mình chết, và không gì tốt bằng nhẫn nhục nhận lấy sự đau khổ để đền tội. Đàng này không, linh hồn cứng cỏi, khô rắn và thô bỉ của anh ta chỉ nhớ đến những của hèn hạ mau qua đời này, anh ta bám chặt vào sự sống đang sắp lìa anh ta và anh ta thất vọng. Để cứu được mấy phút sống tàn của anh ta, anh ta đã ngạo ngược xin Chúa làm phép lạ cứu anh ta cho sống [56]. Chúa không làm phép lạ, nên anh ta lại đổ cho Chúa là căn cớ gây khốn nạn cho anh ta, và chửi rủa Chúa. Vì sợ chết, anh ta tìm cách giẫy giụa trên Thánh giá, cho đến lúc từ Thánh giá anh ta đã chết không bằng an, ít ra chúng ta nghĩ được như vậy.

Trên đời những kẻ bắt chước người trộm dữ có thiếu không Bạn? Khi Chúa giả làm lơ, không nghe lời họ cầu nguyện, hoặc không làm phép lạ như ý họ muốn, là họ oán thán, cưu hờn, đôi khi đâm thù ghét Chúa.

Người ta kể rằng: một cụ già theo xác con ra huyệt. Lúc đã hạ huyệt rồi, ông ta đến gần, giơ tay trên quan tài của cậu con, và nói: “Tôi thề sẽ báo thù Thiên Chúa”. Thật là quái gở! Nói sao làm vậy. Ông ta đã báo thù thật, và báo thù một cách hết sức ma quỷ. Ông ta tìm cách làm gương xấu cho người khác, tìm hết cách làm hư các linh hồn. Thật là một cách báo thù hết sức ghê rợn, ít thấy xảy ra.

Không mấy người quái gở đến thế, nhưng biết bao người đã nói phạm, đàn ông thì nói phạm công khai, đàn bà thì kín đáo hơn, nhưng cũng là phạm thượng thật. Họ nói: Chúa không công bằng… tôi đã làm gì nên tội mà Chúa bắt tôi khổ thế này thế khác… Hạng người kiêu ngạo! Sao không nhớ đến tội mình đã phạm? Họ là hạng người thô bỉ, chỉ mong được lĩnh thưởng ngay từ đời này, như bọn Do Thái xưa; và tôn giáo, đối với họ, chỉ là phương thế giúp họ thêm hoặc chắc được dễ chịu, được thịnh vượng ngay từ đời này. Vì không được như ý muốn, họ nói phạm đến Chúa, họ không giữ đạo nữa.

Một hôm, ở một xứ Đạo kia, có cuộc rước kiệu. Không hiểu trong lúc đi kiệu có truyện gì xích mích… một người trong bọn họ, là ông chánh, ông trưởng gì không biết… la lối chửi rủa om xòm chung quanh Nhà Thờ… lúc về nhà ông ta đập phá bàn thờ và không cho vợ con giữ đạo nữa.

Một người khác, trong khi đi vắng, ở nhà mất trộm. Về nhà, anh ta tức quá, cả gan đem tượng Đức Mẹ ra vườn hành hạ, vì Đức Mẹ đã không biết giữ nhà cho anh ta… ấy là tôi không dám thuật ra đây những câu vô cùng phạm thượng anh ta đã nói với Đức Mẹ trong lúc ấy. Nói lên ai nghe cũng rùng mình.

Họ là những người khốn nạn, làm thế tức là họ tự làm khổ cho mình, vì họ đã tự mình làm mất sự bình an và yên ủi trong tôn giáo; chỉ có những sự yên ủi ấy mới giảm được nỗi buồn; họ làm cho họ đau khổ thêm, và buồn sầu vì đã lỗi bổn phận người có Đạo, linh hồn họ thêm lạnh lẽo tối tăm, và Chúa là sự sáng, sự nóng đã ra khỏi linh hồn họ.

Bạn thử xét mình xem, Bạn có thể tự nhủ rằng Bạn không có điều gì đáng trách về phương diện này không? Chắc là không khi nào Bạn dám tìm cách báo thù Chúa, nhưng nhiều lần Bạn đã không quạu cọ là gì? Chắc là Bạn chưa đến nỗi dám nói phạm đến Chúa, nhưng mỗi khi khó chịu quá – hoặc Bạn tưởng mình phải chịu đau khổ quá – Bạn đã không than thở kêu trách Chúa là gì? Chắc Bạn chưa đến nỗi bỏ việc làm bằng hữu Chúa, nhưng nào đã không có nhiều lần, Bạn đã bỏ một hai việc đạo đức quen làm là gì? Đã hẳn, Bạn chưa dám ngã lòng – ít ra tôi nghĩ thế – nhưng chắc là nhiều lần Bạn đã để mình chán nản, và vì chán nản, Bạn đã mong chết, để thoát nợ đời. Cái ấy không được, ông Gióp xưa đã làm thế, và ông đã bị Chúa quở. Tiên tri Giona xưa cũng đã làm thế, và cũng đã bị Chúa quở.

Vậy thì khi bị treo trên Thánh giá, chúng ta đừng làm như người trộm dữ, ta hãy nín lặng.

Trên Thánh giá của người trộm lành, ta thấy gì? – Ta thấy một người thống hối biết nhẫn nhục.

Người trộm lành trước cũng là người tội lỗi, một người lỗi nặng. Lúc đầu, anh ta cũng đã nói phạm đến Chúa, nhưng vì thấy Chúa can đảm, nhẫn nại, bình tĩnh trong sự đau khổ, anh ta đã hết sức cảm phục, anh ta lại còn ra mặt bênh Chúa nữa. Anh ta nói với người trộm kia: “Sao anh lại sỉ nhục Người, Người là Đấng công chính, nào Người có phạm tội gì đâu”. [57]

Và hạ mình xuống trước mặt Chúa, trước mặt thiên hạ, anh ta tuyên bố: “Còn chúng ta, chúng ta chịu thế này là đáng lắm”. Anh ta thành thực hối lỗi và nhẫn nại chịu khó để đền tội. Người khiêm nhường thật, lúc nào cũng đầy lòng trông cậy. Anh ta liền ngửa mặt lên cùng Chúa và than: “Lạy Chúa, khi nào Chúa về nước Chúa trị, xin nhớ đến tôi cùng”. Anh ta liền được nghe lời yên ủi Chúa phán: “Ta nói thật, ngay ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở nơi vui vẻ cùng Ta”. [58]

Đó là một người trộm lành. Ông được coi như gương mẫu những người nhẫn nại chịu đau khổ. Ông không phải người đi đón rước sự đau khổ, ông ta đã làm hết sức để tránh sự đau khổ Nhưng khi thấy sự đau khổ là hình phạt xứng đáng với các tội lỗi của mình, ông ta hiểu rằng: nhờ sự đau khổ, người ta có thể được nghĩa cùng Chúa, nên ông ta đã bắt đầu yêu sự đau khổ. Chỉ nói được là bắt đầu, vì người ta không thấy dấu gì tỏ ra ông ta đã ham mê sự đau khổ, mà không kêu ca, không lẩm bẩm. Vì biết mình chịu phạt là đúng, nên ông ta đã cúi đầu lĩnh nhận hình phạt Chúa gửi đến. Như thế mới là nhẫn nại, nhưng là sự nhẫn nại của con nhà Kitô hữu.

Không phải thứ nhẫn nại kiêu ngạo của con người bất nhẫn, họ không làm gì được, thì làm bộ không cảm thấy đau khổ. Hạng người ấy có được công gì? Họ được một tí danh vọng của loài người, là cái không đáng kể. “Họ đã được công của mình rồi” [59] nhưng hạng người khoa trương thì chỉ được chút phần thưởng mây khói.

Cũng không phải cái nhẫn nại của hạng người tin vào định mệnh… hạng người cho rằng: cái gì cũng đã có số. Họ coi đời này như một người đàn bà mặc một bộ áo thật sang, lúc người ấy bước đi thì vạt áo gạt phải đàn kiến, và đè giập chúng nó. Và tất cả loài người chỉ là đàn kiến ấy… bị đè bẹp… thế là xong. Chỉ có thế, chứ không có bàn tay Chúa nào trong ấy. Hạng người ngu ngốc ấy đáng được cái gì? Không đáng được cái gì cả… và cứ thế, là các con người kiến kia sẽ kéo nhau xuống hỏa ngục.

Cái nhẫn nại của người trộm lành là cái nhẫn nại của người công giáo: sự đau khổ, ông ta có cảm thấy. Ông ta thú nhận rằng: ông ta cảm thấy đau khổ, nhưng ông ta cũng nhận thấy rằng sự khó là do Chúa gửi đến, và nếu Chúa tha cho không bắt chịu khó, thì ông ta sẽ bằng lòng, nhưng vì Chúa muốn thì ông ta vui lòng chịu để đền tội, và để làm nguôi cơn giận Chúa. Ấy là sự nhẫn nại của con người công giáo.

Hết mọi người chúng ta phải lo cho được ít ra như thế, và nhất là những linh hồn đã dâng mình cho Chúa, trước hết phải lo cho được bằng ấy. Chúng ta đau khổ, nào chúng ta lại không phải nói rằng: tôi đáng chịu đau khổ? Nếu ta chỉ phạm một tội trọng thì chúng ta đã đáng sa hỏa ngục đời đời, vậy thì những sự đau khổ chúng ta chịu bây giờ đã thấm vào đâu với những sự đau khổ lẽ ra chúng ta phải chịu trong hỏa ngục. Nếu chúng ta chỉ phạm tội nhẹ, dù chỉ một tội nhẹ, thì chúng ta sẽ đáng chịu phạt trong luyện ngục, vậy những sự đau khổ chúng ta chịu, đã thấm vào đâu với những sự đau khổ rồi đây chúng ta phải chịu trong luyện ngục… hoặc lẽ ra chúng ta sẽ phải chịu… xin Bạn hãy xem đoạn nói về hỏa ngục và Luyện ngục trên đây, trong mục Hãy nhìn xuống.

Vậy chúng ta hãy nhận lấy những sự đau khổ ấy để đền tội, để làm nguôi cơn giận Chúa, để cứu các linh hồn, để làm sáng danh Chúa.

Đã đành, chúng ta có thể hy vọng Chúa đã tha tội cho rồi, nhưng vì Chúa đã tỏ tình thương ta như thế, ta lại không phải vui lòng chịu khó một tí để đền những sự “thiệt hại” ta đã làm cho Chúa ru? Rồi, dù Chúa đã tha tội cho ta, nhưng cửa luyện ngục vẫn còn mở rộng để đón ta. Vậy ta phải nhẫn nại chịu đau khổ để đóng khóa cửa luyện ngục lại.

Ta hãy bắt chước người trộm lành, hãy nhẫn nại cho xứng người công giáo.

Trên Thánh giá Chúa Giêsu, ta thấy gì? – Ta thấy một Đấng hy sinh khải hoàn, ca bài ca yêu mến.

Đây là mấy đặc điểm nhận thấy nơi Chúa:

1) Chúa đã hoàn toàn tình nguyện hy sinh, như lời Kinh thánh đã nói “Người đã dâng mình, vì đã tự ý muốn dâng mình” [60] Ta đã thấy Chúa mau mắn đi đến chỗ chết. Ở vườn Diệt, dù phần giác quan Chúa có phản kháng, nhưng Chúa đã vui lòng nhận lấy chén đắng. Lúc bọn Giuđa đã bị ngã ngửa, Chúa lại cho chúng đứng dậy. Chúa có sẵn mười hai cơ đội thiên thần, Chúa có sẵn toàn thể các thiên thần để bảo vệ Chúa, nhưng Chúa đã không cho phép các Đấng. Chúa có thể cứu chuộc ta mà không cần phải đau khổ, không cần phải chết, nhưng Chúa đã muốn đau khổ, Chúa đã muốn chịu chết.

2) Chúa đã hy sinh, vì lòng yêu mến. Yêu mến Đức Chúa Cha: Trước khi chịu chết, Chúa đã phán rõ ràng: “Để cho thế giới biết ta yêu mến Đức Chúa Cha thì ta hãy đứng dậy và đi” [61] Yêu mến loài người, là các em của Chúa. Lời Kinh thánh nói: “Người đã yêu ta và đã nộp mình để cứu chuộc ta” [62] Và: “Ngày nào treo Ta lên, thì Ta kéo mọi người lên cùng Ta” [63].

Chúa đã hy sinh, và hy sinh vì lòng yêu, một thứ tình yêu cao cả xứng với Thiên Chúa.

3) Chúa đã hy sinh một cách vui vẻ. Khi nói về ngày thương khó của Chúa, Chúa đã phán lời này: “Ta phải chịu phép rửa trong máu Ta, và Ta khao khát chóng tới ngày ấy chừng nào!” [64]

Thật ra ở nơi Chúa, cũng như ở nơi chúng ta, phần cảm giác vẫn không ưa chịu khổ, và để ta biết than thở cùng Chúa, như con cái than thở với cha mẹ thì Chúa đã để cho phần cảm giác Chúa than thở, nhưng trong ý muốn Chúa, lúc nào Chúa cũng ham chịu khó, cũng nhảy nhót trong khi chịu khó, và trên Thánh giá, sau khi Chúa đã than lên lời đau đớn này: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?” [65] thì Chúa đã nói một lời đầy tình yêu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. [66]

Lời ca yêu mến ấy, các bạn hữu của Chúa về sau, cũng đã xướng lên theo Chúa. Các Thánh Tông đồ, đã vui mừng sung sướng vì được chịu khổ vì Chúa. Các Thánh Tử đạo đã chạy đến chỗ tử hình, như người khác chạy đi ăn tiệc, và trong lúc say sưa đau khổ, các đấng đã thốt ra những lời như lời này: “Tôi là lúa mì của Chúa. Tôi cần phải được răng thú dữ nghiền tán tôi, các chúng hãy đến đi, nếu chúng do dự, các ông hãy thúc chúng đến, nếu không, thì chính tôi sẽ thúc chúng”. Kìa, từng đoàn đông vô số, đã lan tràn khắp hết rừng sâu, họ tìm hết cách để làm khổ cho thân xác họ, cũng như người khác tìm hết cách cho xác thịt họ được thỏa mãn. Kìa, những Bạn trăm năm Chúa trong những bức tường kia, là những của hy sinh vì Chúa và sung sướng vì được làm của hy sinh, họ đã tình nguyện đi đày vì Chúa, và sung sướng vì đã đày đọa được tấm thân vì Chúa.

Còn chúng ta, Bạn cũng như tôi, chúng ta có vào sổ những vị anh hùng ấy không? Chúng ta có thật vào sổ những người Mến Thánh giá ấy không? Tôi vừa nói mấy tiếng: Mến Thánh giá: vì trên Thánh giá của Chúa, ta không phải chỉ còn thấy con người nhẫn nại, con người cam tâm, con người vui lòng chịu đóng đanh để đền tội, nhưng ta đã thấy con người yêu mến Thánh giá, yêu say mê, say mê đến nỗi nếu có cần phải nằm luôn trên Thánh giá mới cứu được thế gian, thì Chúa cũng sẵn sàng nằm luôn trên ấy, để cho người ta muôn đời nhìn ngắm, và để cho kẻ dữ muôn đời sỉ nhục.

Chính tình yêu đã làm cho Chúa chúng ta nhảy mừng trên Thánh giá của Chúa.

Và đó cũng là gương cho hết mọi người muốn tỏ lòng mến Chúa thiết tha, thực tình, phải làm, là yêu mến Thánh giá, nhảy mừng khi được chịu khổ để tỏ lòng mến Chúa, để cứu linh hồn mình, và cứu linh hồn anh em mình.

Chắc là Bạn cũng như tôi, chúng ta đều ước ao được mến Thánh giá như Chúa, chứ không phải chỉ muốn nhẫn nại như người trộm lành. Đã đành được như người trộm lành đã là khá, và một số đông trong ta đã được đến chỗ ấy. Nhưng ta còn phải cố gắng yêu mến Thánh giá như Chúa, say mê Thánh giá như Chúa, và trong khi chịu khổ, ta sẽ xướng bài ca yêu mến như Chúa.

Đã đành, ta chưa thể và không khi nào có thể nhảy mừng trên Thánh giá được như Chúa, và dùng Thánh giá như khí giới để toàn thắng, nhưng ít ra ta hãy cố gắng bắt chước Chúa cho hết sức ta.

Nhờ thế, ta sẽ nhìn thấy Thánh giá như một cuộc toàn thắng của tình yêu, trước là yêu chính mình ta, vì Thánh giá sẽ ban cho ta được vững chắc, được bằng yên. Rồi đến tình mến Chúa, vì Thánh giá giúp ta nên thánh, mà nên thánh, tức là mến Chúa. Sau cùng là tình yêu anh em ta, vì nhờ Thánh giá ta sẽ đưa được nhiều linh hồn về cùng Chúa.

Thánh giá là thắng trận của tình yêu: khi ta suy nghĩ đến điều ấy, mà lại không yêu mến Thánh giá sao được ?

Người ta kể truyện một người nằm liệt trên giường. Đang khi người ấy suy đi nghĩ lại rằng: mình là vật vô dụng, chẳng ích lợi gì cho ai, thì Chúa Giêsu hiện đến, và dạy cho người ấy hiểu những ích lợi của Thánh giá, và người ấy đã làm bao nhiêu ơn ích mà không ngờ: Nào đã sắm sẵn cho mình một tòa cao sang trên nơi hằng sống, nào đã được đẹp lòng Chúa, nào đã làm cho nhiều người tội lỗi ăn năn trở lại, đã giúp nhiều linh hồn công chính được vững vàng, và giúp cho nhiều dân đang bị uy hiếp được thắng trận. Người ấy hết sức ngạc nhiên và sung sướng, người ấy đã xướng bài ca tụng Thánh giá.

Phần ta, ai cũng phải cố gắng sao để dùng Thánh giá như bài ca khải hoàn, bài ca yêu mến của ta, khải hoàn vì ta đã sắm được cho ta một ngôi tòa cao sang trên Thiên đàng; khải hoàn vì ta đã làm vui lòng Chúa; khải hoàn vì ta đã cứu được nhiều linh hồn; khải hoàn vì ta đã giúp được nhiều linh hồn nên thánh thiện hơn; khải hoàn vì ta đã yên ủi được bao nhiêu linh hồn đau khổ… Muốn được thế, ta hãy ngày ngày suy đến những ích lợi của Thánh giá. Nhất là ta hãy mến Chúa cho nhiều… nếu chịu đau khổ là dấu yêu mến, thì càng mến càng dễ chịu đau khổ cho người mình yêu.

Sau cùng, ta hãy cầu nguyện, cầu nguyện cùng Đức Mẹ, là Đấng, trừ Chúa ra, không ai đã đau khổ bằng Người, và cũng trừ Chúa ra, không ai đã hiểu giá trị và những ích lợi của sự đau khổ, của Thánh giá bằng Người.

Ước gì mỗi người chúng ta là một Chúa Giêsu nhảy mừng ca hát trên Thánh giá; được như vậy, thế giới sẽ thay đổi bộ mặt và hòa bình sẽ chóng trở lại, cũng như Giáo hội sẽ càng ngày càng đông con.

Chúa hy vọng vào mỗi người chúng ta. Chúng ta đừng để Chúa thất vọng.

Nhất là những người đã được hạnh phúc Chúa gọi vào con đường mến Chúa cách riêng. [67]

 

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

 

[56] Luca 23,39

[57] Luca 23,41

[58] Luca 23, 42-43

[59] Matt 6,2

[60] IS 53,7

[61] Gioan 14,31

[62] Eph 5,2

[63] Gioan 12,32

[64] Luca 12,50

[65] Matt 27,46

[66] Luca 23,46

[67] Phỏng theo Cha Billet, C.Ss.R. trong sách Le Crucifix.

Niềm Tín Thác – Chương IV: CHÚA GIÊSU THẦY DẠY NIỀM TÍN THÁC

I.  LÒNG NHÂN HẬU ĐẦY CẢM THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU MẶC KHẢI CHO TA THẤY LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA.

–   NHỮNG DỤ NGÔN MINH HỌA LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA : NGÀI LÀ CHA CỦA CHÚNG TA.

–   VẬY TA PHẢI CÓ NIỀM TÍN THÁC CỦA NGƯỜI CON THẢO.

Lòng nhân hậu đầy cảm thương của Chúa Giêsu mặc khải cho ta thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

– Có thể chúng ta sẽ được tha lỗi về những sự thiếu tín thác, nếu chúng ta sống ở thời Cựu Ước. Tất nhiên các quyển sách thánh cũng có những lời tuyệt diệu về lòng nhân hậu và quyền năng của Thiên Chúa. Chẳng hạn những Thánh Vịnh của Vua Đavid là một bản thánh thi khôn sánh về lòng thương xót của Chúa, và mãi mãi sẽ mang lại an vui cho những linh hồn thống hối và tín thác. Nhưng đối với quần chúng Do Thái, khi đó họ thấy Thiên Chúa là Đức Giavê đáng sợ, và họ chỉ kêu thánh danh Ngài cách run sợ. Người ta không bao giờ quên việc Đức Giavê phạt Út-da (Uzza) chết tươi, vì đã chạm tay vào Hòm Bia, dầu với ý lành để đỡ cho Hòm Bia khỏi đổ nhào. (Xem 2Sm 6,6-8).

Còn chúng ta, chúng ta được phúc sống dưới thời Tân Ước. Chúa Giêsu, Mặt Trời của sự khôn ngoan thần linh, đã soi sáng và biến đổi thế giới. “Ngài là ánh sáng thật, soi sáng cho mọi người sinh ra trên trần gian” (Ga 1,9). Chúa Giêsu đã đến để mặc khải cho ta thấy Thiên Chúa vẫn được coi là mầu nhiệm và không ai biết rõ, Ngài cho ta thấy một Đấng Thiên Chúa gần như có thể sờ thấy, rất gần gũi với chúng ta. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, đã đến để nói cho ta biết tình cảm của Thiên Chúa đối với chúng ta, tình thương vô cùng thương xót, tình của Người Cha vô cùng dịu dàng đối với chúng ta. Muốn nhận biết Cha chúng ta ở trên trời, chỉ cần nhìn vào Chúa Giêsu, xem Ngài hành động và nghe Ngài nói. Chính Chúa Giêsu đã nói : “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy” (Ga 14,9). Ngài là hình ảnh rất trung thực của Chúa Cha trong thế giới hữu hình của chúng ta.

Nếu phải nói đến nét đặc điểm của con người Chúa Giêsu, thì ai cũng thấy đó là lòng nhân hậu lạ lùng của Ngài, khiến những kẻ khốn nạn nhất cũng chạy đến với Ngài. Đó là tình thương đặc biệt Ngài dành cho những người tội lỗi và những người bệnh tật, và cho tất cả những ai cần đến lòng nhân hậu của Ngài hơn. Ngài luôn mở rộng vòng tay đầy dịu dàng và thương xót của Ngài để đón nhận những người đau khổ về thân xác hoặc tâm hồn.

Ai cũng biết rõ như thế. Và người ta đã tố cáo Ngài đi qúa đà trong những hành vi cảm thương đầy nhân hậu đó. Những người Biệt phái đã nhiều lần trách móc Ngài nặng lời, vì Ngài đã thương xót các bệnh nhân mà lỗi phạm luật ngày sa-bát của Chúa. Rồi họ trách Ngài đã qúa nhân hậu với những người tội lỗi, nhất là trường hợp Ngài đã để cho một người đàn bà tội lỗi đụng chạm đến Ngài, lấy nước mắt thống hối rửa chân Ngài, và lấy tóc lau chân Ngài.

Người ta còn đi tới chỗ gài bẫy để bắt lỗi Ngài về chuyện này. Người ta dẫn đến trước mặt Ngài một người đàn bà, bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình, để thử Ngài, xem Ngài có dám nhân hậu đến độ tha tội cho người đó, chống lại luật Môisê chăng? Lòng nhân hậu bao la của Chúa Giêsu đã nên cớ vấp phạm cho những người Biệt phái tự phụ, kiêu căng và độc ác. Sự ghen ghét của họ đối với Ngài chỉ gia tăng tiếng đồn về lòng nhân hậu đầy thương xót của Ngài, và lôi kéo người ta đến với Ngài.

Và để làm cho mọi người thấy rõ đáy lòng của Ngài, để cho những người tội lỗi nhất và đáng thất vọng nhất cũng hãy tin tưởng và tín thác nơi tình thương rất nhân hậu của Ngài, Ngài đã kể ra những dụ ngôn rất ngọt ngào và rất hợp với tâm trí Người Đông phương. Ngài đã tự mô tả mình trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Ngài tự giới thiệu là người mục tử tốt lành, sẵn sàng thí mạng sống vì các con chiên của mình. Như vậy, một cách sống động và cụ thể, Ngài cho ta thấy những tâm tình của Ngài và của Cha Ngài mà Ngài là hình ảnh trung thành và sống động.

Những dụ ngôn minh họa lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

– Như thế vẫn chưa hết. Nếu những tỏ bày về lòng nhân hậu ngọt ngào của Chúa Giêsu vẫn để chúng ta bán tin bán nghi về lòng thương xót của Cha trên trời, nếu chúng ta vẫn cứng lòng như một số người và chỉ nghĩ đến quyền năng và sự khôn ngoan khi nghĩ đến Chúa Cha, và chỉ dành tình thương và lòng thương xót cho Chúa Giêsu, thì chính Ngài, chính Chúa Cứu Thế của chúng ta đã thấy cần phải mở mắt cho chúng ta.

Ngài tỏ cho ta thấy Chúa Cha, vì Ngài là hình ảnh toàn hảo và trung thực của Cha Ngài. Nhưng Ngài còn làm nhiều hơn. Ngài đã thấy Cha Ngài, muôn đời vẫn là một với Cha, cho nên Ngài có thể tỏ bày cho ta biết những mầu nhiệm khôn dò về Chúa Ba Ngôi và về tình thương bao la của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Chúng ta biết Chúa Giêsu đã tỏ bày cho ta thấy lòng nhân hậu bao la của Ngài trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu và người mục tử tốt lành. Rồi trong những dụ ngôn tương tự, Ngài đã mặc khải cho ta thấy tình thương của Chúa luôn thương xót con cái mình, cả những đứa con tội lỗi nhất. Ai trong chúng ta cũng biết dụ ngôn đồng bạc bị rơi mất và dụ ngôn con chiên lạc; trong hai dụ ngôn đó, Chúa đã nói qúa, một cách táo bạo, khi khẳng định rằng : trên trời đã vui mừng hơn, vui mừng vì một kẻ tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính ! Nhất là chúng ta tất cả đã nếm sự ngọt ngào của dụ ngôn tuyệt diệu về đứa con hoang đàng. Dụ ngôn này đã mang lại sự thống hối và niềm cậy trông cho biết bao tội nhân ngã lòng !

Như thế là chúng ta đã được giảng dạy và được  bảo đảm về tâm tình của Thiên Chúa đối với chúng ta. Những tâm tình này có thể được gọi chung một tên là tình Cha thương con : Cha của Chúa Giêsu cũng là Cha của chúng ta. Ngài là Cha và là người Cha vô cùng nhân hậu, vì Ngài là tình thương, tình thương vô cùng. Tình phụ tử của Ngài đối với chúng ta vượt xa tình thương của các người cha trần gian đối với con cái mình, cũng như tình thương của một vị Thiên Chúa vượt xa tình thương của một tạo vật.

Nơi mỗi trang của cuốn Phúc Âm, Chúa Giêsu lại càng làm nổi bật cho ta thấy tình phụ tử của Cha chúng ta ở trên trời. Ngài nhấn mạnh điều này đến độ đó là nét đặc trưng nhất của việc giảng dạy của Ngài, và đặc điểm này đã gây bỡ ngỡ cho những nhà chú giải Thánh Kinh yếu niềm tin thuộc giáo phái Tin Lành như Harnack. Chúa Giêsu luôn chỉ gọi Thiên Chúa là “Cha của anh em ở trên trời”.

Khi các môn đệ xin Ngài dạy họ cầu nguyện, Ngài đã dạy họ kinh “Lạy Cha” là kinh tốt đẹp hơn mọi lời kinh. Chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha không phải là điều kỳ diệu sao ? Thoạt tiên người ta nghĩ Ngài cũng dạy chúng ta xưng hô Thiên Chúa là “Chúa” hoặc “Chúa tể muôn loài” như kiểu cầu nguyện của người Do Thái. Nhưng Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta đã nghĩ khác, và Ngài đã dạy chúng ta: “Anh em sẽ cầu nguyện thế này : Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9). Phúc Âm Thánh Luca còn nói gọn hơn : “Anh em sẽ cầu nguyện thế này : Lạy Cha !” (Lc 11,2).

Vậy ta phải có niềm tín thác như con thảo.

 Khi đã biết tâm tình của Thiên Chúa là Cha của mình, chúng ta biết phải cầu nguyện làm sao. Phải có một niềm tin tưởng tín thác như con thảo. Và đó là điều Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài. Chỉ xin trích lại đây một thí dụ.

Sau khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về việc cầu nguyện, nhất là về niềm tin tưởng tín thác phải có khi cầu nguyện. Ngài nói : “Ai trong anh em là Cha mà con mình xin bánh mì, lại cho nó hòn đá ? Hoặc nó xin cá mà lại cho nó con rắn ?… Vậy nếu anh em là những con người độc ác còn biết cho con mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em ở trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin Ngài sao ?” (Lc 11,11-13).

Chúa đã luận lý một cách tuyệt hảo, không chê vào đâu được. Luận cứ của Ngài : Chúng ta còn tốt với con cái mình như thế, cả những người cha không ra gì, phương chi Thiên Chúa là người cha vô cùng tốt lành, vô cùng nhân hậu. Cốt lõi của lời dạy ở đây của Chúa Giêsu là : Thiên Chúa là cha của chúng ta, và là người cha vô cùng nhân hậu hơn mọi người cha, cho nên chúng ta phải hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Khi đã chấp nhận điều này, niềm tín thác sẽ là điều tất nhiên, cho nên chúng ta sẽ không được tha thứ nếu không trọn vẹn tín thác nơi Thiên Chúa, mỗi khi chúng ta cầu xin Ngài ơn gì.

Ôi ! Lạy Chúa Giêsu, con còn xa niềm tín thác con thảo này lắm, một niềm tín thác dựa trên sự cảm nghiệm Thiên Chúa là Cha của con. Xin Chúa hãy thương giúp con ! Xin ban cho con tinh thần nghĩa tử này, một tinh thần rất cần thiết. Chính Chúa đã dạy: “Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha, và không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con và kẻ được Chúa Con mặc khải cho” (Mt 11,27). Vậy xin Chúa mặc khải cho con biết Chúa Cha, vì con biết Ngài ít qúa. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Xin đừng để con sống suốt đời như một đứa mồ côi, trong khi con có một người Cha tốt lành dường ấy. Cũng như tông đồ Philipphê, con nài xin Chúa : “Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy Chúa Cha, và như thế là đủ cho con” (Ga 14,8). Xin hãy tỏ cho con thấy, hãy giúp con biết rõ Đấng mà con chưa nhận rõ tình phụ tử rất dịu dàng ! Xin làm cho con yêu mến Ngài như một đứa con thảo yêu mến Cha mình, và như thế là đủ cho con. Khi đã biết rõ Ngài, con sẽ biết phải đến với ai để xin được những gì con cần thiết. Con sẽ đến với Ngài với một niềm tín thác con thảo, vì con chắc sẽ được Ngài nhận lời con xin. Vâng, xin hãy tỏ cho con thấy Cha con ở trên trời, và con sẽ có tất cả những gì con thiếu thốn. Con sẽ đến trình bày với Ngài những ước ao của con, nhất là niềm ước ao nên trọn lành, cho con và cho những người khác. Con sẽ trình bày với Ngài niềm khao khát yêu mến và hy sinh của con. Là linh mục của Chúa, là tu sĩ, là nữ tu, con sẽ xin Ngài những ơn cần thiết cho ơn gọi nên thánh của con. Con sẽ xin Ngài những nhân đức, lòng nhiệt thành và sự thánh thiện, để việc tông đồ của con có hào quang và có kết qủa. Những người cha trên trần gian, cả những người ngoại giáo cũng lo cơm bánh và thức ăn cho con cái mình, cho nên con tin chắc Cha trên trời của con sẽ sẵn sàng ban Chúa Thánh Thần cho con, vì như Chúa đã dạy, Ngài sẽ ban cho tất cả những ai cầu xin Ngài.

II.  NHỮNG LỜI HỨA CỦA CHÚA GIÊSU : NIỀM TÍN THÁC VỮNG VÀNG SẼ ĐẠT ĐƯỢC MỌI  SỰ.

–   NHỮNG PHÉP LẠ CỦA CHÚA LÀ NHỮNG BÀI HỌC CỤ THỂ. “HÃY CẦU NGUYỆN NHÂN DANH THẦY !”

Những lời hứa của Chúa Giêsu : Niềm tín thác vững vàng sẽ đạt được mọi sự.

 Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài không từ chối con cái Ngài sự gì hết. Nhưng như thế có nghĩa là Ngài ban lập tức và đúng như ta xin chăng ?

Cần phải nhắc lại ở đây những gì đã trình bày trên kia về bản chất và những phẩm tính của một niềm tín thác đích thực. Chúng ta biết : Niềm tín thác đích thực phải được điều kiện hóa, nghĩa là chúng ta tin chắc Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, nếu những sự chúng ta ước ao đó có ích lợi cho cùng đích tối hậu của chúng ta, và nằm trong kế hoạch của Chúa quan phòng. Bởi vì, để lấy lại dụ ngôn của Chúa Giêsu, nếu chỉ tay vào con bọ cạp, tưởng đó là con cá mà xin Cha trên trời, chắc Ngài sẽ không ban cho tôi. Vậy luôn phải nhớ chân lý này, để chúng ta khỏi thất vọng vì khờ dại khi cầu xin[1]. Nhưng cũng đừng vội bỏ cuộc : khi không nhận ngay được điều ta xin, chúng ta đừng vội tự nhủ : có thể ơn này không tốt cho tôi. Nghĩ như thế sẽ sớm chấm dứt việc cầu xin của mình. Sự nghĩ tưởng như thế, sớm bỏ lời cầu xin như thế, thường là dấu chỉ một sự thiếu tin tưởng và tín thác, sợ bị chưng hửng.

Đúng thế, trong những trường hợp đó, cần phải mạnh bạo, bền chí, và dám quấy rầy Chúa bằng những lời cầu xin tha thiết. Ơn ta xin càng lớn lao, ta càng phải nài nẵng Chúa. Phải dám quấy rầy Cha chúng ta ở trên trời. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta như thế trong dụ ngôn sau đây : “Nếu anh em có một người bạn, và nửa đêm tới nhà người đó và nói: “Bạn ơi, cho tôi vay ba chiếc bánh mì, vì tôi có người bạn lỡ đường ghé nhà tôi, mà tôi không có gì dọn cho anh ấy ăn”nếu người kia từ trong nhà trả lời rằng : “Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa nhà đã đóng, các cháu đang ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho bạn được”. Thầy nói cho anh em biết : nếu người đó không dậy cho người này vay vì tình bạn, thì người đó cũng sẽ chỗi dậy vì sự quấy rầy của người này, và đưa cho anh ta số bánh anh ta cần. Cho nên thầy bảo anh em : Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở ra cho anh em. Vì ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, và ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,5-10).

Vậy rõ ràng phải kết luận rằng : ngay giữa những con người với nhau, một lời xin kiên trì sẽ thắng được sự biếng nhác hoặc sự thiếu tốt bụng của tha nhân, phương chi một lời cầu xin kiên trì như thế chắc chắn sẽ đạt hiệu qủa tốt đẹp nơi Cha chúng ta ở trên trời, vì Ngài là người Cha thương yêu ta vô cùng. Chắc chắn, Ngài có thể làm ra vẻ nặng tai, hoặc có vẻ chưa nghe thấy lời cầu xin của ta. Nhưng chúng ta phải năn nỉ. Chính Chúa Giêsu dạy ta phải làm thế, Ngài đã không ngần ngại ví Cha Ngài với người Ngài nói trong dụ ngôn trên kia, không muốn cho những gì người ta xin. Và Ngài nói : Hãy xin thì sẽ được… hãy gõ cửa thì sẽ mở cho.

 Chúng ta đừng sợ làm theo lời dạy của Chúa Giêsu. Ngài đã muốn dạy ta rằng : Thiên Chúa cũng muốn ta cầu xin và cầu xin lâu dài. Đôi khi sự việc có vẻ xảy ra ngược với những gì ta ước ao và cầu xin. Chuyện này có thể xảy ra cả trong những việc thiêng liêng và thánh thiện. Nhưng chúng ta phải vững tâm, phải táo bạo, và Chúa Giêsu bảo phải dám quấy rầy Cha chúng ta ở trên trời. Chúng ta hãy đến và thưa Chúa như người bạn trong Phúc Âm : “Con sẽ không lui ra cho tới khi Chúa nhận lời con xin. Con tin vào những lời hứa của Chúa Giêsu, con yêu dấu của Chúa”. Và như vậy chúng ta sẽ bắt ép Thiên Chúa ban cho ta những ơn xem ra Ngài cố tình không muốn ban, nhưng thực ra trái tim đầy yêu thương của Ngài rất muốn ban cho chúng ta. Khi đó chúng ta sẽ thấy rằng những sự trì hoãn này của Chúa có tính toán, và Ngài muốn như thế để có lý do ban cho chúng ta những ơn qúi trọng hơn, để thưởng cho niềm tín thác vững vàng của chúng ta.

Có tác giả đã đưa ra nhận định chí lý này : Người bạn trong Phúc Âm đã không táo bạo và không dám quấy rầy đến như vậy, nếu anh ta xin cho bản thân, hoặc xin cho gia đình anh ấy. Nhưng anh ấy muốn phục vụ một người bạn đến từ phương xa, và bất cứ người tốt lành nào cũng phải làm như vậy. Vậy thì tôi cũng vậy, nhiều khi tôi cầu xin Chúa, không phải những gì cho bản thân tôi hoặc gia đình tôi. Tôi cầu xin cho những người khác. Tôi cầu xin được bác ái, được nhẫn nhục, nhân hậu, khiêm nhường, để có thể đón nhận và cư xử với anh em cho hợp ý Chúa. Nhất là tôi xin Chúa ban cho tôi những nhân đức đó để đón tiếp người bạn vĩ đại là Chúa Giêsu, khi tôi rước lễ, khi Ngài muốn ở lại mãi mãi trong linh hồn tôi. Tôi chắc chắn sẽ được nhận lời. Người bạn của chúng ta, Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, rất yêu thương chúng ta. Ngài không ngủ bao giờ và luôn luôn sẵn lòng lắng nghe ta cầu xin, Ngài sẽ sung sướng được chúng ta quấy rầy như thế, để cầu xin Ngài tất cả những gì cần thiết để đón Ngài đến ở trong linh hồn chúng ta.

Những phép lạ của Chúa là những bài học cụ thể.

– Chúa Cứu Thế đã khẳng định cách long trọng rằng những lời cầu nguyện với niềm tin tưởng tín thác của chúng ta sẽ luôn luôn có hiệu qủa. Lời giảng dạy của Ngài về vấn đề này thật rõ ràng và chắc chắn. Tuy nhiên, để thuyết phục chúng ta hơn nữa, Ngài đã làm nhiều phép lạ để chứng tỏ  điều đó. Đó là như những bài học cụ thể cho ta. Rất nhiều lần, Ngài đã xác minh lời giảng dạy và những lời hứa của Ngài bằng những thí dụ đầy sức thuyết phục. Chúng ta hãy mở sách Phúc Âm ra, bất cứ chỗ nào chúng ta cũng thấy Ngài nói : Ngài đã làm các phép lạ đó vì niềm tin của những người đến cầu xin Ngài. “Niềm tin của con đã cứu con, đã chữa lành con” (Lc 7,50)[2]

Đó là kiểu nói quen thuộc của Chúa Giêsu. Ngài đã không nói : “Ta đã chữa lành con vì niềm tín thác của con”, nhưng Ngài nói “Niềm tin tưởng tín thác của con đã chữa lành con”, vì Ngài muốn nhấn mạnh về sự cần thiết phải có niềm tin, phải tín thác, nếu không, Ngài tuy toàn năng nhưng sẽ không hành động được. Niềm tin cậy của những bệnh nhân xin Ngài cứu chữa, làm cho Ngài khoái chí. Ngài luôn khen niềm cậy trông như thế. Có thể nói Ngài muốn lợi dụng các phép lạ Ngài làm, để dạy cho chúng ta những bài học cụ thể về niềm tín thác. Ngài đã nói như vậy với viên sĩ quan bách quân, với người bị bại liệt được thả xuống từ nóc nhà, và nhất là với người phụ nữ Canaan.

Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, những lời hứa qủa quyết của Ngài và những phép lạ chứng minh của Ngài, tất phải đủ sức thắng vượt mọi do dự và mọi nghi ngờ của chúng ta. “Lạy Chúa xin dạy chúng con cầu nguyện”. Xin dạy chúng con niềm tín thác trọn vẹn mà chúng con đang thiếu và rất cần.

“Hãy cầu nguyện nhân danh Thầy !”.

– Chúa Giêsu đã dạy chúng ta hãy đặt niềm tín thác của mình trên nền tảng lòng nhân hậu của Cha chúng ta ở trên trời. Ngài còn muốn củng cố niềm tín thác của ta bằng những lời hứa qủa quyết của Ngài, rằng ta sẽ nhận được những gì chúng ta cầu nguyện với niềm tín thác. Nhưng vẫn cần phải bảo vệ niềm tín thác của ta chống lại những nghi ngờ, do nhớ đến những sự yếu hèn của mình. Và đó là việc Chúa Giêsu đã làm khi nói những lời vĩnh biệt sau tiệc ly: “Thật, Thầy bảo thật, tất cả những gì anh em xin Cha Thầy nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho anh em. Cho đến nay, anh em chưa xin gì nhân danh Thầy. Anh em hãy xin thì sẽ nhận được, như thế để niềm vui của anh em được trọn vẹn… Ngày đó, anh em sẽ cầu xin nhân danh Thầy, nhưng Thầy sẽ không còn nói Thầy cầu xin cho anh em, vì chính Cha yêu thương anh em, bởi vì anh em đã yêu mến Thầy và đã tin rằng Thầy bởi Cha mà ra” (Ga 16, 23-27).

Đó là bí quyết nhiệm mầu để các lời cầu xin của ta được linh ứng. Tôi tin chắc sẽ được Chúa ban những ơn tôi xin, không phải vì lời cầu nguyện của tôi tốt lành và đáng Chúa lắng nghe đâu, nhưng vì Chúa Cha yêu mến Chúa Giêsu và muốn tôn vinh Ngài. Như vậy, mỗi khi cầu nguyện, tôi phải cậy nhờ công nghiệp Chúa Cứu Thế, cách minh nhiên hoặc cách tiệm nhiên.

Tất cả các lời kinh phụng vụ của Hội Thánh Mẹ chúng ta đều kết thúc bằng lời “Nhờ Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen”. Những lời này luôn được coi là những lời cuối cùng của việc cầu nguyện của chúng ta, và đó là mũi tấn công cuối cùng của chúng ta đánh vào lòng nhân hậu của Cha chúng ta ở trên trời, để nhận được những gì chúng ta cầu xin. Qua mấy lời vắn tắt này, chúng ta trình bày trước Thiên Chúa tất cả cuộc đời và những công nghiệp của Chúa Cứu Thế. Nhất là chúng ta nhắc đến cây thập giá, nơi Chúa Giêsu đã chịu chết để vâng lời Chúa Cha và đền tội cho chúng ta : Thánh Giá là dấu hiệu của sự hòa giải giữa Thiên Chúa và loài người tội lỗi, chắc chắn sẽ khiến Thiên Chúa thương đến chúng ta.

Cầu xin nhân danh Chúa Giêsu là cách tốt nhất để tránh mọi sự tin tưởng dại dột vào các nhân đức bất toàn của mình, vào sự công chính tự cao của mình và vào sự sốt sắng của lời cầu nguyện của mình. Chúng ta chỉ trông cậy vào công nghiệp vô cùng, và nhất là vào cuộc khổ nạn rất thánh của Chúa Giêsu. Nhất là chúng ta nhắc lại trước mặt Thiên Chúa những ước nguyện tha thiết của Chúa Giêsu, khi Ngài cầu xin Chúa Cha thánh hóa chúng ta : “Lạy Cha Chí Thánh, xin Cha giữ gìn họ nhân danh Cha… xin Cha thánh hóa họ trong chân lý” (Ga 17,11,24). Chúng ta cũng nhắc lại trước nhan thánh Chúa lời cầu xin cuối cùng của Chúa Giêsu, khi hấp hối trên thập giá : “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Khi cầu xin nhân danh Chúa Giêsu, chúng ta cũng làm vang lên tiếng kêu than của Chúa Giêsu trên thập giá : “Tôi khát !” (Ga 19,28). Lời này Chúa Giêsu kêu đến chúng ta, nhưng Ngài cũng kêu lên Cha Ngài. Vậy lời cầu xin của Chúa Giêsu, tức lời chúng ta cầu xin nhân danh Ngài, sẽ là lời cầu nguyện vô cùng mạnh sức, vì dựa vào công nghiệp vô cùng của Chúa Cứu Thế, làm cho lời cầu xin của chúng ta dễ được Thiên Chúa chấp nhận.

Và cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu còn hơn thế nữa. Không những chúng ta hợp với những lời khẩn nguyện của Chúa chịu đóng đinh trên thập giá, chúng ta còn hiệp thông với những lời cầu xin liên lỉ mà Chúa Giêsu không ngừng dâng lên Cha Ngài cho tất cả chúng ta, cho tôi. Đúng thế, trong lúc này và mãi mãi không ngừng, Chúa Giêsu hằng cầu xin cho chúng ta : “Ngài mãi mãi sống để chuyển cầu cho chúng ta.” (Dt 7,25). Ôi ! Mầu nhiệm khôn tả của tình thương Thiên Chúa : Chúa Giêsu luôn nghĩ đến tôi, vật thọ tạo nhỏ bé của Ngài ! Ngài dành cuộc sống trên trời của Ngài để lo trau dồi linh hồn tôi, để xin cho tôi được muôn ngàn ân sủng mà tội lỗi của tôi lẽ ra đã làm tôi mất đi. Chúa đã thưa với Cha Ngài : “Con không cầu nguyện cho họ mà thôi, nhưng cũng cầu xin cho những kẻ nghe lời họ giảng dạy mà sẽ tin kính Con, để tất cả trở nên một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha” (Ga 17,20-21).

Ôi, lạy Thầy chí thánh, xin ban cho con được thường xuyên, luôn luôn ý thức về sự hiệp nhất giữa Chúa và con đây ! Xin cho con đừng bao giờ cầu nguyện một mình, nhưng luôn bước vào cầu nguyện, dựa trên cánh tay Chúa, cậy trông vào danh Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa nơi Cha trên trời của con. Xin cho con được hiệp thông với những lời cầu nguyện rất thánh thiện mà Chúa dâng lên Thiên Chúa, khi Ngài sống trên trần gian này, để sự phong phú của những lời cầu xin đó bổ khuyết cho sự thiếu  thốn của những lời cầu xin của chúng con ! Và nhất là xin Chúa Giêsu cho con được hiệp thông với những lời khẩn nguyện mà Chúa hằng dâng lên Chúa Cha ở trên trời, cũng như trên các bàn thờ và từ trong các nhà tạm trên mặt đất này, khi Chúa đưa cho Chúa Cha thấy những thương tích của cuộc khổ nạn của Ngài !

III.  NHỮNG BÀI HỌC VỀ SỐNG TÍN THÁC: HÃY XEM CÁC BÔNG HUỆ NGOÀI ĐỒNG !

– SỐNG TÍN THÁC TRONG CUỘC ĐỜI VẬT CHẤT.

– VÀ NHẤT LÀ TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.

Những bài học về sống tín thác : Hãy xem những bông huệ ngoài đồng.

– Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải tín thác trọn vẹn và vững vàng khi cầu nguyện, để chắc chắn nhận được những gì chúng ta ước nguyện. Nhưng tín thác không chỉ giới hạn ở những giây phút cầu nguyện và đọc kinh, nhưng ta phải thực hành niềm tín thác mỗi lúc, và ở mọi dịp. Khi niềm tín thác được trải rộng ra tới mọi chi tiết và mọi biến cố của cuộc đời như thế, nó sẽ tươi nở thành “sống tín thác”. Chính sự sống tín thác như thế sẽ làm cho ta sống như những đứa con của Chúa. Chúng ta hãy nghe thêm những bài học khôn sánh mà Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng ta. Có thể nói những trang đẹp nhất và ngọt ngào nhất của sách Phúc Âm là những trang nói Chúa Giêsu dạy chúng ta sống trọn vẹn niềm tín thác.

Ngài muốn giải thoát các môn đệ khỏi những lo lắng thái qúa về cuộc sống vật chất, để tâm hồn họ được rộng mở hơn về phía trời cao. Chắc chúng ta đã nhiều lần suy gẫm về những trang này và đó là điều rất tốt. Nhưng, một lần nữa, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe những lời rất cao siêu và rất dịu dàng của Thầy Chí Thánh.

Bởi vậy Thầy bảo anh em : đừng lo lắng về cuộc sống của anh em, lo mình sẽ ăn gì, uống gì; cũng đừng lo lắng về thân xác, sẽ ăn mặc thế nào. Sự sống chẳng trọng hơn của ăn sao ? Và thân xác chẳng trọng hơn áo mặc sao ? Anh em hãy nhìn xem các chim trời chúng không gieo, cũng không gặt, chúng không tích trữ gì trong kho lẫm, vậy mà Cha anh em ở trên trời, nuôi dưỡng chúng. Anh em không đáng giá hơn chúng nhiều sao ? Ai trong anh em nhờ lo nghĩ nhiều mà có thể kéo dài cuộc sống của mình thêm được một gang ? Và tại sao anh em lo nghĩ về áo mặc ? Hãy nhìn xem những bông huệ ngoài đồng, chúng lớn lên thế nào ? Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Nhưng Thầy nói cho anh em biết Vua Salômôn quang vinh rất mực như thế cũng đã không mặc đẹp bằng một bông huệ. Vậy nếu Thiên Chúa mặc đẹp như thế cho hoa cỏ ngoài đồng là thứ nay còn, mai đã bị ném vào lò lửa, Ngài lại không làm như thế cho anh em sao, hỡi những người kém tin ? Vậy anh em đừng lo lắng và tự hỏi: Mình sẽ ăn gì, sẽ uống gì, hoặc sẽ ăn mặc thế nào đây ? Những điều đó, các dân ngoại luôn tìm kiếm, nhưng Cha anh em ở trên trời biết anh em có những nhu cầu đó. Trước hết anh em hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn tất cả những sự đó, Ngài sẽ ban thêm cho anh em. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai : Ngài mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).

Sống tín thác trong đời sống vật chất.

– Thật là tốt lành khi được nghe những lời trấn an như thế của Thầy chí thánh. Người ta cảm thấy như được dần dần nâng lên khỏi những dao động của trần thế, và được đưa vào một bầu không khí thanh quang, gần với trời. Những lời đầy thi vị và hình ảnh Đông Phương của Chúa thật là ngọt ngào và đầy sức thuyết phục. Người ta không thể tưởng tượng được điều gì vừa đơn sơ, vừa hợp lý và vừa có sức thuyết phục hơn.

Những lời này dạy ta nhìn mọi sự dưới ánh sáng của đức tin mạnh mẽ nhất, xem tất cả thế giới như sân khấu của sự xắp đặt đầy khôn ngoan và yêu thương của Cha trên trời. Chính Ngài lo cho mọi sự vật, từng sự vật, dầu nhỏ mọn nhất. Một ngọn cỏ, một bông hoa nhỏ ngoài đồng cũng là đối tượng của sự chăm lo của Ngài. Con sâu nhỏ nhất, con chim sẻ bé nhỏ, đều nhận được lương thực từ tay Ngài. Ngài nghĩ đến những nhu cầu vật chất của những loài thấp kém đó. Phương chi Ngài sẽ càng lo cho những nhu cầu của chúng ta, những đứa con của Ngài, vì chúng ta gọi Ngài là Cha chúng ta. Vậy chúng ta đừng lo lắng “như những người ngoại giáo !”. Cha chúng ta ở trên trời biết chúng ta có những nhu cầu đó.

Những lời Chúa Giêsu giảng dạy các môn đệ đã hai ngàn năm như thế, đã vang dội khắp các nước trên thế giới. Qua các thời đại, những lời này đã nuôi dưỡng và củng cố niềm tín thác cho biết bao vị thánh nam nữ, biết bao vị sáng lập các dòng tu, nhất là các tu hội hành khất, vì các ngài đã trông cậy vào sự nuôi dưỡng của Cha trên trời. Và ngày hôm nay, chính những lời đó của Chúa Giêsu đã gây dựng nên hàng ngàn tu hội dòng nam nữ, sẵn sàng hiến tất cả cho những người nghèo : thời giờ của mình, những sự chăm lo của mình, tình thương và cả những tài sản cuối cùng của mình. Giữa những vật lộn ngày càng gay cấn để sống còn, và ngược hẳn với những lo toan qúa đáng của thời đại siêu văn minh của chúng ta, hàng ngàn hàng vạn những linh hồn được đào tạo bởi những lời thần linh của Chúa Cứu Thế, đang sống ngày nào biết ngày đó, trong tâm tình thanh thản, trông cậy mọi sự nơi Cha trên trời là Đấng nuôi dưỡng các chim trời và các bông huệ ngoài đồng.

Có thể chính bản thân tôi cần suy gẫm nhiều về những lời rất tốt lành này. Quan niệm hằng ngày của tôi về thế giới, quan niệm thực hành chớ không phải quan niệm lý thuyết, có lẽ đã phần nào bị nhiễm chủ nghĩa duy vật ? Khi tôi bị một cơn bệnh hoành hành, khi một thất bại khiến tôi buồn sầu, khi người ta nói những lời xúc phạm đến tôi, một niềm tin sâu sắc có cho tôi thấy bàn tay của Thiên Chúa trong tất cả các sự việc đó chăng ? Hay là tôi đã quên rằng tất cả mọi sự dệt lên cuộc đời tôi, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, đều do Cha trên trời đã muốn và đã cho phép xảy ra vì yêu thương tôi ? Tất cả mọi sự đều được Ngài sử dụng như dụng cụ để giúp tôi dứt mình ra khỏi trái đất này, dứt mình tôi ra khỏi chính bản thân mình để gắn bó với một mình Ngài mà thôi. Một người mẹ nuôi con mình bằng sữa mình, cũng không chăm lo cho con mình bằng Thiên Chúa chăm lo cho mỗi người chúng ta, cho riêng bản thân tôi. Ngài bảo vệ tôi, nuôi dưỡng tôi, lo cho tôi sống cách tự nhiên và cách siêu nhiên, y như thể chỉ có một mình tôi trên thế gian này.

Nhiều khi vì thiếu tín thác, vì không sống tín thác, tôi đau khổ lắm. Đáng buồn thay ! Những đau khổ đó không phải là những thánh giá Chúa gửi cho tôi, nhưng đó là thánh giá tôi đã tạo ra cho mình. Tôi nghiền ngẫm cách vô ích và mãi mãi những đau khổ, những ưu phiền và những thử thách đã qua. Tôi buông lỏng cương cho trí tưởng tượng, và trong cảnh lo âu đó, tôi tự làm khổ mình về những bất trắc có thể sẽ không bao giờ xảy ra cho tôi. Tôi tự làm khổ mình bằng những đau khổ mà tôi nhớ lại đó và bằng những sự sợ hãi vô căn cớ. Tôi sẽ an vui hơn biết bao, sẽ can đảm hơn biết bao, nếu tôi gạt bỏ đi tất cả những lo nghĩ vô ích đó và sống theo lời khuyên của Thầy Chí Thánh : “Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có đủ cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34).

Sống tín thác trong cuộc đời thiêng liêng.

– Tôi phải tín thác, để Chúa lo cho thân xác tôi và những nhu cầu vật chất của thân xác tôi. Tôi càng phải tín thác để Ngài lo lắng cho linh hồn tôi. Điều này qúa hiển nhiên. Nếu Thiên Chúa tỉ mỉ chăm lo mọi nhu cầu vật chất cho tôi, Ngài còn âu yếm chăm lo gấp trăm ngàn lần cho linh hồn tôi, vì linh hồn qúi trọng muôn ngàn lần hơn thân xác. Mỗi bông hoa nhỏ đều được Ngài yêu qúi chăm lo, chắc Ngài còn chăm lo biết bao hằng ngàn bông hoa tốt đẹp là các nhân đức của linh hồn tôi : Ngài lo cho những nhân đức đó tươi nở, làm vui lòng và vui mắt Ngài, Cha nhân từ của chúng ta. Mỗi ước nguyện tốt lành và thánh thiện của tôi sẽ là một nụ hoa được Ngài yêu qúi chăm sóc, cho tới khi nó nở ra hoa, và Ngài sẽ lo cho nó kết qủa, những qủa ngon ngọt.

Tất nhiên, hành động đầy yêu thương của Ngài thường kín đáo. Đôi khi Ngài cũng cho ta cảm thấy Ngài : Ngài làm cho linh hồn tôi vui sướng vì tác động dịu dàng của Ngài, vì cũng có lúc Ngài cho tôi cảm thấy sự hiện diện mến yêu của Ngài. Vào những lúc đó, những lúc diễm phúc đó, tôi kêu lên như thánh Bênađô : “Chỉ ai có kinh nghiệm mới có thể tin : Yêu mến Chúa Giêsu ngọt ngào dường nào !”[3].  Nhưng thông thường, Ngài ẩn mình đi, để tôi có vẻ như cầu nguyện một mình, chiến đấu và làm việc một mình vì lòng yêu mến Ngài. Người ta không cảm thấy hành động thiêng liêng của Ngài. Đôi khi Ngài còn có thể cho tôi có cảm tưởng đau đớn và thần bí của sự đi khỏi của Ngài. Tôi tưởng như đã làm phiền lòng Ngài : sự khô khan và những chán nản đã tràn vào linh hồn tôi.

Những khi đó, hãy tín thác ! Không, Chúa Giêsu không bỏ tôi, để tôi làm việc và chịu đau khổ một mình đâu ! Ngài không bỏ rơi tôi đâu. Ngài không để tôi uổng phí thời giờ qúi báu để nên thánh đâu. Nếu Ngài ẩn mình lâu, có thể rất lâu, thì đó chỉ là cách thế của Ngài, để làm cho lửa mến của tôi càng bốc cháy lên. Hãy tin tưởng và tín thác nơi Ngài ! “Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng tiền nhỏ, phải không ? Vậy mà không một con nào rơi xuống đất mà không có phép Cha Thầy. Cả những sợi tóc trên đầu anh em cũng đã được đếm hết” (Mt 10,29). Vậy chúng ta đừng sợ gì hết ! Linh hồn tôi đã được thần linh hóa bởi ân sủng và được trang hoàng bằng các nhân đức, thì có giá trị hơn những con chim sẻ nhiều.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa năng nhắc lại cho linh hồn con nghe những lời đầy khích lệ của Chúa. Trong sự thinh lặng của mọi sự, xin dạy con hiểu ý nghĩa sâu xa của những lời giảng dạy của Chúa. Xin giúp linh hồn con vượt qua mọi lo lắng của cuộc sống vật chất, cũng như những lo âu vô cớ của đời sống thiêng liêng. Đó là những mảnh lưới giam hãm linh hồn con, xin cho con được biết sống tín thác, một niềm tín thác ngày càng trọn vẹn, để linh hồn con được giải thoát, và bay lên tới những miền đầy ánh sáng thần linh của Chúa, linh hồn con sẽ say sưa mến yêu Chúa vì được chiêm ngưỡng những phẩm tính thần linh của Ngài.

Paul De Jaegher S.J.

 

[1] Chúng ta có thể tin chắc rằng Chúa luôn trung thành với lời hứa : Ngài sẽ ban ơn ta xin, hoặc một ơn khác tương tự và thường qúy trọng hơn.

[2] Chúng tôi thấy cần phải nhấn mạnh đến yếu tố tin tưởng và tín thác trong niềm tin của người ta.

[3] Hymne : Jesu dulcis memoria.

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 23. Để Nên Giống Chúa

Bạn thân yêu, hai người yêu nhau tự nhiên muốn nên giống nhau, giống nhau từ lời ăn tiếng nói, đến cách cử chỉ ăn mặc.

Viết đến đây, tôi nhớ đến truyện mấy người học trò bắt chước thầy họ, trong hết mọi cái họ bắt chước được: lời ăn tiếng nói, cách viết văn, cho đến lối viết chữ. Hễ cái gì của thầy họ, là họ muốn biết và làm theo. Có những bức thư thật dài, họ cũng không ngại chép lại hết và học thuộc lòng.

Ấy là một tính cách của tình yêu.

Vậy nếu Bạn mến Chúa thật, thì thế nào Bạn cũng phải muốn nên giống Chúa. Không nên giống người yêu, không yêu cái người yêu yêu, thì tình yêu ấy không lấy gì làm vững chắc mặn mà.

Tôi chắc Bạn muốn nên giống Chúa, vì Bạn thực tình mến Chúa. Vậy Bạn có biết Chúa đã làm gì lúc còn sống không? Có phải Chúa đã sống một cuộc đời xa hoa lộng lẫy, một cuộc đời quý phái trưởng giả, có phải Chúa đã sống một cuộc đời lên xe xuống ngựa, nằm trên chăn bông, ngồi trên nệm gấm không? Có phải Chúa đã sống một cuộc đời yểu điệu kiều dưỡng hay ít ra cuộc đời tạm gọi là đầy đủ không? Không, sách Phúc âm đã nói trái lại, và chính Phúc âm cũng không tả hết cuộc đời đau khổ của Chúa. Sách phúc âm chỉ thuật lại một phần rất nhỏ như chính Thánh Gioan đã quả quyết [47]. Ấy thế mà khi đọc Phúc âm, ta thấy đời Chúa là một cuộc đời đau thương khổ não, một đời hàn vi thanh bạch, trăm đường phiền muộn. Từ khi giáng thai, trong lòng Đức Mẹ, cho đến khi chịu táng trong mồ, không giây phút nào là không đau khổ thiếu thốn: “Con cáo có hang, con chồn có tổ, Con Người không có nơi dựa đầu” [48]. Chính Chúa đã phán về mình như thế. Khổ hơn nữa, là vì Chúa có thể sống một cuộc đời lộng lẫy, Chúa có thể tránh được hết mọi sự đau khổ dù nhỏ đến đâu, nhưng vì không thèm những cái vui hèn, dù là những cái vui chính đáng, nên Chúa đã chọn lấy một cuộc đời tràn ngập đau đớn, đau đớn ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Chúa đã biến thành “Người đau khổ” [49]. Tôi không cần thuật lại sách Phúc âm, vì Bạn đã hoặc sẽ nghe đến nhiều lần. Tôi chỉ cần nhắc lại cho Bạn biết rằng: Chúa đã chịu đau khổ, và đau khổ không miệng nào, không bút nào tả được.

Không những thế, Chúa lại còn nhìn cuộc đời đau khổ với đôi mắt lạc quan.

Khi phán về sự thương khó, Chúa đã phán: “Ta phải chịu rửa bằng máu, và Ta khát mong chóng được rửa như thế chừng nào!” [50]. Và như tôi đã nói trong bài “tiếng lòng”, tuy Chúa tha phép cho phần cảm giác được rùng mình sợ hãi, nhưng lúc nào Chúa cũng tỏ ra Người yêu sự đau khổ. Trên Thánh giá, sau khi chịu hết các giống hình khổ, Chúa đã thốt ra lời: “Mọi sự đã hoàn tất [51]. Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” [52].

Khúc ca khải hoàn ấy, các bạn hữu Chúa cũng đã ca theo. Kìa, các Thánh Tông đồ khi bị tra tấn, sỉ nhục… ra khỏi tòa, các Đấng đã tỏ lòng vui mừng vì đã đáng chịu khó vì Chúa [53].  Kìa, các thánh Tử đạo, khi đến pháp trường thì vui mừng sung sướng như người khác đi ăn tiệc. Ấy là chưa nói đến các thánh Tu hành hãm mình trong rừng vắng, ấy là chưa kể đến các thánh Đồng trinh giam hãm mình trong bốn bức tường, hy sinh cho bạn chí thánh. Bà Bá tước thành A- lăng-xông (Alenson), thấy ngọn lửa tràn đến để thiêu Bà, Bà nói với vị nữ tu đứng bên cạnh: “Chị này, giờ tỏ lòng mến Chúa đã đến, ta hãy vui mừng”.

Thánh nữ Delphine (Đen-phin) một lần hỏi bạn người là Thánh Elzéar (En-dê-a) làm sao người có thể giữ mình bình tĩnh khi gặp sự sỉ nhục ghê gớm như thế, bạn Người thưa: “Khi người ta làm sỉ nhục tôi, tôi nghĩ đến Chúa Cứu Chuộc chịu nhục nhã trên Thánh giá, và tôi suy đi suy lại cho đến khi tôi thấy mình được bình tĩnh hẳn”.

Vậy tôi cũng xin nói với Bạn, nếu Bạn muốn nên giống Chúa, thì chỉ có một con đường phải theo là con đường đau khổ, con đường Thánh giá, con đường chông gai, con đường đi đến chỗ chết, chết dần chết mòn, chứ không phải chết dưới lưỡi gươm của đao phủ hoặc sau tiếng nổ của phát súng… đó là con đường ta phải đi theo. Nếu ta đi đường khác thì thế nào cũng lạc.

Nếu bạn thật lòng mến Chúa, thì Bạn hãy vui lòng can đảm bước lên chông gai; nếu cần, bạn hãy bước qua lửa, để đi đến cùng Chúa, Chúa đã đi trước, các môn đệ trung thành của Chúa cũng đã bước theo chân Chúa, và hết thảy chúng ta cũng phải đi theo, theo cho tới ngày gặp Chúa trên nơi hằng sống.

Hay ta muốn vừa mến Chúa, vừa không nên giống Chúa? Không, không được. Không nên giống Chúa, thì không thể nói là mình mến Chúa được. Cái ấy không cần phải minh chứng. Nếu ta không muốn nên giống Chúa, thì muốn nên giống ai? Nếu không muốn nên giống Chúa thì chỉ mến Chúa ngoài miệng, chứ không phải mến Chúa thật trong lòng. Mà những người chỉ mến Chúa ngoài miệng ấy, đáng nghe lời Chúa đã phán với dân Do Thái xưa: “Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng nó ở xa Ta” [54], và lời này: “Bay hãy xéo đi, Ta không biết chúng bay là ai” [55]

Bạn thân mến, tôi muốn thành thật và sung sướng nói về Bạn rằng: “Người này mến Chúa thật lòng, chứ không phải mến Chúa ngoài miệng, vì suốt đời đã nhẫn nại chịu đau khổ, đã hy sinh để đẹp lòng Chúa, và nên giống Chúa”. Tôi cầu chúc cho Bạn được ơn ấy, để ngày phán xét, Chúa phán cùng Bạn. “Hỡi con yêu quý, vì con đã giống Cha hoàn toàn, nhất là đã nhẫn nại chịu đau khổ khi còn ở thế gian, thì con hãy lại gần đây, để Cha hôn con lần đầu hết, và đem con vào chốn cả sáng đời đời, đã dọn cho những kẻ suốt đời ra sức nên giống Cha”.

Ôi, còn hạnh phúc nào cao quý và đáng ước ao bằng hạnh phúc ấy!

Bạn nghĩ sao?

Vậy ta hãy can đảm mà chịu khó đi, ta đừng phàn nàn năn nỉ nữa, ta hãy để Chúa trước mắt mà suy ngắm và hãy cố gắng nên giống Chúa: Yêu đau khổ, nhẫn nại chịu đau khổ và vui mừng chịu đau khổ. Ta hãy cầu nguyện cho nhau được vui lòng hy sinh chịu khó để nên giống Chúa ở đời này, đời sau ta sẽ cùng nhau nghe tiếng êm ái Chúa mời gọi vào chốn cực lạc.

 

[47] Gioan 21,25

[48] Matt. 8, 20

[49] Tv. 21,7

[50] Luca 12,50

[51] Gioan 19,30

[52] Luca 23,46

[53] CVTĐ 5,41

[54] Matt. 15,8

[55] Matt. 25,12

 

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

Hạnh Phúc – Chương 1 - 9. ĐIỀU BÍ ẨN

Thế giới hiện đại yêu thích đến lạ lùng những điều bí ẩn… bí ẩn của độ sâu, những căn hầm tối của kiếp nhân sinh, bí ẩn trong sự ngụp lặn phân tích những vùng phi nhân trong cuộc sống của chúng ta. Sự lôi cuốn này một phần là phản ứng chống lại một đối cực khác. Cách đây một thế kỷ, người ta tự tin rằng mình đã đạt đến một cấp độ sống mới mẻ và cao hơn. Họ kháo nhau nào là đã tạo được những tiến bộ vững chắc, nào là sẽ chinh phục được cái chết, nào là sẽ biến con người nên thánh nên thần, nào là biến đổi trái đất này thành thiên đàng trần gian.

Giờ đây thì những giả định kiêu kỳ ấy của cha ông chúng ta đã nhường bước cho nỗi tuyệt vọng của con người thời đại chúng ta. Sau khi đạt tới điểm chóp bu trong độ cao không tự nhiên của mình, con người đã rơi vào độ sâu khủng khiếp nhất của nỗi tuyệt vọng. Nhiệt tình hồ hởi quá mức đã nhường bước cho sự ngán ngẩm, niềm hy vọng tìm được sự khoái lạc to tát hơn đã nhường bước cho nỗi chán ngấy, sự tự buông lỏng quá độ trong những niềm hy vọng ngất ngây của thành công nhất thời đã nhường bước cho sự nôn mửa.

Hiện có hai nhóm chuyên gia về điều bí ẩn đang đồng tâm hiệp lực với nhau: một nhóm thì phân tích các công nhân xét dưới khía cạnh là “các nhóm quần chúng”, nhóm kia thì nghiên cứu tiềm thức của con người xét về mặt cá thể. Con người trở nên “quần chúng”, bị một tay độc tài lôi kéo là họ đánh mất ý thức trách nhiệm và sự tự chủ của mình. Trong tình trạng như thế, họ có thể trở thành miếng mồi của các thế lực ngoại bang, bên ngoài, điều này đánh dấu bước yêu cầu thứ nhất của chính thể độc tài. Các nhà Cộng sản và Phát xít nghiên cứu kỹ điều này.

Nhóm chuyên viên thứ hai về điều bí ẩn thì nghiên cứu lãnh vực nằm dưới lý trí, không tự nguyện, chưa đạt tới nhân tính nơi trí khôn của con người tức phần tiềm thức, nơi đây trí năng thường phóng ra những mảnh tư tưởng bị khước từ. Thực ra, tiềm thức có ảnh hưởng trên động thái của con người, tuy rằng nó không phải là tác nhân duy nhất cũng chẳng phải là tác nhân có tầm quyết định cuối cùng. Vết nứt nơi quả sồi từ đó cây sồi sẽ phát sinh có thể cắt nghĩa một phần hình dạng của nó, tuy nhiên ánh sáng, sức nóng cũng như những năng lực vô hình của sự sống cũng góp phần tạo nên hiện trạng của cây sồi.

Hai nhóm đồng nghiên cứu về điều bí ẩn trên đã trao tặng cho chúng ta một mấu chốt nói về thời đại này như sau: con người luôn có khuynh hướng nghĩ hoả ngục là những vùng âm cảnh giống như Virgil từng mô tả; và mặc dù Giáo hội không bao giờ giảng thuyết về một thứ hoả ngục thuộc lãnh vực địa lý, nhưng tưởng tượng thông thường vẫn đặt nó nằm dưới lòng đất. Kết quả là bất cứ lúc nào quan tâm của quần chúng hướng sang một sự gì có tính cách “Tiềm (hoặc bí ẩn)…” thì xét về mặt tâm lý vấn đề hoả ngục lại thường trở về ẩn núp đàng sau tâm trí của cả một thế hệ các nhà tư tưởng lẫn người độc giả.

Những người đang tập trung chú ý vào lãnh vực tiềm thức… những người hy vọng nhờ vào sự nghiên cứu libido (sinh lực) cũng như những bản năng tính dục mà có thể giải quyết các vấn đề cuộc sống của mình… là những người đang tìm kiếm hạnh phúc trong những vùng bí ẩn nơi mà chẳng bao giờ hạnh phúc được tìm thấy. Chỉ nhờ vào việc sử dụng lý trí và ý chí (giống như Chúa) mà con người mới có thể tìm được bình an. Bi kịch của thời đại chúng ta chính là nỗi tuyệt vọng của sự thành tựu. Nói rõ hơn là nỗi khốn khổ không bắt nguồn từ sự thất bại của các kế hoạch mà lại do nơi sự kiện là sau khi thực hiện chúng rồi con người vẫn không tìm được hạnh phúc. Mọi thứ mà họ ao ước có được (chẳng hạn của cải vật chất cũng như vinh thắng nhất thời) sau khi bị chiếm hữu rồi, lại trở thành Hư Không. Và hư không chính là đối cực với Thiên Chúa và sự tạo dựng của Ngài. Hoả ngục chính là cái tôi sau khi chán ngấy với những ước muốn riêng đã được thoả mãn, hiện đang tự vĩnh viễn tiêu hao chính mình mà không hy vọng được buông tha.

Thế giới hôm nay đang trông chờ một sự phục sinh. Đám quần chúng bị các quyền lực độc tài dìm xuống đang mong chờ phá được vòng siết ngõ hầu có thể được tự do hành động theo quyền hành của mình như họ đã làm khi viết ra Hiến pháp của chúng ta. Bởi vì Hiến pháp xác định: “Chúng tôi nhân dân hiệp chủng quốc”, quyết định và thiết lập nên một chính quyền. Tương tự như thế, những tâm hồn cá thể đang bị nhốt trong nỗi cơ cực của những cái ngã tiềm thức… những kẻ đang sinh hoạt ở một cấp độ phi nhân thuộc lối sống bản năng đầy thú tính… Cần có được một cuộc phục sinh để mang họ lên từ nấm mộ mà sự chán ngấy đã đặt họ vào đó. Chính họ cũng đang mong chờ ánh sáng.

Trong cái trứng, có chứa đựng sự sống, nhưng để cho sự sống trồi ra thì phải đập vỡ cái vỏ. Đời sống cũng ẩn tàng nơi đám quần chúng bị hủ hoá cũng như nơi các tâm hồn cá thể bị chôn vùi, bị thất vọng. Tuy nhiên đối với cả hai dạng người trên, cần phải phá vớ cái vỏ bao bọc họ, và phải phá vỡ từ bên ngoài. Chắc hẳn cần phải có một năng lực thần linh, chứ không phải nhân lực, để phá vỡ cái vỏ này.

Mỗi linh hồn cần phải tự hỏi chính mình: Tôi muốn tiếp tục sống trong cái vỏ ấy hay là tôi muốn được mang đến một lò ấp thiêng liêng? Những kẻ ở bên trong các cái vỏ này có thể thoát ra được nếu họ bằng lòng để cho Chúa giải phóng họ bằng cách nghiền nát đi cái vỏ ích kỷ mà trong đó họ bay lượn ra khỏi ánh sáng của Ngài.

Đây là vấn nạn nghiêm trọng cần được trả lời. Và những kẻ từ chối không chịu nghiêm chỉnh suy xét bất cứ vấn đề luân lý và thiêng liêng nào cả thì rốt cuộc sẽ lại trân trọng cái hư không là vùng đất luôn luôn mang chiều kích bí ẩn. Còn nếu chúng ta biết trân trọng linh hồn thì chúng ta có thể đảm đương mọi điều khác một cách khá nhẹ nhàng, và đây là bước đầu đi đến hạnh phúc, ngay ở đây và cả mãi sau này.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương III: TÍN THÁC THẬT VÀ TÍN THÁC GIẢ

I. TÍN THÁC GIẢ, DỰA VÀO BẢN THÂN MÌNH. TÍN THÁC ĐÍCH THỰC VÀ TINH RÒNG, HOÀN TOÀN DỰA VÀO NHỮNG SỰ TỐT LÀNH CỦA CHÚA.

– NHỮNG THỬ THÁCH LÀ LÒ LUYỆN VÀ THANH TẨY NIỀM TÍN THÁC.

–  ÁP DỤNG VÀO NHỮNG KHÓ KHĂN VẬT CHẤT.

–  VÀO NHỮNG KHÓ KHĂN THIÊNG LIÊNG.

Tín thác giả, dựa vào bản thân mình.
Tín thác đích thực và tinh ròng, hoàn toàn dựa vào những sự tốt lành của Thiên Chúa
.

– Chính Chúa Giêsu đã nói : trong cánh đồng của chủ nhà, kẻ thù đã gieo cỏ lùng vào giữa những hạt giống tốt. Đáng buồn thay ! Chúng ta có quá nhiều kinh nghiệm về chuyện này. Giữa những bó lúa của lòng mến tinh ròng và tín thác đích thực, ma qủi và bản tính xấu xa của ta đã chỉ gặt hái được cỏ lùng của tính tự ái và của sự tin tưởng nơi mình.

Chúng ta đã thấy hai nhân đức cậy và mến, tín thác và yêu mến, kết hiệp mật thiết với nhau và cùng nhau phát triển. Hai kẻ thù của hai nhân đức này cũng kết hiệp với nhau : cỏ lùng phá hoại lòng mến yêu tinh ròng là tính tự ái, và cỏ dại phá hoại niềm tín thác tinh ròng, tức tin tưởng và tín thác nơi Thiên Chúa, là sự dại dột tin cậy vào bản thân mình.

Để thấy rõ niềm tín thác đích thực và tinh ròng là gì, chúng ta phải phân biệt nó với sự giả tạo của nó là sự tín thác giả. Mến yêu Chúa và tín thác nơi Ngài là hai qúi kim : đó là thứ vàng ròng ít khi gặp đựơc ở tình trạng tinh ròng. Làm thế nào để phân biệt đức mến tinh ròng với môt lòng mến yêu pha phôi, và làm sao phân biệt niềm tín thác đích thực và tinh ròng với niềm tín thác pha phôi giả dối, tức niềm tín thác xấu ? Các qúi kim được thanh tẩy trong lò lửa : chính đó là nơi chúng trút bỏ được những kim loại xấu đã được trộn vào chúng.

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Lò đúc của những thử thách và những gian truân sẽ phân tách tình yêu Thiên Chúa ra khỏi lòng yêu bản thân mình, và tách rời niềm tín thác nơi Chúa ra khỏi sự cậy trông vào mình. Bấy giờ mới thấy rõ những yếu tố của hợp kim này.

Một sự kiện tâm lý mà chúng ta có kinh nghiệm thường ngày là : trong khi đau yếu, gặp đau khổ, bị chống đối, bị cám dỗ, rồi những khô khan, những lỗi lầm, chúng ta cảm thấy niềm tín thác yếu đi và có vẻ như đã bỏ rơi chúng ta. Trước đây chúng ta đã có niềm tín thác nơi Thiên Chúa, vì thấy rõ Ngài là người Cha nhân hậu, nhưng rồi bệnh tật đã làm chúng ta chán nản và đau khổ. Nó đã cản trở không cho chúng ta làm việc và xả thân cho Chúa như chúng ta muốn. Mọi sự trở thành mờ ảo trước mắt chúng ta. Chúng ta cảm thấy chóng mặt. Và chúng ta bắt đầu nghi ngờ lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nghi ngờ sự ân cần lo lắng của Ngài đối với chúng ta, nghi ngờ sự quan phòng khôn ngoan của Ngài. Có thể một làn mây mù dày đặc của thuyết duy vật đã xâm chiếm tâm hồn chúng ta.

Cũng có thể chúng ta đang được hưởng những an ủi thiêng liêng. Trái tim chúng ta đã nóng nảy và nhiệt thành, và có thể chúng ta đã sẵn sàng kêu lên như vị tông đồ nhiệt thành, nhưng quá tự tin vào mình : “Lạy Thầy, chúng con sẵn sàng chết với Thầy” (Mt 26,35). Thế rồi Chúa Giêsu biến đi. Sự hiện diện dịu dàng và ấm áp của Ngài không còn nâng đỡ chúng ta nữa, không còn làm say mê chúng ta nữa. Chúng ta tự cảm thấy mình đáng thương, lạnh lẽo, và buồn rầu. Và thảm hại dường nào ! Chỉ cần một câu chuyện không đâu, vài tiếng cười nhạo của một người đầy tớ gái là có thể khiến ta chối bỏ những tâm tư của mình. Niềm tín thác của chúng ta đã tan bay.

Vâng, cái lò luyện của các gian truân và trăm ngàn thánh giá dệt lên tấm vải đời sống thiêng liêng của chúng ta, sẽ tỏ rõ cho chúng ta, sẽ cho ta có dịp sờ thấy phẩm chất yếu kém của niềm tín thác của chúng ta.

Sức mạnh của niềm tín thác đã bỏ rơi ta, đã phản bội ta, bởi vì niềm tín thác của ta không tinh ròng : nó bị pha trộn qúa nhiều những sự cậy trông giả dối, cậy trông vào sức loài người : Niềm tín thác tinh ròng phải là niềm tín thác hoàn toàn dựa vào những sự tốt lành vô cùng của Thiên Chúa : quyền năng của Ngài, sự khôn ngoan của Ngài, sự quan phòng đầy yêu thương của Ngài, lòng nhân hậu vô cùng của Ngài và tình thương vô cùng thương xót của Ngài. Niềm tín thác đích thực thì luôn luôn nhìn vào Thiên Chúa. Trái lại những khiếm khuyết làm hư niềm tín thác, khiến nó trở thành một thứ hàng giả tồi tàn, đó là những sự cậy trông vào con người, tin tưởng vào sức mình, vào các tài năng và những kế hoạch của mình, tin tưởng vào bạn hữu, tin tưởng vào các nhân đức của mình. Niềm tín thác giả dối là niềm tín thác chỉ nhìn vào sức mình.

Ôi ! Có qúa nhiều hàng giả của nhân đức qúi trọng này, nhân đức tín thác. Có đủ mọi thứ và đủ mọi kiểu. Có niềm tín thác mà thật sự chỉ là một thứ tính toán xác suất. Chúng ta tưởng sống tín thác nơi Chúa và chúng ta bước đi vui vẻ trong cuộc sống, vì tin vào thành công của những nỗ lực của mình. Nhưng Thiên Chúa phá hỏng các kế hoạch của chúng ta. Ngài búng ngón tay một cái, thì tòa nhà bằng các-tông của chúng ta đổ nhào ! Cũng có thứ tín thác nơi Chúa, dựa vào một nhận thức chưa đầy đủ về lòng nhân hậu của Ngài, và còn ít cảm nghiệm về tình thương vô cùng của Ngài : đây là một niềm tín thác tinh ròng hơn và có chân giá trị hơn, nhưng rồi những khó khăn và những lỗi phạm đã làm cho nó yếu đi một cách rõ ràng vào những thời gian đó. Nhưng mức độ pha trộn của các sự bất toàn là thế nào đi nữa, thì vẫn là chuyện pha trộn với nhiều mức độ khác nhau của niềm tín thác nơi Chúa và sự tin tưởng nơi các phương tiện nhân loại của ta.

Niềm tín thác của nhiều linh hồn giống như ngôi nhà Chúa Giêsu nói tới trong Tin Mừng. Ngôi nhà được xây trên nền cát của những phương tiện nhân loại. Nó coi bộ khá đẹp, khang trang và tồn tại với thời gian. Nhưng rồi có những cơn gió mạnh, trời mưa lớn, bão táp đổ tới, thế là ngôi nhà đáng thương hại đã sụp đổ cách thảm hại. Rất ít những linh hồn ưu tuyển, biết xây dựng niềm tín thác như một đền thờ kính dâng Chúa, đặt nền móng trên tảng đá vững vàng của những sự tốt lành của Thiên Chúa. Mưa lớn có đổ xuống, gió bão có ùa tới, cũng không lay chuyển được niềm tín thác vững vàng này.

Những thử thách là lò luyện và thanh tẩy niềm tín thác.

– Chúng ta đã có thể thoáng nhìn thấy những gì sẽ dẫn đưa chúng ta tới niềm tín thác đích thực và tinh ròng, gột sạch mọi thứ pha trộn. Đó là tất cả mọi loại thử thách mà Chúa sẽ gửi đến cho ta, đó là các thánh giá đủ thứ mà sự quan phòng khôn ngoan của Ngài sẽ cho chúng ta trải qua với tình thương bao la, để giúp chúng ta có một nhận thức sâu xa bằng kinh nghiệm, về lòng nhân hậu và quyền năng vô cùng của Ngài, cũng như về sự xấu xa và bất lực của mình. Giống như vàng qua các lò luyện, niềm tín thác của chúng ta sẽ phải thanh tẩy, để bỏ đi sự tin tưởng vào bản thân mình và vào các phương tiện trần thế của mình.

Có thể sẽ cần nhiều thử thách để chúng ta thấy một cách thấm thía sự yếu hèn của các nguồn sức mạnh của con người chúng ta, của các bạn hữu, các vị bảo hộ, của tài sản và tài lực của ta, hầu khiến chúng ta thất vọng về mọi sự, và nhất là thất vọng về bản thân mình. Có thể phải hơn một lần, chúng ta bị đẩy vào con đường cùng, phải thất vọng giơ hai tay lên kêu cầu Chúa, và sau khi đã nếm thử sự phản bội cay đắng của các phương tiện của con người, chúng ta được vui sướng nếm sự ngọt ngào của quyền năng Thiên Chúa và của sự quan phòng rất âu yếm của Ngài đối với chúng ta.

Nhất là trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải thấy đi thấy lại sự nghèo hèn của mình, sự bất lực, những nết xấu và những sự khốn nạn của mình, để khiến chúng ta thật sự hết tin tưởng vào mình. Phải thấy rõ sự tương phản lớn lao giữa quyền năng,  sự thánh thiện và lòng nhân hậu của Thiên Chúa một bên, và bên kia là sự khốn khó và những điều khốn nạn vô kể của ta, để làm cho ta hoàn toàn thất vọng về mình và đặt tất cả niềm tin nơi một mình Thiên Chúa, cũng như phải cảm nghiệm thấm thía về sự tương phản giữa lòng nhân hậu đáng mến vô cùng của Chúa và sự tốt đẹp vô cùng của Ngài một bên, và bên kia là sự xấu xa và vẻ đáng ghét của ta, để làm cho ta chê ghét bản thân mình và mến yêu Thiên Chúa.

Tất cả chúng ta đều giống các tông đồ của Chúa xưa. Việc đào tạo chúng ta diễn ra chậm chạp và khó nhọc. Phải có nhiều sự bày tỏ của Chúa, những phép lạ của lòng nhân hậu, của tình thương và quyền năng của Ngài để làm cho chúng ta tin tưởng vào Ngài. Sau nhiều lần cảm nghiệm thấy quyền năng của Ngài, và phấn khởi được Ngài an ủi, chúng ta đã tưởng có thể vững chân bước đi trên những đợt sóng, nhưng chỉ cần một cơn gió của sự khô khan, hoặc một làn sóng của sự chán nản, cũng đủ làm cho chúng ta hoảng hốt kêu lên : “Lạy Chúa, xin cứu con, con chết mất” (Mt 8,25). Ôi ! Sẽ còn cần những phép lạ của Chúa Giêsu, những chứng cớ của lòng nhân hậu Ngài đối với chúng ta, đối với tôi là kẻ được Ngài yêu thương cách riêng, để niềm tín thác của tôi nơi Ngài trở thành vững vàng không gì lay chuyển nổi. Có thể có lâu, niềm tín thác của tôi vẫn sẽ yếu ớt, dễ dao động. Và khi tôi tưởng nó đã vững vàng và chắc chắn, có thể chỉ cần chướng ngại của cây thập giá hoặc cái chết của Chúa Giêsu cũng đủ sức làm tiêu tan tất cả niềm cậy trông của tôi.

Và rồi chỉ sau khi Chúa Thánh Thần, Đấng Phù trợ sẽ đến, khi Chúa Giêsu sẽ biến mất khỏi mắt tôi, khi “đêm tối của các giác quan và đêm tối của tâm trí” sẽ làm cho vạn vật của thế giới hữu hình này chết đi cho tôi, chỉ khi đó, nhờ hồng ân đạo đức của Chúa Thánh Thần, đầy niềm tín thác mến yêu và yêu mến kính thảo đối với Thiên Chúa, tôi mới có thể tin yêu và tín thác nơi Chúa với niềm tín thác đích thực.

Chúng ta hãy siêng năng cầu xin, và van nài xin Chúa Thánh Thần ban cho ta ơn đạo đức này, vì chỉ có hồng ân qúi báu này của Ngài mới có thể nâng cao niềm tín thác của ta trên mọi thăng trầm của con người. Ơn này là một hồng ân hoàn toàn do lòng thương xót của Chúa, và Chúa Thánh Thần ban cách nhưng không cho những linh hồn khiêm nhường và ước ao sống tín thác. Chính ơn đạo đức này làm cho chúng ta an nghỉ cách thanh thản trong bàn tay Chúa, giữa những xáo trộn và những thăng trầm của đời sống thiêng liêng, như một đứa bé nằm trên lòng mẹ nó. Chính ơn này của Chúa Thánh Thần sẽ làm cho niềm tín thác của chúng ta trở nên táo bạo và anh hùng, như Chúa đã làm cho biết bao vị thánh, cho thánh Phanxicô Xaviê, cho Đấng đáng kính Cottolengo, và nhất là cho thánh nữ nhỏ bé Têrêxa Hài đồng Giêsu.

Áp dụng cho những khó khăn vật chất.

– Sẽ không khó áp dụng những ý tưởng này cho trăm ngàn hoàn cảnh của đời sống, khi mà niềm tín thác của ta xem ra đuối sức và để lộ những bất toàn của nó.

Trước hết là những chuyện liên quan đến cuộc sống vật chất của ta như sức khỏe, cảnh nghèo khó hoặc giàu có, những liên hệ với người khác, công ăn việc làm của ta, việc tông đồ của ta : chúng ta phải hết sức chú ý đừng bao giờ cậy mình, đừng cậy vào sức mình.

Tự nhiên người ta dễ tin tưởng, khi mọi sự xem ra trôi chảy, mọi sự đều thành đạt, cuộc đời có vẻ như một mùa xuân tươi đẹp. Ai cũng biết câu ngạn ngữ : “Anh hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp anh”. Chúng ta không cần phải suy nghĩ nhiều về câu ngạn ngữ này. Giữa bầu không khí tự nhiên và hơi đậm mầu duy vật của thời nay, chúng ta dễ tin câu nói đó, và còn nghĩ qúa đi nữa : chúng ta nhấn mạnh qúa lên phần thứ nhất của câu ngạn ngữ, anh hãy tự giúp mình, và phần thứ hai của câu đó thì ít được ta suy nghĩ tới. Nhưng rồi gặp bệnh tật, gặp đau khổ, gặp những thất bại, thế là ta hết tin cậy vào sức mình và đâm ra rối trí. Đó là lúc chúng ta nhớ lại quyền năng và sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa : quyền năng và tình thương đó diễn ra đúng khi chúng ta gặp khó khăn, và thường đạt tới đích qua con đường ngược với ý nghĩ của chúng ta.

Chắc chúng ta vẫn nhớ câu chuyện của thánh Phanxicô Xaviê, vị tông đồ vĩ đại của miền Nam Á :  Ngài đã từ chối, không chịu nhận những gói thuốc giải độc mà các bạn hữu muốn tặng Ngài khi Ngài lên đường đi đảo More (thuộc Ấn độ). Các thư của thánh nhân còn ghi lại những tâm tình của Ngài như sau : “Nhiều bạn thân của tôi đã làm đủ cách để can ngăn tôi đừng đi đến những miền đất xa xôi đó, vì các dân tộc đó rất đa nghi và độc ác, thường bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống họ đưa cho khách. Vì không can ngăn được tôi, họ đã đem tặng tôi những gói thuốc giải độc. Tôi đã hết lòng cảm ơn tình thương và lòng tốt của họ, nhưng tôi nhất định không nhận những gói thuốc mà họ tặng tôi với biết bao tâm tình và nước mắt. Tôi không muốn mang theo những nỗi sợ hãi, vì tôi không sợ gì hết. Nhất là vì tôi trọn niềm tín thác nơi Chúa, nên không muốn mất đi phần nào niềm tin cậy đó bằng cách dựa vào những phương tiện khác. Tôi đã xin các bạn hữu hãy luôn luôn cầu nguyện xin Thiên Chúa giữ gìn tôi, vì đó là thứ thuốc giải độc tốt nhất mà người ta có thể có được”.

Tất nhiên chúng tôi không nghĩ rằng người ta không nên dựa vào những phương tiện tự nhiên, nhưng những lời này của vị tông đồ vĩ đại miền Nam-Á cho ta thấy niềm tin sâu xa của Ngài, và niềm tín thác anh hùng, hoa trái của hồng ân Chúa Thánh Thần, có thể lên cao tới đâu. Thánh Phanxicô Xaviê đã xứng đáng là con của Cha ngài là thánh Inhaxiô, một người đã tuyên bố sẵn sàng qua biển cả trên một chiếc thuyền không có buồm và không có mái chèo, vì ngài đặt tất cả niềm tín thác nơi Thiên Chúa.

Áp dụng cho những khó khăn thiêng liêng.

– Giống như những thử thách trong cuộc sống tự nhiên, chúng ta cũng gặp đủ thứ khó khăn trong đời sống thiêng liêng. Tất cả các linh hồn đều đã trải qua những khó khăn này : những sự bất trung đối với các quyết tâm, những lúc chán nản, những cơn cám dỗ, những sự thất bại. Những thử thách này lớn lao đến nỗi nhiều khi linh hồn ta cảm thấy chán ngán, nản lòng, không biết xử sự thế nào nữa. Có vẻ như Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta, vì thấy chúng ta qúa xấu xa, không đáng Ngài yêu thương nữa. Mặc cho chúng ta lý luận, mặc cho chúng ta tự nhủ rằng rồi trận bão sẽ qua đi, rồi mây mù sẽ tan bay, mặt trời sẽ lại xuất hiện, nhưng con thuyền bé nhỏ của niềm tín thác của ta xem ra sắp chìm dưới những đợt sóng của nghi nan và ngã lòng.

Đây chính là lúc thuận tiện để tăng cường niềm tín thác của ta, để vững lòng trông cậy Chúa, chống lại sự ngã lòng, và đây chính là lúc để ta đặt tất cả tin tưởng nơi Mẹ Maria, Mẹ rất yêu thương, vì Mẹ là Stella Maris, là ngôi sao biển, soi sáng cho những linh hồn gặp phong ba. Chúng ta cảm thấy mình hết sức khốn cực, nhưng có phải vì thế mà chúng ta mất niềm cậy trông ? Không phải thế. Trái lại, chính sự cảm thấy khốn cực như thế phải tự nhiên khiến ta kêu đến lòng Thương xót vô cùng của Chúa, vì lòng Thương xót của Chúa là nền tảng của niềm cậy trông tín thác.

Những linh hồn trọn lành biết rõ điều này : ý thức đầy đủ về tình trạng khốn khó của ta phải là ngọn gió tốt lành gia tăng niềm tín thác của ta, căng rộng cánh buồm chiếc thuyền của ta, để nó mau vượt tới bậc trọn lành. Chúng ta càng thấy mình khốn nạn, niềm tín thác của chúng ta càng lớn lao, nếu đó là niềm tín thác đích thực. Chúng ta càng hết tin tưởng vào mình thì sẽ càng trông cậy vào Chúa. Chúng ta càng thất vọng về sức mình, chúng ta sẽ càng tin tưởng trọn vẹn vào quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như thánh Tông đồ đã nói : “Khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh sức” (2 Cr 12,10). Khi tất cả mọi sự cậy dựa nơi sức loài người đã thất bại, đó là lúc, hơn bao giờ hết, ta phải cậy trông nơi Cha trên trời vô cùng tốt lành, đang giang tay ra để đón con cái Ngài.

Nếu nghĩ rằng niềm tín thác sẽ suy giảm khi ta càng ý thức rõ hơn về sự khốn khó của mình, thì các thánh sẽ là những người đáng thương hại hơn hết. Bởi vì không ai cảm nghiệm sâu xa về sự bất lực của mình bằng các ngài, không ai thấy mình khốn khó bằng các ngài. Dưới ánh sáng chói lọi của những sự tốt lành của Thiên Chúa, các thánh nhận ra trăm ngàn chi tiết của những sự bất toàn của mình. Các ngài đã thất vọng về bản thân biết bao ! Các ngài đã bao lần chán nản về sức loài người của mình ! Nhưng có phải vì thế mà các ngài buồn rầu và ngã lòng chăng ? Hẳn là không. Thiên Chúa đã chỉ cho các ngài thấy rõ sự hư vô và xấu xa của các ngài, để các ngài càng yêu mến những phẩm tính vô cùng tốt lành của Chúa. Ý thức về sự bất lực của mình đã không làm các thánh chán nản, nhưng hợp với cảm nghiệm về quyền năng đầy yêu thương của Chúa, nó đã gia tăng đức cậy trông và niềm tín thác, mang lại cho các ngài đôi cánh khổng lồ của chim phượng hoàng, bay cao trên những sự khốn khó của con  người, và hướng thẳng lên những tầng cao siêu nhất của đức Ái.

II.  THÁNH NỮ TÊRÊXA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ NIỀM TÍN THÁC TINH RÒNG. CÓ THỂ CHÚNG TA CÓ ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG CẦN THIẾT, NHƯNG CHƯA CÓ NIỀM TIN CẦN PHẢI CÓ.

– CÁC LỖI LẦM CỦA CHÚNG TA KHÔNG NÊN GIẢM NIỀM TÍN THÁC CỦA CHÚNG TA.

– TRÁI LẠI, NHƯ NHỮNG NGƯỜI ĂN XIN, TA PHẢI TÍN THÁC VÌ THẤY MÌNH KHỐN KHÓ VÀ BẤT LỰC.

Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu và niềm tín thác tinh ròng.

– Chúng ta rất cần có những bài học để hiểu biết niềm tín thác đích thực và tinh ròng, thì hạnh phúc thay ! Thiên Chúa đã thương đến chúng ta và đã ban cho chúng ta trong cái thế kỷ đầy nghi nan và nhiễm chủ nghĩa duy vật này vị đại thánh của niềm tín thác là thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu.

Ai đã đọc những trang của chị thánh viết về tình thương đầy thương xót của Chúa, mà không thấy tâm hồn mình thêm niềm tín thác ? Ôi ! Những trang này ngọt ngào và khoái trá cho những linh hồn ước ao nên thánh và nên trọn lành dường nào! Nói về tình thương cảm thông của Thiên Chúa, thánh nữ viết : “Ôi, lạy Chúa Giêsu, xin để cho con được nói với Chúa rằng tình thương của Chúa đã đi tới chỗ điên rồ!… Vậy làm sao tình mến yêu của con lại không bốc lên tới Chúa ? Làm sao niềm tín thác của con còn có thể có những giới hạn?… Ôi, Chúa Giêsu, ước gì con có thể nói cho tất cả những linh hồn bé nhỏ nghe biết về sự chiếu cố khôn tả của Chúa ! Con cảm thấy rằng nếu như Chúa có thể tìm thấy một linh hồn yếu đuối hơn linh hồn con, Chúa sẽ vui sướng ban cho linh hồn đó đầy rẫy những hồng ân lớn lao hơn, miễn là linh hồn đó sống trọn vẹn tín thác cho lòng thương xót vô cùng của Chúa”[1].

Chúng ta thấy đó, chị thánh tín thác như thế không phải vì tự cảm thấy mình mạnh mẽ và thánh thiện. Trái lại, chị thánh đã tự cảm thấy mình hết sức bé nhỏ và bất lực, và càng tự cảm thấy mình bất lực thì càng tin tưởng trọn vẹn vào tình thương đầy thương xót của Chúa.

Tựu trung, đó là khiếm khuyết lớn lao của ta. Phần nào chúng ta có cảm nghĩ về cảnh khốn khó thiêng liêng của mình và về sự bất lực hoàn toàn của mình. Sau biết bao nỗi chán nản, biết bao lần bất trung, biết bao kế hoạch nên thánh bị tan thành mây khói, biết bao tuần tĩnh tâm không mang lại thành qủa nào rõ rệt, làm sao chúng ta không có cảm nghĩ đó ? Dần dần càng lên cao trong đời sống thiêng liêng, chúng ta càng thấy những đỉnh cao của sự thánh thiện có vẻ như càng lùi xa về phía chân trời, và như vậy chắc chắn chúng ta đã có một nhận thức về mình, về tính hư vô của mình, và chúng ta đã có một sự khiêm nhường nào đó. Nhưng đức khiêm nhường chỉ là một cánh của niềm tín thác. Muốn bay lên, nó phải có một cái cánh thứ hai nữa : nhờ vào đức tin mãnh liệt và sống động, nó phải có một nhận thức sâu xa và thực hành về Thiên Chúa và các phẩm tính thần linh vô cùng tuyệt hảo của Ngài : lòng nhân hậu của Ngài, sự yêu dấu đầy lo lắng Ngài dành cho ta và quyền năng vô cùng của Ngài luôn săn sóc cho ta. Đáng buồn thay ! Đức tin của ta thường qúa ít sinh động. Nếu đã có nhiều lúc chúng ta nhận thức rõ ràng sự bất lực của mình, chúng ta lại rất ít cảm nghiệm tình thương vô cùng của Chúa và lòng thương xót rất ân cần của Ngài đối với tôi. Niềm tín thác của ta chỉ có một chiếc cánh là đức khiêm nhường, còn cánh kia là cảm nhận sâu xa về tình thương rất dịu hiền của Chúa thì thiếu hẳn, hoặc có mà tê bại. Như vậy lạ gì niềm tín thác của ta chẳng để ta ngồi lại trên mặt đất, khi ta muốn cất cánh bay lên ? Và lạ gì niềm tín thác chẳng bỏ rơi ta, để ta té xuống, khi ta phải bay trên những khó khăn của mình ?

Ôi, chúng ta phải thường xuyên cầu xin Chúa ban cho hai ơn trọng này, một nhân đức khiêm nhường có cảm nghiệm và kinh nghiệm về mình, để biết mình và hoàn toàn thất vọng về mình, và một đức tin mạnh mẽ và trong sáng để nhận biết những sự toàn hảo vô cùng của Thiên Chúa, lòng nhân hậu, tình thương và lòng thương xót vô cùng của Chúa,  luôn săn sóc và lo lắng cho tôi mà tôi không ý thức. Nếu tôi quảng đại, nếu tôi kiên trì khẩn nài Chúa, Ngài sẽ ban cho tôi tất cả những gì cần thiết để thanh tẩy và hoàn thiện niềm tín thác của tôi.

Thiên Chúa có những phương tiện hết sức hữu hiệu để làm công việc này. Những thử thách thiêng liêng đủ loại sẽ cho tôi khám phá ngay dưới chân mình một vực thẳm hư vô của tôi, khiến tôi trở nên khiêm nhường sâu xa, đồng thời những ân sủng về chiêm niệm và những ơn Chúa Thánh Thần, như ơn khôn ngoan và ơn hiểu biết mà Chúa sẽ đổ xuống trong linh hồn tôi, sẽ cải thiện niềm tin của tôi một cách kỳ diệu, giúp nó nhìn rõ những sự tốt lành vô cùng của Chúa.

Đó là bí quyết của niềm tín thác lạ lùng và không gì lay chuyển của các thánh. Bởi vì, chúng ta đừng bao giờ quên, niềm tín thác là một nhân đức siêu nhiên, vượt quá bản tính và sức loài người chúng ta, cả trong sự phát sinh cũng như trong sự phát triển của nhân đức này. Cho nên việc tập luyện đức tín thác sẽ là công việc của Chúa và các đặc sủng của Ngài, hơn là của hành động và thành qủa những suy gẫm, dầu là rất tốt lành của ta.

Bởi vậy vì Thiên Chúa muốn dạy chúng ta những bài học rất qúi giá về nhân đức rất cần thiết cho ta là niềm tín thác, nên Ngài đã “đặt” trong linh hồn chị thánh Têrêxa thành Lisieux những tâm tình được cảm nghiệm rất sâu sắc về tình thương đầy lòng thương xót của Chúa đối với chúng ta, như chính chị thánh đã nói cho ta biết.

Chúng ta hãy nghe thêm mấy lời dạy bảo của chị thánh mến yêu về đức tín thác, liên quan đến vấn đề nên thánh : “Thưa mẹ, mẹ biết con vẫn luôn luôn ước ao nên thánh, nhưng buồn thay ! Khi con so sánh mình với các thánh, con luôn nhận thấy giữa các ngài và con có một sự khác biệt mà ta nhìn thấy trong thiên nhiên, giữa một qủa núi mà ngọn chạm tới trời xanh, và một hạt cát mà những người đi đường giẵm dưới chân. Nhưng thay vì ngã lòng, con đã tự nhủ : Thiên Chúa không thể gợi hứng cho tôi có những niềm ước vọng không thể thực hiện. Vậy, mặc dầu bé nhỏ, tôi vẫn có thể khát khao nên thánh… Con không thể làm cho mình lớn lên, vậy con phải tự chấp nhận mình như con hiện nay với vô số những khiếm khuyết của con. Và con muốn tìm ra phương thế để lên trời bằng một con đường nhỏ rất thẳng, rất ngắn, một con đường nhỏ hoàn toàn mới. Chúng ta đang ở trong một thế kỷ của những phát minh : bây giờ không còn phải nhọc nhằn leo lên những bậc của cầu thang. Nơi những nhà giàu, một chiếc thang máy đã thay cho cầu thang một cách rất tiện lợi. Con cũng muốn tìm một chiếc thang máy để lên tới Chúa Giêsu, mà con thì bé nhỏ qúa để leo lên cái thang qúa giốc của sự trọn lành !… Ôi Chúa Giêsu ! Chiếc thang máy để đưa con lên trời, chính là hai cánh tay của Chúa ! Muốn được thế, con không cần phải lớn lên, trái lại con cứ phải bé nhỏ, và ngày càng trở nên bé nhỏ hơn. Ôi, lạy Chúa, Chúa đã làm qúa sự mong đợi của con và con muốn ca hát lòng thương xót của Ngài”[2].

Làm sao tìm đâu được một trang sách với những lời khích lệ hơn cho biết bao linh hồn đang khao khát nên thánh hiện nay ? Và trang sách này là của một thánh nữ của thời đại chúng ta, sống đồng thời với chúng ta, mấy chị em của thánh nữ vẫn còn sống: đó là một vị thánh vĩ đại, Đức Piô XI đã gọi chị là vị thánh lớn nhất của thời đại chúng ta.

Những lỗi lầm của chúng ta cũng không nên làm giảm niềm tín thác của ta.

– Nhưng người ta sẽ nói rằng : trong đời sống thiêng liêng, không chỉ có những sự khô khan, những lúc chán nản, những cơn cám dỗ, nhưng còn có những điều phải gọi là những sự khốn nạn : đó là những sự thiếu trung thành, không đáp lại các ân sủng, những sự cứng lòng, những sự nhẹ dạ, những sự thiếu quảng đại, những yếu đuối, cả những sa ngã nữa. Có vẻ như, ít là những khiếm khuyết này, mà chúng ta gọi là những sự khốn nạn bẩm sinh của chúng ta, phải làm giảm niềm tín thác của chúng ta, và chắc chắn đã có nhiều linh hồn đánh mất sự phấn khởi và niềm cậy trông, khi nhìn vào những sự yếu đuối đó.

Và họ không có lý sao ? Sự bất trung của ta chẳng phải là chướng ngại vật cho biết bao ân sủng đó sao ? Sau những sa ngã như thế, làm sao chúng ta còn dám cậy trông như trước ? Ôi, nếu chúng tôi có linh hồn vô tội và không mắc những lỗi lầm như Têrêxa, chúng tôi cũng có thể cảm thấy dễ tín thác…

Nói thế là tỏ ra chưa hiểu bản chất của niềm tín thác đích thực. Đáp lại vấn nạn đó, chính thánh nữ vĩ đại của chúng ta đã trả lời một cách dứt khoát: “Ôi, nếu những linh hồn yếu đuối và bất toàn như linh hồn tôi cảm thấy những gì tôi cảm nghiệm, sẽ không có một linh hồn nào thất vọng vì không đạt được đỉnh cao của ngọn núi tình mến yêu”. Rồi chị thánh còn đi xa hơn, và kêu gọi những người tội lỗi hãy sống tín thác : “Không phải vì tôi được Chúa giữ gìn không mắc tội trọng, mà tôi tin tưởng vào Chúa bằng niềm tín thác và lòng mến yêu như thế đâu. Ôi, tôi cảm thấy rằng giả như lương tâm tôi bị đè nặng bởi tất cả những tội ác mà người ta phạm, tôi cũng sẽ không mất bớt niềm tín thác chút nào: với trái tim tan vỡ vì hối hận, tôi sẽ gieo mình vào vòng tay Chúa cứu chuộc tôi. Tôi biết Ngài yêu thương đứa con hoang đàng, tôi đã nghe những lời Ngài nói với thánh nữ Mađalêna, với người đàn bà ngoại tình, với người phụ nữ Samaria. Không, không ai có thể làm tôi khiếp sợ, vì tôi biết tôi có thể tin vào tình thương và lòng thương xót của Ngài. Tôi biết tất cả cái khối các tội lỗi này sẽ tan biến trong nháy mắt, như giọt nước ném vào một lò than lửa đang bừng bừng cháy”[3].

Điều này thật qúa rõ. Niềm tín thác của Têrêxa tỏ ra vô biên, vì chị thánh có một cảm nghiệm sâu sắc về lòng nhân hậu vô cùng của Thiên Chúa, cũng như niềm tín thác của ta bị co rút lại, vì sự nhận thức của ta về tình thương và sự tốt lành của Chúa qúa kém cỏi và sơ sài. Chúng ta nghĩ về Cha chúng ta ở trên trời cũng gần như chúng ta nghĩ về những con người trần gian. Những sơ sót của chúng ta, những lỗi lầm tái đi tái lại của chúng ta đã đưa tới chỗ chúng ta đánh mất những người bạn thân nhất của mình. Chúng ta nghĩ Thiên Chúa đối với ta cũng vậy, nhất là vì Ngài là Đấng cực thánh, Đấng thấy cả những khiếm khuyết nơi các thiên thần. Đại khái đó là tâm tư của chúng ta, sau những lỗi lầm và những sự bất trung của chúng ta.

Hơn nữa, tuy chúng ta tin Thiên Chúa tốt lành vô cùng, nhưng niềm tin đó qúa hời hợt. Tốt lành vô cùng, nhân hậu vô cùng là gì ? Hãy cứ hiểu rằng tình thương của Chúa vượt xa tình thương của người mẹ đối với con mình, chúng ta sẽ bắt đầu hiểu chút ít về lòng thương xót vô cùng của Chúa. Ở đời, ta thấy nhiều khi người mẹ có một đứa con đau yếu và bệnh tật, không được khỏe mạnh tươi tốt như anh chị em nó. Nếu là một bà mẹ tốt lành và hết lòng yêu con, như ta thường thấy, thì bà có yêu thương đứa con bệnh tật ít hơn các con khác chăng ? Hay trái lại, bà yêu thương và săn sóc cho nó hơn, vì nó rất cần đến tình thương và sự chăm sóc của bà để sống còn và phát triển. Với ngày tháng, bà càng hy sinh nhiều cho đứa con ốm yếu của mình, tình thương bà dành cho đứa con bất hạnh của mình không những không suy giảm, mà trái lại sẽ càng gia tăng với những nhọc nhằn và tận tụy của bà.

Mà Thiên Chúa, Đấng đã tạo thành trái tim của tất cả các người mẹ, thì dịu hiền và thương con cái mình hơn những người mẹ tốt nhất trong loài người. Ngay trong Cựu Ước, Ngài đã tuyên bố tỏ tường như thế qua miệng tiên tri Isaia : “Nếu một bà mẹ có thể quên con mình, nhưng Ta, Ta không bao giờ quên các con” (Is 49,15). Sau những bất trung và những sa ngã của ta, ta hãy nhớ tình thương vô cùng cảm thương của Thiên Chúa, và chúng ta hãy làm như những trẻ nhỏ. Hãy chạy lại ôm lấy Cha chúng ta ở trên trời, và hãy đơn sơ thưa Ngài rằng : “Con sẽ không bao giờ làm như thế nữa. Từ nay con sẽ là đứa con ngoan của Cha”. Tâm tình hối lỗi và những lời đầy mến yêu của ta sẽ đền bù cho Chúa vì những lỗi phạm của ta.

Như những người ăn xin, chúng ta phải tín thác, vì chúng ta rất khốn khó.

– Người ta thiếu niềm tín thác, vì thấy mình qúa nhiều sự yếu đuối và đầy những sự khốn khó ! Ồ, thật ra, phải nói ngược lại mới đúng ! Chắc lời nói của chúng tôi sẽ bị nhiều người cho là nghịch lý. Nghịch lý đối với tâm trí loài người chúng ta, nhưng thật ra đó chính là lý do để tín thác nơi Thiên Chúa : chúng ta phải tín thác vì thấy mình khốn khó. Có thể đó chính là chỗ chúng ta phải dựa vào để kêu cầu lòng thương xót rất nhân hậu của Chúa.

Tất cả chúng ta là những kẻ ăn xin trước cổng đền Vua trên trời. Vậy chỉ có những kẻ khờ dại mới che giấu những vết thương và những mụn nhọt của mình, vì sợ nghịch mắt Thiên Chúa tốt lành… Và đó có phải thói quen của những kẻ ngồi ăn xin chăng ? Trái lại, chúng ta thấy họ tìm hết cách để phơi bày vẻ kinh tởm của những chỗ đau đớn của họ, hầu khiến người khác cảm thương họ hơn. Thậm chí có những kẻ giả tạo những vết thương và những tật nguyền, để dễ kích động lòng trắc ẩn của những nhà hảo tâm. Đó là mánh khóe nhà nghề của họ.

Còn chúng ta lại vì mắc cỡ mà che giấu những vết thương và ung nhọt của mình ! Chúng ta sợ Thiên Chúa, chúng ta không tin tưởng nơi Ngài sao? Thật là một sai lầm tai hại ! Vậy chúng ta hãy phơi bày những vết thương của ta cho Chúa thấy ! Chúng ta hãy than khóc vì những lỗi lầm, chúng ta hãy khóc lóc để khích động lòng trắc ẩn của Ngài ! Chúng ta chắc chắn sẽ được Ngài thương xót, vì hơn những kẻ ăn xin nhiều, chúng ta là những con nhỏ qúi yêu của Ngài, và chúng ta đang đau yếu, đang khổ sở. Chúng ta đã sa ngã và bị thương. Một cách rất khiêm nhường và với niềm tín thác trọn vẹn, chúng ta hãy mở ra cho Chúa thấy những vết thương của ta, chắc chắn Ngài sẽ thương xót ta. Khi Thiên Chúa nhìn thấy vực thẳm của sự khốn cùng của chúng ta, lòng thương xót bao la vô cùng của Ngài sẽ đến với ta, và tình thương muôn ngàn lần dịu dàng hơn tình thương của các người mẹ sẽ động lòng thương nỗi cơ cực của chúng ta. Ngài nhìn chúng ta với tình thương khôn tả, và nếu chúng ta giơ hai tay lên với Ngài, Ngài sẽ nâng chúng ta lên và ôm vào lòng một cách âu yếm khôn tả.

Thật, chúng ta còn qúa xa với niềm tín thác tốt lành, tín thác vì sự bé nhỏ của ta, vì cảnh khốn cùng và những tội lỗi của ta !

Ngược lại, có biết bao linh hồn có niềm tín thác xấu, trái hẳn với niềm tín thác tinh ròng ! Niềm tín thác của họ là thứ tin tưởng âm thầm và dại dột vào sự công chính của họ, vào các nhân đức và những sự hãm mình đền tội của họ. Ôi ! Đó là thứ tín thác vô phúc, vì về căn bản, nó là một sự tin cậy vào sức mình. Đó là một thứ kiêu ngạo kín đáo. Chúng ta đừng tín thác nửa vời, đừng tưởng có thể tới gần Chúa Giêsu ít hay nhiều, vì chúng ta ít lo ra hơn, quảng đại hơn, sốt sắng hơn. Đáng buồn thay! Cái thứ tín thác pha phôi này lại thường hay có, và nhiều người sẽ ngạc nhiên, nếu ta bảo họ rằng niềm tín thác của họ phần nào giống như niềm tín thác của người biệt phái, đứng cầu nguyện trước mặt người thu thuế.

III.  MỘT QUAN NIỆM SAI LẦM SẼ LÀM HƯ NIỀM TÍN THÁC CỦA CHÚNG TA.

–   THIÊN CHÚA THƯỜNG BAN NHỮNG ƠN ĐẶC BIỆT CỦA NGÀI CHO NHỮNG LINH HỒN KHỐN NẠN NHẤT.

–   SỢ SỆT QÚA ĐÁNG VỀ NHỮNG LỖI LẦM KHÔNG CỐ PHẠM.

Một quan niệm sai lầm sẽ làm hư niềm tín thác của chúng ta.

– Xét cho cùng, sau những sự khốn nạn và những sa ngã của chúng ta, cội rễ của sự thiếu tin tưởng của ta nơi Thiên Chúa thường do một quan niệm sai lầm về lòng nhân hậu của Ngài. Chúng ta dễ dàng tưởng tượng rằng những ân sủng của Chúa được đo lường cách chính xác theo sự trung thành và sự quảng đại của chúng ta. Đối với từng ấy quảng đại của ta, Chúa sẽ ban cho một ân sủng sít soát như thế. Chúng ta tưởng rằng Thiên Chúa theo một bảng giá như nhau cho tất cả các linh hồn, và cho các hành vi của ta, tương tự như một thứ tiền công. Như thế là chúng ta đã quên bẵng dụ ngôn Chúa Giêsu đã giảng dạy về tiền công mà ông chủ trả cho những người thợ làm vườn nho, người thợ đến làm vào giờ sau chót cũng nhận được bằng những người làm từ tảng sáng. Dụ ngôn này đã làm cho thánh nữ Têrêxa nhảy mừng vì sung sướng.

Chúng ta đừng có những ý tưởng sai lầm như thế. Lòng quảng đại của Thiên Chúa không chỉ có tính công bằng, mà nhất là có tính chất yêu thương, và yêu thương nhưng không. Lòng quảng đại của Chúa không cân đo. Chúa ban phát cách quảng đại và tùy ý, và thường Ngài ban cho ta qúa công trạng của chúng ta, không theo mức công bằng, mà theo lòng quảng đại của Ngài. Nhưng đúng là chúng ta càng quảng đại, Ngài càng ban nhiều hơn cho ta. Điều này qúa rõ ràng. Tuy nhiên không ai có thể nói: Tôi đã nhận được ơn trọng này, vì tôi đã trung thành hơn người này người nọ. Bí mật của những sự quảng đại của Chúa là một mầu nhiệm cho mọi người. Ngài ban cho những người này nhiều hơn, Ngài ban cho những người kia ít hơn, tùy theo những quyết định vô cùng khôn ngoan của Ngài. Sự trọn lành của các linh hồn là những thành qủa của ân sủng Chúa ban, để nâng đỡ và thánh hóa những nỗ lực của họ, nhưng hai nhân tố này không luôn ở trong một tương quan như thế mãi, bởi vì Thiên Chúa thánh hóa chúng ta như Ngài muốn và vì Ngài muốn.

Vì không hiểu điều đó, nên chúng ta thiếu khiêm nhường và thường nuôi dưỡng một sự âm thầm tự phụ, khi thấy mình nhận được nhiều ơn Chúa. Chúng ta không thể tránh một tình cảm kín đáo, tự nhủ rằng mình nhận được nhiều ơn hơn những người khác, là vì mình sống quảng đại hơn. Đó là thiếu khiêm nhường, và sự thiếu khiêm nhường này tất nhiên sẽ dẫn tới thiếu tín thác, khi người ta bị thử thách liền sau đó.

Chúng ta đã thiếu quảng đại, thiếu ngoan ngoãn vâng theo ân sủng, có thể chúng ta đã sa ngã, và dĩ nhiên chúng ta ít tin tưởng và tín thác nơi Chúa hơn. Thiên Chúa đã chẳng ban các ơn của Ngài theo sự đo lường các nỗ lực và sự quảng đại của chúng ta sao ? Thế là chúng ta đâm ra buồn rầu, cáu kỉnh, bực tức với mình và phần nào bực tức với cả Thiên Chúa. Lúc đó, tất nhiên ngoài sự nhìn nhận mình đã có quan niệm sai lầm về ân sủng, chúng ta quên rằng một hành vi khiêm nhường đích thực sẽ có thể đền bù tất cả lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta quên sử dụng cái nghệ thuật tài tình đó để sửa lại những sự bất trung của mình, ôm lấy Cha trên trời với một trái tim đầy mến yêu và hối hận vì đã làm phiền lòng Ngài, hoặc đã phạm đến Ngài.

Thiên Chúa thường ban những ơn đặc biệt của Ngài cho những linh hồn khốn khó nhất.

– Chúng ta không phải đi tìm đâu xa những thí dụ cho thấy cả những linh hồn đã sa ngã đều có thể mở rộng lòng cho một niềm tín thác ngọt ngào.

Augustinô đã mười bảy năm cưỡng lại những lời cầu nguyện của Mẹ là bà Monica. Vậy mà Ngài đã trở thành một vị thánh lớn lao dường nào ! Và người đàn bà tội lỗi nổi danh trong Phúc Âm đã có niềm tín thác táo bạo và lòng mến yêu lớn lao dường nào, khi qùi xuống rửa chân Chúa Giêsu và hôn kính chân Ngài trước mặt những người Biệt phái kiêu căng ? Và người đàn bà tội lỗi thời danh của nước Aicập đã chết, một ngày sau khi trở lại, và chết trong một lúc xuất thần vì yêu mến !

Thiên Chúa ban cho tất cả mọi linh hồn ơn cứu giúp của tình thương đầy thương xót của Ngài. Và chúng ta nên biết rằng Ngài thường chọn những dụng cụ bất toàn và xấu xí nhất để thực hiện những ý định kỳ diệu của Ngài : Ngài muốn tôn vinh quyền năng của Ngài bằng cách thực hiện những công trình vĩ đại với những dụng cụ không tương xứng. Ngài đã làm cho thế giới trở lại nhờ mười hai vị tông đồ được chọn trong số những ngư phủ và những người thấp kém của xứ Galilêa. Ngài muốn tôn vinh sự khôn ngoan của Ngài bằng cách thảo ra những kế hoạch và sử dụng những phương tiện chúng ta coi là dại dột. Sau cùng Ngài thường muốn tôn vinh lòng nhân hậu vô cùng và tình thương đầy thương xót của Ngài, khi Ngài chọn thánh hóa những con người không có vẻ gì thích hợp. Ngài đã lượm Saulô trên đường đi Đamas để biến ông thành vị tông đồ khôn ví của các dân ngoại.

Và nếu chúng ta muốn có niềm tín thác nhờ việc dựa vào một ý tưởng đúng hơn về các sự thiện hảo vô cùng của Chúa và về đường lối vô cùng nhân hậu của Ngài là những đường lối vượt xa đường lối của chúng ta, thì khi nhìn vào sự khốn cùng của mình, chúng ta có thể nói rằng : Vâng, tôi bất toàn và khốn nạn qúa ! Nhưng có thể chính vì thế mà Thiên Chúa sẽ chọn tôi để thương yêu đặc biệt, vì tôi là một trong số những linh hồn đang cần đến sự âu yếm và tình thương đầy thương cảm của Ngài hơn, và Ngài ưa ban ơn hơn, để tỏ bày lòng thương xót vô cùng tốt lành của Ngài ? Và tư tưởng này sẽ khiến trái tim ta nở rộng vui sướng, với một niềm tín thác trọn vẹn, thay vì sự nhìn thấy những sự khốn nạn của ta thường bóp nghẹt con tim ta lại.

Nhưng có thể chúng ta đã là một trong số những linh hồn ưu tuyển, được Chúa ban cho những ơn đặc biệt của việc chiêm niệm trọn lành. Khi đó, thay vì tự kiêu, chúng ta sẽ nói rằng : Thiên Chúa đã chọn tôi, vì tôi bất toàn và hèn hạ. Ngài đã chọn tôi để Ngài có dịp thỏa mãn lòng thương xót và tình thương vô biên của Ngài hơn. Và tư tưởng này sẽ giữ ta khỏi tự mãn, vì ta vẫn nhớ những sự khốn khó của mình.

Đúng thế, tình thương đầy thương xót của Thiên Chúa nhiều khi không cầm mình được nữa, nên đã đi tới chỗ thái qúa : Chúa đã đi tìm ở những nơi xa xôi, một hai linh hồn rất bất toàn và bất xứng, đang giẫy giụa trong những sự khốn nạn và những nết xấu của họ, để đổ xuống trên họ nhiều tình thương nhưng không của Ngài. Nếu những linh hồn đó nhìn nhận sự bé nhỏ và tình trạng khốn khó của mình, hay ít ra với ơn Chúa, họ dần dần nhận ra thân phận yếu hèn của mình, thì Chúa sẽ bồng họ lên với Ngài trong sự yêu thương và âu yếm khôn tả.

Vậy chúng ta đừng bao giờ rầu rĩ và nản chí vì những sự bất trung sa đi ngã lại của mình. Đừng bao giờ nói : Sự thánh thiện không được dành cho tôi, vì tôi qúa bất toàn. Cũng đừng bao giờ nói : Bây giờ qúa trễ để nên thánh : tôi chẳng tiến bộ gì hết, tôi chẳng có gì tích cực hết ! Trái lại, chúng ta hãy chăm lo vun trồng niềm ước ao nên thánh, vì đó là cái mầm qúi giá Chúa đặt trong linh hồn ta. Nguyên đó cũng là một ân sủng lớn lao rồi. Chúng ta hãy tin tưởng và tín thác nơi Chúa, Ngài không cần thời gian để thực hiện những việc kỳ diệu. Thánh Kinh dạy ta rằng : “Đối với Thiên Chúa, ngàn năm cũng như một ngày” (Tv 89,4). Niềm tín thác đích thực sẽ không bao giờ phản bội ta : nó là chiếc la bàn sẽ vững vàng giúp ta vượt qua mọi bão táp và đá ngầm, và sẽ dẫn ta đến hải cảng của sự trọn lành.

Khi chúng ta sẽ rời bỏ trái đất lưu đày này, khi mắt chúng ta được mở ra nhìn sự huy hoàng của trời cao, chúng ta sẽ thấy rõ mọi sự. Chắc chắn khi đó chúng ta sẽ vui mừng vì niềm tín thác quyết liệt và ương ngạnh của mình ! Chúng ta sẽ vui sướng vì đã có một niềm tin tưởng và tín thác bao la như chính sự bao la của cảnh khốn cùng của chúng ta.

Trong khu vườn tươi đẹp của người làm vườn thần linh là Chúa Giêsu, nơi mà chúng ta sẽ muôn đời tươi nở như hoa, chúng ta sẽ sung sướng khám phá bên cạnh những bông hồng mỹ miều, có những bông cúc duyên dáng và những bông tuy-líp xinh đẹp, rồi những bông phong lan lạ mắt và huy hoàng, những thứ hoa đã đòi nhiều công sức chăm lo và nâng niu của chủ vườn. Có thể chúng ta cũng vào số những bông hoa đã làm người chủ vườn phải vất vả chăm lo nhiều, nhưng đó cũng là những bông hoa tôn vinh quyền năng và tình thương của Chúa hơn, và làm Ngài được đền bù nhiều hơn về công khó nhọc của Ngài.

Lo sợ thái qúa về những lỗi phạm không cố tình của mình.

– Bây giờ phải nghĩ gì về thứ tâm tình thường thấy nơi những linh hồn quảng đại, tâm tình đó làm họ phụng sự Chúa với một thứ áy náy bối rối ? Họ sợ làm phiền Thánh Tâm Chúa Giêsu và mất đi những ân sủng của Chúa vì những lỗi phạm nhỏ mọn và không cố tình. Nếu trong những lúc khô khan và chán nản, họ phần nào tỏ ra thiếu quảng đại, thiếu can trường – mà ai lại không có lúc như thế ? -. Họ tưởng tượng sẽ làm hỏng tất cả. Mà họ sợ thái qúa như thế, không phải vì lòng mến Chúa, nhưng vì sợ Chúa. Những linh hồn nhát đảm đó hiểu qúa ít về trái tim của Thầy Chí Thánh. Chúa Giêsu biết rõ hơn chúng ta nhiều về sự khốn khó bẩm sinh của chúng ta. Ngài biết cả những người công chính cũng sa ngã bảy lần mỗi ngày. Ngài biết sức của ta thường phản bội những ước vọng và lòng mến của ta. Ngài phân biệt rõ những lỗi phạm cố tình và những lỗi phạm hoàn toàn vì yếu đuối, mà những lỗi phạm này không xúc phạm đến Ngài và không khiến Ngài buồn lòng. Lòng nhân hậu rất dịu dàng của Ngài khiến Ngài thấu suốt mọi sự, và Ngài bỏ qua những lỗi phạm không chủ ý của ta. Nhất là Ngài biết rõ sự khác biệt giữa những khi ta vác thánh giá mà trượt té, vì thiếu ơn an ủi, và những lúc ta vác thập giá cách khẳng khái, không mệt nhọc chút nào, vì ta được nhiều ơn an ủi thiêng liêng.

Chúng ta hãy phụng sự Chúa Giêsu trong niềm vui, trong hoan lạc. Hãy phục vụ Chúa với một dạ trung thành trọn vẹn. Vì mến yêu Chúa, chúng ta hãy xa lánh những lỗi phạm cố tình, dầu nhỏ mọn nhất. Đúng thế ! Chúng ta hãy vui sướng được chịu những cực nhọc lớn lao, để được thỏa mãn cả những ước ao nhỏ mọn của Chúa Giêsu. Được thế thì tốt lắm, bởi vì Chúa Giêsu là tất cả, và chúng ta không là gì hết. Chỉ một mỉm cười trên môi của Chúa cũng đáng cho ta chịu bất cứ hy sinh nào để mang lại cho Ngài. Đó mới là tình yêu mến thật. Nhưng ta đừng nghĩ rằng một chút thiếu quảng đại, một lỗi lầm nhỏ mọn cũng làm Chúa buồn, và khiến ta mất tình thương ưu ái của Ngài. Nếu thế, các linh hồn quảng đại sẽ không bao giờ được an vui hạnh phúc. Không phải thế đâu, “điều làm phật lòng Chúa, điều làm cho Ngài đau lòng, đó là thiếu tín thác”[4]. Còn những lỗi phạm vì yếu đuối, không do chủ ý, thì Chúa Giêsu phân biệt chúng với những lỗi phạm chủ ý và những bất tuân phục có ý thức. Về những lỗi phạm do sơ sót đó, thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã nói một cách dễ thương : “Vâng, đã từ lâu tôi tin rằng Chúa dịu dàng hơn một người mẹ, và tôi biết hết sức rõ trái tim của một người mẹ. Tôi biết người mẹ luôn sẵn sàng tha thứ những sơ suất nho nhỏ và không chủ ý của con mình”[5].

 Paul De Jaegher S.J.

[1] Tiểu sử một linh hồn, ch. XI, tr. 221

[2] Tiểu sử một linh hồn, ch. IX, tr.153-154

[3] Tiểu sử một linh hồn, ch. X, tr. 204

[4]  Tiểu sử một linh hồn, thư I gửi cho Mẹ

[5] Marie Guérin Tiểu sử một linh hồn, Ch.VIII, tr.136