8. Đời Sống Tâm Linh

Hạnh Phúc – Chương 1 - 11. NIỀM VUI TỪ NỘI TÂM

Mỗi người chúng ta đều tự tạo thời tiết, hoạch định màu sắc cho khung trời vũ trụ cảm xúc trong đó chúng ta sống. Với nỗ lực sáng tạo, chúng ta có thể mang ánh sáng mặt trời đến để làm cho tâm hồn chúng ta rạng rỡ mặc cho bất cứ sự cố gì xảy đến trên đường đi của chúng ta. Mặt khác chúng ta cũng có thể để cho mình ngã quị vào nỗi thất vọng nội tâm sâu xa, hoặc bị ngập tràn nỗi phiền muộn đến mức chỉ những khích động mãnh liệt nhất từ bên ngoài tác động lên các giác quan mới có thể đánh thức chúng ta ra khỏi tình trạng lãnh đạm của mình.

Các triết gia bảo với chúng ta là mỗi người đều phải có khoái cảm. Kẻ nào hoà nhập được nhân cách và bản tính của mình đồng thời định hướng cuộc đời mình cho Chúa thì sẽ cảm nhận được niềm khoái cảm to tát bất khả tiêu diệt mà các thánh gọi là Niềm Vui. Không một sự cố từ bên ngoài nào có thể hăm doạ hoặc làm xuyến xao nổi hạnh phúc của người ấy. Đang khi có nhiều người khác thì ngóng ra bên ngoài để tìm khoái cảm và mong đợi các sự cố trong đời sống sẽ cung cấp niềm hạnh phúc cho họ. Vì chẳng ai có thể bắt cả vũ trụ làm nô lệ cho mình được, nên kẻ nào cứ ngóng ra ngoài để tìm khoái cảm thì chắc chắn sẽ thất vọng. Vui đùa quá mức làm chúng ta chán ngán, một tham vọng được thực hiện sẽ trở nên nhàm chán, một ái tình hứa hẹn đầy viên mãn rồi cũng mất đi vẻ hào nhoáng và phấn khích. Hạnh phúc vĩnh tồn không bao giờ có thể đến từ trần gian. Niềm vui không xuất phát từ những gì chúng ta gặt hái hoặc những người chúng ta gặp gỡ mà phải được linh hồn tạo ra một khi chúng ta biết tự quên mình.

Bí quyết để có một cuộc sống hạnh phúc là biết điều hoà các khoái cảm với nhau để gia tăng niềm vui. Thế nhưng một số phương cách sống hiện nay khiến chúng ta khó đạt nổi điều này. Chẳng hạn một trong những phương cách ấy là loại quảng cáo cố gắng gia tăng thị dục chúng ta để chúng ta mua thêm nhiều hàng hoá hơn. Đi kèm theo phương cách này là cái tâm lý trẻ em bị hư vì nuông chiều nơi con người hiện đại. Tâm lý dụ khị con người rằng họ được quyền kiếm tìm mọi thứ họ muốn, rằng thế gian có đủ mọi thứ thoả mãn thị dục nông nổi của họ. Một khi cái tôi của chúng ta đã trở thành trung tâm bắt mọi sự qui phục thì chúng ta rất dễ bị thương tổn: từ đó bình an của chúng ta có thể giống như bị cơn gió lùa từ cánh cửa sổ trống tiêu huỷ; hoặc chỉ vì chúng ta không đủ khả năng mua được tấm áo choàng lông thú quí hiếm mà chỉ quãng 20 người phụ nữ trên trần gian có thể được mặc, hoặc vì chúng ta không được mời đến dự một buổi ăn trưa, hoặc nặng nề hơn, vì chúng ta không đủ khả năng trả được món thuế lợi tức to lớn nhất trong nước. Cái tôi không bao giờ được no thoả nếu nó nắm quyền chỉ huy. Chẳng sự nuông chiều, chẳng vinh dự gì có thể làm yên ổn khát vọng của nó kể cả “nhạc cuồng rượu mạnh”, kể cả những khoái cảm to tát đến từ các bữa tiệc giao hữu hay từ sự trầm trồ của mọi người.

Những kẻ vị ngã đều xem như mình gặp phải tai hoạ nếu bất cứ khát vọng nào của họ cũng bị chối từ, bởi vì họ muốn làm chủ thế giới quanh họ, muốn nắm sợi dây giật con rối cũng như muốn ép buộc mọi kẻ tuỳ thuộc phải vâng theo ý muốn của mình. Và nếu các ước muốn của những cái ngã ấy bị phế bỏ hay bị cái ngã của kẻ khác kiểm soát thì lập tức chúng sẽ rơi vào nỗi tuyệt vọng ngay. Như thế, những dịp gây ra cho chúng nỗi thất vọng và buồn bực rất dễ xảy ra bởi vì tất cả chúng ta đều luôn luôn bị chối từ một số những điều chúng ta ao ước – và rồi chúng ta có thể chọn lựa hoặc sẽ vui vẻ chấp nhận sự mất mát này hoặc sẽ xem nó như một sự xỉ nhục và lăng mạ đối với chúng ta. Ngày nay có cả hàng triệu người hoàn toàn mất hạnh phúc nếu như họ phải mất đi một số đồ vật mà cha ông họ chẳng bao giờ mơ ước. Sự xa hoa đã trở thành nhu yếu đối với họ. Và con người càng cần có thêm đồ vật mới cảm thấy hạnh phúc thì họ càng có nguy cơ bị hụt hẫng và tuyệt vọng. Ham muốn nông nổi chế ngự họ, những điều vụn vặt trói cột họ, họ không còn tự chủ nữa. Các đồ vật bên ngoài, các món đồ chơi hào nhoáng làm chủ họ.

Trong khảo luận mang tựa đề “Republic” (nền Cộng hoà), Platon có viết về một người suốt đời chạy theo những đam mê điên cuồng đầy nông nổi, bài văn ấy được viết ra cách đây 2300 năm thế mà đến hôm nay vẫn còn chính xác: “Anh ta thường khoái lao vào chính trị, vừa đi vừa nhảy, vừa làm vừa nói bất cứ điều gì hiện ra trong óc; hễ khâm phục một vị tướng là mọi chú tâm anh ta hướng về chiến tranh, còn nếu hâm mộ nhà thương gia thì lập tức anh ta đổi chiều theo cùng hàng ngũ với ông này. Anh ta chẳng hề biết đến trật tự và nhu yếu trong cuộc sống, chẳng thèm nghe bất cứ người nào nói cho anh ta biết rằng một số khoái lạc là phần thưởng của những ước muốn cao đẹp tốt lành, một số khác phát xuất từ những ước muốn xấu xa. Vì thế nên kiếm tìm và khuyến khích số tốt cũng như kiềm chế số xấu. Nghe nói thế, anh ta chỉ biết lắc đầu và nói rằng mọi khoái cảm đều giống nhau và đều đáng được quan tâm y như nhau”.

Thực ra, mọi khoái cảm đều phải được sắp xếp theo thứ bậc nếu chúng ta muốn có được sự thoả mãn to tát nhất về cuộc sống. Các niềm vui bền bỉ và mãnh liệt nhất chỉ có thể đến với những kẻ sẵn sàng thực hành sự tự chế, sẵn sàng chịu đựng sự nhàm chán trong việc tuân thủ một kỷ luật sơ đẳng. Quang cảnh đẹp nhất là được nhìn từ đỉnh núi, nhưng lên được đến đó có lẽ phải chịu lắm gian truân. Không ai từng cảm thấy thú vị khi đọc Honace nếu trước đó không từng trui rèn với các mẫu chia văn phạm của sách ấy. Niềm hạnh phúc tràn đầy chỉ được cảm nhận đối với kẻ nào biết tự khước từ một số lạc thú chính đáng ngõ hầu đạt được những niềm vui kéo theo sau đó. Kẻ nào “tự buông thả” thì sẽ thành bệ rạc hoặc điên khùng. Chính Đấng Cứu Độ trần gian đã bảo chúng ta rằng những niềm vui lớn nhất chỉ có thể đến với chúng ta một khi chúng ta đã mua chúng bằng lời cầu nguyện và việc chay tịnh: trước hết chúng ta phải cho đi những đồng xu của mình vì lòng yêu mến Ngài và rồi Ngài sẽ trả lại cho chúng ta những đồng tiền vàng lẫn niềm vui và niềm cực lạc.

Gm. Fulton Sheen

PHÂN ĐỊNH: HIỂU BIẾT VÀ KHÔN NGOAN

Hiểu biết là thứ có thể sao chép, ghi nhớ, ta có thể diễn giải rất rõ ràng, thuyết phục những điều mình biết, nhưng, đó chỉ là lặp lại điều người khác đã nói. Khôn ngoan không thể sao chép, nó chỉ nảy sinh, khi ta trực tiếp chạm vào sự thật, bằng trải nghiệm sống động của chính mình, chứ không phải bằng ký ức vay mượn từ người khác. Trên đường thiêng liêng, ta thường bị mắc kẹt trong chính hiểu biết của mình: ta biết nhiều về cầu nguyện, chiêm niệm, thần bí; có thể giảng giải rất hay, thuyết phục, nhưng, sâu bên trong, ta vẫn chưa phải là người khôn ngoan. Chẳng hạn, ta có thể nói hàng giờ về các phương pháp cầu nguyện, chiêm niệm, thần bí, nhưng rồi, chỉ một lời xúc phạm nhỏ, cũng khiến ta nổi điên lên; một mất mát nhỏ, cũng khiến ta hoảng loạn, suy sụp. Điều này chứng tỏ: những hiểu biết của ta chỉ là những lời thuộc lòng, chứ, chưa được chứng nghiệm, bằng chính cái giá, mà ta phải trả, khi thực hành lời Đức Giêsu đã dạy: từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.

Sự khác biệt lớn nhất giữa hiểu biết và khôn ngoan nằm ở chỗ: Hiểu biết là biết bằng đầu, còn, khôn ngoan là cảm nghiệm bằng tim. Biết là khi ta có một khái niệm, một định nghĩa, một cấu trúc, ta có thể nói về nó, giải thích nó, dạy lại cho người khác, nhưng, tất cả đều nằm trong khuôn khổ của từ ngữ, tức là, cái đã được định hình, đóng khung, quy ước. Cảm nghiệm thì không cần ngôn từ, nó là sự nhận thức trực tiếp, không qua trung gian của lý trí, nó xảy ra trong khoảnh khắc, nó rõ ràng, không cần diễn giải, nó không nằm trong hệ thống logic, nhưng lại, không thể bị phủ nhận, chẳng hạn, ta có thể nói về sự thinh lặng nội tâm, có thể mô tả nó như trạng thái không còn suy nghĩ, một sự bình an sâu lắng, nhưng, đó chỉ là mô tả, chỉ là biết, còn, cảm nghiệm là khi ta ngồi xuống không làm gì cả, và đột nhiên, nhận ra toàn bộ tâm trí trở nên tĩnh lặng trong sự hiện diện đầy tràn của Chúa: thấy mọi sự, mọi việc, mọi người, như chính Chúa thấy.

Khôn ngoan như mặt trời, nó luôn hiện diện, nhưng nếu, bầu trời đầy mây, ta sẽ không thấy ánh sáng của nó, mây ở đây là các lớp tư duy đã hình thành qua năm tháng: các định nghĩa ta đã học, các khái niệm ta đã tin, các trải nghiệm ta đã gán nhãn, tất cả tạo nên một lớp bụi mù, che phủ cái thấy trong trẻo nguyên sơ. Khi ta thấy mình muốn biết thêm, hãy hỏi, liệu mong muốn ấy có xuất phát từ cái tôi đang khát khao kiểm soát, từng khoảnh khắc tỉnh thức như thế, chính là mảnh đất mà khôn ngoan có thể mọc lên. Chiêm niệm trong bản chất sâu xa của nó, không phải là công cụ để đạt được điều gì đó, chiêm niệm không phải là phương pháp để trở nên an yên hay giải thoát khỏi phiền não, chiêm niệm là sự trở về, tĩnh lặng hóa tâm trí, là ngồi yên với những gì đang là, trong sự thinh lặng ấy, không còn gì để bám víu, không còn gì để mong cầu, chỉ là một sự hiện diện trần trụi trước Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự.

Tóm lại, nếu ta vẫn còn đang tìm kiếm câu trả lời từ bên ngoài, để đạt tới một trạng thái chiêm niệm nào đó, thì ta chưa sẵn sàng để thấy, bởi vì, khôn ngoan không đến từ bên ngoài, không đến từ những lời giảng, từ sách vở, hay từ bất kỳ ai, dù người đó có được gọi là bậc thầy thiêng liêng chiêm niệm; khôn ngoan chỉ đến, khi ta dừng lại, dừng việc cố gắng hiểu, dừng việc cố gắng giải thích mọi thứ, dừng cả mong muốn trở nên khôn ngoan, và trong khoảnh khắc ta thật sự dừng lại, một sự rõ ràng mới xuất hiện không phải như một suy nghĩ, một khái niệm, mà, như một cái thấy trong suốt, không thể chối cãi. Hãy để khôn ngoan tự hiển lộ, không phải vì ta tìm, mà vì, ta không còn bám víu vào điều gì nữa, do bởi, ơn chiêm niệm, thần bí là hoàn toàn nhưng không, thuộc về Chúa 100%: bao lâu Chúa cho, thì ta được; bao lâu còn yếu tố nhân loại chen vào, Chúa không thể hành động được. Việc ta chuẩn bị xô, chậu để hứng nước mưa, ta vẫn phải làm, nhưng, đừng vì đó, mà biến Chúa thành con nợ: phải mưa xuống cho ta; mưa là hồng ân hoàn toàn nhưng không của Chúa, sự cộng tác của ta là mở lòng ra: tin tưởng, cậy trông, đợi chờ Chúa thực hiện lời Người đã hứa.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 25. Hai Đời

Chúa tạo thành chúng ta đã thương cho một ơn đặc biệt, là cho chúng ta có hai đời. Một đời mau qua, và một đời bất diệt. Mỗi đời Chúa muốn chúng ta dùng một cách. Hai đời ấy, là đời này và đời sau. Đời này Chúa muốn chúng ta dùng để chịu khó, chịu khó cho nên, cho nhẫn nại, đời sau Chúa muốn chúng ta dùng để hưởng mặt Chúa, để sống một đời hạnh phúc hoàn toàn.

Nhưng, Bạn đừng quên: hai đời ấy liên lạc với nhau rất chặt chẽ, rất mật thiết. Đời này là bước đầu để chúng ta tiến đến đời sau, ta có đến được đời sau hay không, là tùy ta có biết đi, có biết dùng đời này hay không. Vậy đời này Chúa đã chỉ cho chúng ta làm những gì? Đời này Chúa chỉ cho chúng ta chịu khó, nhất là chịu khó. Đời này không phải để hưởng khoái lạc, khoái lạc chính đáng và vô tận là phần của đời sau.

Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Đời này quả thật đầy đau khổ, nhưng tại sao ta lại tìm hạnh phúc ở đời này? Vì đời này chẳng qua chỉ là như “một đêm trọ trong một cái quán hôi hám chật hẹp” như lời Thánh Têrêsa Cả nói”.

Đã đành, đời này chúng ta có thể gặp ít nhiều vui thú, Chúa muốn vậy, vì thương ta, để ta khỏi chán nản, nhưng nó chỉ là những quà nhỏ mọn cha mẹ thường cho con cái, nhất là những đứa nhỏ, để chúng nó làm việc, hoặc chịu khó. Những thú vui ấy cũng ví như những viên đường, người ta dùng để uống thuốc. Mục đích không phải để hưởng những chất ngọt của đường, nhưng là để uống thuốc cho dễ. Những vui thú Chúa cho ta gặp trên đời cũng vậy, không phải để ta dính bén vào nó, Chúa dùng nó để giúp ta chịu khó dễ hơn.

Bạn thân mến, chúng ta chỉ là khách bộ hành. Khách bộ hành thì lúc nào cũng nhìn đến chỗ quê hương, chỗ mà họ mong chóng tới. Bởi thế trên đường, họ có thể gặp những cảnh tươi đẹp, những bóng mát, nhưng có đâu họ đứng lại cả đêm cả ngày để hưởng những thú vui ấy. Không, họ không đứng lại lâu, họ chỉ nhìn qua và hưởng mấy phút, rồi họ đi, mặc dù đàng trước họ, còn bao nhiêu cái khó chịu, bao quãng đường nguy hiểm, bao vũng bùn lầy, bao khúc nóng như thiêu. Họ cam lòng đón lấy hết cả những đau khổ ấy, con mắt họ chỉ đăm đăm nhìn vào cõi xa xăm, cõi mà lòng họ lúc nào cũng nghĩ đến và mong cho chóng đến. Chính sự mong ước ấy giúp họ đủ can đảm chịu đựng hết những nỗi khổ cực họ còn gặp trên quãng đường họ đi.

Vậy còn gì vô lý bằng người bộ hành chỉ chăm tìm những thú vui vô ích, họ có thể gặp trên đường, nhất lại là những thú vui tục tằn khả ố, và vì thế làm họ chậm hoặc hỏng ngày về quê.

Chúng ta cũng vậy, không gì vô lý bằng sống đời này, để về quê thật đời sau mà chúng ta lại mải mê tìm những thú vui vô ích, những thú vui làm ngăn trở ta trên đường tiến đến quê thật là nước Thiên đàng. Làm như thế, chúng ta còn dại dột hơn người bộ hành nữa, vì người bộ hành đi tìm những thú vui ấy, thường chỉ làm chậm ngày đến quê, còn chúng ta, nếu đi tìm những thú vui hư hèn ấy, thì chúng ta còn liều hỏng mất cuộc đời bất diệt, cuộc đời hoàn toàn hạnh phúc của ta nữa.

Cũng vì biết tính nết hư hèn của ta, hay tìm những thú vui nguy hiểm cho cuộc đời sau, nên Chúa thường gieo rắc trên đường đời chúng ta những chông gai, những đau khổ, để chúng ta luôn luôn chú ý, để chúng ta nhắc nhủ mình: đời này, ta chỉ là khách bộ hành, ta phải mau mau đi tới quê thật, không được đứng lại, để hưởng những thú vui, đôi khi Chúa cho gặp trên đời.

Bạn có thấy không, tiền tài đã làm bao người đau khổ, thế mà người ta vẫn ham mê tiền tài, có người đã đành bán linh hồn, đã đành chối Chúa để kiếm mấy đồng bạc.

Tình yêu đã làm bao người đau khổ đến quyên sinh, thế mà người ta vẫn đi tìm tình yêu và vẫn bám lấy tình yêu, có người hai chân đã kề miệng lỗ, cũng không chịu bỏ cái tình chỉ một chốc nữa sẽ đẩy họ xuống hỏa ngục.

Tôi chỉ nói về tiền tài, với tình yêu, chứ bất cứ cái gì có thể làm thỏa mãn dục vọng người đời, đều có thể làm họ say mê đến quên cả linh hồn, dù những cái thỏa mãn ấy, biết mấy phen đã đem lại cho họ bao cay đắng, bao hận lòng.

Vậy nếu Chúa không pha giấm chua mật đắng vào các sự vui thú ở đời, thì còn ai nghĩ đến linh hồn? Còn ai nghĩ đến Chúa??? Cho nên những thú vui Chúa dành để cho ta ở trên đời, không phải là những cái chúng ta được dính bén vào nó, vì nếu dính vào nó, nó sẽ ghì ta lại, không cho ta tới cõi hằng sống nữa.

Một lần Chúa phán với thánh Têrêsa Cả lời này: “Hỡi con, con hãy tin nhận rằng: ai được Cha Ta yêu hơn cả, thì người ấy sẽ gặp nhiều Thánh giá nặng nề hơn cả”. Để minh chứng lời ấy, Thánh Têrêsa Cả, trên đường sửa Dòng Kín, thường phải nay đây mai đó; một hôm vào buổi chiều mùa đông, Bà lạc vào một khu rừng. Sau nhiều giờ phiêu lưu, Bà đã tìm ra được tu viện Bà có ý đi thăm. Bà giật chuông nhưng không ai ra mở cửa. Bà giật, giật mạnh, không may trượt ngã làm gẫy chân. Lúc ấy một nữ tu mới ra mở cửa. Bà than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa làm gì vậy? Con sẽ bị giam ở đây, không có y sĩ chăm nom, mọi công việc của con sẽ bị chậm trễ”. Chúa đáp: “Đó là cách Cha xử với những linh hồn Cha yêu”. Bà liền đáp: “Chính vì vậy, mà Chúa ít bạn hữu trên mặt đất”.

Nhất là Bạn hãy nghe lời sau đây đã được ghi chép trong sách Chân phúc Henricô Sudô: “Con hãy nghe lý do tại sao Cha thử thách những đầy tớ của Cha và con hãy ghi sâu vào tận đáy lòng con những lời con sắp nghe sau đây. Cha ngự trong linh hồn như ngự trong thiên đàng đầy vui thú và Cha không chịu được cho nó tìm vui thú ở ngoài Cha, Cha không chịu được cho nó bám lấy các loài thụ sinh. Cha muốn chiếm lấy nó và muốn nó trong sạch thanh tịnh, nên Cha vây quanh nó bằng một hàng rào đau khổ, để nó không thoát khỏi được tay Cha. Cha gieo rắc trên đường đời nó đầy chông gai, để nó khỏi nằm yên trên những cái hèn hạ thụ sinh và để nó chỉ tìm hạnh phúc nơi các sự toàn thiện của Cha. Chính con cũng đã có kinh nghiệm là tất cả các thánh giá Cha gửi đến cho con, bất cứ là thứ gì, thì nâng lòng con lên, và giúp con kết hợp với Cha mật thiết hơn, sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn tất cả những thánh giá con tự chọn lấy. Nếu con được tắm gội đắm chìm trong nguồn yên ủi êm ái thiêng liêng, nếu những ơn trên trời đốt cháy lòng mến của con, thì con phải biết, những lúc ấy con không được công nghiệp bằng khi con chịu thử thách, bị lạt lẽo thiêng liêng. Nhờ những sự phiền muộn quấy nhiễu, con trở thành con yêu của Cha và con chiếm được quyền lợi ăn phần gia tài trọng hậu thiên đàng: Cha ban phát ơn lành cho kẻ lành, cả kẻ dữ, nhưng Cha dành thánh giá cho kẻ Cha đã chọn riêng. Con hãy suy xét, hãy so sánh đời tạm với đời đời; con sẽ hiểu thà chịu thiêu đốt trăm năm trong lò lửa cháy, còn hơn bị mất một thánh giá bé nhỏ nhất Cha có thể và muốn ban cho. Nào không phải rằng: vui vẻ nhận lấy những sự cực phiền, tức là dành để cho mình một phần thưởng bất diệt ? Thánh giá là một món quà quý giá đến nỗi con nên biết rằng: dù cả một trăm năm con sấp mặt xuống đất xin Cha ban cho ơn ấy, con cũng không đáng được”.

Cho nên Bạn đừng ngạc nhiên khi nghe các Thánh ca tụng Thánh giá, ca tụng sự đau khổ.

Bạn hãy nghe một lời sau đây, có thể thu tóm hết mọi lời khác.

Sách Gương phúc nói: “Không gì đẹp lòng Chúa, không gì ích lợi cho chúng ta ở đời này bằng vui lòng chịu đau khổ vì Chúa Giêsu Kitô”.

Vậy Bạn ơi, đứng trước trăm nghìn sự đau đớn Bạn sẽ gặp trên đời, Bạn hãy nhìn qua những quãng đời đau đớn ấy, để nhận cho ra, đâu là quê nhà, rồi hăng hái bước mạnh đi. Khách bộ hành đứng trước quãng đường lầy lội, họ có đứng yên mà nhìn đâu, họ nhìn qua những quãng đường ấy, rồi họ nhìn quãng đường xa tắp trước mặt họ, họ bước liều để qua quãng đường khó đi.

Chúng ta cũng phải làm như vậy. Là vì ở đầu đường bên kia, chúng ta sẽ có cả một cuộc sống đời đời, để hưởng hết những cái thú vui thanh cao và sẽ hưởng đời đời.

Ta có phúc hơn người bộ hành, vì dù sao, người bộ hành cũng có thể lỡ đường, không về đến quê, do những tai nạn bất ngờ có thể xảy đến. Nhưng, chúng ta thì khác, chúng ta chắc sẽ về tới quê, tuy không biết ngày nào, và cũng không cần biết, chỉ biết chắc là nếu ta cố đi, thì thế nào cũng tới.

Tôi xin chúc Bạn lúc nào cũng nhớ đến quê thật đời sau, luôn luôn nhắc cho mình rằng: “Tôi có một quê, và rồi đây không sớm thì muộn, thế nào tôi cũng phải đến nơi”. Cùng với ý tưởng ấy, Bạn hãy bảo mình: “Nhưng tôi lại phải vui lòng lĩnh nhận hết các sự gian nan đau khổ sẽ đến, vì đó là điều kiện tối cần để đến quê nhà. Không qua đường khốn khó, không về được quê. Không qua núi Sọ không thể tới núi cây Dầu là chỗ Chúa đã lên trời… ”.

Can đảm đi, Bạn, hăng hái đi, Bạn !

Tôi thành thực cầu chúc Bạn lòng hăng hái ấy, lòng can đảm ấy!

Lm. Nguyễn Văn Tuyên DCCT

Niềm Tín Thác – Chương V: CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP GIÁ

I.  CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP GIÁ LÀ VUA KHÔN VÍ CỦA TÌNH THƯƠNG.

– NGÀI RẤT ĐÁNG MẾN YÊU TRONG VƯƠNG QUYỀN CỦA NGÀI. NGÀI LÀ TÌNH THƯƠNG VÔ CÙNG ĐÃ NHẬP THỂ.

– NGÀI ĐÃ CHẾT ĐỂ CHIẾM LẤY TRÁI TIM TÔI VÀ LÀM CHO TÔI NÊN THÁNH.

Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá là vua khôn ví của tình thương.

– Có một nguồn suối tràn đầy niềm tín thác, nhưng đáng tiếc thay! Lại bị nhiều linh hồn nhiệt thành quên lãng. Đó là nguồn suối chảy vọt ra từ tảng đá đồi Golgôta, dưới chân cây Thập giá Chúa Giêsu. Đó là một nguồn suối tràn lan, không khi nào vơi cạn, nhưng chỉ một số ít linh hồn được Chúa ưu ái biết tới mà thôi. Biết bao linh hồn ước ao nên trọn lành đã quên lãng nguồn suối này ! Trong những lúc khô khan và trong những đêm tối thiêng liêng, biết bao linh hồn đã quên đi đến Núi Sọ, để nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, và để uống nước mát mẻ và bổ dưỡng của nguồn suối tín thác này !

Trước hết chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu đang hấp hối trên thập giá, hãy nhìn ngắm lâu giờ, trong thinh lặng. Ước gì chúng ta có thể nhìn ngắm Chúa với cặp mắt đầy yêu mến nồng nàn của những tâm hồn say sưa yêu mến Chúa chịu đóng đinh, như Catarina Ricci, Catarina Emmerich, hoặc như một trinh nữ Sêraphim đang còn sống giữa chúng ta là Gemma Galgani ! Các trinh nữ này đã sững sờ vì tôn kính và yêu mến Chúa chịu đóng đinh, mỗi khi cảm thấy sắp được những thị kiến mà Chúa đã ban cho nhiều lần.

Hãy nhìn xem Chúa Giêsu chết treo trên thập giá vì tất cả chúng ta, và vì tôi nói riêng. Chúa xanh xao, mặt mũi và toàn thân đầy máu, đầu đội mão gai, Chúa đã chết vì yêu thương ta, vì yêu thương tôi. Không cần nhiều tưởng tượng cũng có thể thấy rõ ràng Chúa đã chịu đau đớn lắm : sự đau đớn của Chúa vượt xa bất cứ những đau đớn nào con người ta phải chịu xưa nay. Không cần phải phân tách từng đau khổ trên thân xác và trong tâm hồn của Chúa. Chỉ cần tôi nhìn ngắm Ngài trong thinh lặng, với một cái nhìn trìu mến, để dần dần tôi nhận ra sự thật này : Chúa Giêsu tôi yêu mến đã chịu đóng đinh vào cây thập giá, đã chết cách vô cùng đau đớn như thế vì yêu thương tôi. Có đúng thế không ? Có đúng là Chúa Giêsu, Chúa Cứu Thế của tôi, Thiên Chúa của tôi, đã chết vì một tạo vật bé nhỏ và thấp hèn như tôi ?

Khi tôi đã phần nào thấu hiểu đươc chân lý này, khi chân lý này đã xâm chiếm trái tim của tôi, tôi sẽ thấy Chúa Giêsu khác hẳn : Ôi ! Đó là Chúa Giêsu Vua của tình thương khôn ví.

Đúng thế, Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá là Vua tình thương, một tình thương khôn ví. So với tình thương của Ngài, tất cả mọi yêu thương của loài người đều là không. Những yêu thương thời danh nhất của nhân loại đều mờ nhạt trước tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cũng như ánh sáng của các ngôi sao mờ hẳn đi khi mặt trời xuất hiện. Tình yêu của những Oreste và Pylade là gì so với tình thương của Chúa Giêsu ? Tình thương của những người mẹ thương yêu con cái nhất là gì, nếu so với tình thương của Chúa Giêsu chết vì thương yêu ?

Tình thương của Chúa Giêsu chết trên thập giá là đỉnh cao của tình thương. Đó là tất cả những gì tốt đẹp nhất, bao la nhất và cảm động nhất trong lãnh vực tình thương. Trong số tất cả những tình thương từ khi có con người trong vườn địa đàng, cho đến ngày tận thế, không một tình thương nào có thể so sánh, dầu một phần nào thôi, với tình Chúa Giêsu thương ta, khi nhận cái chết vô cùng đau đớn trên thập giá.

Để hiểu điều đó, tôi cũng không cần phải suy nghĩ nhiều về sự Chúa Giêsu là Thiên Chúa của tôi, và tôi là tạo vật bé nhỏ và xấu xa của Ngài. Sự suy nghĩ này có thể chỉ cần để hiểu sâu xa hơn về tình thương của Chúa Giêsu đối với tôi. Nhưng chỉ đơn giản xét theo phương diện con người, coi Chúa Giêsu là một con người như chúng ta, tôi cũng thấy ngay việc Chúa Giêsu nhận cái chết trên thập giá để cứu tôi, cứu nhân loại, thì đó cũng là một tình thương khôn sánh. Tình thương của Chúa chịu đóng đinh trên thập giá vì tôi, và để chiếm lấy trái tim bé nhỏ và vô ân bạc nghĩa của tôi, thật là một tình thương không có tình thương nào sánh với được.

Chúa Giêsu rất đáng mến yêu trong vương quyền của Ngài.

– Chúa Giêsu thật vô cùng đáng mến yêu trong cách tỏ bày tình thương vô cùng đáng tôn thờ của Ngài như thế. Chưa bao giờ trong nhân loại đã có một cảnh tượng lạ lùng như tình thương của Chúa Giêsu, Vua tình thương. Chưa bao giờ lịch sử có thể kể cho ta biết tình thương của một người bạn, hoặc của một người mẹ cao vời như thế ! Thật không có gì sánh được với tình thương vô cùng cao vời của Chúa Giêsu chết vì yêu thương ta, và chết đau khổ vô cùng trên thập giá ! Đây thật là đỉnh cao của tình thương !

Bởi vậy nếu trái tim tôi rung động, nếu linh hồn tôi cảm thấy xúc động khi nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, nhất là nếu trong khi tôi chiêm ngưỡng Ngài, Ngài cho tôi cảm thấy một tàn lửa của tình thương thần linh của Ngài bốc cháy trong tâm hồn tôi, tôi sẽ để mình từ từ thấm lấy sự ngọt ngào này. Chưa bao giờ tôi thấy Chúa Giêsu tốt lành và vô cùng đáng mến yêu như hôm nay. Những máu me và những khạc nhổ làm biến dạng khuôn mặt Chí thánh của Ngài càng làm tôi yêu mến Ngài. Cặp mắt sưng vù và mờ đi dưới làn nước mắt của Ngài, cặp mắt đang nhìn tôi như van xin lòng mến yêu của tôi, đã làm trái tim tôi như tan vỡ. Những giọt máu nhuộm đỏ tóc và mặt mũi Ngài đã ánh lên như những viên ngọc qúi khiến tôi say mê. “Người yêu của tôi vừa trắng vừa hồng thắm. Tóc của đầu Ngài giống như áo gấm tía của quốc vương” (Dc 5,10). Mão gai trên đầu Ngài là vòng hoa chiến thắng của Vua tình thương. Và tôi sẽ kêu lên như người hiền thê trong sách Diễm ca : “Xin hãy nâng đỡ tôi bằng những cành hoa, vì tôi muốn ngất xỉu vì yêu mến” (Dc 2,5).

Tất nhiên tình thương vô cùng của Vua Giêsu vượt xa tất cả mọi yêu thương của loài tạo vật chúng ta. Đó là tình thương của Chúa Giêsu nhập thể và của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Đó là tình thương của một Thiên Chúa, một tình thương muôn thuở và vô cùng lớn lao đã được Chúa cho tôi cảm nghiệm thấy và ôm lấy trong lòng với một lòng mến yêu khôn tả. Khi mà tình thương vô cùng của Chúa Giêsu đã được tôi cảm nghiệm như thế, thì tất nhiên nó vượt xa tất cả mọi tình thương yêu khác.

Con người nào, vật thọ tạo nào dám so sánh tư tưởng của mình với tư tưởng của Đấng tạo thành trời đất ? Ai dám so sánh sự khôn ngoan bằng hạt bụi của mình với sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa? Những hệ mặt trời vô cùng nhỏ bé của các hạt nguyên tử cũng cao rao quyền năng của Thiên Chúa như những tinh tú của ngàn triệu thiên hà trong vũ trụ… Có lẽ nào Thiên Chúa lại chịu thua con người hoặc các thiên thần sốt mến về tình thương chăng ? Thật ra chúng ta thấy Chúa vượt xa vô cùng các tạo vật của Ngài về tình thương.

Hỡi con người khốn nạn ! Mi tưởng chỉ có mi biết yêu thương, nhưng mi nên biết tình thương của mi chỉ là một thứ ích kỷ xấu xa nếu so với tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá. Trời cao hơn đất bao nhiêu, tình thương của Đấng tạo thành vũ trụ cao hơn tình thương của vật thọ tạo bao nhiêu, thì tình thương của Thiên Chúa, thể hiện nơi tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, vô cùng vượt xa tình thương của loài người bấy nhiêu.

Lạy Chúa Giêsu rất mến thương, con yêu mến và tôn thờ Chúa là Vua tình thương, là Vua mọi chiến thắng! Sánh với tình thương của Chúa, mọi tình thương đều hư vô giả dối ! con sung sướng được chiêm ngưỡng Chúa cách dịu dàng… Tình thương của Chúa là hạnh phúc của các thánh trên trời, thì cũng làm con say mê : “Chúa đã chiếm trọn trái tim con bằng một cái nhìn của cặp mắt Ngài” (Dc 4,9).

Chúa đã chết để chiếm lấy trái tim tôi và làm cho tôi nên thánh.

– Từ ngai vàng vấy máu của Ngài là cây Thập giá, Chúa Giêsu giơ hai tay đầy những vết thương về phía tôi và nói với tôi : “Hỡi vật thọ tạo nhỏ bé của Ta, không bao giờ con có thể yêu mến Ta như Ta đã yêu thương con. Con hãy xem, Ta đã chết trên thập giá này để chiếm được trái tim của con. Ta khát khao được con yêu mến. Ta nóng lòng muốn chiếm được tình yêu trung thành, toàn vẹn và tuyệt đối của con”.

Đó là lý do mạnh mẽ để chúng ta tin tưởng và yêu mến. Tôi có hiểu được điều đó không ? Chúa Giêsu ở đó, trên thập giá, để chiếm lấy trái tim tôi. Ngài không chỉ chịu chết để chuộc tội cho tôi : để làm việc này, một lời của Ngài cũng qúa đủ rồi. Ngài ở đó để chinh phục lòng mến yêu của tôi, để xua đuổi khỏi trái tim tôi tất cả mọi quyến luyến nào khác, và để làm nảy sinh trong linh hồn tôi một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu quên mình, một tình yêu kết hợp. Ngài ở đó, trên thánh giá, để làm cho tôi nên thánh.

Ta khát ! Chúa kêu như thế với toàn thể nhân loại. Tiếng kêu khi gần tắt thở đó của Chúa đã vang dội qua các thế kỷ. Vâng, Ngài khát tình mến yêu, tình mến yêu của tất cả mọi người mà Ngài muốn cứu khỏi lửa hỏa ngục, nhưng nhất là lòng mến yêu nồng nàn của những linh hồn quảng đại muốn tận hiến cho Ngài. Ngài khát tình mến yêu của các linh mục, các tu sĩ, các nữ tu của Ngài. Ngài khát khao sự thánh thiện của họ.

Ôi ! Thật là ngọt ngào được nghe biết như thế, sau những lúc khô khan và những đêm tối đầy lo âu, khi tôi tưởng chỉ có tôi yêu mến, còn Chúa Giêsu thì có vẻ bỏ quên tôi, mà tôi thì than thở và héo hon đi tìm sự hiện diện của Ngài.

Chúa Giêsu khao khát kết hiệp với tôi, ở luôn bên cạnh tôi như một người bạn tình. Ngài nóng lòng muốn biến đổi tôi nên giống Ngài. Ngài muốn thấy tôi sống khiêm nhường, quên mình, yêu mến Ngài đến điên rồ, như sự điên rồ của thập tự giá. Ngài ước mong thấy tôi sống thánh thiện, và Ngài khát khao điều đó hơn chính tôi ước ao rất nhiều.

Khi tôi tưởng đang một mình yêu mến Ngài, khi tôi tưởng những sự bất trung và những sự khốn nạn của tôi đã làm Ngài xa lánh tôi và tôi qúa xấu xa không đáng Ngài yêu thương nữa, tôi đã sai lầm dường nào ! Chúa Giêsu đã chết vì yêu thương tôi, Ngài không bỏ qua một phút nào mà không lo cho tôi, không lo làm cho tôi nên thánh.

Vậy, hỡi linh hồn tôi, hãy ôm lấy Chúa Giêsu, Ngài đã chết trên thập giá vì yêu thương mi ! Hãy nói rằng mi yêu mến Ngài, và nhất là hãy an ủi Ngài vì trước đây mi đã làm phiền lòng Ngài vì những sai lỗi của mi. Mi đã thiếu tin tưởng và tín thác, mi đã nghi ngờ tình thương của Ngài, mi đã không nhận ra tình thương vô cùng dịu dàng của Ngài.

Hãy nhìn ngắm Ngài thêm một lúc nữa ! Hãy ở lại với Ngài, đừng rời bỏ Ngài trước khi cảm thấy nơi mi một niềm tín thác trọn vẹn.

Chúa Giêsu còn giang hai cánh tay đầy những vết thương về phía tôi và nói với tôi : “Cha là lòng Nhân hậu vô biên, là sự dịu dàng vô cùng, là tình thương vô cùng. Cha là đại dương bao la của đức ái thần linh. Những đợt sóng của đại dương này giống như cơn thủy triều trào dâng và tìm chỗ để đổ xuống. Cha là tình thương vô biên và chỉ có một niềm ước ao là được yêu mến. Cha chỉ có một niềm ước ao đang thiêu đốt Trái Tim Cha, là ban tình thương của Cha cho các linh hồn. Con là kẻ đang héo hon vì lòng yêu mến, con hãy đến đây với Cha, đến với đầy lòng tín thác. Tất cả những gì về lòng mến, con ước mong cho con, hoặc cho ai khác, con hãy xin Cha, hãy xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh của con ! Cha có dịp được ban phát tình thương như thế sẽ là niềm vui lớn lao đối với Cha. Con hãy tạo cho Cha niềm vui đó đi ! Con hãy xin và hãy tin chắc sẽ được Cha ban cho. Thập giá là ngai tòa nơi Cha ban phát tình thương cách rộng rãi. Con hãy xin, hãy xin thật nhiều, đừng sợ xin nhiều qúa. Con càng ước ao yêu mến Cha hết lòng, con sẽ càng làm đẹp lòng Cha.

II.  CHÚA GIÊSU ĐÃ CHẾT NHẤT LÀ VÌ YÊU MẾN CHA NGÀI. THEO PHƯƠNG DIỆN NÀY, NGÀI ĐÁNG MẾN VÔ CÙNG VÀ LÀ NGUỒN SUỐI MỘT NIỀM VUI TINH TUYỀN

– NGÀI CŨNG CHẾT ĐỂ CHIẾM LẤY TRÁI TIM VÀ ĐỜI SỐNG CHÚNG TA, VÀ NHÂN LÊN TỚI VÔ CÙNG TÌNH YÊU CỦA NGÀI ĐỐI VỚI CHA NGÀI. LẼ NÀO TA KHÔNG CẬY TRÔNG.

Chúa Giêsu đã chết nhất là vì yêu mến Cha Ngài.

– Cho tới lúc này, chúng ta mới chỉ xét đến một phương diện, một mặt của tình yêu mến của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Nhưng còn một phương diện khác tốt đẹp hơn, đáng mến hơn đối với một linh hồn chân thành mến yêu Ngài. Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì tôi, nhưng cũng vì và nhất là vì yêu mến Cha Ngài. Đó là khía cạnh đáng mến yêu nhất của tình yêu Chúa Giêsu. Và đó cũng là điều bị người ta quên lãng nhiều nhất. Linh đạo của chúng ta qúa vị kỷ, qúa nghĩ về bản thân mình. Yêu mến Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì thương yêu chúng ta, và phải yêu mến Ngài để đền đáp tình thương của Ngài. Đó là điều tốt lành. Nhưng một linh hồn quảng đại và thật lòng yêu mến Chúa Giêsu không thể dừng lại ở đó. Chúa đã chịu chết trên thập giá, chính là vì vâng ý Cha Ngài và để tỏ lòng yêu mến Cha Ngài. Cái chết vô cùng đau đớn của Ngài trên Núi Sọ là sự tỏ bày lòng mến yêu vô cùng mà Ngài vẫn có từ thuở đời đời, đối với Cha Ngài, trong sự sống nội tại của Chúa Ba Ngôi, và nay được tỏ bày cho chúng ta trong thời gian.

Ôi, nếu tôi yêu mến Chúa Giêsu bằng một lòng mến yêu vô vị lợi, một lòng mến yêu biết quên mình, thì hình ảnh Chúa Giêsu đội mão gai và chết trên thập giá vì yêu mến Cha Ngài sẽ trở nên vô cùng đáng kính mến và tôn thờ hơn.  Một hào quang sáng chói sẽ tỏa ra từ khuôn mặt vô cùng dịu hiền của Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ toàn thiêu, dâng lên Cha Ngài, là đỉnh tuyệt cao của tình yêu đối với Cha Ngài. Của lễ toàn thiêu này của tình yêu đã làm Chúa Cha vui sướng vô cùng, và đó cũng là niềm cảm mến tôn thờ muôn đời của các thiên thần Sêraphim và các thánh nam nữ trên trời.

Ôi ! Thập giá Chúa Giêsu là ánh sáng muôn đời, là đại dương của tình thương vô biên, trong đó mọi tội lỗi, mọi điều bất chính và mọi sự khốn nạn của loài người được biến tan, như giọt nước trên một lò than hồng. Đối với một linh hồn yêu mến Chúa, thì đó là niềm an ủi vô cùng : tình yêu Chúa Giêsu không những an ủi tôi về trăm ngàn sự khốn nạn của linh hồn tôi, khiến tôi thường phải than thở, mà còn an ủi tôi về những chuyện ích kỷ của những người xung quanh tôi, làm tôi buồn sầu.

Ôi, lạy Chúa chịu đóng đinh con tôn thờ ! Con đã tìm thấy nơi Chúa tình yêu tinh tuyền mà con đã tìm từ lâu. Tình mến yêu của Chúa đối với Cha Ngài vô cùng tốt đẹp, đáng kính phục và tôn thờ ! Con yêu mến Chúa và cảm tạ Chúa vì đã yêu mến Chúa Cha vô cùng như thế. Giả như Chúa không chịu chết vì con, để chuộc tội cho con, thì nguyên sự chiêm ngưỡng lòng mến yêu của Ngài đối với Cha Ngài, khi Ngài chết trên thập giá, cũng làm cho con cảm mến và yêu mến Ngài vô cùng. Vâng, lạy Chúa, con đã thấy nơi lòng mến yêu này của Chúa thứ tình mến yêu tuyệt đối mà chúng con không thấy ở đâu hết. Đây không còn là một tàn lửa, nhưng là một lò than lửa bừng bừng của tình yêu thương vô cùng. Lò lửa này, chúng con không thể thấy ở đâu hết, mà chỉ thấy nơi Trái Tim của Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chúa Giêsu đã chết để chiếm lấy trái tim và đời sống chúng ta.

– Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá để vâng ý và yêu mến Cha Ngài : Đó là tình mến yêu tinh tuyền và quên mình. Nhưng Ngài còn nói với tôi những lời dịu dàng, khiến tôi cảm động sâu xa như sau : “Con xem, Cha chịu đóng đinh và chết trên thập giá vì yêu mến Chúa Cha. Nhưng tình yêu của Cha sẽ không chết để nhân thừa tình mến yêu này lên nhiều vô cùng : Cha chết để chiếm lấy từng triệu trái tim. Cha hiến mạng sống để chiếm lấy muôn triệu mạng sống. Nếu hạt lúa không chết đi nó sẽ trơ một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Tình mến yêu của Cha sẽ nảy mầm và sinh ra vô vàn vô số những bông lúa cho đến tận thế.

“Đó là niềm ước ao nồng nàn của Cha, niềm vui của Cha và một trong những lý do khiến Cha chấp nhận cái chết trên thập giá. Cha chết để các linh hồn tận hiến cho Cha, để con dâng trái tim con cho Cha, và để từ nay trái tim con chỉ mang nặng một tình mến yêu, là mến yêu Cha hết lòng. Con hãy dâng trái tim con cho Cha, hãy mở nó ra đón lấy tình thương nồng nàn của Cha, để lửa tình thương của Trái Tim Cha thiêu đốt con và thiêu hủy tất cả tính tự ái và ích kỷ của con.

“Con hãy dâng trái tim cho Cha, hãy dâng đời sống của con cho Cha. Cha ước ao thực hiện lòng mến yêu của Cha đối với Chúa Cha ở nơi con, nhờ lòng mến yêu của con. Cha muốn có muôn triệu trái tim của chúng con để thực hiện lòng mến yêu bao la của Cha đối với Chúa Cha. Con hãy dâng hiến trái tim cho Cha, như thể không phải là con sống nữa, nhưng là Cha sống ở trong con. Con hãy nói như Phaolô : “Không phải tôi sống nữa, nhưng đó là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). Con hãy để Cha tự do hành động trong con. Con hãy để Cha tỏ bày lòng mến yêu Chúa Cha nơi con, bằng trăm ngàn cách, trăm ngàn nhân đức. Con hãy sống như không còn linh hồn, vì Cha là linh hồn con, là chủ thể của mọi tư tưởng và mọi hành vi của con. “Chúng ta là hương thơm của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa” (2 Cr 2,15). Cha muốn chiếm lấy tất cả con người của con, biến đổi con người của con, để nhờ con mà mến yêu Chúa Cha đến mức con trở thành như bánh thánh trên bàn thờ, chỉ còn hình bóng là một vật thọ tạo, nhưng bên trong là Cha, vì con đã được thần linh hóa trọn vẹn”.

Như vậy, sau cùng tôi đã có niềm tín thác trọn vẹn và không lay chuyển chưa ? Sau cùng tôi đã hiểu những ước ao và những dự tính của Chúa Giêsu chưa ? Tôi có hiểu rằng nếu tôi ước ao mến yêu Ngài và Cha Ngài cách nồng nàn đến điên rồ, thì Chúa Giêsu còn nóng lòng ước ao điều đó hơn tôi vạn vạn lần ? Những ước ao của Ngài vô cùng vượt xa những ước ao của tôi. Và xét cho cùng, nếu tôi ước ao quên mình đi, chết cho bản thân mình, yêu mến thập giá Chúa Giêsu và được biến thành Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, thì tất cả đều là những ước ao của Chúa Giêsu ở trong tôi. Chính Ngài đã khơi dậy những khát vọng này ở trong tôi, và chính Ngài sống những khát vọng này ở trong tôi. Và chắc chắn Ngài không linh hứng cho tôi những ước vọng tốt lành này, nếu Ngài không muốn thực hiện chúng. Những ước vọng này là thứ tiền đặt cọc Ngài ban cho tôi trước, để loan báo những ân sủng đặc biệt Ngài muốn ban cho tôi. Những ước ao của tôi càng nồng nàn, tôi càng có thể tin chắc Ngài sẽ ban các ân sủng này cho tôi một ngày nào đó.

Khi nào ? Bằng cách nào ? Qua những con đường nào ? Và sẽ qua những đêm tối nào ? Đó là điều bí mật của Thánh Tâm Chúa. Tôi chỉ chắc một điều : Tôi sẽ đi tới chỗ làm vui lòng Ngài cách trọn vẹn, làm vui lòng Ngài như các thánh đã làm Ngài vui sướng. Ngoài ra, mọi sự có quan trọng gì đâu ! Điều chắc chắn là tôi sẽ đạt tới thành qủa cuối cùng, sẽ đi tới chỗ được hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu tôi yêu mến. Nếu tôi giữ vững thiện chí, nhất là nếu tôi không chút tin cậy nơi mình, nhưng trọn vẹn tín thác nơi Chúa Giêsu, tôi chắc chắn sẽ có ngày thực hiện được lý tưởng của tôi, là thấy Chúa Giêsu sống viên mãn ở trong tôi.

Paul De Jaegher S.J.

 

Hạnh Phúc – Chương 1 - 10. CẦN ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN

Nietzsche, một triết gia thế kỷ 19, đã cố gắng diễn tả tính khí thời đại ông trong lời xác nhận: “Thiên Chúa đã chết”, qua đó ông muốn nói rằng vào thời ông con người đã đánh mất đức tin của mình; đồng thời ông cũng phóng một tầm nhìn tiên tri về tương lai và dự báo thế kỷ 20 sẽ là một thế kỷ đầy chiến tranh và cách mạng. Hai xách nhận trên đây của Nietzsche liên kết với nhau nhờ vào một lập luận còn sâu sắc hơn sự khám phá ra triết lý về “siêu nhân” đó là một khi không còn yêu Chúa nữa thì còn lâu con người mới yêu được đồng loại của mình và rồi họ sẽ phải gặp khó khăn cực kỳ trong nỗ lực yêu mến người láng giềng đặc biệt mà hiện đã trở thành kẻ thù của họ.

Thực thế, thế kỷ này là thế kỷ dẫy đầy các cuộc cách mạng. Tuy nhiên ở đây chẳng cần phải đi sâu vào lịch sử các cuộc cách mạng mang tính cách hoàn toàn kinh tế và chính trị; bởi vì chúng ta luôn luôn có khả năng biến thời đại của mình thành thời đại của các cuộc cách mạng quang vinh, cách mạng chính bản thân chúng ta. Một cuộc cách mạng sẽ hình thành bất cứ khi nào một tâm hồn biết truất phế cái bản ngã chỉ đạo nó và đồng thời biết khuất phục cái bản ngã ấy theo nguyên tắc của tình yêu. Một cuộc cách mạng sẽ bùng nổ bất cứ khi nào lòng khiêm tốn thay thế tính kiêu căng nơi chúng ta, khi nào mà chúng ta từ bỏ lòng ham hố cuồng loạn muốn thành công, muốn được tiếng.

Chúa chúng ta đã để lại một kiểu mẫu của loại người biết cách mạng chính mình: ngay đêm trước khi chết để cứu chuộc trần gian, Ngài đã quì gối trước các môn đệ của mình như thể Ngài thấp hèn hơn tất cả bọn họ. Trước đây trong cuộc đời giảng huấn của mình, Ngài vẫn thường bảo họ chớ tìm chỗ nhất nơi bàn tiệc cũng đừng ham được mọi người biết đến. Khi nghe các tông đồ tranh luận với nhau xem ai trong họ là kẻ vĩ đại nhất, Chúa liều kêu gọi họ thực hiện cuộc cách mạng về cách định giá trị của họ. Ngài bảo: “Vua chúa các dân ngoại cai trị dân họ và kẻ cai trị được mang tiếng là người gia ơn. Còn các con thì đừng làm thế, đừng phân biệt giữa người lớn nhất và người bé nhất, giữa các người cai quản và người phục vụ. Hãy nói cho ta biết: ai lớn hơn? Người ngồi ở bàn hay kẻ phục vụ ông ta? Chắc hẳn là người ngồi ở bàn phải không? Và Ta đã hiện diện giữa các con với tư cách một kẻ tôi tớ”.

Trước đây Chúa đã thiết lập cuộc cách mạng của đức khiêm tốn bằng những lời nói; giờ đây, sau bữa tiệc ly, Ngài đưa cuộc cách mạng ấy ra thực hành qua cử chỉ sau: “Ngài cởi áo khoác để qua một bên, lấy một tấm khăn quấn quanh người đoạn đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân các môn đệ rồi dùng tấm khăn cột quanh người lau chân cho họ”. Vào thời bấy giờ, các bọn nô lệ bị chỉ định phải làm những công việc hèn hạ như thế. Thật là một sự cố đảo lộn có tầm kích vĩ đại khi vị thầy của các thầy, vua của các vua quì gối xuống trước 24 bàn chân chai sạn đẫm mồ hôi và rửa sạch chúng khác nào sự tha tội của Ngài cũng rửa sạch trái tim chai cứng và linh hồn dơ bẩn của chúng ta vậy. Mọi giá trị nhân sinh vĩnh viễn bị đảo lộn qua cuộc cách mạng gây đầy sửng sốt của Đức Kitô trong lời Ngài tuyên bố: “Ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên”.

Ngay khi Chúa Giêsu thốt ra những lời này thì Cesar xem như bị truất ngôi; nguyên lý bóc lột bị phế bỏ, xấc láo kiêu hãnh bị đẩy ra cửa. Kể từ đây, mọi Kitô hữu phải cảnh giác chớ nên xét đoán theo lối thế gian, chớ tìm kiếm cho mình những phần thưởng thế gian có thể trao tặng. Khi giọt nước từ đôi tay Chúa Kitô rơi xuống vào đêm ấy, những hệ thống luân lý cổ xưa liền trở thành lỗi thời và những khái niệm cao đẹp nhất của người xưa trở nên không còn thích hợp với con người nữa. Kể từ đây, điều tồi tệ nhất gây hỗn loạn cho tâm hồn chính là không biết phục vụ tha nhân, là tự xem mình là xứng đáng có đặc quyền đặc lợi… Một lề luật mới đã ra đời: lề luật này mặc khải sự bình đẳng của mọi người trước mặt Chúa đồng thời công bố nét đẹp của lòng khiêm tốn. Đấng tự hạ mình mặc xác phàm giờ đây đang tuôn tràn hồng ân và đang dạy chúng ta bài học bằng việc tự hạ cái vô biên của mình xuống để phục vụ các tôi tớ của mình.

Cuộc cách mạng bên trong tâm hồn là một biến cố của Kitô giáo. Nó đòi buộc chúng ta không được hận thù, không được đòi hỏi quyền lợi cá nhân, danh cao tước cả cũng như không được nói lời dối trá. Trong cuộc cách mạng này, tình yêu ẩn núp từ bên trong và hoạt động như một đạo quân thứ năm luôn tín trung với Chúa ngay giữa những bản ngã rối ren mất trật tự của chúng ta. Cuộc cách mạng như thế sẽ tiêu diệt lòng kiêu ngạo và vị kỷ, sự ganh tỵ ham hố cũng như lòng khát khao dành chỗ “nhất” khiến chúng ta thường thiếu bao dung đối với quyền lợi của tha nhân. Thanh gươm tuốt ra sẽ không nhắm người láng giềng mà nhắm vào sự tự kiêu phi lý của bản ngã chúng ta. Đối với các cuộc cách mạng khác thì quả là dễ dàng giao chiến bởi vì chúng ta chống lại với “kẻ thù xấu xa” bên ngoài. Còn cuộc cách mạng Kitô giáo thật khó khăn vì kẻ thù mà chúng ta giao chiến lại là một phần của chúng ta. Tuy nhiên chỉ có cuộc cách mạng này mới đem lại an bình đích thực: còn những cuộc dấy loạn khác đều sẽ chẳng bao giờ chấm dứt bởi vì chúng chỉ kềm hãm lại đích nhắm của chúng ta mà thôi và luôn luôn để lại lòng căm hận sục sôi trong tâm hồn con người.

Tư duy hiện đại đang hướng về một cuộc cách mạng thế giới bên ngoài, cách mạng của các dân tộc, các giai cấp, các chủng tộc cũng như các đảng phái. Còn Chúa chúng ta thì không dành ưu tiên cho cuộc cách mạng mang tính xã hội. Trước tiên, Ngài muốn tái tạo từng con người bằng một cuộc phục sinh của Ngài, đoạn sau đó, qua việc sai phái Thần Trí Ngài đến với con người, Ngài cải thiện lại xã hội thế giới cổ xưa.

Thánh Augustinô có nói: “Những kẻ muốn xáo động sự an bình mà mình đang sống thì hãy làm điều ấy không phải vì căm ghét mà hãy tỏ ra mình có năng lực biến đổi nó”. Chiến tranh xảy đến khi con người phóng chiếu các xung đột nội tâm của mình ra thế giới bên ngoài. Hoà bình sẽ đến khi nhiều người biết tiến hành cuộc cách mạng nội tâm trong đó lòng kiêu ngạo của họ bị đánh tan kèm theo tham vọng ích của họ bị tiêu huỷ. Hoà bình đi theo một cuộc chiến tinh thần như thế có thể tác động gây lây nhiễm hạnh phúc từ tâm hồn này sang tâm hồn khác và đem lại bình an dương thế cho người thiện tâm.

Gm. Fulton Sheen