8. Đời Sống Tâm Linh

MỘT CÕI ĐI VỀ

Hôm nay tôi một mình đi trong nghĩa trang, tìm lại những kỷ niệm của những người đã đi trước: giám mục, đức ông, linh mục, tu sỹ, các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, chú thím, bạn bè, và anh em.  Đời người thật ngắn ngủi. Mới đó mà nay đã ra người thiên cổ. Mới đó mà nay đã không còn xuất hiện trên cõi đời này, không còn có dịp gặp gỡ, hàn huyên, tâm sự với nhau nữa. Một điều khiến tôi phải suy tư rất nhiều, đó là dù ai đi nữa thì nơi ở cuối cùng của họ cũng như nhau. Một nấm mồ, một mảnh đất khiêm tốn, và một tấm bia ghi lại tên, nơi sinh, ngày sinh và ngày tạ thế. Giữa thinh không bao la ấy, bất chợt tôi nghe đâu đây lời ca của Khánh Ly qua nhạc phẩm Một Cõi Đi Về của Trịnh Công Sơn:

“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”.

Tính đến thời điểm này, người thân và bạn bè đã rủ nhau bỏ lại tôi tất cả là gần 80 người, trung bình cứ một năm là một người. Riêng chỉ năm nay đã có đến 5 người, một ở Úc Châu, ba ở Hoa Kỳ và một ở Việt Nam. Nhìn quanh cứ thấy số tuổi tăng thêm, thì số người thân yêu, bạn bè lại giảm. Nay người, mai ta. Mỗi lần nhận được tin ai đó qua đời tự nhiên trong lòng cảm thấy bồi hồi xúc động. Không biết bao giờ thì đến phiên mình, mà chắc chắn là ngày ấy cũng phải đến thôi, chỉ còn biết tự an ủi: “Sự chết mỉm cười với chúng ta tất cả, và tất cả những gì một người có thể làm được là mỉm cười lại với nó” (Marcus Aurelius, Hoàng Đế Roma). Nghĩ vậy nhưng vẫn thấy lòng mình nôn nao, một cảm nghĩ bâng khuâng cho số kiếp con người.

Nhưng không lẽ chết là vậy sao? Chết là người còn sống đem chúng ta vào nhà xác, đặt chúng ta trong quan tài, rồi đem chúng ta ra nghĩa địa? Chết là bỏ lại tất cả? Chẳng lẽ chết rồi thì không còn nhìn mặt nhau, không còn máu mủ ruột rà, không còn tình thầy trò, không còn bạn bè, không còn cái gì hết? Nếu vậy thì tại sao trong văn hóa Việt Nam lại có câu: “Sinh ký, tử quy” (Sống gửi, thác về)?

Đời người ngắn ngủi: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. (Cao Bá Quát). Thì ra con người xuất hiện trên dương thế làm gì đi nữa, đi đâu đi nữa, cũng chỉ đủ một ngày 24 tiếng, và thọ lắm cũng chỉ 100 năm, rồi cuối cùng thì đành chấp nhận bỏ lại sau lưng và phải ra về. Về đâu?

Thực tế là về với nấm mộ của mình, về với lòng đất lạnh, về với nghĩa trang đìu hiu, và về một nơi mà những người còn sống không muốn về cùng hay chưa muốn về: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.) Nhưng với cái nhìn tâm linh, thì nơi con người về đó là Niết Bàn hay Thiên Đàng, nơi ngập tràn ánh sáng, bình an, và hạnh phúc, hoặc Địa Ngục, nơi tối tăm, bất hạnh, và đọa hình muôn thuở. Chỉ có hai nơi. Và một trong hai nơi ấy là chọn lựa của mỗi người. Thượng Đế không ép buộc ai phải lên Thiên Đàng với Ngài, và Thượng Đế cũng không đẩy ai vào Địa Ngục.

Nhưng để chuẩn bị hành trang cho chuyến tàu định mệnh đến nơi mà mình sẽ về ấy, liệu chúng ta sẽ mang theo những gì? Ai chúng ta sẽ gặp gỡ và đang chờ đợi để đón mình cuối sân ga vĩnh cửu? Để trả lời câu hỏi này, tôi nhớ lại một bức tranh vẽ về một người nhà giầu, có lẽ là tỷ phú hoặc một ai đó rất giầu có. Ông một tay kéo theo chiếc va ly, tay kia xách một túi xách đầy ắp vàng bạc và châu báu. Nhưng ông bị thần chết chận lại và nói: “Hãy để lại tất cả những thứ này trước khi bước qua ngưỡng cửa đời đời. Ở bên kia, chỉ xài phúc và tội thôi”. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra cho người giầu có kia, vì cái mà ông định mang theo lại không được phép đi theo ông, còn cái mà ông không chuẩn bị sẽ đi theo ông.

Từ nghĩa trang trở về, tôi tự nhủ: “Phải bắt đầu lại cho tương lai của mình bên kia thế giới, nơi mà ở đó chỉ xài tiền phúc hoặc tội”. Nhưng cũng băn khoăn hỏi mình: Về đâu? Đâu là nơi mà mình sẽ đến sau khi chết?

2 tháng 11 năm 2024

Lễ các Linh Hồn

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

TẠI SAO CHÚNG TA LẠI CHẾT?

Nếu Chúa muốn chúng ta hạnh phúc và dựng nên chúng ta để sống, thì tại sao Ngài lại bắt chúng ta phải chết thể lý và chịu mọi đau khổ khi mất người thân và phải chia ly?

Sophocles lưu ý trong tác phẩm Antigone của mình: “Có rất nhiều điều kỳ diệu trên thế giới, nhưng không có gì vĩ đại hơn con người... Mặc dù con người đã biết cách tưởng tượng ra nhiều phương thuốc chống lại những căn bệnh dai dẳng nhất, nhưng chỉ có cái chết là con người sẽ không bao giờ có thứ bùa ngải nào cho phép họ trốn thoát”. Thực vậy không gì rõ ràng hơn, cũng không gì phổ biến hơn cái chết.

Sự sống đời này không phải là tất cả. Cuộc sống trên trái đất này chỉ là buổi diễn tập trước khi biểu diễn thực sự. Người ta sẽ dành nhiều thời gian hơn sau khi chết ở cõi vĩnh hằng so với ở đây trên trần gian. Trần gian là một khóa học, một sự chuẩn bị, một sự huấn luyện cho cuộc sống vĩnh cửu. Đời này chuẩn bị cho đời sau.

Người ta nhiều lắm cũng chỉ sống được một trăm năm trên trần gian, nhưng sẽ sống phần còn lại ở cõi vĩnh hằng. Sự tồn tại trên trần gian của chúng ta, như cách nói của Thomas Browne, chỉ là “một dấu ngoặc đơn nho nhỏ trong một đoạn văn vĩnh hằng”. Chúng ta được dựng nên là để sống đời đời.

Kinh Thánh nói: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi” (Giảng viên 3.11) Bên trong chúng ta có một bản năng bẩm sinh khao khát sự bất tử. Đó là bởi vì Chúa đã tạo ra chúng ta theo hình ảnh của Ngài để sống mãi mãi. Mặc dù chúng ta biết rằng cuối cùng mọi người đều chết, cái chết vẫn có vẻ trái tự nhiên và bất công. Nếu chúng ta cảm thấy mình nên sống mãi, đó là vì Chúa đã đặt niềm khao khát đó vào tâm trí chúng ta!

Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo cho phép xem xét cái chết theo một cách khác, vì sự sống lại sau cái chết là nền tảng của sự sống đó. Tuy nhiên, nếu Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rm 6:23), thì Thánh Phêrô lại khẳng định rằng “Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2, 24 ).

A. Tại sao vẫn đau khổ, vì cái chết?

Cái chết thân xác là một thử thách vì chúng ta được dựng nên để sống, tuy nhiên đó là điều kiện sine qua non - không thể không có - để bước vào cuộc sống vĩnh cửu vì không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không chết: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33, 20). Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có cái nhìn khác về cái chết thân xác mà tất cả chúng ta phải gánh chịu? Vì Thiên Chúa tạo dựng con người để sống đời đời, để sống vĩnh viễn “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”, nên cái chết không phải là cách Thiên Chúa chuẩn bị cho Ơn Cứu Độ qua Lịch Sử sao? Điều này được minh họa cụ thể qua dụ ngôn về hạt lúa mì: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12:24-25). Thánh Phaolô cũng giải thich: “Vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5: 15).

Cái chết vẫn không kém phần đau lòng, chính vì con người được tạo ra để sống; không phải để chia ly, mà là để kết hợp. Chính Chúa Giêsu đã khóc khi đối mặt với cái chết của bạn mình là Ladarô. Những giọt nước mắt này không chỉ là bằng chứng về nhân tính của Ngài, mà còn chứng thực rằng Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu, khóc khi đối mặt với cái chết vì Ngài không muốn điều đó. Hơn nữa, chính sự công phẫn lớn lao này, đã không biện minh được cho chính nó, mà lại còn minh chứng cho thuyết vô thần: làm thế nào để tin vào một Thiên Chúa Tình Yêu khi tôi biết rằng tôi sẽ chết và những mối liên kết mà tôi xây dựng với những người khác trong cuộc hành trình của tôi trên trần gian sẽ bị cái chết phá vỡ?

B. Thay đổi quan niệm phàm nhân của mình về cái chết

Trong sách Sáng thế có hai cây: cây biết điều thiện và điều ác mà trái của nó bị cấm và cây sự sống, trái của nó được phép ăn, ban cho loài người sự sống vĩnh cửu. Đức Tổng Giám Mục Beau, giáo phận Bourges nói: “Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên con người để sống đời đời. Vậy thì, chúng ta phải thay đổi quan niệm của con người, vốn cho rằng tất cả chúng ta sẽ chết thì mới hiểu được con người dưới ánh sáng của những gì Đấng Tạo Hóa nói về con người: con người được tạo dựng để sống vĩnh cửu “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”. Khi rời Vườn địa đàng, phản ứng của con người là nghĩ rằng mình đang bị trừng phạt. Tuy nhiên, nếu cái chết không can thiệp, con người sẽ mãi mãi là tội nhân. Tuy nhiên, tất cả Lịch sử sau đó cho thấy rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi Ngài đã đi xa đến mức xây dựng lại mối liên hệ với sự sống vĩnh cửu để trả lại cho con người trái cây mà họ đã đánh mất trong khu vườn”.

Cũng chính trong một khu vườn mà Chúa Kitô hiện ra với Maria Mađalêna, vào buổi sáng phục sinh, giống như một Vườn Địa Đàng mới, nơi con người, sau khi được cứu chuộc bằng cái chết của Chúa Giêsu, cuối cùng được tái sinh. Đây là điều mà Thánh Phaolô Tông đồ biện giải:

Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Chúa Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Chúa Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại” (Rm 6, 3-5).

C. Những hối tiếc phổ biến nhất được nghe trên giường bệnh:

  1. Những lần tôi nêu gương xấu cho mọi người làm theo.
  2. Sự thờ ơ của tôi trước sự đau khổ của người hàng xóm của tôi.
  3. Tôi đã không nói được bao nhiêu lời khen ngợi, công nhận và động viên với những người xứng đáng hoặc cần đến.
  4. Tôi tự nhận những thành công của mình nhưng những thất bại của mình tôi lại đổ lỗi cho hoàn cảnh.
  5. Tôi không tôn trọng sự vô tội của ai đó hoặc ngăn cản ước mơ của người khác.
  6. Tôi tiêu tiền vào những thứ không cần thiết mà tôi không bao giờ sử dụng.
  7. Tôi mất quá nhiều thời gian trước khi tha thứ và không đủ cố gắng để tha thứ.
  8. Tôi đã lợi dụng những người yêu thương tôi để đạt được điều ích kỷ.
  9. Tôi không hướng dẫn tốt những người mà lẽ ra tôi phải giáo dục tốt hơn, trước khi quá muộn.
  10. Tôi không đến thăm hoặc không dành đủ thời gian cho hàng xóm của tôi, bởi vì tôi nghĩ rằng người ấy không thú vị đủ, không có học thức hoặc không hữu ích.
  11. Tôi đã lãng phí quá nhiều thời gian vào những thứ vô ích... Đó là thời gian lãng phí mãi mãi.
  12. Tôi  thích được tâng bốc ngay cả khi tôi biết điều đó là sai.
  13. Tôi thường phàn nàn nhiều hơn là cảm ơn.
  14. Tôi để cho những lời ác ý, thô tục hoặc lỗ mãng phát ra từ miệng tôi.
  15. Tôi tham gia vào những cuộc trò chuyện chế giễu Chúa, đức tin hoặc Giáo hội.
  16. Tôi chạy trốn thập giá quá nhiều lần.
  17. Tôi đã không giữ những lời hứa của tôi.
  18. Những lúc tôi có thể và nên cầu nguyện nhiều hơn, và trên hết, yêu thương nhiều hơn, nhưng tôi đã không làm như thế.
  19. Tôi phớt lờ Chúa Giêsu.
  20. Tôi đã làm tổn thương hàng xóm của tôi một cách nào đó.
  21. Tôi đã thiếu tình yêu. Lẽ ra tôi phải yêu Chúa và người lân cận nhiều hơn nữa.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

từ: https://imitationjesuschrist.forumactif.com

https://fr.aleteia.org

 

 

 

 

 

Dành giờ cho Chúa – Chương III. Sự phát triển của một đời sống cầu nguyện

1. Từ trí óc đến con tim
2. Vết thương tâm hồn
3. Tâm hồn chúng ta & tâm hồn Hội Thánh 

1. Từ trí óc đến con tim

Đời sống cầu nguyện không ở trạng thái tĩnh. Nó phát triển theo những giai đoạn làm thành những tiến trình – những tiến trình vốn không luôn luôn tiến về phía trước theo một đường thẳng nhưng đôi lúc, thậm chí tưởng như rơi ngược về phía sau.

Các tác giả tu đức thường phân biệt những “trạng thái cầu nguyện” từ hết sức tầm thường đến tuyệt diệu nhất mà hành trình của linh hồn tạo ra trên con đường tìm kiếm sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Con số những nơi chốn này và tên gọi của chúng thay đổi tuỳ theo các tác giả. Thánh Têrêxa Avila nói đến bảy toà nhà; các tác giả khác thì phân biệt ba giai đoạn (thanh luyện, giác ngộ, nhiệm hiệp); một số tác giả thì cho rằng, theo sau suy niệm là cầu nguyện bằng cảm xúc, tiếp đó là chiêm ngắm đơn thuần, rồi thinh lặng, rồi họ nói về giấc ngủ của các kỹ năng, hoan hỷ, xuất thần…

Tôi không có ý đi vào chi tiết các giai đoạn trong đời sống cầu nguyện và các ơn thần hiệp cũng như những thử thách gặp phải trong tiến trình cầu nguyện dẫu điều này phổ biến hơn người ta tưởng. Độc giả mà cuốn sách này hướng đến không cần tất cả những điều đó (và những lối trình bày dưới dạng biểu đồ về các giai đoạn trong đời sống nội tâm có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen, đặc biệt khi nói đến một khoảng thời gian, một nơi chốn nào đó khi Thiên Chúa theo sự khôn ngoan của Người dường như thường vận hành theo một trình tự khác).

Tuy nhiên, thật cần thiết để nói đến điều mà tôi nghĩ là sự thay đổi lớn lao đầu tiên, một sự biến đổi căn bản của đời sống cầu nguyện. Mọi giai đoạn phát triển về sau chỉ là hậu quả của sự biến đổi đầu tiên này.

Sự biến đổi này có thể được gán cho những tên gọi không giống nhau bởi các truyền thống hay các tác giả tu đức khác nhau, nhưng dường như không ít thì nhiều, đâu đâu cũng nói đến sự biến đổi nầy cả khi những linh đạo đó được giới thiệu hay mô tả có những khởi điểm rất khác nhau. Chẳng hạn ở Tây Phương, nơi người ta có thói quen đề nghị suy niệm như khởi điểm của cầu nguyện (hay đúng hơn, họ từng đề nghị như vậy, vì con người thời nay thường đến với đời sống cầu nguyện bằng những lộ trình khác nhau), sự biến đổi đó được coi như giai đoạn chuyển tiếp từ suy niệm sang chiêm niệm. Thánh Gioan Thánh Giá đã viết nhiều về sự chuyển biến này, mô tả đầy đủ giai đoạn này và những tiêu chuẩn để xác định nó.

Truyền thống Kinh Nguyện Giêsu của Đông Phương[1] (còn gọi là Kinh Cầu Trái Tim) được yêu chuộng ở Tây Phương vào thế kỷ hai mươi bởi cuốn Chuyện Người Hành Hương[2] khởi đầu bằng cách lặp đi lặp lại không ngơi nghỉ Danh Thánh Chúa Giêsu. Quyển sách nói đến giai đoạn biến đổi này như một thời gian khi lời nguyện tắt Danh Thánh Giêsu đó chuyển từ “trí đến lòng”.

Về căn bản, cùng một hiện tượng, nhưng có nhiều cách mô tả khác nhau dẫu cho biến chuyển này, vốn có thể được mô tả như một sự đơn giản hoá từ phương thức cầu nguyện “chủ động” sang phần nào “thụ động” hơn dù cho có thể có những biểu thị khác nhau tuỳ vào mỗi cá nhân.

Sự biến đổi này cốt tại điều gì? Đó là một quà tặng bất ngờ đặc biệt đến từ Thiên Chúa dành cho những ai kiên trì trong đời sống cầu nguyện. Điều này không thể đạt được bằng những nỗ lực, nhưng là một ân sủng thuần tuý – mặc dầu lòng trung thành kết hiệp với Chúa góp phần rất lớn trong sự chuẩn bị cho việc nhận lãnh đặc ân này cùng lúc làm cho nó trở nên khả thi hơn. Đặc ân này có thể đến rất sớm, có lúc chỉ sau vài năm, có lúc không bao giờ. Thoạt tiên, thông thường người ta dường như không để ý đến nó. Đặc ân này có thể nhất thời, đặc biệt lúc đầu và cứ thoắt ẩn thoắt hiện.

Đặc tính cơ bản của đặc ân này là nó dịch chuyển đương sự, con người cầu nguyện, tiến đến một giai đoạn khác với giai đoạn trước đó vốn là giai đoạn mà những nỗ lực nhân loại chiếm ưu thế (“nỗ lực nhân loại” có thể là sự lặp đi lặp lại tự nguyện một lời nào đó, như Kinh Nguyện Giêsu, hay có phần lý luận hơn như hình thức suy niệm bao gồm việc chọn một bản văn hay một đề tài, xem xét nó, phân tích nó với những ý tưởng và trí tưởng tượng, rồi từ đó, rút ra những cảm xúc và những quyết tâm). Trái lại, giai đoạn mới là một phương thức cầu nguyện trong đó, hành động của Thiên Chúa dần chiếm ưu thế đang khi linh hồn để cho mình được tác động hơn là tự ý hành động, giữ mình trong một thái độ đơn sơ, phó thác, yêu mến và hướng về Thiên Chúa trong an bình.

Với Kinh Nguyện Giêsu, người đọc cảm thấy lời kinh tuôn chảy bộc phát trong lòng khiến tâm hồn họ ngập tràn bình an, mãn nguyện và yêu mến. Với suy niệm, lối dẫn vào một giai đoạn mới, thường được đánh dấu bởi một thứ khô khan, một sự bất lực nào đó khiến cho tiến trình suy tư của một ai đó không vận hành được với một khuynh hướng ở lại trước sự hiện diện của Thiên Chúa mà không làm bất cứ một điều gì cả – không phải vì tính ì ạch hay lười biếng thiêng liêng nhưng trong một sự phó mình đầy yêu mến.

Sự biến đổi này cần được đón nhận như một ân huệ lớn lao, dù hơi chưng hửng đối với những người từng quen với việc nói nhiều với Chúa hoặc khá thành công với việc suy niệm. Giờ đây, họ có cảm tưởng như mình đang đi thụt lùi, việc cầu nguyện trở nên nghèo nàn hơn và dường như không còn sức để cầu nguyện. Họ không thể cầu nguyện lâu giờ hơn như trước đây với cả tâm trí, ý tưởng, hình ảnh và những gì làm cho họ thích thú.

Thánh Gioan Thánh Giá phải hết sức vất vả (đôi khi còn phải tranh cãi thẳng thừng với một số cha linh hướng, những người mù tịt về thực tại này)[3] để thuyết phục về ân huệ này với những kẻ được giao cho ngài, ân huệ mà họ phải vui mừng đón nhận khi được tặng ban. Ngài bảo, sự túng quẫn này là nguồn phú túc đích thực của họ, đừng tìm cách trở lại với thói quen suy niệm trước đây. Hãy vui lòng ở lại trước mặt Chúa với một thái độ quên mình, chú tâm cách đơn sơ, yêu mến và bình an.

Tại sao sự bần cùng hoá này lại là một điều gì đó làm cho phong phú?

Thánh Gioan Thánh Giá giải thích rõ ràng lý do đơn giản và căn bản của việc chuyển sang giai đoạn mới này là một ân huệ hết sức quan trọng. Mọi điều chúng ta có thể hiểu, có thể tưởng tượng hay cảm nhận về Thiên Chúa vẫn chưa phải là Thiên Chúa. Thiên Chúa vượt muôn trùng hình ảnh, biểu trưng, cũng như mọi nhận thức qua giác quan của con người. Nhưng Thiên Chúa không vượt quá đức tin, cũng như không vượt khỏi tình yêu. Thánh Gioan nói, đức tin, một vị thầy của thần học bí nhiệm, là phương tiện duy nhất có khả năng kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa. Thế nên, hành vi duy nhất đưa chúng ta vào hiệp thông đích thực với Thiên Chúa là một hành vi đức tin, được hiểu như một chuyển động của sự bám chặt cách đơn sơ đầy yêu mến vào Người, Đấng mạc khải chính mình và trao ban chính mình trong Đức Giêsu.

Tiếp cận với Thiên Chúa trong cầu nguyện bằng lý luận, suy tư, tưởng tượng và tận hưởng có thể đem lại ích lợi cho linh hồn. Bao lâu lối tiếp cận đó sinh ích, thôi thúc hoán cải, củng cố đức tin và tình yêu… chúng ta cứ dùng nó. Nhưng không thể đạt đến Thiên Chúa theo bản tính của Người bằng những phương tiện này, bởi Người vượt quá tầm với của những hiểu biết và cảm nhận của chúng ta. Chỉ đức tin được dậy lên bởi đức ái mới có thể giúp chúng ta đến gần Thiên Chúa, và đức tin đó chỉ có thể hoạt động đầy đủ bằng cách dứt bỏ những gì thuộc giác quan – những hình ảnh và sự tận hưởng. Đó là lý do tại sao đôi lúc Thiên Chúa xem ra xa vắng và như thế, chỉ đức tin vẫn đang hoạt động.

Khi chúng ta không còn suy tư, không còn cậy dựa vào hình ảnh, không cảm thấy điều gì đặc biệt nữa… nhưng đơn sơ duy trì một thái độ gắn bó yêu mến với Thiên Chúa, có thể bấy giờ chúng ta nghĩ rằng, chúng ta không làm gì cả và không có gì đang xảy ra… Chính lúc đó, Thiên Chúa thông ban chính mình cho chúng ta cách bí nhiệm, sâu sắc và thiết thực hơn gấp bội.

Cầu nguyện giờ đây trở thành mạch nước sâu thẳm phun vọt tình yêu, có thể cảm nhận được lúc này nhưng lúc khác thì không, trong đó, Thiên Chúa và linh hồn hiến thân cho nhau. Theo Thánh Gioan Thánh Giá, đây là chiêm ngắm: “thông truyền bí nhiệm, bình an và yêu thương” qua đó, Thiên Chúa thông ban chính mình cho chúng ta. Thiên Chúa rót chính mình vào trong linh hồn và linh hồn trút mình vào trong Người nhờ tác động của Chúa Thánh Thần nơi tâm hồn.

Lời nói không thể thực thi sự công chính về những gì đang xảy ra; nhưng đó là điều mà nhiều người cảm nhận trong cầu nguyện, điều mà thông thường, họ không ý thức. Như trường hợp Ngài Jourdain (trong vở Le Bourgeois Gentilhomme của Molière) đang “xuất khẩu thành thơ” mà không hay biết; cũng vậy, nhiều người đang chiêm niệm mà không nhận ra chiều kích sâu thẳm nơi việc cầu nguyện của mình. Và họ không nhận ra thì tốt hơn nhiều.

Dù khởi điểm đời sống cầu nguyện của họ là gì – và như đã nói, mỗi người có thể có điểm xuất phát khác nhau – nhưng chính vì đích điểm này, hay ít nữa chính ở giai đoạn này, Đức Giêsu muốn mang thật nhiều người trong họ đến. (Sau đó, không có đích đến cho những chặng xa hơn kèm theo những ân huệ, dĩ nhiên, cao hơn mà Thánh Thần có thể dẫn họ đến, nhưng chúng ta sẽ không đi vào những chặng này ở đây).

Chẳng hạn, các truyền thống cầu nguyện như Kinh Nguyện Giêsu hay truyền thống cầu nguyện do thánh Gioan Thánh Giá trình bày thì hoàn toàn khác nhau và đưa ra những đường hướng tách biệt nhau. Tuy nhiên, khi mô tả ơn chiêm niệm mà cả hai truyền thống hướng đến, chúng lại dùng ngôn ngữ giống nhau một cách lạ thường. Khi thánh Gioan Thánh Giá mô tả chiêm niệm như “một sự hít thở ngọt ngào của tình yêu” (trong The Living Flame of Love), nó có vẻ giống với điều gì đó nhịp nhàng đều đặn của Philokalia[4].

 

2. Vết thương tâm hồn

Đã đến lúc chúng ta tóm tắt những gì đã bàn đến về điểm này và xem coi các chủ đề liên kết với nhau làm sao: tính ưu việt của tình yêu, chiêm niệm, kinh cầu Thánh Tâm, nhân tính Đức Giêsu…

Kinh nghiệm cho thấy, để cầu nguyện tốt và đạt đến trạng thái cầu nguyện thụ động trong đó Thiên Chúa và linh hồn thông hiệp với nhau cách sâu sắc, thì con tim phải bị đâm thủng – đâm thủng bởi tình yêu Thiên Chúa, thương tích bởi niềm khát khao Đấng Yêu Dấu. Chỉ ngang qua một vết thương như thế, lời cầu nguyện mới thực sự đi xuống tận thâm tâm và cư ngụ ở đó. Thiên Chúa phải chạm đến chúng ta ở một cấp độ thẳm sâu như thế của hữu thể đến nỗi chúng ta không thể làm gì nữa mà không có Người. Không có vết thương tình yêu đó, cầu nguyện rốt cuộc cũng không hơn gì việc tập luyện tâm trí hay một việc thực hành thiêng liêng đạo đức; nó sẽ không bao giờ là sự kết hiệp mật thiết với Đấng mà Trái Tim bị đâm thủng vì tình yêu dành cho chúng ta.

Chúng ta có thể thấy nhân tính Đức Giêsu làm trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ở ngay chính tâm điểm nhân tính của Ngài là Trái Tim Ngài đang phải thương tích. Nó bị xé rộng để tình yêu Thiên Chúa có thể tuôn đổ dào dạt trên chúng ta và chúng ta có thể tiếp cận Người. Chỉ khi con tim chúng ta cũng bị xé rộng như thế bởi thương tích, chúng ta mới có khả năng đón nhận tình yêu trào dâng đó. Như thế, một sự trao đổi tình yêu thực sự vốn là mục tiêu của đời sống cầu nguyện mới có thể xảy ra. Rồi việc cầu nguyện của chúng ta có thể trở thành điều mà nó phải là: tim – chạm – Tim.

Thương tích do tình yêu gây ra trong chúng ta có thể mang nhiều hình thái khác nhau vào những thời điểm khác nhau: khát khao, nóng lòng tìm kiếm Đấng Dấu Yêu; ăn năn và đau khổ vì tội lỗi; khát khao Thiên Chúa; đau khổ vì Người xa vắng. Nó có thể là sự ngọt ngào làm phấn chấn linh hồn, có thể là niềm vui không thể diễn tả, có thể là ngọn lửa cảm xúc cháy bỏng. Nó sẽ biến chúng ta thành những hữu thể mãi mãi được Thiên Chúa đánh dấu và không có sự sống nào ngoài sự sống của Người bên trong chúng ta.

Khi Thiên Chúa mạc khải chính Người cho chúng ta, cách tự nhiên, Người tìm cách chữa chúng ta khỏi những đắng cay, lỗi lầm, tội cố ý hay vô tình, mệt nhọc và hơn thế nữa. Chúng ta biết điều này và ước ao được Người chữa lành. Thế nhưng, cũng thật quan trọng để biết rằng, theo một nghĩa nào đó, Người còn tìm cách đả thương chúng ta hơn là chữa lành. Chính qua việc gây thương tích nghiêm trọng hơn mà Người sẽ chữa lành chúng ta tận căn. Dù Người đến gần hay có vẻ xa vắng, dù Người ân cần hay có vẻ dửng dưng… (và tất cả những điều này đều có trong đời sống cầu nguyện của bất cứ người nào!), thì những gì Người làm là luôn nhắm đả thương chúng ta nghiêm trọng hơn bằng tình yêu của Người.

Thánh Phanxicô Salêsiô, trong tác phẩm Treatise on the Love of God, có một chương rất hay nói đến những phương pháp khác nhau mà Thiên Chúa dùng để gây thương tổn cho các linh hồn bằng tình yêu của Người. Chẳng hạn như:

Linh hồn tội nghiệp này những thà chết còn hơn là xúc phạm Thiên Chúa của mình, vậy mà chưa cảm nhận một tia sáng sốt sắng nào nhưng ngược lại, chỉ một sự lạnh lùng cực độ khiến nó tê cứng và yếu nhược đến nỗi cứ sa đi ngã lại vào những bất toàn lộ liễu thực sự của mình – linh hồn này thương tổn nặng nề bởi tình yêu của nó hết sức đau đớn khi thấy Thiên Chúa giả vờ như không thấy nó yêu mến Người biết bao, Người bỏ rơi nó như thể nó là một cái gì không thuộc về Người; và đối với nó, dường như trong mọi lỗi lầm, lo ra chia trí và lạnh nhạt, Thiên Chúa khiển trách linh hồn nó như tát nước vào mặt: “Sao ngươi có thể nói yêu mến Ta khi linh hồn ngươi không ở với Ta?”. Lời này như tên nhọn đau đớn xuyên thủng trái tim nó, nhưng nỗi đau đến từ tình yêu, vì nếu linh hồn không yêu, nó không đau đớn như đã đau đớn bởi nỗi sợ mình đã không yêu mến (Treatise on the Love of God, q. 6, ch. 14).

Đôi lúc Thiên Chúa làm tổn thương nghiêm trọng hơn bằng cách bỏ rơi chúng ta trong sự khốn cùng hơn là bằng cách chữa lành!

Quả thực, Thiên Chúa ít quan tâm đến việc làm cho chúng ta trở nên hoàn thiện hơn việc ghì chặt chúng ta vào Người. Một loại hoàn thiện (như chúng ta thường hình dung) khiến chúng ta tự mãn và không cần lệ thuộc. Tổn thương như thế khiến chúng ta khốn cùng hơn nhưng lại kết hiệp với Người hơn. Và đó là điều quan trọng: không đạt được sự toàn thiện lý tưởng, nhưng luôn bị trói buộc vào Người, bởi sự khốn cùng cũng như bởi nhân đức, để tình yêu của Người có thể không ngừng tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta và bằng cách nào đó, chúng ta hiến dâng chính mình hoàn toàn cho Người vì không có lựa chọn nào khác; bởi lẽ, chúng ta không thể làm thế nếu không có Thiên Chúa. Sự gắn bó này sẽ thánh hoá chúng ta và mang chúng ta đến sự trọn lành.

Đây là câu trả lời cho nhiều vấn nạn trong đời sống thiêng liêng. Giờ đây, chúng ta có thể hiểu tại sao Đức Giêsu không cất khỏi thánh Phaolô “cái dằm nơi xác thịt” và “một thần dữ được sai đến tát vào mặt ngài” nhưng rồi đáp lại tiếng van nài của ngài là, “Ơn Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 9).

Điều này cũng giải thích tại sao những người nghèo khó, những ai bé mọn, những ai hay thương tổn vì cuộc sống… thường được ban ơn khi cầu nguyện, một điều vốn không được tìm thấy ở những người giàu có.

Trên hết, kết hiệp với Chúa cốt tại việc để cho vết thương tình yêu này rộng mở, không cần để nó được chữa lành hẳn. Vậy là ở đây, chúng ta có một hướng dẫn khác nói đến những gì cần làm khi cầu nguyện. Khi cơn đau của vết thương trở nên ít nhức buốt hơn ngang qua sự quen lờn, biếng nhác và đánh mất tình yêu ban đầu, chúng ta cần hành động, tỉnh thức, khơi dậy tâm hồn và thôi thúc nó yêu mến bằng cách tận dụng những ý tưởng tốt và những quyết tâm cao. Theo thánh Têrêxa Avila, chúng ta cần ráng sức để kéo nước lên, cho đến khi Thiên Chúa đoái thương cho mưa xuống[5]. Điều đó có thể đòi hỏi chúng ta phải kiên trì. “Vậy tôi sẽ đứng lên, đi rảo khắp thành, nơi đầu đường cuối phố, để tìm người yêu dấu của lòng tôi” (Dc 3, 2).

Tuy nhiên, nếu tâm hồn rộng mở và tình yêu Thiên Chúa đổ vào, chúng ta chỉ cần ngoan nguỳ hứng lấy suối nguồn đó mà không làm gì khác ngoài việc bằng lòng đón nhận hay chỉ làm điều mà chính tình yêu thôi thúc để đáp trả. Suối nguồn tình yêu Thiên Chúa có thể tuôn đổ mãnh liệt nhưng cũng có thể trôi lững lờ vì những chuyển động của tình yêu Người đôi lúc hầu như không thể nhận biết được; trong cả hai trường hợp, tâm hồn thức tỉnh và chú tâm – “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi chợt tỉnh thức” (Dc 5, 2).

Vào những thời khắc khốn cùng thiêng liêng, tôi tin rằng Thiên Chúa đang hối hả đáp trả khi chúng ta đang ở trong tình trạng thương tổn này. Kết quả là, các giai đoạn truyền thống trong tiến trình của đời sống thiêng liêng thường xuyên bị đảo ngược. Những người đi vào đời sống cầu nguyện mà không trải qua những giai đoạn đầu có thể hứng chịu “vết thương” được mô tả ở đây hầu như ngay lập tức. Điều này có thể sinh ơn hoán cải; hoặc là qua trải nghiệm về sự tuôn đổ Thánh Thần vốn có thể xảy ra trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng hay nơi khác; hoặc ngang qua thời kỳ thử thách đầy quan phòng mà qua đó Thiên Chúa chiếm giữ chúng ta.

Vậy bổn phận của chúng ta trong đời sống kết hiệp với Chúa cốt ở việc trung thành cầu nguyện, kiên trì đối thoại thân tình với Chúa, Đấng đang với tới chúng ta. Một khi trải nghiệm đặc biệt đó về Thiên Chúa trở nên ít sống động hơn, chúng ta không được dần quên những gì đã xảy ra, để rồi mặc cho nó chôn vùi dưới bụi bẩn của thói quen, tính hay quên và nghi ngờ.

 

3. Tâm hồn chúng ta & tâm hồn Hội Thánh

Cuối cùng, chúng ta lưu ý đến một số điểm mang chiều kích Hội Thánh trong đời sống cầu nguyện. Sẽ hoàn toàn sai lầm khi cho rằng, chiều kích Hội Thánh vốn là một phần thiết yếu của đời sống Kitô hữu nhưng lại ít liên quan hoặc không liên quan đến đời sống cầu nguyện của một ai đó. Trái lại, có một liên hệ cực kỳ sâu sắc, dù đôi lúc không thể nhìn thấy, đó là sự gắn kết đời sống và sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh với những gì xảy ra giữa một linh hồn và Thiên Chúa trong sự thiết thân của nó qua việc cầu nguyện. Với lý do chính đáng như thế mà một nữ tu Nhà Kín Carmel, người không bao giờ rời tu viện, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu được tuyên phong là thánh bổn mạng các xứ truyền giáo.

Biết bao điều đáng nói về tương quan giữa sứ vụ truyền giáo và chiêm niệm, bằng cách nào chiêm niệm đưa chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Hội Thánh, mầu nhiệm Các Thánh Thông Công và các chủ thể liên hệ.

Yêu mến việc cầu nguyện là một hồng ân, một hồng ân vốn luôn tháp nhập người cầu nguyện cách trọn vẹn hơn vào mầu nhiệm Hội Thánh. Điều này có thể thấy rõ trong truyền thống Carmel, một truyền thống mang tính chiêm niệm nhất trong tất cả các truyền thống đan tu, theo nghĩa nó nhấn mạnh mục tiêu là kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa qua việc cầu nguyện theo một cách thức vốn có thể rất cá nhân khi nhìn từ bên ngoài. Tuy nhiên, cùng lúc, chính truyền thống Carmel còn cho thấy rõ nhất mối liên quan mật thiết và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa đời sống chiêm niệm và mầu nhiệm Hội Thánh. Mối liên hệ này giản dị nhưng rất sâu xa: nó được thiết lập bởi tình yêu, bởi lẽ, điều quan trọng nhất giữa Thiên Chúa và linh hồn là Tình Yêu; và từ khoa Giáo Hội học vốn ẩn tàng những giáo huấn của các vị đại diện dòng Carmel (thánh Têrêxa Avila, thánh Gioan Thánh Giá, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu), chính Tình Yêu cũng làm nên yếu tính mầu nhiệm Hội Thánh. Tình Yêu hiệp nhất Thiên Chúa với linh hồn cũng như Tình Yêu làm nên thực tại sâu xa nhất của Hội Thánh là một và là chính tình yêu đó – đó là quà tặng của Chúa Thánh Thần.

Trong cơn hấp hối, thánh Têrêxa Avila thì thào, “Tôi là nữ tử của Hội Thánh”. Lý do đầu tiên khiến ngài thành lập các cộng đoàn Carmel, đặt các nữ tu trong những khu nội cấm, thôi thúc họ sống đời sống thần nghiệm… là để đáp ứng nhu cầu của Hội Thánh lúc bấy giờ. Bà bị tác động sâu xa bởi sự tàn phá của phong trào Cải Cách Tin Lành và bởi những chuyện kể về “những người Tây Ban Nha xâm chiếm châu Mỹ, cách riêng Mexicô và Pêru”, về con số khổng lồ dân ngoại “dành được” cho Đức Kitô. Bà trầm trồ, “Thế gian đang bốc cháy và đây không phải là lúc bận tâm đến những chuyện tầm thường”.

Thánh Gioan Thánh Giá xác tín rằng, tình yêu vô vị lợi dành cho Thiên Chúa, tình yêu trao hiến cho Người cách nhưng không trong cầu nguyện là phúc lợi lớn lao nhất đối với Hội Thánh và là điều Hội Thánh cần nhất. “Một hành vi yêu thương tinh tuyền sinh ích cho Hội Thánh nhiều hơn mọi việc lành phúc đức trên trần gian”.

Nhưng chính thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là người diễn tả trọn vẹn nhất cũng như đẹp đẽ nhất liên hệ giữa tình yêu mỗi người dành cho Thiên Chúa được thể hiện trong cầu nguyện và mầu nhiệm Hội Thánh. Chị nói chị nhập dòng Carmel “để cầu nguyện cho các linh mục và các đại tội nhân cứng lòng nhất” và bước ngoặt trong đời chị diễn ra khi chị khám phá sự sung mãn của ơn gọi mình.

Chị muốn theo đuổi tất cả ơn gọi, bởi chị muốn yêu mến Đức Giêsu cách cuồng nhiệt và phục vụ Hội Thánh bằng mọi cách có thể. Chiều kích lớn lao của những khát vọng giày vò chị. Chị chỉ tìm thấy sự bình an nơi tâm hồn khi nhận ra, nhờ sự trợ giúp của Lời Chúa, rằng sự phục vụ lớn lao nhất chị có thể mang lại cho Hội Thánh, một sự phục vụ tự nó bao hàm mọi phục vụ khác, là giữ cho ngọn lửa yêu mến trong chị cháy bừng lên. “Không có tình yêu đó, các nhà truyền giáo sẽ ngưng rao giảng Tin Mừng, các vị tử đạo sẽ ngưng dâng hiến mạng sống… Cuối cùng, tôi đã tìm ra ơn gọi của mình: giữa lòng Mẹ Hội Thánh, tôi sẽ là tình yêu!”, và tình yêu đó được thể hiện rõ nhất ngang qua việc kết hiệp với Chúa:

Càng cảm thấy lửa tình yêu nung nấu tâm hồn mình, tôi càng thưa lên “Xin kéo con đến với Ngài”; các linh hồn sẽ càng hướng về tôi (mà tôi sẽ không là gì ngoài một mảnh kim loại tí tẹo nếu tôi tránh xa ngọn lửa bừng bừng của Thiên Chúa) – họ càng chạy nhanh đến những hương thơm quyến rũ của Đấng Yêu Dấu; bởi khi một linh hồn cháy bừng lửa yêu mến thì không thể ở lì ra đó; nhất thiết, như Maria Mađalêna, linh hồn sẽ bám vào chân Đức Giêsu, sẽ lắng nghe những lời ngọt ngào cháy bỏng của Ngài. Có vẻ như không trao tặng điều gì, nhưng linh hồn đó sẽ cho nhiều hơn Martha, người lo lắng nhiều chuyện và muốn em gái bắt chước mình… Tất cả các thánh đều hiểu điều này và có lẽ đặc biệt là các đấng đã làm cho cả vũ trụ bừng sáng giáo huấn Tin Mừng. Không phải trong cầu nguyện mà thánh Phaolô, Augustinô, Gioan Thánh Giá, Tôma Aquinô, Phanxicô, Đôminicô và nhiều người bạn thời danh khác của Thiên Chúa có được sự hiểu biết về Người như thế, một sự hiểu biết làm ngời lên những bộ óc vĩ đại nhất đó sao? “Hãy cho tôi một đòn bẩy và một điểm tựa, tôi sẽ nhấc thế giới lên”. Điều Archimedes không thể đạt được, bởi ông không cầu xin Thiên Chúa và vì nó chỉ ở bình diện vật chất, thì các thánh đã đạt được cách sung mãn. Đấng Toàn Năng đã cho họ điểm tựa, bệ chống, là CHÍNH BẢN VỊ CỦA NGƯỜI và CHỈ MÌNH NGƯỜI. Còn về các đòn bẩy, Người ban cho họ việc cầu nguyện bừng cháy lửa tình yêu. Đó là cách họ nhấc bổng thế giới; đó là cách các thánh vẫn đang chiến đấu dưới thế này nhấc bổng trần gian cũng là cách thức các thánh mai ngày nhấc nó lên, cho đến tận thế.

Cuộc đời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu khai mở một mầu nhiệm tuyệt vời: tất cả những gì chị từng muốn là lòng – bên – lòng với Chúa Giêsu; nhưng càng quy chiếu con người mình vào tình yêu dành cho Ngài, tâm hồn chị càng lớn lên trong tình yêu dành cho Hội Thánh, trở nên lớn lao như Hội Thánh, vượt mọi giới hạn của không gian và thời gian[6]. Càng sống đời cầu nguyện trong ơn gọi dâng hiến tình yêu phu thê dành cho Đức Giêsu, Têrêxa càng thẩm thấu sâu xa hơn vào mầu nhiệm Hội Thánh. Quả thực, đây là con đường đúng đắn duy nhất để hiểu Hội Thánh. Ai không sống tương quan hôn nhân với Thiên Chúa trong cầu nguyện, sẽ không bao giờ hiểu thấu chân lý sâu xa nhất về căn tính của Hội Thánh, vì Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Kitô.

Trong cầu nguyện, Thiên Chúa thông ban chính mình cho linh hồn và làm cho nó hiểu ước muốn của Người là mọi người được cứu độ. Trái tim con người nên đồng nhất với Thánh Tâm Chúa Giêsu, sẻ chia tình yêu của Ngài dành cho Hiền Thê mình là Hội Thánh và niềm khát khao hiến dâng mạng sống cho Hội Thánh và cho nhân loại. Thánh Phaolô khích lệ chúng ta, “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2, 5). Không có một đời sống cầu nguyện, sự nên một với Đức Giêsu không thể thực hiện được.

Ơn đoàn sủng đặc trưng của linh đạo Carmel cho mọi người thấy tương quan sâu xa giữa sự kết hợp lòng – bên – lòng với Chúa Giêsu được tìm thấy trong việc cầu nguyện của mỗi người và sự tháp nhập vào lòng Hội Thánh. Không cần phải đặt vấn đề, đặc sủng này được ban cho các tu sĩ Carmel ngang qua Mẹ Maria, vì không phải Carmel là tu viện Maria đầu tiên ở Tây Phương sao? Và sẽ là ai, nếu không phải Mẹ Maria, Hiền Thê của Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu của Hội Thánh, có thể dạy bảo chúng ta sự khôn ngoan thẳm sâu này?


 Lm. Minh Anh, GP. Huế


[1] Kinh cầu này sẽ được mô tả chi tiết hơn về sau.

[2] Les Récits d’un Pèlerin Russe, The Way of The Pilgrim, Chuyện Người Hành Hương, Nguyễn Ước biên dịch và chú thích (Chú thích của người dịch).

[3] Cách riêng, xem The Living Flame of Love, khổ 3, dòng 3.

[4] Phổ biến ở Cận Đông và Đông Âu, đặc biệt ở Nga, đây là một tác phẩm cổ điển, thâu tập các bản văn liên quan đến Kinh Nguyện Giêsu của các Giáo phụ Đông Phương và các tác giả tu đức Chính Thống.

[5] Thánh Têrêxa Avila khai triển chi tiết hình ảnh về nước này trong cuốn Tự Truyện của bà, ch. 11tt.

[6] Xem các chương về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu trong cuốn sách rất hay do Fr. F. M. Lesthel viết, Connaitre l’amour du Christ qui surpasse toute connaissance (Nxb Carmel: Toulouse, 1989).

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ: 3. Một Công Lệ

Chắc Bạn còn nhớ truyện ông Adong Bà Eva ăn quả cấm. Ăn xong Ông Bà liền bị Chúa lên án phạt. Chúa phán với Bà Evà: “Ngươi sẽ phải đau đớn khi sinh nở, và phải chịu lụy chồng”. Và với ông A-dong: “Vì ngươi nghe lời vợ hơn nghe lời Ta, thì đất sẽ sinh ra gai góc cỏ rả… ngươi sẽ phải đầu tắt mặt tối, sẽ phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới kiếm được của mà ăn; khi chết, lại trở về với đất bụi”. (8)

Bạn thân mến, đó là một cái án, một cái án Chúa Tạo thành đã ra, và không ai có quyền hủy án ấy; án Chúa ra có một lần, nhưng kết quả của nó thì vĩnh viễn, nghĩa là bao lâu còn người sinh sống trên mặt đất thì bấy lâu án ấy vẫn còn, và vẫn còn thi hành triệt để. Không một ai thoát được án ấy, ông nào bà nào cũng vậy, từ cung điện nhà vua cho đến hang cùng ngõ hẻm, từ những người cầm đầu trăm họ, cho đến những người khăn rách áo ôm, không ai thoát được, vì nó là cái án chung cho ông bà, và cho toàn thể con cháu, không trừ một ai.

Vậy ta cũng chỉ là một trong các con cái cháu chắt hai ông bà, ta cũng có xác thịt có thể yếu đau, bệnh tật, có thể đói khát nóng lạnh, ta cũng có một quả tim dễ bị cảm xúc, ta cũng có một khối óc dễ bị kích động, ta cũng chỉ là một thân xác hay rữa mục, hay thối nát như mọi người, thì đau khổ chỉ là một điều rất tự nhiên và hợp với bản tính tự nhiên của loài người.

Nếu có lạ, thì lạ ở chỗ chúng ta sống mà không bị đau khổ… vì đó là một đặc ân Chúa ban cho hai ông bà trước khi phạm tội, nhưng khi hai ông bà đã đánh mất đặc ân ấy trong khi phạm tội rồi.

Cái án Chúa đã ra ấy, lại là một cái án công bằng. Ông Bà ta đã phạm tội, thì chúng ta phải phạt lây. Có lẽ Bạn cho thế là lạ. Nhưng, con cái hạng bình dân thì tự nhiên lúc sinh ra cũng chỉ bình dân như cha mẹ chúng, mà ai bảo thế là bất công. Ông Bà nguyên tổ ta đã phạm tội, thì chúng ta là con cái, chúng ta phải gánh lấy những hình phạt của hai Ông Bà, cái ấy có gì là bất công? Những cái hai Ông Bà không có, thì trối lại cho chúng ta sao được? Vậy sau khi Ông Bà phạm tội, thì chỉ còn những cái hợp với bản tính tự nhiên, mà trong những cái tự nhiên ấy, thì có sự đau khổ phải chịu vì tội: lẽ tất nhiên hai Ông Bà chỉ có thể trối lại cho ta những cái ấy mà thôi, còn sự sung sướng, là cái hai Ông Bà đã mất sau khi phạm tội, thì không lẽ trối lại cho ta được?

Và đây là điều yên ủi lòng ta.

Cái án rất công bằng Chúa đã ra để phạt tội Tổ tông và con cháu hai Ông Bà ấy, chính Chúa Giêsu và Đức Mẹ là những Đấng vô tội, mà cũng vui lòng lĩnh nhận như hết thảy chúng ta, mà hai Đấng còn vui lòng chịu gấp trăm gấp nghìn lần chúng ta nữa. Tôi không cần nhắc lại đây thiên “khổ sử” của Chúa và Đức Mẹ, ai là người công giáo mà không biết qua những đoạn “khổ sử” ấy.

Nhưng, Bạn yêu quí, nếu Bạn suy thêm điều này nữa, là điều tôi nói ở trang đầu, thì Bạn thấy rằng: Mặc dù Chúa đã lên án phạt tội tổ tông ta, nhưng án ấy hãy còn nhẹ lắm. Ấy là dù chúng ta đáng sống một cuộc đời hoàn toàn đau khổ để đền tội nhưng Chúa cũng không quên gửi tặng chúng ta trăm nghìn nguồn vui tự nhiên và siêu nhiên, để chúng ta đỡ phiền muộn cay đắng trên đường đời, để chúng ta hiểu thấu lòng nhân từ đại độ của Chúa. Chúa phạt, nhưng phạt vì công bằng, phạt nhưng không bỏ qua tình thương, mà có lẽ thương hơn là công bằng.

Vậy ta đừng phàn nàn than trách nữa, đừng mặt ủ mày chau nữa, đừng thở vắn than dài nữa; đừng kêu ca lẩm bẩm nữa; ta chỉ là con cháu Adong Evà, nghĩa là ta chỉ là người, như các người khác, thì ta hãy ghé vai chung lấy một phần đau đớn ở đời, ta hãy nhìn Chúa và Đức Mẹ, hai Cha Mẹ thân mến của ta, hai Đấng đã vui lòng lĩnh lấy Thánh giá của ta, riêng Chúa Giêsu đã vác thật, và đã chịu đóng đanh thật vào Thánh giá nữa, cũng vì ta, và thay cho ta. Vậy ta hãy bắt chước Hai Đấng mà vui nhận lấy Thánh giá Chúa gửi đến cho, ta hãy vui lòng nhận lấy án Chúa đã ra cho ta, cũng như đã ra cho cả loài người, ta hãy hôn kính Bàn tay nhân từ đã gửi những Thánh giá ấy đến cho. Dù ta cựa quậy đàng nào, dù chạy ngược chạy xuôi, ta cũng không thể thoát được án công bằng Chúa đã ra.

Vậy mà Bạn biết yêu mình, Bạn mà thực tình mến Chúa, thì xin Bạn hãy vui lòng lĩnh nhận hết những Thánh giá Chúa nhân lành gửi đến cho Bạn, Bạn hãy tươi cười để tỏ lòng Bạn biết vâng phục thánh ý Chúa. Bạn hãy hăng hái mà sống, không những sống cho xứng đáng làm người, mà còn sống cho xứng người Công giáo, hiểu thế nào là đau khổ, là giá trị sự đau khổ. Bạn không thể thoát được đâu, mà cần gì phải trốn tránh? Bạn hãy chạy đến ôm lấy Thánh giá có hơn không, như thế, có phải Bạn tỏ Bạn là “Bạn” không?

Tôi vừa nói: Bạn không thể trốn thoát được; thật thế, mà nhất là nếu Bạn đã phạm tội, thì, Bạn hãy đọc tiếp…

Lm. Nguyễn Văn Tuyên - DCCT

Những phương thế cứu giúp các Linh Hồn luyện ngục

LỜI ĐẦU

Công đồng Lyon năm 1274 và Công đồng Florence năm 1439 tuyên ngôn rằng:

“Ðể làm giảm bớt các hình phạt các linh hồn khốn khó phải chịu trong Luyện ngục: Lời cầu nguyện, việc làm phúc bố thí, và các việc lành khác mà các giáo dân quen làm như Giáo hội dạy, nhất là Thánh Lễ Misa, có thể giảm bớt hình khổ cho các linh hồn Luyện ngục.” (D. 464, 693).

Chúng ta nên dâng việc lành phúc đức như đọc kinh, lần hạt Mân côi, ăn chay, hãm mình, bố thí, nhường Ân xá, nhất là dự lễ và xin lễ cho các linh hồn trong Luyện ngục. Làm như thế ta thực hiện mầu nhiệm Các thánh Thông công, liên kết đó là giáo lý rất an ủi người sống cũng như người đã qua đời.

Mầu nhiệm Các Thánh Thông công dạy ta rằng “Tất cả các tín hữu còn sống hay đã qua đời, đã được lên Thiên đàng hay còn trong Luyện ngục, đều liên lạc mật thiết với nhau.”

Các tín hữu còn sống liên lạc với các Thánh trên trời bằng cách tôn kính cầu xin các Thánh, đối lại các Thánh cầu bầu cho các tín hữu trước mặt Chúa, xin cho các tín hữu những ơn cần thiết làm trọn thánh ý Chúa trong bậc mình khi còn sống ở trần gian.

Các tín hữu còn sống liên lạc với các linh hồn Luyện ngục bằng cách dâng các lời nguyện, việc lành phúc đức cầu cho các linh hồn, đổi lại các linh hồn cầu bầu cho các tín hữu trước mặt Chúa, xin cho các tín hữu những ơn cần thiết phần hồn phần xác.

Các tín hữu còn sống thông công liên lạc với nhau qua lời cầu nguyện, gương lành. Ðời sống thánh thiện của mọi người đều có ảnh hưởng đến người khác.

Chúa Kitô đã kết hợp các tín hữu thành một thân thể mầu nhiệm, đó là lý do giải nghĩa mầu nhiệm các Thánh thông công như đã trình bày trên.

Muốn cho các việc chúng ta làm sinh ơn ích cứu rõi các linh hồn, theo ý kiến Thánh Tôma Aquinô cần 3 điều sau:

1. Phải có ý nhường công phúc việc lành mình làm cho linh hồn nào đó, hoặc cho các linh hồn mồ côi. Nếu không có ý nhường thì công phúc việc lành vẫn thuộc về người làm.

2. Phải làm việc có tính cách đền tội, bởi tuy là việc lành nhưng sinh công hiệu khác nhau: công hiệu kinh Mân côi khác công hiệu lễ Misa. Và còn tùy người làm cách sốt sắng thánh thiện hay khô khan ơ hờ.

3. Phải làm khi có ơn nghĩa Chúa, nghĩa là sạch tội trọng. Không kể những việc lành nguyên tự phát sinh công hiệu như Thánh lễ Misa, dù người dự hay xin lễ không có ơn nghĩa Chúa, Thánh lễ vẫn sinh công hiệu cho các linh hồn.

* Truyện kể rằng, một người cha đang khi hấp hối dặn đứa con trai nhớ đến và năng cầu nguyện cho cha sau khi cha qua đời. Người con hiếu thảo vâng lời ngay, chàng siêng năng cầu nguyện, dâng việc lành phúc đức cầu cho linh hồn cha.

Sau 33 năm người cha nói trên hiện về với con, quanh mình phủ đầy lửa, cay đắng phàn nàn:

– Tại sao con quên cha lâu năm như vậy, không cầu nguyện cứu giúp cha.

Người con hết sức ngạc nhiên không hiểu câu nói của cha, chàng liền hỏi:

– Những lời cầu nguyện, việc lành, bố thí của con không giúp ích gì cho cha sao?

Người cha trả lời:

– Không con ơi, các việc lành phúc đức con làm không sinh ích gì cho con và cho cha, bởi con làm khi con mắc tội trọng. Con xưng tội, nhưng không có lòng ăn năn chừa tội thật. Chúa nhân từ cho phép cha hiện về với con để làm ích cho cha con ta.

Từ đó, người con thật lòng ăn năn chừa tội và chẳng bao lâu sau đã cứu được linh hồn cha khỏi Luyện ngục lên Thiên đàng rực rỡ vô ngần (Charity p. 526).

 

Lm. Mark, CMC.


ÐỌC KINH CẦU NGUYỆN
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Một trong những phương thế cần thiết để lãnh nhận ơn Chúa cho mình và cho các linh hồn khác là CẦU NGUYỆN. Cầu nguyện rất quan trọng, bởi là phương thế cứu rõi. Ðời sống chúng ta tốt hay xấu, tùy thuộc vào chúng ta có cầu nguyện hay không, cầu nguyện tử tế hay qua lần chiếu lệ.

* Theo thánh Augustinô: “Ai biết cầu nguyện là biết sống tử tế”. Và nơi khác ngài nói: “Cầu nguyện là chìa khóa mở cửa Thiên đàng”. Bà Thánh Têrêxa Mẹ thêm: “Ai không cầu nguyện thì tự họ đi xuống Hỏa ngục, không cần ma quỉ nào dẫn đường nữa”.

Lời cầu nguyện, ngoài việc sinh công phúc cho mình, lại có thể cứu giúp các linh hồn, nhất là các linh hồn Luyện ngục.

* Thánh Gioan Chrisotômô dạy rằng: “Anh chị em khóc lóc kêu la thảm thiết trước quan tài người chết, nào có ích chi, tốt hơn là nên đọc kinh cầu nguyện và làm việc lành chỉ cho người quá cố”.

Cầu nguyện không đòi kể lể dài dòng. Chúa Giêsu dạy: “Khi cầu nguyện đừng ham nói nhiều lời trống rõng như dân ngoại, họ tưởng họ nói nhiều mà được việc, đừng như họ, bởi trước khi các ngươi cầu, Cha các ngươi đã biết các ngươi muốn gì. Hãy cầu thế này: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…” (Mt 6,7-13).

Cầu nguyện cách đơn sơ như Ðức Mẹ tại Cana, khi Ðức Mẹ xin Chúa Giêsu ban rượu cho đám cưới, Ðức Mẹ chỉ nói: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Trên thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện rất đơn sơ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, bởi chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).

Người ta cầu nguyện như người ta yêu mến, càng yêu mến Chúa nhiều, càng cầu nguyện đơn sơ sốt sắng chân thành.

Kinh cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục thích hợp nhất là Kinh Mân côi, sẽ nói tới ở chương sau. Ngoài ra, người ta có thể cầu nguyện bằng các lời than văn tắt hay các kinh, nhất là các kinh Giáo hội đã ban ân xá như sau:

1. Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy (được Tiểu xá),

2. Kinh Vực sâu (được Tiểu xá),

3. Chúng con cậy bởi Danh Chúa nhân từ, cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Ðức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

4. Lời than sau một chục kinh Ðức Mẹ dạy ở Fatima: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa Hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là các linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.

5. Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rõi các linh hồn.

6. Ðọc lời: Lạy Chúa Cha hằng hữu, con xin dâng Cha các vết thương thánh và Máu châu báu Con Cha, để cầu cho các tội nhân ăn năn trở lại và cho các linh hồn Luyện ngục được giải thoát. (Thánh nữ Maria Mađalena de Pazzi được Chúa dạy cho biết việc dâng Máu thánh này. Mọi ngày bà thánh dâng 50 lần. Trong một lần ngất trí, bà thấy nhiều tội nhân đã được ơn trở lại, và nhiều linh hồn Luyện ngục được giải thoát. Chúa Giêsu còn dạy: “Khi người nào dâng lên Chúa Cha Máu thánh cứu rõi, đó là dâng Chúa của lễ có giá trị vô cùng”.

* Thánh nữ Mechtilđê khi cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục, được Chúa cho thấy nhiều linh hồn ra khỏi một vực sâu đi vào một vườn rất đẹp.

* Trong sách cầu cho các linh hồn Luyện ngục, ông Ackermann kể rằng: “Một người nhà giầu kia biếu cha Bề trên nhà dòng một món tiền lớn để xin cầu nguyện cho cha ông ta mới qua đời. Khi các thầy hát kinh, ông cũng tham dự, nhưng chờ mãi không thấy có gì trịnh trọng khác thường cầu cho cha ông ngoài một câu “Xin cho linh hồn ấy được nghỉ yên”. Người nhà giầu cằn nhằn bởi nghĩ rằng lời cầu ấy không tương xứng với món tiền lớn ông đã dâng.

Khi nghe biết đầu đuôi câu chuyện, cha Bề trên bảo một thầy viết lại câu “Xin cho linh hồn ấy được nghỉ yên” vào một mảnh giấy. Rồi ngài bảo để mảnh giấy vừa viết trên một đĩa cân, còn đĩa cân bên kia để món tiền của người nhà giầu. Trước mặt các thầy dòng, người nhà giầu mở to hai mắt để coi cho rõ. Ông ta hết sức kinh ngạc khi thấy gói tiền của mình bị cất bổng lên cách nhẹ nhàng, còn tờ giấy ghi lời cầu nguyện lại làm cho đĩa cân bên kia chĩu nặng xuống. Thấy sự lạ lùng trước mắt, người nhà giầu lúng túng xấu hổ không biết ăn nói ra sao với các cha các thầy. Ông ta xin lỗi, và cảm thấy rất được yên lòng. Ðức Giáo Hoàng Beneđictô 13 cũng đã kể chuyện này trong phiên họp do Ngài chủ tọa (Charity p. 99).

* Cha Conrad dòng Thánh Phanxicô sốt sắng cứu các linh hồn lắm. Một buổi tối kia, ngài chỉ đọc một kinh Lạy Cha và câu “Lạy Chúa xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời” để cầu cho môt thầy dòng đã chết, lập tức thầy hiện về cám ơn và xin cha tiếp tục cầu nguyện cho bằng những lời vắn tắt như vậy. Cha dòng nhận lời và cầu cho thầy tới khi được lên Thiên đàng (Charity p. 294).

Ta hãy năng đọc những lời cầu vắn tắt, những kinh Giáo hội dạy để cầu cho các linh hồn Luyện ngục. Chúa ưa nhận lời những ai yêu mến Người, lại có lòng bác ái cầu cho những người anh chị em đau khổ.

 


 ÐỌC KINH MÂN CÔI
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Mân côi, cũng gọi là Văn côi hay Môi khôi, Mai khôi, được dùng để gọi những kinh Kính mừng kính Ðức Mẹ. Kinh này phần đầu là lời chào của Tổng thần Gabriel khi đến báo tin Ðức Mẹ thụ thai Chúa Cứu Thế “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà”, thêm lời chúc tụng của bà thánh Isave ca tụng Ðức Mẹ là “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Phần thứ hai là lời cầu của Giáo hội: “Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Xin cho bây giờ, “khi nay” được ơn sống thánh, và trong giờ chết, “lâm tử” được ơn chết lành trong tay ba Ðấng Giêsu Maria Giuse để được về hưởng tình yêu Chúa muôn đời. Amen (Ước được như vậy).

Kinh Mân côi nhắc lại cho Ðức Mẹ đầy ơn phúc trước mặt Ðức Chúa Cha, là Mẹ Ðức Chúa Con, và là Bạn chí thiết Ðức Chúa Thánh Thần. Khi nghe lời chào đó, tâm hồn Ðức Mẹ lại hân hoan rộng mở ca ngợi Thiên Chúa và sẵn sàng ban tràn ơn cho con cái còn đang ở chốn lưu đày, nhất là cho các linh hồn đớn đau trong Luyện ngục. Chính Ðức Mẹ đã phán với Thánh Ðaminh rằng,” Một trong những hiệu quả chính của kinh Mân Côi là cứu rõi các linh hồn trong Luyện ngục.”

Ngày 1 tháng 1 năm 1967 Ðức Giáo Hoàng Phaolô Ðệ Lục đã ban ơn đại xá cho những ai đọc đủ 50 kinh Mân côi chung với gia đình, chung trong nhà thờ, chung trong Tu viện, chung một nhóm người trong Hội đoàn, với những điều kiện thông thường là xưng tội trước hoặc sau đó vài ba tuần, rước lễ chính ngày lãnh đại xá, đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng cầu theo ý Ðức Giáo Hoàng. Ai không đọc đủ 50 kinh hoặc không đủ các điều kiện nói trên cũng vẫn được hưởng Tiểu xá để chỉ cho các linh hồn theo ý muốn.

* Thánh Alano dòng Ðaminh kể lại về nhiều tu sĩ và nữ tu đang khi đọc kinh Mân Côi đã thấy các linh hồn từ Luyện ngục hiện về, các linh hồn này có mang dấu Thánh giá trên trán nài xin các vị tiếp tục đọc kinh Mân côi cho mình. Nhờ kinh Mân Côi giáo dân đọc hằng ngày mà một số lớn linh hồn Luyện ngục được lên Thiên đàng ngày này qua ngày khác.

Trong 15 ơn Ðức Mẹ hứa với Thánh Alanô, ban cho những ai thành tâm sốt sắng đọc kinh Mân côi, có ơn thứ 9 Ðức Mẹ hứa rõ rệt rằng: ” Mẹ sẽ mau mắn cứu vớt các linh hồn siêng năng lần hạt Mân côi ra khỏi Luyện ngục”.

* Linh mục Eusebio Nieremberg là người rất thương các linh hồn trong Luyện ngục, ngài thường đọc kinh Mân côi cầu cho các linh hồn. Ngài đã thuật lại truyện sau đây minh chứng Ðức Mẹ đã thương một tội nhân có lòng tôn sùng và siêng năng đọc kinh Kính mừng kính Ðức Mẹ:

“Ở tỉnh Aragon trong nước Tây ban nha, có một thiếu nữ nhan sắc tuyệt vời, tên là Alexandria. Nàng là con nhà giầu sang, quyền thế, nên nhiều gia đình quí phái muốn hỏi nàng cho con trai mình. Trong số đó cho hai thanh niên nhất định tranh nhau cho bằng được mới thôi. Khi thấy mình kém vế, không thể nào tranh giành ảnh hưởng với tình địch, một trong hai thanh niên mù quáng đến nỗi hạ sát Alexandria để trả thù đối phương. Y chặt đầu cô, quăng xuống một giếng kia cách kín đáo không ai biết. Sau đó ba hôm, Thánh Ðaminh tình cờ đi qua, thấy đầu cô đã nổi lên trên mặt nước và nói năng được như người còn sống, đồng thời xin Thánh nhân ban phép giải tội.

Tin này đồn ra khắp nơi nhanh chóng, người ta tuốn đến bên giếng đông nghịt để xem sự lạ chưa từng có. Khi Alexandria đã xưng tội xong, Thánh Ðaminh buộc cô phải nói ra bởi lý do nào mà cô được ơn đặc biệt quá sức tưởng tượng như vậy. Vâng lời Thánh Ðaminh, cô Alexandria thuật lại rằng,” Sở dĩ con được ơn Ðức Mẹ thương cách đặc biệt này là bởi từ thuở nhỏ, con vẫn có lòng kính mến Ðức Mẹ và siêng năng đọc kinh Mân côi có ý xin được ơn ăn năn xưng tội trước khi chết.”

Nhờ dịp này, Thánh Ðaminh khuyến khích mọi người theo gương cô trong việc đọc kinh Mân côi tôn sùng Ðức Mẹ, tin chắc chắn sẽ được hưởng nhiều ơn quí hóa do Ðức Mẹ ban.

Qua hai ngày sau, đầu cô Alexandria mới chìm xuống nước. Mười lăm ngày sau, cô hiện về với Thánh Ðaminh cám ơn ngài đã lo liệu cho mình được chịu phép giải tội trong trường hợp đặc biệt đó, nói đoạn cô tươi cười vui vẻ từ gia? Thánh nhân để lên Thiên đàng hưởng tôn nhan Mẹ lành (Lm. Nguyễn Tri Ân, Tháng Mân Côi Ðức Bà, 1960, trang 203).


ĂN CHAY, HÃM MÌNH, BÁC ÁI THỨ THA
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Trong con người chúng ta có một cuộc tranh giành như Thánh Phaolô viết cho dân thành Rôma rằng: “Sự lành tôi muốn, tôi không làm, sự dữ tôi không muốn tôi lại làm… Tôi thấy một luật khác nơi tôi cự lại luật lý trí, buộc tôi lại trong luật tội lỗi. Ai cứu tôi khỏi cái xác chết này?” (Rm 7,19-24).

Nơi khác ngài viết cho dân thành Corintô: “Trong trường đua mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải nhất, anh chị em hãy chạy để đoạt giải. Và đã là tay đua thì phải kiêng cữ đủ điều. Họ chạy để chiếm lấy triều thiên hư nát, còn chúng ta chạy để chiếm triều thiên không hư nát. Phần tôi, không phải tôi chạy vờ vịt, tôi đấm, không phải là đấm không khí, trái lại tôi nhắm vào xác tôi mà đấm, kẻo sau khi giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại ra chăng” (1 Cr 10,24-27).

Ðó là lý do tại sao cần ăn chay hãm mình để chiến đấu và chiến thắng ba thù: Xác thịt, thế gian, ma quỉ. Xưa, chính Chúa Giêsu đã ăn chay hãm mình để dạy chúng ta noi theo gương Người.

Việc ăn chay hãm mình, ngoài hiệu quả lập công đền tội, còn sinh ích cứu rỗi các linh hồn Luyện ngục rất nhiều:

* Thánh Tôma Aquinô nói: “Ðền tội cho người đã chết thì đẹp lòng Chúa hơn đền tội cho người còn sống bởi người đã chết ở trong tình trạng khẩn thiết hơn, họ không còn tự giúp mình được như người còn sống” (Supplem. Q. 71 art. 5).

* Chân phúc Cecilia dòng nữ Ðaminh quen hãm mình khi khát nước để tôn kính sự khát của Chúa Giêsu trên Thánh giá và để giải khát cho các linh hồn Luyện ngục. Sau khi qua đời, bà hiện về với các nữ tu cùng dòng, nói rằng: “Ngay sau khi tôi vào Luyện ngục, Chúa cho Thiên thần mang đến một thùng nước, đổ xuống giập tắt ngọn lửa thiêu đốt tôi và cấp tốc đưa tôi về Thiên đàng mát mẻ đời đời.”

* Vua Sanxiô bị chết bởi thuốc độc, hoàng hậu đêm ngày cầu nguyện cho linh hồn vua. Thứ Bảy bà chỉ ăn bánh mì uống nước lã để tôn kính Ðức Mẹ, có ý cầu cho vua. Vua được hiện về cám ơn hoàng hậu về việc hãm mình ấy, và xin hoàng hậu cứ tiếp tục. Sau 40 ngày, hoàng hậu thấy vua hiện về rực rỡ ánh sáng Thiên đàng, chào tạm biệt hoàng hậu, nói rằng: “Bây giờ tôi được giải thoát khỏi cực hình. Tôi mắc nợ bà, nguyện xin Chúa chúc lành cho bà đến muôn đời”.

ăn chay cầu cho các linh hồn là một điều tốt, nhưng làm việc bác ái còn tốt hơn nữa. Chúa đã phán qua tiên tri Isaia rằng: “ăn chay thế này, chẳng làm ta hài lòng hơn sao: Hãy cởi trói tù nhân, cất gánh nặng cho người bị áp bức, tháo xiềng xích và thả chúng đi ra, bẻ gẫy ách quàng đầu quàng cổ chúng” (Is 80,6).

* Thánh Augustinô nói: “Nào có ích gì khi ta kiêng rượu mà lại bị đầu độc bởi nóng nảy giận hờn! Nào có hay gì khi ta kiêng thịt mà lại như con thú hoang làm hại danh giá tiếng tốt người lân cận!”

* Thánh Phanxicô Salesiô thuật truyện sau: Tại thành Padua, nơi người theo học khi còn là sinh viên, thành này có một tục lệ đáng chê: Những chàng thanh niên đeo gươm giáo ban đêm chạy ngoài đường phố nếu gặp ai thì hỏi lớn tiếng: Ai đi đâu đó? Người được hỏi bắt buộc phải trả lời, nếu không sẽ bị đốt, bị thương hay bị chết. Một đêm kia, có một sinh viên không trả lời, chàng ta bị đánh vỡ đầu và chết ngay. Kẻ gây ra án mạng này rất sợ hãi, tìm trốn ẩn trong nhà một quả phụ tốt lành y đã biết, mà con bà lại là nạn nhân đã qua đời. Chàng thú tội với nước mắt chan hòa rằng mình đã gây tử thương cho một người mà chàng không biết là ai, xin bà cho chàng ẩn núp trong nhà bà. Ðộng lòng thương, và không ngờ rằng kẻ giết con mình đang đứng trước mặt mình, bà bằng lòng cho hắn ẩn náu một nơi an toàn nhất trong nhà mà cảnh sát không dễ tìm ra được. Nửa giờ sau, có nhiều tiếng đập cửa, người ta đem xác nạn nhân đặt trước mặt bà. Trời ơi, đây chính là con tôi, và kẻ giết con tôi đang ẩn náu trong nhà tôi. Người Mẹ đau khổ như vỡ tim ra, bà gào thét rồi vội chạy vào chỗ kẻ sát nhân ẩn náu, gào to: Mày là thằng khốn nạn, con tao đã làm gì mày mà mày giết nó?! Thủ phạm bấy giờ mới nhận ra rằng mình đã làm chết người bạn, chàng vò đầu bứt tóc khổ sở, qùi xuống chân bà Mẹ xin ơn tha thứ và bào chữa cho mình, trao mình cho tòa án để chàng chịu mọi hình phạt đáng tội.. Bà Mẹ người con quá cố sực nhớ mình là người Công giáo, nhớ gương Chúa đã tha thứ cho kẻ làm khốn mình, bà quyết tâm noi gương Chúa, làm một việc bác ái anh hùng: dù đau khổ cực độ, bà đã tha cho kẻ giết con bà và bênh đỡ hắn trước mặt tòa án. Sự tha thứ này rất đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa đã cho phép con bà từ Luyện ngục được hiện về sáng láng nói với bà rằng: ” Mẹ yêu dấu, Chúa đã tỏ lòng thương xót con, bởi Mẹ đã tỏ lòng thương tha thứ cho nạn nhân, bởi sự tha thứ quảng đại này rất đẹp lòng Chúa, con đã được Chúa tha thứ khỏi Luyện ngục, nếu Mẹ không tha thứ như vậy, con sẽ còn phải giam phạt ở đó nhiều năm trong những đau đớn cực hình dữ dội”.

* Thánh Bênêđictô đã kể truyện dài sau đây, truyện được in năm 1881: Vào khoảng năm 1786, khi cuộc cách mạng tại Pháp bùng nổ. Vua Luy thứ 16 và Hoàng hậu Antoinet bị dân chúng lật xuống khỏi ngai vàng. Nước Pháp đầy dãy cảnh đầu rơi máu chảy bởi các cuộc xử tử bắn giết kinh hãi. Sau khi nhà vua bị lật đổ, bá tước Giaxintô thành Floren cùng với 900 bạn đồng đội cũng bị dồn vào tù, chờ án xử.

Một hôm gần cửa sổ phòng giam, bá tước trẻ ngạc nhiên thấy một thiếu nữ trẻ đẹp đứng ngoài nhìn vào phòng ông. Thì ra đó là Hermania, người em sinh đôi với ông. Ông vội kêu lên:

– Hermania, sao em dám đến chỗ nguy hiểm này ? Em không biết bọn cách mạng đang thù nhà vua và những ai theo nhà vua sao? Em phải cẩn thận chứ.

– Thưa anh em biết, nhưng hôm nay là ngày sinh nhật của anh em ta, em không thể không đến thăm anh. Hôm nay cả hai chúng ta được 19 tuổi và đây là lần thứ nhất chúng ta không mừng sinh nhật với nhau. Em không thể yên tâm nếu không thấy anh khỏe mạnh và bình an.

– Em thấy anh vẫn khỏe mà. Chắc em vẫn nhớ, khi má còn sống, má nói anh em ta giống nhau từ tình cảm tới ý nghĩ. Bởi thế hôm nay anh cũng rất buồn sầu như em vậy. Nhưng bây giờ em phải vui lên kẻo anh cũng buồn lây.

– Họ có xử tử tế với anh không?

– Anh có tất cả những gì anh cần, trừ ra không có tự do thôi. Anh xấu hổ bởi được xử như thế này, trong khi các bạn đồng đội bị xử tệ…Này, nghe như có người đang tới, thôi em đi đi, mong có ngày chúng ta mừng sinh nhật lớn hơn.

Thiếu nữ rời cửa sổ, bước vội qua sân, lẻn ra đường cái sau bức tường.

Giaxintô ngồi chờ, cánh cửa mở, viên sĩ quan cách mạng bước vào lễ độ chào tù nhân, cho chàng biết theo lệnh cấp trên, mời chàng đi dự tiệc chiều nay mừng sinh nhật của chàng. Chàng nhận lời. Ăn uống xong, một nhóm quân cách mạng tiến vào bắt chàng đi. Chàng ngồi bình tĩnh phân trần:

– Bởi tôi trung thành với nhà vua, nên tôi bị xử như các bạn đồng đội, tôi không phàn nàn, nhưng xin cho tôi xin ít phút để sửa soạn trước khi chết.

Lời xin của chàng bị từ chối. Chàng khảng khái quay lại nói:

– Ðược, tôi sẵn sàng đi.

Chàng bị dẫn ra bãi xử.

Thình lình cô Hermania em chàng, từ đâu vụt chạy đến ôm lấy chàng khóc lóc thảm thiết. Người cai bắn hô: “Bắn!” Nhưng Hermania kêu lên:

– Nếu bắn anh tôi thì bắn cả tôi đi!

Một sĩ quan đến lôi cô ra. Bốn viên đạn đã kết thúc đời anh cô. Khóc ngất, cô qùi xuống bất động.

Mười lăm năm sau, Hermania được 34 tuổi. Tâm hồn đắng cay chai cứng bởi cái chết phũ phàng của anh. Cô không chấp nhận gì nữa, kể cả đạo giáo. Cô từ chối tất cả thú vui, giải trí ở đời. Cô sống đơn độc. Hận đời đen bạc, ác ôn.

Hôm ấy, đứng cạnh cửa sổ lâu đài nhìn ra đường cái, cô thấy Linh mục xứ đang đi trên đường về phía nhà cô. Cô chạy xuống chào ngài lễ độ:

– Thưa cha, hôm nay là ngày 3 tháng 8, ngày kỷ niệm anh con bị bắn chết tàn bạo.

Linh mục xứ muốn hướng cô về niêm tin tôn giáo, ngài đọc câu Kinh Thánh:
– Phúc cho ai khóc lóc, bởi sẽ được an ủi.

– Thưa cha, đây không phải là lần thứ nhất cha nói câu đó. Cha nói vậy là cha không hiểu đau khổ của con. Con biết Phúc âm. Cha muốn con cầu nguyện, nhưng nếu con cầu nguyện, con phải tha cho kẻ thù như Chúa dạy, nhưng con không thể, không thể tha cho chúng, những đứa đã giết anh con. Con không trả thù chúng được nữa, bởi hầu hết chúng đã chết và ra trước tòa Chúa, nhưng con vẫn muốn trả thù. Cha bảo con đến dự lễ, nhưng con dự sao được khi lòng con đầy tức giận

– Bởi phần rỗi linh hồn con, cha xin con bỏ những tư tưởng ấy đi. Nhớ rằng trên Thánh giá, Chúa đã tha cho kẻ giết Ngài.

– Nhưng Chúa là Chúa Trời, còn con là kẻ có tội.
– Con nhớ rằng Chúa Kitô là gương, và các thánh phải noi theo.
– Con không phải là thánh.

– Ðúng vậy, con là kẻ khổ sở, là phụ nữ rất đau khổ, nhưng chính con thích nghĩ rằng con can đảm, con trung tín. Phần Chúa là Chúa ta, bởi Ngài là Chúa, Ngài có quyền và muốn ban ơn cho ta giữ lề luật Ngài. Ngài đòi chúng ta tha cho kẻ thù như Ngài đã tha. Ngài sẽ ban ơn cho ta, nếu ta không chống lại ơn Ngài.

– Có thể như vậy. Con chưa bao giờ nghĩ như thế.

– Cha sợ trường hợp con rất khó, nhưng đừng thất vọng. Cha khuyên con nên cầu nguyện với các linh hồn Luyện ngục. Cha thường được các ngài giúp đỡ khi không còn hy vọng theo kiểu người đời thường nói. Nếu anh con ở trong số các linh hồn Luyện ngục, cha cầu xin anh con được phép làm mềm lòng con, bởi con rất yêu anh con.

– Anh con đã chết 15 năm nay làm sao còn ở trong Luyện ngục?

– Ðó là câu hỏi rất khó, cha không thể trả lời chắc chắn. Nhưng chúng ta biết chắc, Chúa thương xót vô cùng, nhất là thương những ai đau khổ, những ai bị cư xử bất nhân. Bá tước Giaxintô đã chết không kịp chuẩn bị ra trước Tòa Chúa, có thể phải đền bù bởi những tội thời niên thiếu.

Hermania đêm nay cũng như đêm các năm trước, từ khi anh bà chết, bà thức suốt đêm kỷ niệm sinh nhật của bà. Người đầy tớ đem lên chiếc đèn và đóng cửa lại rồi xuống nhà dưới. Hermania ngồi trên ghế bành, mắt lim dim hồi tưởng những năm xưa, nhất là đêm trăng người ta xử bắn anh bà. Anh bà đứng dựa vào tường, đầu ngả về một bên, có tiếng hô, một phát nổ… Nhưng kià ai vậy? Ai đang đứng trước mặt bà đây!? Bà mở to đôi mắt. Bà nghe rõ tiếng đồng hồ tích tắc trên tường, nhưng trước mặt bà có ai đứng đó. Lạy Chúa, có thật ai đứng đó không? Ðúng rồi! Chính anh, như hồi 19 tuổi, nhưng sao coi mắt anh buồn, thê thảm. Ðặt hai tay lên ngực để bình tĩnh hơn, bà hỏi:

– Có phải anh Giaxintô đây không? Anh về đây làm gì?

– Chính anh đây, anh về phàn nàn bởi người ta xử tàn ác với anh.

– Em biết, anh chết làm lòng em đau đớn vô ngần. Máu anh đòi em phải trả thù. Em phải làm sao bây giờ?

– Anh không phàn nàn về cái chết, đối với sự sống đời đời thì sự sống trên trần gian chỉ như một hạt cát trên bờ biển. Chết là bước qua bậc thềm để vào lâu đài nhà Vua Cả. Ðiều anh buồn là đứa em anh rất yêu dấu đã quên anh.

– Em quên anh?! Thử hỏi có ngày nào em không nhớ tới anh, có đêm nào em không mơ anh bị chết khổ sở. Em đã bởi anh mà bỏ hết cả tuổi hoa, bỏ hết thú vui cuộc đời, lòng em đâu còn vui khi vắng anh.

– Nước mắt và sự thất vọng của em chẳng giúp gì cho anh cả. Anh cần em cầu nguyện để đền tội cho anh. Anh ở trong Luyện ngục đền những tội chưa đền trong những năm cuối đời. Nhất là anh phải khổ bởi chết vội không kịp tha cho kẻ xử tử anh. Anh không nhớ tới gương của Chúa Kitô và của Thánh Têphanô. Anh không nhớ chúng ta phải yêu kẻ thù. Anh phải chịu khổ gấp đôi, bởi anh đã không tha và bởi em muốn trả thù cho anh. Sau thời gian dài em không tha cho họ, em cũng không cầu nguyện cho anh. 15 năm rồi, anh chờ đợi uổng công, không được một lời cầu nào trên cõi sống. Xác anh không được Giáo hội làm phép. Không Linh mục nào dâng lễ cho anh. Anh thấy vô số linh hồn lên Thiên đàng nhờ lời cầu nguyện và rước lễ cầu cho họ, còn anh phải rớt lại sau. Vào lúc cuối cùng, bước vào ngưỡng cửa đời đời, anh tự nhủ, “lời cầu của em tôi sẽ theo tôi trên nấm mộ”, nhưng chỉ đêm nay anh mới được một kinh Vực sâu. Anh được phép về đây nài xin em giúp đỡ, xin em thương giúp anh được bớt phần phạt. Hãy yêu thương kẻ thù. Ôi loài hay chết trên đời không thể hiểu được những cực hình linh hồn đã thấy Chúa một chút rồi lại phải xa cách Ngài.”

Nghe những lời đó, Hermania vội qùi phập xuống:
– Xin anh tha lỗi cho em, em thật tàn nhẫn với anh.

Bà khóc nức nở, tay ôm mặt. Khi ngẩng đầu lên, anh bà đã biến đi từ hồi nào. Thức trắng đêm ấy, bà cầu nguyện thiết tha như để bù lại những năm qua mà bà đã bỏ.

Bình minh sáng tỏ. Chuông nhà thờ kêu gọi giáo dân dự lễ 5 giờ sáng. Chỗi dậy, bà vội vã tới nhà thờ. Những người nhà quê ngạc nhiên thấy một bà sang trọng qùi giữa họ, lần đầu tiên trong nhiều năm nay. Lời cầu trước hết là cho những kẻ đã giết anh bà.

Sau lễ, bà xin gặp cha xứ kể lại đầu đuôi.
– Tạ ơn Chúa. Có phải bà đọc kinh Vực sâu cho anh bà không?
– Dạ phải, và anh con nói đó là kinh đầu tiên anh con được hưởng.

Sau ít ngày, Hermania đã xưng tội, rước lễ. Từ đó bà hiến thân làm việc bác ái. Bà không giàu của, nhưng những người nghèo được bà giúp đỡ luôn cảm thấy hài lòng, bởi bà cư xử như bạn bè thân thiết. Không có tiền cho, thì bà giúp công. Chẳng bao lâu người ta coi bà như “Bà hảo tâm”. Ai cảm ơn thì bà chỉ nói: “Xin cầu cho anh tôi, đừng cảm ơn tôi”.

25 năm sau, cũng ngày 3 tháng 8, bà Hermania qua đời tốt lành sau khi lãnh các Bí tích cuối cùng. Bà bình tĩnh chờ đợi. Cuối cùng bà reo lên:

– Tôi thấy anh Giaxintô, anh đến với hương thơm trên trời và đưa tôi về với Chua. Anh thật hạnh phúc. Tôi với anh sẽ liên kết với nhau. Bà đã êm ái ra đi về nơi an nghỉ (Charity p. 323-332).

Ăn chay hãm mình tháo gỡ xiềng xích trói buộc linh hồn ta bởi sự kiêu căng, hà tiện, mê xác thịt, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, biếng nhác việc thờ phượng Chúa đã được tóm trong bảy mối tội đầu.

Chúng ta hãy nghe lời Ðức Mẹ hiện ra với 3 em nhỏ tại Fatima kêu gọi ăn năn đền tội tôn vinh Chúa, cầu các linh hồn, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn, những linh hồn tội lỗi cần ăn năn trở lại, những linh hồn Luyện ngục cần được cứu ra khỏi lò lửa nóng nảy hãi hùng. Giêsu Maria Giuse, con mến yêu, xin cứu rõi các linh hồn.

 


TIỀN CỦA LÀM PHÚC, GIÚP VIỆC TỪ THIỆN
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Sách Huấn Ca trong Kinh Thánh Cựu Ước viết rằng:

“Nước giập tắt lửa, của làm phúc xóa các tội lỗi” (Hc 3,30). Sách ông Tôbia cũng viết: “Cầu nguyện kèm với cả chay tịnh, và làm phúc cùng với đức nghĩa, thì quí hơn là giầu có mà ở bất công. Làm phúc bố thí thì hơn tích trữ kho vàng. Bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội. Kẻ làm phúc bố thí sẽ được no nê sự sống. Kẻ phạm tội và ở bất công, chính họ là kẻ thù của mạng sống họ.” (Tb 12,8-10). Ngài còn nói thêm:” Như mọi kẻ làm theo nhân nghĩa, con hãy lấy của con có mà làm phúc. Mắt con đừng ra chiều đố kị khi bố thí, đừng bao giờ con ngoảnh mặt đi trước kẻ nghèo nào, và Nhan Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh đi đối với con. Có của bao nhiêu, tùy theo số lượng, con hãy lấy mà bố thí. Có ít, con đừng sợ lấy theo số ít ấy mà bố thí. Quả đó là kho tàng con cất cho mình vào ngày túng quỡn, chật vật. Bởi chưng việc bố thí giựt con khỏi sự chết và không để lâm phải tối tăm.. Quả thế, bố thí là lễ tế tốt đối với mọi kẻ lo bố thí trước nhan Thượng đế.” (Tb 4,7-11)

* Ðức Giáo Hoàng Beneđitô 13 dạy rằng: “Nếu muốn trả nợ cho chóng trong Luyện ngục, tốt hơn là nên trả ngay ở đời này bằng việc làm phúc bố thí, giúp đỡ cơ quan từ thiện bác ái”.

* Ðức Giáo Hoàng Beneđitô 8 sau khi chết hiện về với Giám Mục Cadua nói rằng: “Tôi đã chết, và dù có ơn nghĩa Chúa, tôi vẫn phải chịu cực hình Luyện ngục, bởi thế xin Ðức Cha nói với Ðấng kế vị tôi là Ðức Giáo Hoàng Gioan làm phúc cho người nghèo để cứu tôi, bởi tôi không thể cứu lấy mình bây giờ”. Ðức Giáo Hoàng Gioan đã làm phúc cho người nghèo khó,và Ðức Beneđitô đã được cứu khỏi Luyện ngục sớm như lòng mong ước.

Tiền bạc làm phúc cho người nghèo, cho cơ quan từ thiện bác ái giúp đền tội riêng ta, nhất là những tội lạm dụng tiền bạc, bất công của cải tư nhân hay chính phủ, và cứu rõi các linh hồn cách đắc lực.

* Thánh Bênađinô kể truyện về hai vợ chồng kia không có con. Ông bà đã làm giao kèo với nhau rằng: Nếu ai chết trước, thì người còn sống sẽ lấy phần gia tài của người chết chia cho người nghèo cầu cho linh hồn đã qua đời. Người chồng đã chết trước, nhưng người vợ chểnh mảng không giữ lời đã đoan hứa. Người chồng được phép hiện về với Mẹ vợ, xin bà nói lại với vợ mình nhân Danh Chúa hãy mau mau thực hiện lời đoan kết xưa, nếu không phân phát của cải cho người nghèo, thì 30 ngày nữa sẽ phải chết bất ngờ. Người vợ nghe những lời Mẹ nói cho rằng đó chỉ là mơ màng rồi bà ta không để ý tới. Ba mươi ngày qua, người đàn bà kia lên lầu có chút việc, bà đã ngã xuống qua cửa sổ chết ngay lập tức” (Purgatory p. 303-304).

Những điều đã hứa cầu nguyện dâng lễ cho ai, phải gắng thi hành kẻo phải đền trả theo sự công bằng đoan kết.

Không phải chỉ người có của mà cả người nghèo cũng có thể làm phúc bố thí tùy sức mình. Hãy nhớ đồng xu của bà góa mà Chúa Giêsu đã khen trong Phúc âm (Lc 21,3), bà còn được khen là bỏ nhiều hơn ai hết, bởi đã lấy của nuôi thân mà bỏ vào hòm khấn. Chúa cũng thương ban thưởng ngay ở đời này, có khi gấp trăm lần cho những ai biết làm phúc bố thí cứu giúp các linh hồn Luyện ngục.

* Linh mục Giacôbê Monphô, dòng Chúa Giêsu, trong cuốn sách về Luyện ngục (1605) thuật truyện ông William Friesen làm nghề in sách ở Cologne viết cho ngài như sau:

“Vào ngày nghỉ lễ, con có giờ rảnh đọc quyển sách Luyện ngục cha gửi để in. Ðang khi đọc say mê, có người đến báo tin rằng, đứa con út của con năm nay 4 tuổi bị bệnh gần chết, bác sĩ bảo khó có thể cứu sống nó được. Làm sao bây giờ? Tự nhiên con nghĩ đến đi khấn các linh hồn. Con đã chạy đến nhà thờ và khấn ngay. Nếu con con khỏi chết, con sẽ phân phát 100 quyển sách Linh hồn Luyện ngục để xin các Linh mục cổ động việc cứu giúp các linh hồn. Dù ơn con xin khó được nhận, nhưng khi trở về nhà, lạ lùng, thấy cháu đã bớt và đòi ăn, hôm sau nó khỏi hẳn và chạy chơi như không có bệnh gì. Hết lòng vui mừng tạ ơn các linh hồn, con đã giữ lời và đem 100 quyển sách đi biếu các cha, nhờ các ngài phân phát cho giáo dân.

Ba tuần sau, lại đến lượt nhà con ngã bất tỉnh, rồi bị cấm khẩu không nói năng gì. Thuốc thang vô ích. Cha xứ đã đến xức dầu và yên ủi con chịu khó vâng theo Ý Chúa, nếu bạn con có mệnh hệ nào! Con lại chạy đến với các linh hồn Luyện ngục. Vào nhà thờ như lần trước, con hứa sẽ biếu 200 cuốn sách Linh hồn Luyện ngục. Khi con vừa về đến nhà, đứa con ở đã vội báo tin “bà bớt rồi, bà nói được vài câu”. Dần dần vợ con đã khỏi hẳn. Có Chúa làm chứng, con xin kê khai những điều trên là sự thật” (Charity p. 154).

* Thánh nữ Têrêxa Mẹ kể chuyện một người nhà giầu kia đã giúp của xây nhà dòng. Chết rồi ông phải vào Luyện ngục, nhưng Chúa phán với bà Thánh rằng: “Hỡi Têrêxa, người ấy giầu của mà gần mất phần rõi. Nhưng bởi nó đã giúp của cho dòng con, nên Cha thương, dầu vậy, linh hồn nó chỉ được ra khỏi Luyện ngục khi nào Thánh lễ Misa đầu tiên được dâng lên Cha trong Nhà nguyện Tu viện mới của con”. Vào cuối Thánh lễ đầu tiên ấy, bà Thánh đã thấy linh hồn người nhà giầu sáng láng bay về Thiên đàng.


LÃNH ÂN XÁ
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Ðiều thuộc đức tin là: Giáo hội có quyền ban Ân xá. (D. 989,998).

Ân xá là ơn Giáo hội ban nhờ công nghiệp Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và các Thánh, để tha hình phạt tạm người ta phải chịu bởi những tội đã được Chúa tha.

Ân xá có hai loại: Ðại xá (tha hết), và Tiểu xá (tha một phần).

Mọi tín hữu có thể lãnh đại xá, tiểu xá cho mình hoặc nhường lại cho người đã qua đời (Giáo Luật 994).

Muốn hưởng ân xá, tín hữu phải có những điều kiện sau:

  1. Phải đọc kinh hay làm việc Giáo hội dạy để lãnh ân xá. Trước khi đọc kinh hay làm việc ấy phải giục lòng ăn năn chê ghét dốc lòng chừa mọi tội trọng, tội nhẹ đã phạm (Tông huấn Ân xá số 26).
  2. Phải xưng tội ít nhiều ngày trước hoặc sau ngày lãnh đại xá, rước lễ chính ngày lãnh đại xá, và cầu nguyện theo ý Ðức Giáo Hoàng là đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, hay một kinh nào tùy lòng đạo đức mọi người. Khi viếng nhà thờ để lãnh đại xá sẽ đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Tin kính.

Bà Thánh Brigitta nói: “Ai lãnh được một đại xá trước khi chết, thì sẽ được tha thứ và được rước vào Thiên đàng ngay, như khi vừa lãnh Bí tích Rửa tội mà chết vậy”.

Ngày 1.1.1967, Ðức Giáo Hoàng Phaolô đệ Lục đã định lại các ân xá. Mọi ngày chỉ được lãnh một đại xá, trừ khi gần chết được lãnh thêm một đại xá nguy tử (số 24).

Tiểu xá có thể lãnh một ngày nhiều lần (số 24,3).

Sau đây xin kể những kinh, những việc có đại xá, tiểu xá:

1. CÁC KINH CÓ ÐẠI XÁ (theo số trong Tông huấn)

22. Ðọc kinh Lạy Ðức Chúa Giêsu rất nhân lành rất cam thay sau khi Rước lễ các Thứ Sáu Mùa Chay, và Tuần Thương khó. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.

26. Ðọc kinh Lạy Ðức Chúa Giêsu rất nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội vào ngày lễ kính Trái Tim Chúa để đền tạ Chúa. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.

27. Ðọc kinh Lạy Ðức Chúa Giêsu rất êm ái dịu dàng, là Ðấng đã chuộc tội loài người ta vào ngày lễ Chúa Giêsu Vua. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.

48. Ðọc chung và suy ngắm 50 kinh Mân côi trong nhà thờ, hoặc nhà nguyện công, hoặc với gia đình, cộng đồng tu trì, hay hội đạo đức. Ngoài ra chỉ được tiểu xá.

59. Hát kinh “Ðây Nhiệm tích vô cùng cao quí” tối Thứ Năm Tuần Thánh và lễ Mình Thánh Chúa. Hát các lúc khác chỉ được tiểu xá.

60. Hát kinh Tạ Ơn Chúa (Te Deum) chiều ngày cuối năm. Hát lúc khác chỉ được tiểu xá.

61. Hát kinh Ðức Chúa Thánh Thần (Veni Creator) ngày đầu năm mới và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Các lúc khác chỉ được tiểu xá.

2. CÁC VIỆC CÓ ÐẠI XÁ

3. Viếng Chúa, chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ. Không đủ nửa giờ chỉ được tiểu xá.

11. Viếng một trong bốn đại Thánh đường Rôma vào lễ Bổn mạng đại thánh đường ấy, hoặc tùy chọn một lần trong năm.

12. Lãnh phép lành Ðức Giáo Hoàng ban cho Rôma và thế giới (dù qua radio, TV).

13. Viếng nghĩa địa cầu hồn trong vòng 8 (tám) ngày đầu tháng 11. Viếng các ngày khác chỉ được tiểu xá.

17. Thờ lạy và hôn kính Thánh giá ngày Thứ Sáu Tuần thánh theo nghi lễ Giáo hội.

23. Dự nghi lễ bế mạc Ðại Hội Thánh Thể.

25. Cấm phòng ba ngày trọn.

28. Giờ nguy tử, dù không thể có Linh mục tới ban các Bí tích cuối cùng và phép lành Tòa Thánh, Giáo hội cũng ban đại xá cho những ai trong đời sống đã có thói quen đọc kinh cầu nguyện (trường hợp này thói quen đó thay ba điều kiện xưng tội, rước lễ, cầu theo ý Ðức Giáo Hoàng). Người nguy tử hôn kính tượng Thánh giá, giục lòng ăn năn tội để lãnh đại xá.

35. Dùng Thánh giá, tràng hạt, ảnh đeo Ðức Giáo Hoàng hay Ðức Giám Mục đã làm phép (để tôn kính, lần hạt…) vào ngày lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô Phaolô, và đọc bản tuyên xưng Ðức Tin (kinh Tin kính). Dùng Thánh giá, tràng hạt, ảnh đeo do Linh mục làm phép chỉ được tiểu xá.

41. Nghe vài bài giảng trong kỳ có Linh mục tới giảng đại phúc, cấm phòng và dự nghi lễ trọng thể bế mạc. Nghe các bài giảng lúc khác chỉ được tiểu xá.

42. Người Rước lễ lần đầu và những người dự Thánh lễ ấy.
43. Linh mục dâng lễ đầu tay trọng thể và những người dự lễ ấy.

49. Linh mục tuyên hứa lại trung thành với Ơn gọi tu trì và những ai dự lễ trọng kỷ niệm 25, 50, 60 năm thụ phong Linh mục.

50. Cung kính đọc Kinh Thánh đủ nửa giờ. Không đủ nửa giờ chỉ được tiểu xá.
63. Viếng và suy gẫm đủ 14 đàng Thánh giá. Ði từng nơi, nếu ít người.

65. Viếng nhà thờ giáo xứ ngày lễ Bổn mạng nhà thờ ấy, hoặc ngày 02 tháng 8 (ngày đặc ân Portiuncula của nhà thờ Thánh Phanxicô tại nước Ý).

66. Viếng nhà thờ, hoặc bàn thờ ngày được làm phép hiến thánh.

67. Viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện công hay bán công vào Chúa Nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ các Thánh để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.

68. Viếng nhà thờ, nhà nguyện dòng ngày kính Vị Thánh Sáng lập.

69. Dự một nghi lễ tại nhà thờ trong thời gian Ðức Giám Mục hay Ðại diện thăm mục vụ Giáo xứ. Nếu chỉ viếng nhà thờ trong thời gian đó thì được tiểu xá.

70. Tuyên lại lời hứa khi lãnh Bí tich Rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh, hoặc vào ngày kỷ niệm được Rửa tội theo quãng Giáo hội quen dùng (từ bỏ ma quỉ, tin kính Thiên Chúa). Tuyên lại lúc khác chỉ được tiểu xá.

3. CÁC KINH CÓ TIỂU XÁ

2. Kinh Tin, Cậy, Mến, và ăn năn tội.
6. Kinh Lạy ơn Ông Thánh Giuse, chúng con chạy đến cùng Người.
9. Kinh Ðức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần truyền tin, hoặc Lạy Nữ vương Thiên đàng.

10. Kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô.

16. Kinh Tin kính các Thánh Tông đồ (Tôi tin kính ÐCT là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất).

19. Kinh Vực sâu.

29. Kinh Cầu Tên Ðức Chúa Giêsu, kinh Cầu Trái tim Chúa, Máu Thánh Châu Báu Chúa, kinh Cầu Ðức Bà, kinh Cầu ông Thánh Giuse, kinh Cầu Các Thánh.

30. Kinh Ngợi khen (Magnificat, Linh hồn tôi ngợi khen Chúa).
32. Kinh Hãy nhớ (Lạy Thánh Nữ Ðồng trinh Maria là Mẹ rất nhân từ).
33. Thánh vẹnh Thống hối 50.
37. Kinh cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ (được giáo quyền chuẩn nhận).
38. Dùng ít phút cầu nguyện thầm trong trí.
39. Lời nguyện cho Ðức Giáo Hoàng (Ta hãy cầu xin cho Ðức Giáo Hoàng…).
44. Cầu nguyện cho Giáo hội hợp nhất (theo bản kinh được chấp nhận).

46. Lời cầu nghỉ yên (Lạy Chúa xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy).

51. Kinh Lạy Nữ vương (Lạy Nữ vương Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống).

54. Tôn kính Thánh theo ngày chỉ trong lịch Công Giáo (đọc lời nguyện theo sách lễ, hoặc đọc kinh kính vị Thánh ấy).

57. Kinh Trông cậy (Chúng con trông cậy rất Thánh Ðức Mẹ Chúa Trời).

4. CÁC VIỆC CÓ TIỂU XÁ

1. Tiểu xá ban chung cho tín hữu nào trong khi làm việc bổn phận và chịu gian nan ở đời, hướng tâm trí lên cùng Chúa, khiêm nhường trông cậy thầm đọc một lời cầu xin (để giữ và gia tăng sự kết hợp với Chúa Kitô), bởi Chúa đã phán:

Matthêu 7,7-8 “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ sẽ mở”.
Matthêu 26,40 “Tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”,

Corinhtô 10,31 “Dù anh chị em ăn uống hay làm việc gì, nhớ làm bởi vinh Danh Chúa”.

Công đồng Vaticanô 2, Hiến chế Giáo hội số 41, Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân số 4 cũng khuyên những lời tương tự.

2. Tiểu xá ban chung cho tín hữu trong tinh thần đức tin và tình thương, hy sinh sức khỏe, hoặc của cải giúp anh chị em túng cực (của ăn, áo mặc, an ủi), bởi Chúa đã phán:

Matthêu 25,35-36 “Khi Ta đói, ngươi đã cho Ta ăn… Khi Ta yếu ngươi đã thăm viếng”.

Gioan 3,17-18 “Ai có của, khi thấy anh chị em mình túng cực mà khóa lòng lại, hỏi kẻ ấy có thật lòng yêu mến Chúa chăng”

Công đồng Vaticanô 2 trong Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân số 8, số 31, Hiến chế Giáo hội trong thế giới ngày nay số 93 cũng khuyên những lời tương tự.

3. Tiểu xá ban chung cho tín hữu trong tinh thần thống hối, tự nguyện từ bỏ những cái được phép, những cái thỏa lòng mình (để cầm hãm dục vọng, bắt xác thịt sống nghèo và khổ sở như Chúa Kitô), bởi Chúa đã phán:

Luca 9,23 “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thánh giá mình hằng ngày mà theo Ta”.

Thư Roma 8,13 “Nếu bởi tinh thần, anh chị em giết chết việc xác thịt, anh chị em sẽ được sống”.

Công đồng Vaticanô 2 trong Sắc lệnh Huấn luyện Linh mục số 9, Hiến chế Giáo hội số 10, số 41 cũng có những lời khuyên tương tự.

15. Rước lễ thiêng liêng (Lạy Ðức Chúa Giêsu, con tin thật Chúa ngự trong Phép Mình Thánh, con kính mến Chúa trên hết mọi sự, cùng ước ao chịu lấy Chúa trong linh hồn con…)

20. Dạy giáo lý, hoặc học giáo lý Công Giáo.

34. Tham dự làm Tuần Chín tại nhà thờ trước lễ Sinh nhật Chúa, lễ Hiện Xuống, lễ Mẹ Vô Nhiễm.

45. Dự Cấm phòng tháng.
55. Làm dấu Thánh giá: Nhân danh Cha và con và Thánh Thần Amen.

* Thánh nữ Madalena đệ Pazzi và các nữ tu dòng bà rất nhiệt thành lãnh ân xá cho các linh hồn. Trong truyện về thánh nữ, linh mục Cepari kể rằng: Thánh nữ đã giáo huấn, chăm sóc cho một nữ tu trong dòng người rất đặc biệt. Khi nữ tu qua đời, xác còn để trong nhà thờ như thói quen. Thánh nữ được ơn xuất thần, thấy linh hồn nữ tu bay về Thiên đàng tràn ngập niềm vui. Thánh nữ giơ tay chào rằng: “Tạm biệt, chị bay về Thiên đàng như chim bồ câu đẹp đe?, chúng tôi còn phải ở ‘chốn khách đầy này’. Ôi chị đẹp chừng nào, ai có thể tả được vinh quang Chúa ban để thưởng công nhân đức của chị? Chị ở trong Luyện ngục không bao lâu, xác chị chưa chôn xuống đất mà hồn chị đã lên Thiên đàng. Giờ đây chị thấy đúng như lời tôi đã nói trước với chị: Tất cả những đau khổ ở đời này không thể sánh được với những vinh quang Chúa dành cho các bạn hữu của Người”. Cũng trong lần ngất trí này, thánh nữ đã được biết linh hồn nữ tu chỉ phải qua 15 giờ trong Luyện ngục, bởi nữ tu đã phải chịu nhiều đau khổ ở đời này, và bởi nữ tu đã cẩn thận lãnh nhận những ân xá Giáo hội ban cho các con cái mình nhờ công nghiệp Chúa Kitô.

* Thánh nữ Têrêsa Mẹ đã viết trong tác phẩm của người, ca tụng giá trị cao nhất trên những ân xá nhỏ nhất Giáo hội ban phát. Thánh nữ kể rằng: Một nữ tu dòng bà sống một đời bình thường, nhân đức bình thường như bao nữ tu khác. Nữ tu này qua đời, và thánh nữ rất ngạc nhiên thấy linh hồn nữ tu về Thiên đàng ngay sau khi chết, đến nỗi thánh nữ tưởng rằng không có Luyện ngục. Khi thánh nữ Têrêsa bày tỏ sự ngạc nhiên này, Chúa đã cho bà biết: BỞI nữ tu này khi còn sống đã hết sức cẩn thận lãnh nhận các ân xá Giáo hội ban, nhờ phương thế này, nữ tu được tha hết các nợ nần phải trả ngay trước khi qua đời, nữ tu được coi như thật trong sạch trước tòa Chúa phán xét (Purgatory p. 255).

* Tại thành phố Venexia nước Ý, một Linh mục chủ tâm đi viếng nhà thờ Assisi để lãnh đại xá Giáo hội ban, trên đường đi, ngài bị bệnh phải vào trọ tại nhà một Linh mục bạn. Thấy mình sắp chết, ngài xin cha bạn tiếp tục viếng nhà thờ Assisi thay mình để được ơn giải thoát khỏi Luyện ngục sớm. Rồi Linh mục ấy qua đời. Cha bạn chần chừ chưa đi viếng nhà thờ Assisi như lời hứa. Một hôm Linh mục đã chết hiện về rất đau đớn phàn nàn với Linh mục bạn: Tại sao còn chần chừ chưa đi viếng nhà thờ để lãnh đại xá cứu mình, và xin cha bạn viếng càng sớm càng tốt. Cha bạn thu xếp công việc và lên đường ngay. Khi viếng xong, cha đã chết cũng được tha khỏi Luyện ngục, ngài hiện về sáng láng như ánh mặt trời cảm ơn cha bạn, rồi bay thẳng về Thiên đàng (Charity p.147).

Chúng ta nên sốt sắng và siêng năng lãnh đại xá, tiểu xá để cứu cha Mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu chúng ta và cứu các linh hồn, nhất là các linh hồn mồ côi. Chúa đã phán: “Các con đong cho ai đấu nào, người ta sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,22).

Nay ta cứu người, mai người cứu ta.


DỰ LỄ MISA CỨU CÁC
LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Chúa Giêsu phán với Thánh nữ Getruđê rằng, “Vào giờ chết, Cha sẽ sai nhiều Thánh đến an ủi giúp đỡ những ai siêng năng sốt sắng tham dự Thánh lễ khi còn sống”.

Trong Thánh lễ, Giáo hội dâng nhiều lời cầu nguyện cho hàng Giáo phẩm và các tín hữu trên thế giới, cho những ai đang dự lễ, những ai dâng của lễ và những người đang an nghỉ trong Chúa Kitô chờ ngày sống lại. (Charity p. 186).

Công đồng Trentô xác quyết rằng, “Các tín hữu còn sống có thể cầu nguyện cứu giúp các linh hồn Luyện ngục, nhưng lời cầu nguyện giá trị nhất chính là Thánh lễ Misa”.

Công đồng còn dạy thêm rằng: “Thánh lễ Misa ngày nay Linh mục thay Chúa dâng trên bàn thờ không đổ máu, cũng chính là Thánh lễ hy sinh xưa Chúa Kitô dâng mình trên bàn thờ thập giá với máu đổ chan hòa. Thánh lễ hy sinh này đền bù mọi tội lỗi, mà không phải chỉ đền bù cầu khẩn cho người sống, mà còn được dâng lên để đển bù cầu khẩn cho những người đã chết trong Chúa Kitô nhưng chưa được thanh tẩy vẹn toàn. Đây là thói lành từ thời các thánh Tông đồ truyền lại” (D. 940).

* Thánh Tôma Aquinô cũng dạy rằng, “Không có hy sinh nào giải cứu các linh hồn Luyện ngục bằng hy sinh của Thánh lễ Misa”.

* Thánh Chrisôtômô viết: “Khi lễ Misa được cử hành ở trần gian, các Thánh trên trời xuống mở cửa Luyện ngục”.

* Thánh Augustinô viết: “Chúng ta không thể nghi ngờ rằng, những lời cầu nguyện của Giáo hội, thánh lễ Misa, việc chia sẻ của bố thí chỉ cho các người đã qua đời có sức cứu các linh hồn này lắm, có sức làm cho Thiên Chúa cư xử nhân từ với họ hơn là tội họ đáng phạt. Đó là những điều thường thực hành trong Giáo hội, những thực hành có từ thời các giáo phụ ban đầu, từ các tông đồ” (Purgatory p. 195).

* Thánh nữ Monica, Mẹ thánh Augutinô, khi sắp chết chỉ xin các con nhớ tới Mẹ nơi bàn thờ. Thánh Augutinô đã viết điều này trong sách “Tự thuật”. Ngài xin các độc giả cùng nhớ tới Mẹ ngài khi dâng lễ.

* Thánh nữ Isave Hoàng hậu nước Bồ có một công chúa tên là Constance qua đời đột ngột. Công chúa đã được hiện về với một thầy ẩn tu ở tỉnh Santarem. Thầy vội chạy đi tìm thánh nữ báo tin công chúa của người hiện đang bị giam phạt ở tầng sâu trong Luyện ngục, và còn phải giam ở đó lâu dài, chịu những hình phạt khủng khiếp. Nhưng công chúa sẽ được giải thoát, nếu có linh mục dâng thánh lễ chỉ cho linh hồn công chúa trong vòng một năm. Khi nghe thế, các cận thần quanh thánh nữ hoàng hậu phì cười, cho là ông thầy điên, ăn nói xằng bậy. Nhưng thánh nữ quay sang hỏi đức vua, đức vua trả lời: ông tin điều đó là đúng. Linh mục Ferdinand Mendez được mời dâng lễ cho công chúa hằng ngày.

Sau một năm, công chúa đã hiện về sáng láng cùng Mẹ nói rằng: “Mẹ ơi, hôm nay con được ra khỏi Luyện ngục để vào Thiên đàng”. Cảm động vô ngần, thánh nữ Isave vội đi vào nhà thờ dâng lời cảm tạ Chúa. Thánh nữ đi tìm cha Mendez, ngài nói, hôm qua ngài đã dâng xong 365 thánh lễ như đã được chỉ định. Thánh Isave hiểu là Chúa đã giữ lời hứa với thầy ẩn sĩ. Thánh nữ đã phân phát nhiều của cải cho người nghèo khó để tạ ơn Chúa.

* Thánh Benađô kể: Có một tu sĩ đã chết hiện về với một anh em dòng của người, cảm ơn đã cứu mình khỏi bị giam lâu trong Luyện ngục. Khi hỏi bởi lý do nào mà được giải cứu, linh hồn ấy chỉ về phía bàn thờ nói rằng, “Đây chính là “khí giới ơn thánh” cứu rõi chúng tôi”.

* Thánh Gioan Vianey xứ Ars bên nước Pháp, một hôm kể trong lớp giáo lý truyện sau: Chắc các con còn nhớ, một lần cha đã kể về một linh mục thánh thiện, có lẽ được Chúa cho biết bạn ngài đang bị giam trong Luyện ngục. Linh mục ấy muốn cứu người bạn. Ngài nghĩ rằng không có gì cứu nhanh hơn là Thánh lễ Misa, nên ngài lo liệu dâng lễ sớm. Trước khi dâng lễ, ngài thưa với Chúa đơn sơ như trẻ nhỏ nói với cha Mẹ rằng: “Lạy Cha chí thánh hằng có đời đời, con xin đánh đổi như sau: Cha đang giữ linh hồn bạn con trong Luyện ngục, còn con có thể đổi tấm bánh nên Mình Thánh Chúa Giêsu, bây giờ xin Cha tha cho bạn con ra khỏi Luyện ngục, và con sẽ dâng cho Cha mọi công nghiệp Chúa Giêsu Con Cha đã chịu nạn chịu chết”. Sau khi truyền phép, ngài nâng Mình Thánh Chúa lên, ngài đã thấy linh hồn bạn ngài lên Thiên đàng.

* Thánh Laurensô Justianô nhận xét rằng: “Một Thánh lễ Misa có giá trị cứu rõi hơn mọi việc đền tội của cả thế giới. Bỏ lên hai đĩa cân, một bên là Thánh lễ, bên kia là các việc đền tội ăn chay bố thí của chúng ta xem bên nào nặng hơn?”

* Á thánh Henry Suso và linh mục bạn, khi cả hai còn sống đã làm lời đoan kết với nhau rằng: “Nếu ai chết trước thì người còn sống sẽ dâng mọi tuần hai thánh lễ trong đủ một năm cầu cho người chết trước”. Sau ít năm, cha bạn qua đời, Thánh Suso ngày nào cũng cầu nguyện rất sốt sắng, lại thêm ăn chay và những việc đền tội khác, bởi chưa thể dâng lễ cầu cho cha bạn ngay như đã hứa. Sau ít ngày, cha bạn hiện về với vẻ mặt buồn bã trách móc nặng lời rằng: “Ôi ông bạn bất trung, sao ông không giữ lời hứa đã đoan kết với tôi ngày trước?” Thánh Suso trả lời rằng mình đã cầu nguyện và dâng rất nhiều hy sinh hãm mình, nhưng người chết nói: “Lời cầu của ông rất đẹp lòng Chúa, nhưng không có hiệu lực giải cứu tôi. Rồi người đó đập bàn la lên: “Máu! Máu! Những linh hồn đau khổ như chúng tôi cần máu, Máu Chúa Giêsu dâng lên trong Thánh lễ cầu cho chúng tôi sẽ giải thoát chúng tôi khỏi cực hình, nếu ông dâng lễ như đã hứa với tôi thì tôi đã được giải thoát khỏi Luyện ngục cực dữ rồi, bởi ông chậm trễ mà tôi còn chịu khổ, hãy dâng lễ cầu cho tôi, những lễ ông đã hứa với tôi” (Charity p. 191).

* Thánh Giêronimô dạy rằng, ” Các linh hồn trong Luyện ngục được giải thoát ngay khi linh mục dâng lễ cầu cho họ và các giáo dân xin lễ hoặc dự lễ cầu cho họ.”

Chúng ta hãy sắp xếp thời giờ, siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh lễ hằng ngày hoặc nhiều ngày trong tuần để cầu cho các linh hồn. Đó là việc quan trọng, thánh thiện tôn vinh danh Chúa, ích lợi cho phần rõi ta, và cứu rõi các linh hồn đang đau khổ trong Luyện ngục.


RƯỚC LỄ CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Bởi lòng yêu thương các linh hồn, trước khi chịu chết chuộc tội, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Mình Thánh để ở lại yên ủi dẫn dắt chúng ta về trời. Ngài cho phép chúng ta được rước Ngài như của ăn uống để nên một với chúng ta trong tình yêu. Thánh Têrêxa Chúa Hài Đồng đã nói: “Lạy Chúa, không phải bởi thích ở trong bình vàng bình bạc mà Chúa ở lại trần gian, nhưng chính là bởi Chúa muốn ở trong tâm hồn các bạn của Chúa”. Chúng ta hãy năng cầu nguyện với Chúa trong tâm hồn mình, và cầu xin Chúa giải thoát các linh hồn Luyện ngục.

Giáo lý Công đồng Trentô dạy hai cách rước lễ:

1. Rước lễ cách Bí tích trong mầu nhiệm Thánh Thể.

2. Rước lễ cách thiêng liêng bởi giục lòng tin cậy kính mến ước ao rước Chúa Giêsu vào lòng.

Luật Giáo hội ngày nay ban phép cho giáo dân mọi ngày được Rước Lễ cách Bí tích hay rước lễ thật một lần, nếu dự thêm lễ nữa được rước lễ thêm lần nữa (GL.917) và một lần thứ ba nếu rước lễ như của ăn đàng khi gần chết (GL.921,2).

Rước lễ thiêng liêng bao nhiêu lần trong một ngày cũng được.

Rước lễ sinh muôn vàn ơn ích, bởi được kết hợp Chúa và kết hợp với nhau  trong Giáo hội, được xóa bỏ các tội nhẹ và thêm ơn thánh hóa, được thêm sức chống trả chước cám dỗ và sửa nết xấu, nhất là được bảo đảm sự sống đời đời.

* Một lần thánh Raymunđô dâng lễ có bà thánh Catarina Siena tham dự. Sau khi truyền phép, bà khát khao rước Chúa quá sức, nên khi Thánh Raymunđô bẻ Mình Thánh và bỏ phần nhỏ vào chén Máu Thánh, Ngài thấy nửa kia biến đâu mất. Hoảng sợ ngài quay tìm chung quanh xem Mình Thánh rơi chô nào, nhưng Thánh Catarina thưa rằng:     “Chúa đang ngự trong miệng con.” Bởi bà bị bệnh hay ói, nên không được phép rước Chúa. Bà khát khao, bà không thể chịu bệnh nếu thiếu Mình Thánh Chúa, nên Chúa đã làm phép lạ để đến với bà.

* Chân phúc Angela thú nhận, bà không thể chịu những nỗi khổ trên đời, nếu Chúa Giêsu không dạy cách Rước lễ thiêng liêng.

* Bà Đáng kính Gioanna Thánh giá được Chúa phán rằng: “Mỗi khi bà rước lễ thiêng liêng, Chúa ban ơn cho bà như khi bà rước lễ thật vậy”.

Giáo hội cũng ban ân xá cho những ai rước lễ thiêng liêng (Tông huấn Ân xá số 15 của Đức Giáo hoàng Phaolô 6).

Việc rước Mình Thánh Chúa còn sinh ơn ích cứu rõi các linh hồn trong Luyện ngục.

* Thánh nữ Gêtruđê cứu rất nhiều linh hồn Luyện ngục, bà thánh thích nhất là những ngày được rước lễ. Thời đó giáo dân chưa được phép rước lễ hằng ngày. Một lần Chúa phán với Thánh nữ: “Làm sao Cha từ chối lời con cầu xin cho các linh hồn Luyện ngục trong những ngày con rước lễ được, bởi con là bạn trăm năm của Cha”.

* Khi thánh nữ Mađalena de Paoãi  thấy linh hồn em mình đang chịu đau khổ trong Luyện ngục, bà cảm kích, chan hòa nước mắt kêu than: ” Ôi linh hồn khốn cực chừng nào, ôi hình khổ dữ dằn chừng nào, sao người ta không hiểu điều đó và không chịu vác thánh giá mình khi còn sống ở đời này? Em ơi, sao khi còn sống em không nghe lời chị khuyên và bây giờ em nóng lòng muốn chị nghe lời em van xin. Em xin chị điều gì đây? Bà thánh lắng nghe đếm tới số 107, bà nói lớn, đó là 107 lần Rước lễ mà em tôi xin phải không? Được, chị sẽ Rước lễ, nhưng than ôi, thời gian dài chừng nào. Lạy Chúa tôi, nếu Chúa cho phép, chị sẽ xuống Luyện ngục để giải thoát em, và tránh cho những người khác khỏi phải xuống nơi này”.

* Cha Đáng kính Lui Blosio thuật truyện một linh hồn Luyện ngục quanh mình đầy lửa nóng rát rúa quá sức hiện về với ngài lúc giáo dân rước lễ và nài xin rằng: “Xin ngài bởi lòng kính mến Chúa và lòng thương các linh hồn làm ơn rước lễ chỉ cho tôi một lần, nhưng dọn mình thật sốt sắng trước khi rước lễ, có như vậy, tôi sẽ được ra khỏi chốn nóng nảy đau đớn tôi đang chịu bởi tội thờ ơ với Bí tích Mình Thánh Chúa khi  còn sống”. Cha Đáng kính Lui đã sốt sắng rước lễ chỉ cho linh hồn ấy, và ngài đã thấy linh hồn bay vào Thiên đàng.

Chúng ta hãy siêng năng và sốt sắng dọn linh hồn bằng lòng tin cậy kính mến, khiêm nhường, nhất là cậy nhờ Đức Mẹ giúp ta dọn mình và cảm ơn Chúa để được nhiều ơn phúc cứu rõi các linh hồn Luyện ngục.


XIN LỄ MISA CỨU CÁC
LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Giáo hội dâng lễ Misa như Chúa Kitô đã dạy để “loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến” (Lời tung hô sau truyền phép). Thánh lễ cũng được dâng lên để thờ phượng Chúa, tạ ơn Chúa, đền bù tội lỗi nhân loại và cầu xin ơn phúc cho Giáo hội và thế giới (Giáo lý Công Giáo). Chủ tế đích thực và Lễ vật dâng lên trong Thánh lễ để “tôn vinh Danh Chúa, mưu ích cho chúng con cùng toàn thể Hội Thánh Người” (Lời Tiền tụng Thánh lễ) là chính Chúa Kitô Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.

Công Đồng Trentô dạy rằng, “Thánh lễ Misa không những ca tụng Chúa, mà còn là lễ đền tội cho người sống và cho người đã qua đời” (Khóa 22, chương 2). “Lạy Chúa, xin nhớ đến tôi tớ nam nữ mà Chúa đã gọi ra khỏi thế gian, xin ban cho kẻ đã chết như Con Chúa, thì cũng được sống lại như Người” (Lời Tiền tụng Thánh lễ).

* Thánh Benađô thuật truyện về Thánh Malaki, Tổng Giám Mục Armagh, nước Ái nhĩ lan đã dâng nhiều Thánh lễ cho linh hồn chị mình. Tưởng thế là đủ, ngài không dâng nữa. Ba mươi ngày sau, ngài nghe tiếng chị khóc trong phòng mặc áo lễ. Bà than rằng, bà “đã chờ 30 ngày mà không được giúp đỡ”. Ngài tiếp tục dâng lễ cầu cho chị rồi thấy chị mặc đồ đen. Ngài lại tiếp tục dâng lễ cầu cho chị tới khi thấy chị vào Thiên đàng cùng với một số rất đông linh hồn đước giải thoát trong ngày hôm ấy (Charity p.199).

* Thánh Nicholas thành Tolentino thấy vô vàn linh hồn Luyện ngục ở trong một cánh đồng hợp nhau lại van xin ngài dâng lễ cầu cho họ. Sau 8 ngày dâng lễ, ngài được biết các linh hồn ấy đã được giải thoát khỏi Luyện ngục (Charity p.204).

* Thánh Antôn Padua kể rằng Chân phúc Gioan Alverina một lần dâng Thánh lễ vào ngày lễ Các Thánh. Sau khi truyền phép, ngài cầm Mình Thánh Chúa trong tay và khẩn khoản nài xin Chúa bởi công nghiệp Chúa Giêsu xin cứu các linh hồn Luyện ngục. Ngài được thấy một số rất đông linh hồn từ Luyện ngục bay lên như những tia sáng phát ra từ lò lửa về hướng Thiên đàng (Charity p.204).

* Theo Thánh Tôma Aquinô: “Khi Linh mục dâng lễ cầu cho linh hồn nào, dù ngài đọc bài lễ kính Đức Mẹ, lễ kính các Thánh, lễ cầu hồn hay bài lễ nào đi nữa, thì công phúc của Thánh lễ cũng như nhau. Nhưng nếu ngài đọc bài lễ cầu hồn thì công phúc được đặc biệt hơn, bởi Giáo hội đã dọn riêng những lời cầu nguyện và bài đọc chỉ cho người quá cố” (Charity p.215).

* Thánh Vincentê Ferier, một linh mục rất nổi tiếng Dòng thánh Đaminh đã giảng nhiều lần về chân lý Tòa Chúa phán xét. Ngài có một cô em khá cứng lòng, chẳng hề lay động trước lời giảng và gương thánh thiện của anh. Tâm hồn cô em này đầy ắp tinh thần thế tục, bị nhiễm độc về các thú vui ở đời, và bước đi trên con đường diệt vong. Trong khí đó, thánh Vincentê tha thiết cầu cho em được ơn trở lại, sau cùng lời cầu của ngài đã được nhận lời. Cơn bệnh chín chết một sống kéo đến với cô cứng đầu này. Giờ chết gần tới, cô được ơn sám hối chân thành và xưng thú hết tội lỗi. Chết được ít ngày, cô hiện ra với thánh Vincentê anh khi ngài đang dâng thánh lễ, mình quấn đầy lửa bừng bừng và là miếng mồi của các hình phạt. Bà nói:”Ôi anh ơi, em bị luận phạt chịu cực hình trong Luyện ngục đến ngày tận thế, nhưng anh có thể giúp em, xin anh dâng cho em 30 thánh lễ, như thế em có thể hy vọng được kết quả hạnh phúc nhất”. Thánh nhân lập tức thu xếp để dâng cho em các thánh lễ như em xin. Ngày thứ ba mươi, cô em lại hiện ra, nhưng lần này có các thiên thần vây quanh và cô hớn hở đi về Thiên đàng. Ôi thánh lễ Misa có giá trị vô cùng, đã giải cứu linh hồn sau ba mươi ngày thay cho hàng bao thế kỷ (Purgatory p. 96-97).

* Có người như ông Pasqualigo còn chủ trương rằng THÁNH LỄ HÁT cầu cho người đã chết lại gia tăng hiệu quả đặc biệt hơn nữa, bởi không những có Linh mục mà có cả giáo dân cũng thông phần hợp lời cầu nguyện cách trọng thể hơn (Charity p.222). Giáo hội đặt ra những lời ca hát không phải để cộng đoàn vui vẻ, hay cá nhân người xin lễ tự hào, mà để những lời van xin làm vui lòng Chúa hơn và ý chỉ xin lễ dễ được chấp nhận hơn.

Người ta cũng có thể xin dâng lễ để CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CÒN SỐNG VÀ CHO CHÍNH MÌNH. Thánh Leonard Maurice khuyên người ta dâng Thánh lễ cầu cho mình khi còn sống, tốt hơn là sau khi qua đời, bởi những lý do sau đây:

1. Dâng lễ khi còn sống, chính mình được tham dự để xin ơn phúc.

2. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống, nếu là kẻ có tội, hy vọng sẽ được lòng thương xót Chúa ban ơn ăn năn xưng thú đền bù, dù mình không đáng. Chết rồi và đã xuống Hỏa ngục thì không còn cứu vãn cách nào nữa, dù có dâng cả ngàn lễ cũng không đổi được số phận đời đời.

3. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống để xin ơn chết lành, sẽ được Chúa phù hộ trong giờ chết nhờ ơn phúc Thánh lễ.

4. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống, ơn phúc vẫn còn, và nếu có phải vào Luyện ngục, ngày giờ trong ấy sẽ được rút vắn hơn. Chết rồi mới được dâng lễ cầu cho thì linh hồn đã phải đợi chờ khốn khổ.

5. Dâng lễ cầu cho chính mình khi còn sống làm vinh Danh Chúa hơn. Khi dâng lên Chúa tiền bạc Chúa đã ban cho, ta được công từ bỏ của cải. Chết rồi tiền bạc về tay con cái họ hàng, mấy ai lo cứu giúp ta, đâu họ có cảm thấy nỗi khổ sở nóng nảy của ta mà cứu giúp mau chóng.

6. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống, nếu mình có ơn nghĩa Chúa thì được phần thưởng gấp đôi, vừa được tha phạt Luyện ngục, vừa được công thưởng Thiên đàng. Chết rồi mới xin thì chỉ được tha phạt Luyện ngục, không được gia tăng công thưởng Thiên đàng.

Cuối cùng chúng ta nên biết rằng, một Thánh lễ dâng cầu cho ta khi còn sống được tha hình phạt của ta nhiều hơn là dâng nhiều Thánh lễ sau khi ta chết, bởi nếu ta làm mất lòng ai mà xin lỗi ngay thì dễ được tha hơn là chần chừ để phải xin lỗi và đền bù trước tòa án. Một lời bào chữa trước tòa án tốn phí bao nhiêu tiền bạc rồi.

Chúng ta phạm đến Chúa nhiều cách, nếu chúng ta biết đền bù bằng việc lành phúc đức, việc từ thiện bác ái, nhất là nhờ công nghiệp Chúa Giêsu qua Thánh lễ thì nợ nần chúng ta được tẩy xóa. Chờ đến trước tòa án Chúa mới xin đền thì hình phạt lại nặng nề hơn.

* Thánh Anselmo dạy: “Sốt sắng dâng một Thánh lễ khi còn sống, lợi ích hơn cả ngàn Thánh lễ khi đã qua đời” (Charity p.226). Chính Chúa Giêsu dạy: “Hãy làm việc khi trời còn sáng, tối rồi ai thấy đường đâu mà làm” (Ga 4,4).

* Trong các thánh lễ chỉ cho người quá cố, có thánh lễ gọi là “Lễ Ba mươi.” Lễ ba mươi hay ba mươi lễ dâng liên tiếp còn gọi là “Lễ Gregoriô”. Lễ này được nói tới trong cuốn sách Đối thoại của người như sau: Có một tu sĩ tên là Giuttô, đã giữ lại cho mình ba đồng tiền vàng. Đó là điều lỗi nặng phạm lời khấn khó nghèo thầy đã tuyên khấn. Nhà dòng đã khám thấy, và thầy bị phạt “dứt phép thông công”. Đang khi bị hình phạt tuyệt thông này, thầy Giuttô đã qua đời. Cha viện trưởng (sau này chính là Đức Giáo hoàng Gregôriô) muốn để các thầy dòng khác kinh sợ về hình phạt tội tham lam trong đời sống tu trì, đã không cất hình phạt tuyệt thông cho thầy Giuttô. Thầy Giuttô được chôn xa nghĩa trang nhà dòng, và ba đồng tiền vàng kia người ta vứt trên mộ thầy, trong khi các thầy dòng khác lặp lại lời xưa thánh Phêrô đã nói với tên phù thủy Simon: Ngươi hãy chết với tiền bạc của ngươi.

Sau một thời gian, cha viện trưởng thấy rằng hình phạt thầy Giuttô như vậy đã đủ, người cảm kích thương linh hồn thầy Giuttô, đã tìm thầy quản lý nói cách tha thiết rằng: “Từ khi người anh em chúng ta qua đời, thầy đã phải cực hình trong Luyện ngục, trong tinh thần đức ái, chúng ta phải tìm cách cứu giúp. Xin thầy liệu cách xin dâng 30 thánh lễ liên tiếp chỉ cho thầy Giuttô, không ngày nào được cách quãng”. Thầy quản lý vâng lời ngay. Ba mươi thánh lễ liên tiếp đã được dâng lên. Sau ba mươi ngày, thầy Giuttô hiện ra cùng thầy bạn là Copiosô nói rằng: Anh bạn thân yêu ơi, chúc tụng Chúa, hôm nay tôi được tha thứ và được nhận vào nước Thiên đàng cùng với các thánh”. Kể từ đó, thói quen đạo đức dâng ba mươi thánh lễ liên tiếp cầu cho linh hồn đã qua đời được thiết lập và lan tràn trong Giáo hội, nhất là tại nước Ý, nước Anh và nhiều nước khác (Purgatory p. 212).

* Cũng có nơi khác kể rằng: Khi thánh Grêgôriô còn là Bề trên tu viện Bênêđictô. Một thày dòng trong tu viện ngài qua đời, các thầy tìm ra 6 cái Mẹ thầy qua đời đã giữ làm của riêng trái với luật dòng. Thầy qua đời bị phạt không được an táng theo lễ nghi. Thánh Grêgôriô bởi lòng thương linh hồn người quá cố, đã ra lệnh dâng cho thầy 30 lễ liên tiếp. Sau ba mươi ngày, thầy dòng qua đời hiện về với một thầy bạn nói rằng mình bị khổ trong Luyện ngục, nhưng đã được tha để về Thiên đàng. Khi lên ngôi giáo hoàng, thánh Grêgôriô cổ động trong Giáo hội việc dâng 30 lễ liên tiếp cho linh hồn đã qua đời. Các Đức Giáo hoàng kế tiếp cũng đã ban nhiều ân xá cho việc xin lễ như trên. (Trích Tạp chí Fatima Findings tháng 11/1989).

Ước gì các dòng có tục lệ dâng 30 lễ cầu cho linh hồn anh chị em dòng đã qua đời để linh hồn quá cố chóng được hưởng phúc trường sinh bên cạnh Cha nhân từ, Mẹ nhân ái và cộng đoàn các thánh.


VIẾNG ĐÀNG THÁNH GIÁ
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Viếng Đàng Thánh Giá để tưởng nhớ Tình yêu vĩ đại của Chúa Kitô qua cuộc thương khó và chịu chết của Người nên giá cứu chuộc ta, đem lại cho ta Sự Sống muôn đời. Việc đạo đức này đã có trong Giáo hội từ thế kỷ 14 do các cha Dòng thánh Phanxicô khởi xướng. Đức Giáo hoàng Phaolô 6 đã ban một ơn đại xá cho những ai xưng tội rước lễ và đi ngắm các chặng đàng.

Viếng đàng Thánh giá đem lại nhiều ơn ích cho người sống cũng như linh hồn Luyện ngục. Nhiều người sống rất thánh thiện và chết rất thánh thiện, tưởng là được lên Thiên đàng ngay, hay chỉ phải ở Luyện ngục ít ngày, nhưng Chúa lại phán xét cách khác.

* Năm 1870 tại thành phố Malines, nước Bỉ (Bruxelles), sơ Seraphine tự nhiên bị mệt mỏi bần thần như có sức gì đè nén, ám ảnh suốt ngày, và như bị ai lôi kéo. Sau cùng, ngày 29 tháng 7 năm ấy sơ nhận được thư báo tin người cha qua đời. Sơ vẫn không hết mệt mỏi, nhức nhối và luôn nghe như có tiếng kêu: “Con ơi, thương ba, thương cứu ba”.

Gần ba tháng sau, sơ bị nhức nhối hơn trước, đầu đau như búa bổ. Nằm trên giường, vừa chợp mắt liền thấy ba hiện về đứng bên cạnh giường, quanh mình lửa đỏ rực quấn chặt, vẻ mặt nặng trĩu buồn phiền. Hoảng sợ, bà sơ la lên kêu cứu, nhưng ngọn lửa vây luôn cả bà, hết đường trốn thoát.

Chiều hôm sau, khi bà qùi bên cạnh giường, đọc kinh Lạy Nữ Vương trước khi nằm ngủ, thấy ba lại hiện về như hôm trước, và tiếp tục hiện về các ngày sau. Bà sơ nghĩ, có lễ ba mình phạm tội gì bất công trong việc buôn bán, nên phải chịu phạt như vậy! Ba của bà trả lời rằng:

– Ba không làm điều gì bất công, nhưng chỉ bởi ba luôn luôn thiếu nhìn nhục, và những lỗi lầm khác ba không thể nói cho con hay được.

– Bà sơ hỏi: “Vậy ba không nhận được bao nhiêu Thánh lễ gia đình họ hàng ta đã xin cho ba sao?”

– Ông trả lời: “Có con ạ, linh hồn ba được mát mẻ nhờ sương sa từ Thánh lễ mọi buổi sáng, nhưng chưa đủ, ba thật cần có ai viếng đàng Thánh giá nữa”.

Lần khác, ba của bà hiện về trách bà rằng:

– Ba đã ở Luyện ngục 6 năm rồi mà con không thương ba”.

– Bà sơ trả lời: “Ba ơi, sao ba nói vậy, ba mới qua đời gần 3 tháng thôi”.

– Ồ, con không biết sự đời đời là gì cả. Linh hồn khi đã được thấy Chúa thì nóng nảy khát khao gặp lại Ngài. Ba bị án vào Luyện ngục 6 tháng, nhưng nhờ Nhà dòng con cầu nguyện liên tiếp cho ba, nên Chúa bớt cho ba một nửa thời gian. Chúa đã cho phép ba về nài xin con cứu ba. Thật vô lý khi trước ba đã ngăn cản ơn Chúa gọi con đi tu. Bây giờ ba chỉ còn trông vào con. Mấy đứa con khác nghĩ rằng ba đã lên Thiên đàng rồi, thỉnh thoảng mới có đứa đọc cho ba một kinh vực sâu. Bà Gioanna, đầy tớ nhà ta, đã luôn luôn cầu nguyện cho ba, nhờ thế bà ta đã giúp ba bớt hình khổ.

Thật vậy, anh chị em trong gia đình tôi tưởng ba chúng tôi đã lên Thiên đàng rồi, bởi trong thư gia đình viết cho tôi có đoạn nói rằng: “Ba đã chết như một vị thánh, và bây giờ đang ở trên Thiên đàng”.

– Bà sơ tiếp: “Ba ơi, con hoàn toàn làm theo lời ba xin, ba làm phiền con chứ đừng làm phiền nhà Dòng. Con sẽ xin nhiều người cầu nguyện cho ba, cho con biết ba muốn gì?

– Ông trả lời: “Ba muốn được dâng mười Thánh lễ, và có ai năng viếng đàng Thánh giá chỉ cho ba.

Mấy hôm sau ba của bà sơ lại hiện về với vẻ mặt rất buồn, nhưng không còn bị thiêu như trước, ông phàn nàn bởi hôm qua không được mát mẻ.

– Bà sơ nói: “Ba ơi ba không biết rằng các sơ không thể đọc kinh cầu nguyện cả ngày sao, các sơ còn phải làm việc khác nữa.

– Ông trả lời: “Ba không mong họ đọc kinh cầu nguyện cả ngày, nhưng xin họ làm việc với ý chỉ cứu ba. Mọi việc dù nhỏ mọn nhất, làm khi có ơn nghĩa cùng Chúa, dâng lên Chúa, có một giá trị lạ lùng và giảm phần phạt cho chúng tôi. Nếu các sơ không cứu ba, ba sẽ làm phiền con, bởi Chúa đã cho phép ba rồi. Con ơi hãy nhớ đến hy sinh ngày con bắt đầu dấn thân vào đường tu, bây giờ con hãy tiếp tục đi cho đến cùng. Trong bồn lửa ba đang chịu, có hàng trăm người khác nữa. ÔI GIÁ NGƯỜI TA BIẾT LUYỆN NGỤC LÀ GÌ. NGƯỜI TA SẼ CHỊU MỌI THỨ KHỔ ĐỂ KHỎI PHẢI VÀO ĐẤY, VÀ NGƯỜI TA SẼ CẤP CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC. Con phải nên một nữ tu thánh thiện. Con phải trung thành giữ kỷ luật, cả những điều xem ra nhỏ mọn. Ôi Luyện ngục của nhà tu kinh hãi chừng nào!

Bà sơ được thấy khói từ bồn lửa bốc lên và thấy lưỡi ba của bà bị bỏng, và nghe ba của bà kêu khát.

Bà sơ nói với nhà Dòng, khi còn sống ba của bà đã làm những việc lành, nên Chúa cho phép hiện về với bà. Ông cũng có lòng kính mến Đức Mẹ và xưng tội rước lễ trong các ngày lễ kính Người. Ông cũng rất bác ái sẵn lòng giúp đỡ ngay khi có ai cần đến. Ông cũng đã đi từng nhà để quyên tiền giúp các bà sơ nghèo xây Tu viện (Charity p. 343-344).

Theo truyền thống từ xa xưa tới nay trong Giáo hội, các Đức Giáo hoàng như Innocentê 11, Innocentê 12, Bênêđictô 23, Clêmentê 12, Bênêđictô 14 và nhiều đấng khác ban nhiều ân xá cho những ai viếng đàng Thánh giá. Đức Phaỗ 6 đã ban đại xá cho người viếng đàng Thánh giá như nói ở phần Ân xá.


RẢY NƯỚC THÁNH
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Nước Thánh hay nước phép là nước đã được Linh mục làm phép nhân Danh Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống thể xác và linh hồn. Linh mục cầu xin Chúa ban phép lành cho nước để những ai tin tưởng mà dùng được Chúa ban ơn tha tội, được ơn chống lại bệnh hoạn và mưu kế ma quỉ (Lời nguyện khi làm phép nước). Khi giáo dân thành tâm tôn kính làm dấu Thánh giá nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần thì được ơn Tiểu xá Giáo hội ban (Tông huấn Ân xá, số 55).

Khi làm dấu Thánh giá với Nước thánh, giục lòng ăn năn tội thì được những ơn ích sau:

1. Được tha các tội mọn (do lòng ăn năn).
2. Được tha một số hình phạt tạm (do ân Tiểu xá).
3. Được sức khỏe phần xác theo Ý Chúa (do hiệu lực Nước thánh).
4. Được ơn chống cám dỗ (do hiệu lực Nước thánh).

Thánh Luca thuật lại dụ ngôn Chúa kể về người giàu và Lagiarô nghèo. Từ dưới Hỏa ngục người nhà giầu ngửa cổ lên van nài tổ phụ Abraham sai Lagiarô nhỏ xuống cho một giọt nước giải khát, nhưng tổ phụ Abraham nói là không được nữa, bởi đôi bên đang ở trong tình trạng khác, không còn giống như khi còn sống (Lc 16,24).

* Lịch sử Giáo hội Rôma cũng kể lại, nhờ rảy Nước thánh do Đức Giáo Hoàng Stephanô 6 làm phép đã giết được cả bầy châu chấu phá hại mùa màng.

* Linh mục Đắc Lộ (Alexander de Rhodes) kể rằng nhờ làm dấu Thánh giá bằng Nước thánh và rẩy Nước thánh mà các giảng viên giáo lý của ngài ở Việt nam đã được rất nhiều ơn lạ. Một lần ngài nhờ 6 giảng viên giáo lý đi thăm một làng có nhiều người bệnh, nhờ Nước thánh, họ đã chữa được 272 bệnh nhân (Charity p. 133).

Nước thánh có thể mưu ích cho người hiện ở đó mà cũng có thể mưu ích cho các linh hồn Luyện ngục. Một giọt Nước thánh nhiều khi có giá trị hơn một kinh dài, bởi nhiều khi đọc kinh dài, người ta khó cầm trí trọn vẹn được. Các linh hồn Luyện ngục khát khao Nước thánh lắm.

* Một người chết được chôn ở nghĩa địa thành Roma, nước Ý, đã chết 17 năm. Ông ta hiện về với Đấng Đáng kính Đaminh Giêsu Maria nài xin rảy Nước thánh cho mình để linh hồn ông ta được mát mẻ.

* Một thầy dòng Carmelô để sọ người trên bàn làm việc của thầy để dễ suy sự chết, một hôm thầy lấy Nước thánh rảy trên sọ ấy, liền nghe tiếng xin: “Rảy nữa! Rảy Nước thánh nữa!”

* Bà Đáng kính Mình Thánh Chúa thấy một sơ bạn đã qua đời thường hiện về xin rảy Nước thánh trên mộ mình để linh hồn được mát mẻ dưới Luyện ngục.

* Bà đáng kính Lindmayer đôi khi được Chúa nhắc cho rảy Nước thánh cho các người đã chết. Bà có thói quen rảy Nước thánh rồi mới đi ngủ. Một hôm bà vội vàng lên giường, quên rảy Nước thánh như thói quen thì nghe tiếng các linh hồn nài van, bà lập tức chỗi dậy rảy Nước thánh và không thấy tiếng kêu nài như trước (Charity 133).

Nếu các linh hồn Luyện ngục xin chúng ta một chút Nước phép để các ngài được mát mẻ, chúng ta đừng tiếc. Khi vào hay ra khỏi cửa nhà thờ đừng quên giơ tay chấm Nước phép làm dấu Thánh giá, giục lòng ăn năn tội, lãnh ân xá cầu cho các linh hồn.

Nhiều giáo dân đạo đức quen làm dấu Thánh giá bằng Nước phép trước khi ra khỏi nhà và khi trở về, khi rời khỏi phòng, trước khi đi ngủ, khi bị cám dỗ. Cha Mẹ nên dạy con cái năng dùng Nước phép để chúng được ơn phù hộ hồn xác và cứu giúp các linh hồn Luyện ngục.