8. Đời Sống Tâm Linh

Hạnh Phúc – Chương 1 - NIỀM VUI

Niềm vui là kinh nghiệm thú vị về một điều tốt lành đã gặt hái được và hiện nay đang hưởng nếm, hoặc niềm vui là viễn tượng về một điều tốt mà người ta có đủ hy vọng đạt được. Có cả niềm vui tự nhiên lẫn thiêng liêng. Niềm vui tự nhiên bao gồm niềm vui thiêng liêng gia tăng và được ban cho một nền tảng bền vững hơn. Chẳng có niềm hạnh phúc trần thế nào trường tồn và tròn đủ nếu nó không được kết hợp với một lương tâm tốt lành.

Niềm vui thiêng liêng ngự trị nơi một tâm hồn lúc nào cũng bình thản ngay giữa những đổi thay của cuộc sống tựa như sự bình thản của ngọn núi khi có cơn bão tạt qua. Một người chưa bao giờ gắn chặt linh hồn vào Thiên Chúa thì mọi trắc trở của y đều bị phóng đại thêm lên. Người ấy không thể dùng toàn lực chế ngự bất cứ một sự gì vì đã bối rối âu lo về quá nhiều sự.

Niềm vui không đồng nghĩa với sự xem nhẹ. Xem nhẹ là một hành vi còn niềm vui là một tập quán. Sự cười đùa ví như sao băng, còn sự vui vẻ ví như sao sáng, sự cười đùa giống những cọng gai nổ tách tách còn niềm vui tựa ngọn lửa bùng. Niềm vui bền bỉ hơn, nó khiến cho các hành động khó khăn trở nên dễ dàng hơn. Sau một ngày dài bước đều, đám lính hầu như sẽ không bước được gọn gàng nếu như không bước theo tiếng nhạc. Một trái tim vui vẻ thì luôn luôn tìm được sự hài hước dễ dàng và làm cho gánh nặng trở thành nhẹ.

Chắc chắn chẳng một cô y tá nào nhiệt tình giúp đỡ các bệnh nhân nơi phòng bệnh nếu cô ta không có tinh thần vui vẻ. Mỗi vị y tá thực sự phải có được hai điều này trước khi bước vào phòng bệnh nhân: đó là vết thương đau và ý thức hài hước. Vết thương đau để cô ta có thể biết được giá trị của sự đau đớn; ý thức hài hước để cô biết cách toả lan niềm hạnh phúc. Không nhất thiết đây là vết đau thể lý nhưng ít nhất nó cũng mang tính cách tượng trưng với ý nghĩa là cô rất trân trọng những nỗi đớn đau của kẻ khác. Không gì làm cho cơn bệnh kéo dài thêm cho bằng một khuôn mặt dài thườn thượt.

Niềm vui quan hệ đến sự âu yếm hơn là đến lý trí. Đối với một người đàn ông có gia đình thì vợ và con ông ta sẽ đem lại niềm vui thích cho ông ta nhiều hơn so với những gì trí não ông ta có thể đem lại. Đứng trước chiếc nôi, một người cha xem ra như trực tiếp đối diện với các thuộc tính của Hữu thể trường tồn, Đấng đã tuôn tràn sự Dịu Dàng và Tình yêu của Ngài cho đứa bé. Khả năng hoan hỷ luôn luôn là bản trắc nghiệm vô tư nhất về tình trạng luân lý của một người. không người nào có thể toả lộ hạnh phúc ra bên ngoài nếu như bên trong người ấy không hạnh phúc. Nếu ý thức tội lỗi đang đè nặng trên tâm hồn thì hàng đống lạc thú bên ngoài cũng chẳng thể bù đắp cho sự mất mát niềm vui nội tâm. Sự phiền muộn phò tá cho tội lỗi thế nào thì niềm vui là bè bạn với sự thánh thiện y như thế.

Người ta có thể cảm nhận được niềm vui cả trong lúc thịnh cũng như lúc nghịch. Trong lúc thịnh vượng niềm vui không hệ tại những của cải chúng ta vui hưởng mà hệ tại những gì chúng ta hy vọng, không hệ tại những lạc thú chúng ta cảm nghiệm mà hệ tại lời hứa về những lạc thú mà chúng ta tin vào dù chẳng trông thấy. Của cải có thể dẫy đầy nhưng những thứ mà chúng ta hy vọng thì thuộc loại mối mọt không ăn, rỉ sét không huỷ, trộm cắp không đột nhập lấy đi được. Và ngay cả trong nghịch cảnh chúng ta vẫn có thể vui vẻ vì chúng ta tin chắc rằng chính Vị Thầy Thần Linh của chúng ta đã qua cái chết trên thập giá để đi đến cuộc phục sinh của Ngài.

Nếu ngày hôm nay ít thấy có niềm vui là bởi vì nhiều tâm hồn nhút nhát không dám can đảm quên đi chính mình để hy sinh cho láng giềng của họ, hoặc là vì có những thiện chí muốn làm cho thế giới tương lai sáng sủa hơn lại bị xem là phù phiếm. Niềm thôi thúc tin vào Chúa cũng như vào sự cứu rỗi của linh hồn đã bị xoá nhoà khỏi cuộc sống, vì thế niềm vui bị tan biến và người ta lại trở về với nỗi tuyệt vọng của đám dân ngoại. Dân Hy Lạp và La Mã xưa kia luôn luôn bị ám ảnh có bóng ma đi theo họ, giống như bộ xương người luôn dõi theo bước chân họ. Nên không ngạc nhiên khi vào một ngày nọ, một gã Roma không còn lý do gì để sống, để hy vọng, đã bước vào phòng tắm, cắt đứt mạch máu rồi lặng lẽ êm đềm để máu tuôn ra cho đến chết.

Một thi sĩ Hy Lạp nổi tiếng từng nói về cuộc sống: “Tốt hơn đừng nên sinh ra, và điều tốt nhất tiếp theo là rời bỏ cuộc sống càng sớm càng tốt”. Tất cả điều này quả là hoàn toàn đối nghịch với điều thánh Phaolô từng nói: “Hãy luôn luôn vui lên trong Chúa, tôi nói lại lần nữa: Hãy vui lên”.

Gm. Fulton Sheen

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 11: “Ông ấy nói với em không được ở trong nhà ông ấy nữa”

Đứa trẻ nói:

“Đêm nào ông ấy cũng bắt em phải ngủ ngoài xe hơi, để ở bên ngoài.

“Cho dù trời lạnh đến mấy, thời tiết xấu đến mấy, ông ấy cũng bắt em phải ngủ ngoài xe hơi.

“Ông ấy bảo em không đáng ở trong nhà ông ấy nữa.”

Đứa trẻ nhìn tôi một lúc để cho những lời của nó thấm xuống, rồi nhắm mắt lại, và lắc đầu. Sau đó, nó đến đứng trước mặt tôi, thỉnh thoảng mở miệng như muốn nói một điều gì đó, nhưng sau đó lại thở dài và lắc đầu mạnh hơn nữa. Nó là một đứa trẻ gặp khó khăn ngay cả trong việc tin vào những lời chính mình đang nói….

Tôi hỏi:

“Soeur không hiểu… Ai bắt em đêm nào cũng phải ngủ ởû bên ngoài?”

Thằng bé trẻ lời:

“Cha dượng của em.

“Ông ấy nói trong nhà chỉ đủ chỗ cho hai đứa trẻ… hai đứa con của ông ấy mà thôi. Ông ấy nói em không được phép sống trong nhà ông ấy nữa. Ông ấy bảo em là đồ cặn bã.”

Tôi lại hỏi:

“Sao cha dượng của em lại giận dữ như thế với em?”

Mitchell lại mở miệng định nói, nhưng rồi lập tức không nói nữa. Thái độ, gương mặt và điệu bộ của nó thay đổi liên tục trước mặt tôi – một đứa trẻ thay đổi từ một người bị xúc phạm và tủi hận thành một người bỗng nhiên cảm thấy bất an, yếu đuối và xấu hổ.

Mitchell cắn môi đến gần chục lần, và sau cùng, nó nhìn nghiêng qua chỗ khác và bắt đầu nói. Những lời của nó rất nhỏ nhẹ, tôi phải tập trung lắm mới nghe được.

Mitchell nói:

“Soeur biết đó, một đêm kia, em đã thổ lộ với mẹ em, em nói hình như em hơi khác người ta…

“Em nói với mẹ em rằng em nghĩ mình là một người đồng tính…

“Thế rồi ngay khi nghe biết điều đó, cha dượng của em nói rằng em không được phép ngủ trong nhà ông ấy nữa.”

Lúc ấy, Mitchell mở mắt ra để ướm chừng phản ứng của tôi và rồi nhắm lại. Một giọt nước mắt lặng lẽ trào ra từ khóe mắt, rồi chảy xuống má của nó.

Tôi hỏi:

“Thế mẹ em thì sao? Bà ấy có cố gắng làm cho cha dượng của em thay đổi ý kiến hay không?”

Mitchell đáp:

“Dạ có. Mẹ em muốn bênh vực em, nhưng mỗi lần mẹ em cố gắng như vậy, cha dượng của em lại đánh đập bà ấy…

“Soeur ơi, thật khổ lắm. Khổ lắm. Khổ lắm.”

Giọng nói của Mitchell càng lúc càng nhỏ dần, hầu như chỉ còn tiếng sụt xịt.

Tôi nói:

“Soeur rất buồn vì ông ấy đã cư xử như vậy.

“Quả thật, bị đối xử như thế là một điều rất đau lòng.

“Mitchell à, em là một đứa trẻ tuyệt vời. Nhẽ ra em không đáng phải chịu đối xử như thế.”

Mitchell vẫn nhắm nghiền đôi mắt, trong khi một giọt nước mắt nữa ứa ra, trào xuống, chảy trên khuôn mặt của em.

Mitchell quá nghẹn ngào nên không nói thêm lời nào nữa.

Mitchell lắc đầu nhè nhẹ, dường như muốn nói rằng:

“Ước gì Soeur nói thật lòng như vậy.”

Một số đứa trẻ nhắm mắt lại vì muốn quên hết mọi người, để đi đến một cõi riêng của chúng. Một số khác nhắm mắt lại vì không an tâm, chúng yên chí về tình trạng bất xứng của mình, đến độ sợ không dám nhìn thẳng vào mắt bạn… mặc dù chúng rất cần một người để cảm thông.

Cái nhìn thứ hai là cái nhìn tôi vẫn thường nhìn thấy ở nơi những đứa trẻ như Mitchell – những đứa trẻ bị người ta coi là xấu xa, là bất xứng, là không đáng được yêu thương tự bản chất chỉ vì chúng là người đồng tính.

Thật oái oăm, chính những đứa trẻ như thế mới là những đứa trẻ cần được một ai đó nhìn vào đôi mắt của chúng và cảm thông với chúng hơn hết….

Tôi nói:

“Soeur rất vui mừng vì em đã tìm được chúng tôi, Mitchell à.

“Thế làm sao em lại đến đây được?”

Như tôi đoán trước, câu trả lời sẽ đến hầu như lập tức, Mitchell khao khát được có một người biết lắng nghe.

Em nói:

“Cuối cùng, em không thể chịu được nữa. Vì thế, em đành phải bỏ đi. Em lang thang ngoài đường phố để không còn bị ngược đãi nữa.

“Tuy nhiên, em không biết phải đi đâu. Em chỉ biết mình phải đi đến một nơi nào khác.

“Hoặc là như vậy, hoặc là tự tử mà thôi.”

Từ ánh mắt của Mitchell, tôi biết nó không hề phóng đại. Tỉ lệ tự tử nơi những đứa trẻ đồng tính khá cao, cao hơn rất nhiều so với mức bình thường. Các bạn thử tưởng tượng xem những đứa trẻ như thế nếu phải sống thì sống thế nào? Chúng bị ngược đãi và hà hiếp, bị người ta cho là xấu xa, không đáng được yêu thương. Nếu như các bạn cũng bị người ta nói như thế, nhất là từ phía các bậc phụ huynh là những người đáng lẽ ra phải yêu thương các bạn, thì các bạn sẽ sống làm sao? Các bạn tiếp tục sống nữa được không? Các bạn sẽ đi đâu?

Những đứa trẻ như thế thường sa vào những điều không thể tưởng tượng được.

Đó thật là một thảm trạng thương tâm làm tan nát lòng tôi….

Tôi nói:

“Soeur rất vui mừng vì em đã không tự hại bản thân em.

“Em có rất nhiều điều tốt để cống hiến cho thế giới này.”

Mitchell vẫn nhắm mắt và nói:

“Cảm ơn, Soeur.

“Em cần được nghe những lời như thế.”

Tôi cho rằng vì quá nghẹn ngào nên Mitchell không thể nói thêm được gì nữa.

Tôi hỏi tiếp:

“Vậy sau đó thì sao?”

Mitchell đáp:

“Em quá giang xe người ta vượt hơn một ngàn dặm đường cho đến khi đến được nơi đây. Thật là khủng khiếp.”

Mitchell vừa nói, vừa gắng nhoẻn một nụ cười, nhưng không sao mở miệng để cười nổi.

Nó chậm rãi kể tiếp:

“Em không có tiền. Em chẳng quen biết một ai. Em không biết gì cả, chẳng biết đi đâu cả…. Vì thế, em cứ vất vưởng trên các đường phố suốt một tuần lễ, ngủ qua đêm trên các hẻm phố, và gặp được gì thì ăn nấy…”

Nói đến đó, Mitchell mở mắt ra, nhìn tôi, và tiếp tục nói:

“Thế rồi, có người nói cho em biết về Soeur.”

Ánh mắt của Mitchell rất ngây thơ và dễ thương, dễ thương đến mức làm tôi đến kinh ngạc. Đôi mắt ấy như gào lên trong tuyệt vọng:

“Xin làm ơn giúp tôi, tôi chỉ là một đứa trẻ, tôi không muốn làm hại ai, tôi chỉ muốn được một cơ hội, tôi nghĩ mình đáng được có một cơ may, có ai chịu lắng nghe tôi hay không?”

Mitchell nhìn tôi và nói:

“Cảm ơn Soeur đã lắng nghe em nói.” (Sau cùng, đứa trẻ đã cảm thấy dễ chịu phần nào).

Rồi nói tiếp:

“Em xin được ở lại đây một thời gian, nếu không có gì trở ngại.”

Tôi đáp:

“Soeur cũng thích như vậy. Bao lâu em thích thì em cứ ở lại đây.”

Denise, một người cố vấn tài năng và kinh nghiệm nhất của chúng tôi, nắm tay và dắt Mitchell đi đến chiếc bàn phía trước. Tôi biết em ấy cần được giúp đỡ trong một thời gian lâu dài.

Tôi thầm thĩ trong lòng:

“Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa vì Chúa đã giúp cho đứa trẻ ấy tìm được chúng con. Con xin cảm tạ Chúa.”

Chú thích: Tôi biết một số người có thể khó chịu về đề tài bức thư của tôi trong tháng này. Nhưng tôi biết chắc chắn các bạn cũng sẽ yêu thương Mitchell nếu như các bạn gặp được em ấy. Tôi có ý nói rằng, tôi nhìn thấy nơi Mitchell mọi điều tôi vẫn gặp thấy nơi mọi đứa trẻ khác. Tôi không nhìn một đứa trẻ để xem nó cao hay thấp, mập hay gầy, đen hay trắng, nam hay nữ, đồng tính hay bình thường. Tôi nhìn đó là một kỳ công được Thiên Chúa tạo dựng, một con người đã đến với chúng tôi vì đã bị khước từ những điều căn bản mà mọi đứa trẻ đều được hưởng; tôi biết đứa trẻ ấy xứng đáng, tốt lành, vô giá, và được yêu thương.

Chúng tôi có 1.400 đứa trẻ tại các tổ ấm của hế thống Nhà Giao Ước của chúng tôi đêm nay – đủ mọi vóc dáng và hình dạng, có em mới 10 tuổi, vô cùng cần đến một người như các bạn để chăm sóc và hướng dẫn.

Tôi đang cầu nguyện để lúc này các bạn có thể đưa tay giúp đỡ. Xin làm ơn? Nhu cầu tháng này hết sức cấp thiết!

Xin cảm ơn các bạn và xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn!

Lạy Chúa Giêsu yêu quí của con,

Con đau đớn quá. Viết ra tất cả thì có lẽ sẽ kín cả quyển sổ này. Chúa biết những khó khăn của con, Chúa biết những vấn đề của con, và Chúa biết những giải đáp cho con. Xin Chúa thương giúp con. Xin Chúa ban cho con sức mạnh và những gì con cần thiết để được hạnh phúc. Xin Chúa thương và chăm sóc cho những chú mèo của con, tất cả những người đói khát và những thụ tạo trên trần gian này.

Lời kinh do một đứa trẻ viết
tại nguyện đường Nhà Giao Ước

Sr. Mary Rose McGeady

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ – 18. Triều Thiên Ta

Tính loài người quen ỷ lại, cái gì mượn hoặc sai người khác làm được, là ta không muốn làm. Có những hạng người chỉ quen miệng sai khiến, không khi nào, hoặc rất ít khi, họ chịu bắt tay vào công việc gì; từ những việc to tát, đến những việc nhỏ mọn… nhất nhất cái gì cũng sai hoặc mượn người khác làm thay.

Nhưng việc gì thì việc, chứ đến việc “ăn thay” thì quả là không ai mượn được: có đời nào Bạn ăn thay cho tôi mà tôi lại no được?

Trên đường thiêng liêng cũng có những thứ không ai làm thay được. Thứ ấy là thứ gì? Thứ ấy là Triều thiên của mỗi người. Mỗi người có triều thiên của mình, chính mình phải kết lấy, không thể cậy người khác kết thay. Triều thiên ấy quý hay không, đẹp nhiều hay đẹp ít, có đầy hạt trai đá ngọc hay không, có sáng chói ngần nào, là tùy ta có biết tô điểm cho nó hay không.

Nhưng mua đâu được những thức tô điểm triều thiên của mình? Bạn phải sắm cho thật nhiều vàng, vì có vàng thì Bạn sẽ mua được các thứ hạt trai, đá ngọc ấy. Vàng ấy là gì?

Truyện thần thoại có kể: Bà tiên nọ có một cái gậy, hễ chọc cái gậy ấy vào vật gì, thì vật ấy tức khắc biến ra vàng. Chắc Bạn ước được cái gậy ấy.

Nhưng Bạn chớ quên, cái gậy ấy có thể làm hại cho Bạn, vì nó có thể làm cho cơm Bạn ăn hóa vàng, nước Bạn uống hóa vàng… thì Bạn chết mất.

Về đàng thiêng liêng, ta không cần nhờ đến gậy của bà tiên, ta có một thứ gậy làm cho tất cả việc ta làm, hóa thành vàng. Gậy ấy là lòng mến. Vậy Bạn muốn có thật nhiều vàng để sắm triều thiên, thì Bạn hãy chịu khó vì lòng mến.

Vậy cũng như vàng vật chất ở đời không phải tự nhiên người ta có, nhưng người ta phải sắm nó, và phải vất vả chịu khó mới sắm được. Vàng mến cũng vậy. Phải cố công chịu khó mới sắm được, và mỗi người phải tự sắm lấy cho mình, chứ không ai sắm thay được cho ai. Đấy là chỗ khác với vàng vật chất, vì thứ vàng này còn có thể sắm thay người khác. Cũng vì thế vàng Mến khó sắm hơn, và Chúa bắt như vậy.

Bạn phải lấy gì mà sắm, mà mua vàng Mến ấy? Bạn phải sắm. Nghĩa là phải mua nhất là bằng sự đau khổ. Chúa muốn cho ta sắm vàng ấy, thì Chúa cũng đã chịu khổ trước. Đến lượt ta, ta muốn sắm cho ta, thì ta cũng phải làm cho Chúa, nghĩa là chịu đau khổ. Phi đau khổ, chúng ta khó sắm được triều thiên chúng ta.

Bạn thân ái, Bạn muốn sắm triều thiên ấy không? Hẳn là có, Bạn có muốn cho triều thiên Bạn được sáng láng chói lòa, được xinh đẹp mỹ miều không? Hẳn là có. Vậy thì Bạn hãy dùng sự đau khổ mà mua cho nhiều vàng, vàng ấy sẽ giúp Bạn sắm những hạt trai, những đá ngọc, một mai sẽ giát vào triều thiên Bạn. Mỗi ngày, mỗi việc, mỗi sự hy sinh nhỏ mọn, phải là một viên ngọc giát vào triều thiên ấy.

Tôi muốn nói, Bạn không được để qua ngày nào mà không chịu hết các sự khó, để triều thiên Bạn được nhiều hạt ngọc, nghĩa là được thêm vinh quang, hạnh phúc trước mặt Chúa. Tôi lấy một ví dụ. Một cậu học trò làm một bài toán. Một bài toán có biết bao con số phải viết. Có bài dài đến một trang giấy, hoặc hơn nữa. Nhưng cậu học trò không nản lòng. Cậu không nói: Thôi, nhiều con số thế này, thì bỏ bớt ra cho tiện. Cậu biết bỏ đi không được, vì mỗi con số đều quan hệ đến cả bài toán. Bỏ một con số, là có thể làm tổn hại đến cả bài, càng bỏ nhiều càng hỏng.

Đời ta cũng vậy. Mỗi ngày là một phần bài toán Chúa đã ra cho ta làm. Câu trả lời đúng, tức là điều kiện để được triều thiên Chúa đã hứa thưởng ta. Những con số tỉ mỉ chi chít làm đi làm lại trong bài toán tức là những sự khó chúng ta chịu hàng ngày. Nếu mọi con số đều quan hệ đến cả bài, nhất là đến câu trả lời, thì mỗi sự khó chúng ta chịu, cũng quan hệ đến cả đời ta, nhất là đến triều thiên Chúa bắt ta kết sau này. Bỏ một sự khó không chịu cho nên, tức là bỏ mất con số trong bài toán. Ta bỏ nhiều sự khó, tức là bỏ nhiều con số, tức là làm hỏng triều thiên ta. Mà hỏng triều thiên ấy ta mong gì khác nữa?

Đã đành, đó chỉ là một ví dụ, để so sánh, nhưng nó cũng không xa sự thực bao nhiêu.

Vậy Bạn thân mến, xin Bạn chịu khó làm xong bài toán Chúa đã ra cho Bạn. Bạn hãy kiên tâm, hãy nhẫn nại, viết cho hết các con số trong bài toán ấy và cặn kẽ làm cho đến cùng, vì nếu Bạn sơ suất bỏ quên, hoặc viết sai một con số, tức là bài toán của Bạn có thể đi đến chỗ hư hỏng. Sáng ngày dậy, Bạn hãy bảo mình: “Hôm nay tôi phải lo làm bài toán của tôi cho tử tế. Mỗi sự khó tôi chịu, là một hạt ngọc giát vào triều thiên của tôi, cũng như mỗi con số là một điều kiện cần thiết để tôi làm xong bài toán của tôi”

“Lạy Chúa, con xin nhất định làm xong bài toán của con, dù phải bóp trí nặn óc, con cũng vui lòng, miễn đến cuối ngày, nhất là đến cuối đời, con nộp bài cho Chúa, và sẽ được Chúa phê cho ba chữ: Tối ưu hạng.”

Trước khi kết luận bài này, tôi xin kể Bạn nghe vài câu truyện.

Có lẽ Bạn muốn thấy một điềm lạ, như thày ẩn tu nước Đan Mạch đã được. Thày ấy bị đau đớn quá sức, và bị đã lâu ngày. Để thêm sức mạnh cho Thày, Chúa cho Thày thấy nhiều thiên thần trên thiên đàng đang mải miết chạm một triều thiên bằng vàng và triều thiên ấy sắp xong. Bệnh nhân hỏi: “Triều thiên của ai thế?” Có tiếng đáp: “Triều thiên của con đấy! – Khi nào xong?- Khi nào con chịu khó đã đủ”. – Thầy hiểu bài học ấy, và để triều thiên của mình được hoàn thành, Thày đã nhẫn nại chịu khó đến chết.

Tôi xin hỏi Bạn: Bạn sẽ cảm tưởng thế nào với cảnh này. Sau khi Bạn tắt nghỉ, Chúa mở trước mắt Bạn sách Hằng sống và bảo Bạn: “Này con xem, hết các sự đau đớn con chịu đều đã được ghi chép bằng nét vàng. Nay là giờ lĩnh thưởng, con hãy đến chiếm ngai đã dọn sẵn thưởng con”. Bạn lên… và thoáng thấy một ngai lộng lẫy. Bạn hỏi: “Có phải tòa kia không, lạy Chúa? – Chưa phải, con hãy lên cao hơn”. Bạn sẽ ngạc nhiên và hỏi: “Lạy Chúa, con đã làm gì cho đáng những sự vinh hiển ấy?”. Chúa đáp lại: “Là vì con đã đau khổ nhiều và đã biết chịu đau khổ”. Tôi xin hỏi lại: Đứng trước cảnh tượng ấy, Bạn nghĩ thế nào?

Và sau đây là vài truyện nữa, trước khi kết luận hẳn truyện này.

Hôm ấy là ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời. Một bà công tước nói với hai cô con gái: “Hai con hãy mặc những áo đẹp nhất, mang triều thiên vàng, chúng ta sẽ cùng nhau đi lễ tại Nhà Thờ Đức Bà”. Hai cô công chúa trang điểm như mẹ bảo. Vào nhà thờ, họ quỳ trước một tượng Chuộc tội. Nhìn thấy Chúa chịu treo mình đầy những thương tích và hấp hối, cô em liền hạ triều thiên trên đầu xuống với tất cả các thứ nữ trang, rồi xuống quỳ trên nền gạch. Bà Mẹ thấy thế, tỏ vẻ không bằng lòng. Cô con liền nói: “Mẹ xem kìa, trước mặt con là Chúa Giêsu hiền lành nhân hậu, đầu đội mũ gai nhọn sắc, thân người trần trụi đầy những máu. Còn con, con chỉ là một loài thụ sinh hèn hạ, không lẽ con dám ở trước mặt Người, đầu đội triều thiên vàng và đầy những hạt trai… Làm thế, tức là con làm sỉ nhục Người”.  Nói rồi cô khóc lóc thảm thiết và tình yêu tự Trái Tim Chúa đã bắn ra đâm thủng tim cô. Cô bé lớn dần… cô đã vui lòng từ bỏ triều thiên vàng, để nhận lấy triều thiên gai Chúa trao cho… về sau, cô đã biến thành Bà thánh Elizabeth, Hoàng hậu nước Hung-Ga-Ri.

Phải, muốn được triều thiên bất diệt trên nơi hằng sống, từ đời này, ta cũng phải bắt chước Chúa, và các tôi trung của Người, ta hãy vui vẻ nhận lấy triều thiên gai, với tất cả các sự đau khổ trong cuộc đời ta.

Vua Carolô thứ năm nước Pháp, một hôm muốn thử hoàng tử, thì bảo đặt trên bàn triều thiên và vương trượng của Vua, còn trên bàn khác thì đặt một cái gươm. Vua cho gọi hoàng tử đến và bảo hoàng tử chọn. Vua ngạc nhiên biết mấy, khi thấy hoàng tử không nhìn gì đến triều thiên và vương trượng, lại chọn thuẫn và gươm. Vua hỏi? “Sao thế?”. Hoàng tủ đáp: “Nhờ cái này mà được cái kia, nhờ thuẫn và gươm, người ta chiếm được triều thiên và vương trượng.”

Chúa cũng xử với Bạn như thế, Chúa dọn sẵn triều thiên cho Bạn trên trời, nhưng khi Bạn còn sống, thì Bạn phải nhận lấy thuẫn và gươm mà chiến đấu. Ngày nào Bạn thắng trận, sau khi đã nhẫn nại chịu đau khổ, ngày ấy Bạn sẽ được lĩnh triều thiên. Gươm đau khổ chính là khí cụ để Bạn chiếm triều thiên hạnh phúc. Tô điểm triều thiên Bạn, đó phải là nguyện vọng tha thiết của đời Bạn, cũng như tô điểm triều thiên tôi, phải là nguyện vọng tha thiết của đời tôi. Chúng ta hãy giúp nhau bằng sự cầu nguyện và hy sinh, để triều thiên chúng ta được đúng với kích thước và khuôn mẫu Chúa đã chỉ cho mỗi người.

Chúc Bạn thành công.

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

Bao Dung

Câu chuyện người con hoang đàng trong Tin Mừng Luca (Lc. 15: 11-32) nói đến trở về. Mùa chay là mùa xám hối. Ði tìm một khoảnh hồi tâm, ta hãy đọc lại đoạn Tin Mừng.

Người con hoang đàng

Từ xưa tôi vẫn nghĩ rằng hãy trở về như người con hoang đàng. Ðứa con hoang đàng như một mẫu mực trở về. Khi thấy con về, người cha vui mừng quá làm tôi thấy sự trở về của người con như một hành động anh hùng. Ðã bao năm tháng qua, tôi vẫn được nhắc nhở rằng hãy lên đường anh hùng, dứt khoát như người con ấy.

Ðọc kỹ đoạn Tin Mừng, tôi thấy man mác đó đây một mầu tím buồn. Một giải mây tím buồn rất xa. Ở một điểm nào đó, tôi thấy sự trở về của người con có làm cho cha vui, nhưng tôi vẫn không ra khỏi giải mây tím lặng lẽ. Trong sự trở về của người con hoang đàng tôi thấy có điều không ổn. Rồi chiều nay, mùa chay lại trở lại. Tôi muốn đọc lại đoạn Tin Mừng, chậm rãi hơn, lặng lẽ hơn để đi tìm cái không ổn của mầu tím đó.

Sau khi người con ra đi, thánh Luca viết về quãng đời của nó như sau:

Khi nó tiêu sạch cả rồi, thì khắp miền đó, lại sẩy ra nạn đói kém khủng khiếp và nó bắt đầu lâm phải túng thiếu. Nó đi sống bám một người dân trong vùng ấy; và người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó ước gì có thể lấy rau heo ăn mà thốn cho đầy bụng, mà cũng chẳng ai bố thí cho nó. Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy! tôi sẽ về cùng cha tôi, tôi sẽ nói với người: “Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa, xin cha xử với con như một người làm công của cha thôi”.

Ðộng lực nào khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng cha tôi.” Như vậy động lực khiến nó trở về chỉ vì đói. Trước khi bị đói, không bao giờ thấy nó nhớ đến cha, không thấy xám hối vì bỏ cha đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về căn nhà cũ, nơi còn có cha chẳng biết già yếu ra sao, không thấy nuối tiếc vì phá tan cả sản nghiệp của cha. Sau khi bị đói nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái tự nhủ, băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha nó là nó trót phạm tội nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như một người làm công. Trong tự nhủ này có một ngập ngừng không đơn giản. Tại sao nó muốn được đối xử như một người làm công? Người làm công có dư bánh ăn! Có phải, bây giờ muốn có bánh thì chỉ cần xin được làm người làm công? Tôi không muốn khắt khe xét đoán sự trở về của nó. Nhưng vẫn có một u uẩn trong lối hành văn của thánh sử Luca. Ban đầu, vì đói nó mới về. Khi hồi tâm nó nghĩ đến miếng bánh của người làm công được ăn. Những ý tưởng này cho tôi nghĩ lời nói “trót phạm tội nghịch đến Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa”, mang một giá trị rất nhẹ của lòng xám hối.

Nếu nó được ăn rau của heo thì nó ngang hàng bằng heo. Nhưng trước mặt người ta, nó không được ăn rau của heo, nghĩa là nó không giá trị bằng heo. Cái hoang vu của mầu tím ở đây là nếu nó được ăn rau của heo thì liệu nó có trở về không? Cái dằn vặt của một mầu tím khó tìm được câu trả lời là tại sao phải đợi đến khi ngay cả rau cho heo cũng không có ăn lúc bấy giờ mới về. Ðó là cuộc lên đường về trọn vẹn sao? Ðấy là cuộc lên đường thúc đẩy từ lòng xám hối sao?

Mỗi mùa chay, nghĩ đến cuộc trở về trong Tin Mừng thánh Luca, tôi lại mơ ước một cuộc lên đường trọn vẹn. Tôi trở về trọn vẹn để xứng đáng lòng yêu thương của Chúa, hay chỉ có thể dựa vào lòng xót thương của Chúa mà tôi có thể trở về?

Thái độ của người cha

Khi nhớ thì mỗi chiều cách biệt là một quãng đời hoàng hôn xạm tím. Lần rở lại những trang đầu của câu chuyện. Ta thấy thánh sử Luca vẽ chân dung người cha bằng một sắc mầu rất đỗi chịu đựng.

Ngài còn nói: “Người kia có hai đứa con. Con thứ nói với cha: “Thưa cha, xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!” Vậy người cha đã phân chia của cải cho chúng nó. Không mấy ngày sau, đứa con thứ thâu góp tất cả của cải mà trẩy đi phương xa. Và ở đó nó sống trác táng phá tan cả sản nghiệp”.

Bắt đầu câu chuyện là đã thấy mầu tím u uẩn như những giây đàn han rỉ. Nó như những giọt mưa buồn của một từ giã nặng nề. Nó như những tiếng chuông trầm, cũng rất thong thả, rơi trong một chiều cô tịch, gõ vào lòng người cha, rất đìu hiu. Khi người con từ giã, đi xa rồi, lòng người cha ở lại nghe những tiếng chuông ấy vọng về: “Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!”

Tôi không thấy mầu tím buồn trong hồn người cha than vãn, nuối tiếc vì số sản nghiệp bị mang đi. Nhưng có một ray rứt không buông thả trái tim người cha già tội nghiệp. Cha mẹ chia của cải cho con cái khi biết mình sắp chết. Con cái chia nhau sản nghiệp khi bố mẹ đã qua đời. Tài sản của cha mẹ, nên chỉ khi cha mẹ gọi con cái đến chia, con cái mới được nhận, không khi nào con cái được quyền đến đòi cha mẹ phải chia cho mình. Nhưng ở đây, người con không đợi nổi đến ngày cha mình chết. Nó mong sao ngày đó chóng đến. Nhưng bao giờ? Thôi! cha cứ chia cho tôi trước đi, đợi cha chết lâu quá! Cha cứ chia đi rồi ngày nào cha chết tùy cha!

Người cha không nổi giận. Ðưa cho con gói bạc mà thực ra nó chẳng có quyền đòi. Người cha không tiếc gia nghiệp, nhưng tiếc một tình nghĩa đang mất. Tiếng nói của người con: “Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con” như những tiếng chuông báo tử của một linh hồn sắp lìa đời đang gõ xuống lòng người cha một sự thật đau đớn không thể chối từ. Người cha nhìn về chân trời để thấy hồn mình là một nỗi sầu tím. Người cha già giữ nỗi sầu tím ấy trong im lặng.

* * *

Lạy Chúa,
Bàn thờ đã giăng lên mầu tím của mùa chay. Ngày ngày dâng lễ con thấy mầu tím nhắc nhở con trở về. Con đã được dạy hãy lấy hình ảnh người con hoang đàng trở về làm mẫu mực. Ðọc lại câu chuyện, con thấy sự trở về của nó không phải là một mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về đến từ hồi tâm của tình yêu tha thiết.

Con thấy động lực thúc đẩy người con thứ trở về là miếng ăn. Một cuộc trở về man mác buồn. Nhưng, những tối một mình trong thinh lặng, rồi, những trang Lời Chúa nói với con bằng một ngôn ngữ rất sâu. Nếu cuộc trở về của nó mà trọn vẹn đến từ nước mắt thì câu chuyện thánh sử Luca trình bầy sẽ đẹp lắm, sẽ uy hùng lắm. Câu chuyện trở nên thiên anh hùng ca, nhưng sẽ là thách đố sợ hãi cho con.

Nhìn lại những cuộc lên đường về của con, con thấy cũng giống vậy. Con lên đường về cũng vì miếng ăn. “Khi tình yêu con còn mơ, tin yêu con dệt thơ thì tình Chúa hững hờ.” Con trở về khi cuộc đời dầm bập con. Nếu người cha chỉ hân hoan đón đứa con hoang đàng khi nó về với lòng xám hối ăn năn tận đáy lòng thì chắc Chúa ít có cơ hội đón con lắm. Con trở về vì con muốn thiên đàng. Con trở về vì con sợ hỏa ngục. Con trở về vì đời hắt hủi. Sự trở về của con vẫn đến từ nỗi sợ, từ sự thèm muốn, từ một cùng đường.

Cuộc trở về của đứa con hoang đàng trong Tin Mừng Luca không là mẫu mực lên đường về như một gương xám hối, mà con thấy là cuộc trở về dựa vào tình yêu của Chúa.

Làm sao định nghĩa được tình yêu. Người ta nói như thế. Người ta bảo không định nghĩa được tình yêu vì tình yêu phức tạp quá. Con không nghĩ vậy. Tình yêu khó hiểu không phải vì phức tạp mà vì nó quá sâu để hiểu. Khi tình yêu phức tạp là người ta đang đày đọa tình yêu mất rồi. Chỉ vì miếng ăn người con mới trở về mà cũng làm cho người cha quá đỗi vui mừng. Lòng xót thương của Chúa, con không hiểu được. Con không hiểu được chẳng phải tình yêu phức tạp mà vì tình yêu quá sâu.

Con không thấy người cha hỏi đến gia nghiệp nó mang đi. Con không thấy người cha thắc mắc bất cứ điều gì để làm cho tình yêu ra phức tạp. Con không thấy người cha hỏi lý do nào nó trở về. Con chỉ thấy người cha thương con của mình. Lạy Chúa, con chỉ trở về được vì dựa lòng thương xót quá bao dung của Chúa. Con sẽ chẳng bao giờ xám hối trọn vẹn được đâu, và như thế, bao giờ con về được nếu Chúa hỏi con bằng những câu hỏi phức tạp của một tình yêu phức tạp. Nhìn vào tình thương của Chúa con chỉ thấy một chiều sâu. Quá sâu. Dựa vào đó, lạy Chúa, con xin về.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Hạnh Phúc – Chương 1 - TÍNH VỊ KỶ

Là một người dối trá sống động, tính vị kỷ đặt mọi ham muốn nông nổi, mọi dục vọng và những ưa thích thuộc bản năng của chủ nhân nó lên trên lề luật luân lý, trên tình bằng hữu với tha nhân và trên cả ý muốn của chính Thiên Chúa. Kẻ ích kỷ được ví như quả lắc đòi quyền chống lại cái đồng hồ, hoặc như đám mây nổi loạn chống bầu trời, hoặc như là một cánh tay muốn phớt lờ toàn thân thể đang khi nó chỉ là một chi thể của thân thể ấy. Vì chỉ làm điều mà bản ngã ích kỷ đâm ra ghét tất cả mọi thứ hắn làm. Hắn giống như đứa bé than van trong một trường tiên tiến nọ: “Tôi có luôn luôn phải làm điều tôi muốn không?”

Chẳng chóng thì chầy tính bo bo cố chấp sẽ dẫn đến sự căm ghét chính bản ngã của mình. Một chú bé sau khi ăn tuốt hết mọi phần kem dành cho toàn thể gia đình, thì hẳn sẽ căm ghét mỗi lần nhìn thấy loại kem ấy: không chỉ mang tính cách thú vật, sự căm ghét “bị điều kiện hoá” đối với loại thức ăn này còn trở thành sự ghê tởm xét về mặt luân lý đối với chính bản thân sau khi đã phạm tội ham ăn hổ uống như thế. Lòng tự căm ghét mình như thế là hình phạt luân lý chúng ta phải trả cho tính háu ăn giống như sự chán ngấy món kem là hậu quả thể lý mang tính thú vật của chính sự vi phạm ấy.

Những người bị rơi vào tình trạng ngán ngẩm chính mình thì theo bản năng họ sẽ cảm thấy lồng ngực bị đá đè tựa như phải xua đuổi một điều xấu xa ra khỏi thâm cung linh hồn vậy. Người vô thần thường dễ rơi vào tình trạng nhờm tởm mình hơn người có tôn giáo: lý do là vì họ không nhận biết Lòng Xót Thương và Tình yêu của Chúa, Đấng sẽ chữa lành chúng ta khỏi nỗi tự nhờm tởm mình và rồi có lẽ họ sẽ đem nỗi tuyệt vọng về cho chính bản thân mình và cuối cùng đành phải tự sát. Tự huỷ mình là một phóng chiếu, một sự rập bóng mặt ngoài của bi kịch bên trong nơi đây cái ngõ nhỏ bé thách thức lại tất cả những gì cao cả hơn nó và rồi khổ đau vì các hậu quả của cuộc nổi loạn này, cái ngã ấy rơi vào nỗi căm ghét tàn nhẫn với chính sự sống của nó. Cả Phêrô lẫn Giuđa đều đã nổi loạn chống lại Sự Sống khi họ chối bỏ Chúa, cả hai đều đã được cảnh cáo trước về sự nổi loạn như thế, cả hai đều đã từng bị gọi là “quỷ sứ” bởi vì sự vi phạm của họ, và cả hai đều đã ân hận. Tuy nhiên Giuđa “đã ân hận đối với chính mình”, đã hướng cái tôi riêng của mình vào chính mình trong cơn hấp hối tuyệt vọng vô ích. Còn Phêrô thì biết ân hận đối với Chúa, biết giải phóng mình khỏi điều xấu xa nhờ vào lòng khiêm tốn và rồi ngài đã tìm lại được niềm vui.

Chỉ khi nào biết khuất phục cái ngã trước một điều gì cao cả hơn nó mới có thể chữa lành được nỗi tuyệt vọng, bởi vì một sự khiêm tốn như thế sẽ làm cho tâm hồn thoát khỏi sự kiêu ngạo cũng như sự tự kết án mình đồng thời tạo nên khoảng trống cho ân sủng của Chân lý và Tình yêu của Chúa tuôn vào. “Ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên, kẻ nào tự nâng lên thì sẽ bị hạ xuống… tuy nhiên sự tự căm ghét mình lại là sự nâng cái ngã mình lên thành vị phán quan tối hậu đầy chua chát. Cho đến khi nào tấm biển đề “rao bán” được treo lên trên một tâm hồn đã giải thoát khỏi nỗi âu lo về bản ngã riêng mình thì vị KHÁCH THUÊ THẦN LINH mới có thể bước vào được.

Để trắc nghiệm về đức khiêm tốn thực sự là thái độ của chúng ta đối với lời tán tụng. Bất cứ ai yêu thích sự quảng cáo đều là người kiêu ngạo, vì người ấy tìm cách biện minh mình trước mặt kẻ khác, còn kẻ khiêm tốn thì qui mọi lời tán tụng về cho Chúa. Nếu người ấy có tài năng, thì người ấy cũng nhận biết rằng đó là do Chúa ban cho và chúng phải được dùng để phụng sự Chủ nhân đích thực của chúng. Kẻ khiêm tốn tự cho mình giống như cánh cửa sổ bằng lòng cho ánh sáng của Chúa dọi xuyên qua mà không hề dám nghĩ rằng mình chế tạo ra ánh sáng ấy. Người khiêm tốn chấp nhận cả lời khen lẫn lời trách móc như là quà Chúa tặng: cả nỗi cay đắng lẫn ngọt ngào đều được gởi đến do một Đấng duy nhất là Đấng yêu mến mình. Như Gióp đã nói: “Chúa ban cho, Chúa lại lấy đi, xin tán tạ Ngài”.

Còn người kiêu ngạo thì không thể quên chính mình, mặc dù người ấy ngờ vực và căm ghét sự nhỏ bé của mình: hắn nghĩ rằng hắn có thể che dấu sự thấp kém bằng cách luôn luôn tự khoe mình. Người khiêm tốn thì qui phục Chúa, và không hề tuyệt vọng vì người ấy biết rằng mình được yêu mến bởi Đấng tự thân là Tình yêu. Kẻ ích kỷ thì liên lỉ phàn nàn là kẻ khác không yêu mình đủ, hắn ta không nhận thấy rằng đây chính là hậu quả của việc hắn chỉ biết bo bo lo chú tâm đến cái ngã của riêng mình. Giống như mọi hình thức bất hạnh khác, nỗi cơ cực của hắn phát xuất do sự khăng khăng từ chối không chịu từ bỏ ý riêng của chính mình.

Những lúc chúng ta hạnh phúc nhất là những lúc chúng ta tự quên mình, để thường xuyên ân cần với một ai đó. Thời gian hiến mình ngắn ngủi ấy chính là một hành vi khiêm tốn đích thực vì ai biết đánh mất chính mình thì sẽ gặp lại chính mình kèm theo nỗi hạnh phúc của mình.

Tự căm ghét và tuyệt vọng là những căn bệnh mà chỉ những kẻ ích kỷ mới thường hay bị rơi vào. Muốn chữa lành chúng thì luôn luôn chỉ có một phương thế là đức khiêm tốn. Và điều đó có nghĩa là yêu mến Chúa nhiều hơn yêu chính mình.

Gm. Fulton Sheen