8. Đời Sống Tâm Linh

Niềm Tín Thác – Chương V: CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP GIÁ

I.  CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP GIÁ LÀ VUA KHÔN VÍ CỦA TÌNH THƯƠNG.

– NGÀI RẤT ĐÁNG MẾN YÊU TRONG VƯƠNG QUYỀN CỦA NGÀI. NGÀI LÀ TÌNH THƯƠNG VÔ CÙNG ĐÃ NHẬP THỂ.

– NGÀI ĐÃ CHẾT ĐỂ CHIẾM LẤY TRÁI TIM TÔI VÀ LÀM CHO TÔI NÊN THÁNH.

Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá là vua khôn ví của tình thương.

– Có một nguồn suối tràn đầy niềm tín thác, nhưng đáng tiếc thay! Lại bị nhiều linh hồn nhiệt thành quên lãng. Đó là nguồn suối chảy vọt ra từ tảng đá đồi Golgôta, dưới chân cây Thập giá Chúa Giêsu. Đó là một nguồn suối tràn lan, không khi nào vơi cạn, nhưng chỉ một số ít linh hồn được Chúa ưu ái biết tới mà thôi. Biết bao linh hồn ước ao nên trọn lành đã quên lãng nguồn suối này ! Trong những lúc khô khan và trong những đêm tối thiêng liêng, biết bao linh hồn đã quên đi đến Núi Sọ, để nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, và để uống nước mát mẻ và bổ dưỡng của nguồn suối tín thác này !

Trước hết chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu đang hấp hối trên thập giá, hãy nhìn ngắm lâu giờ, trong thinh lặng. Ước gì chúng ta có thể nhìn ngắm Chúa với cặp mắt đầy yêu mến nồng nàn của những tâm hồn say sưa yêu mến Chúa chịu đóng đinh, như Catarina Ricci, Catarina Emmerich, hoặc như một trinh nữ Sêraphim đang còn sống giữa chúng ta là Gemma Galgani ! Các trinh nữ này đã sững sờ vì tôn kính và yêu mến Chúa chịu đóng đinh, mỗi khi cảm thấy sắp được những thị kiến mà Chúa đã ban cho nhiều lần.

Hãy nhìn xem Chúa Giêsu chết treo trên thập giá vì tất cả chúng ta, và vì tôi nói riêng. Chúa xanh xao, mặt mũi và toàn thân đầy máu, đầu đội mão gai, Chúa đã chết vì yêu thương ta, vì yêu thương tôi. Không cần nhiều tưởng tượng cũng có thể thấy rõ ràng Chúa đã chịu đau đớn lắm : sự đau đớn của Chúa vượt xa bất cứ những đau đớn nào con người ta phải chịu xưa nay. Không cần phải phân tách từng đau khổ trên thân xác và trong tâm hồn của Chúa. Chỉ cần tôi nhìn ngắm Ngài trong thinh lặng, với một cái nhìn trìu mến, để dần dần tôi nhận ra sự thật này : Chúa Giêsu tôi yêu mến đã chịu đóng đinh vào cây thập giá, đã chết cách vô cùng đau đớn như thế vì yêu thương tôi. Có đúng thế không ? Có đúng là Chúa Giêsu, Chúa Cứu Thế của tôi, Thiên Chúa của tôi, đã chết vì một tạo vật bé nhỏ và thấp hèn như tôi ?

Khi tôi đã phần nào thấu hiểu đươc chân lý này, khi chân lý này đã xâm chiếm trái tim của tôi, tôi sẽ thấy Chúa Giêsu khác hẳn : Ôi ! Đó là Chúa Giêsu Vua của tình thương khôn ví.

Đúng thế, Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá là Vua tình thương, một tình thương khôn ví. So với tình thương của Ngài, tất cả mọi yêu thương của loài người đều là không. Những yêu thương thời danh nhất của nhân loại đều mờ nhạt trước tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cũng như ánh sáng của các ngôi sao mờ hẳn đi khi mặt trời xuất hiện. Tình yêu của những Oreste và Pylade là gì so với tình thương của Chúa Giêsu ? Tình thương của những người mẹ thương yêu con cái nhất là gì, nếu so với tình thương của Chúa Giêsu chết vì thương yêu ?

Tình thương của Chúa Giêsu chết trên thập giá là đỉnh cao của tình thương. Đó là tất cả những gì tốt đẹp nhất, bao la nhất và cảm động nhất trong lãnh vực tình thương. Trong số tất cả những tình thương từ khi có con người trong vườn địa đàng, cho đến ngày tận thế, không một tình thương nào có thể so sánh, dầu một phần nào thôi, với tình Chúa Giêsu thương ta, khi nhận cái chết vô cùng đau đớn trên thập giá.

Để hiểu điều đó, tôi cũng không cần phải suy nghĩ nhiều về sự Chúa Giêsu là Thiên Chúa của tôi, và tôi là tạo vật bé nhỏ và xấu xa của Ngài. Sự suy nghĩ này có thể chỉ cần để hiểu sâu xa hơn về tình thương của Chúa Giêsu đối với tôi. Nhưng chỉ đơn giản xét theo phương diện con người, coi Chúa Giêsu là một con người như chúng ta, tôi cũng thấy ngay việc Chúa Giêsu nhận cái chết trên thập giá để cứu tôi, cứu nhân loại, thì đó cũng là một tình thương khôn sánh. Tình thương của Chúa chịu đóng đinh trên thập giá vì tôi, và để chiếm lấy trái tim bé nhỏ và vô ân bạc nghĩa của tôi, thật là một tình thương không có tình thương nào sánh với được.

Chúa Giêsu rất đáng mến yêu trong vương quyền của Ngài.

– Chúa Giêsu thật vô cùng đáng mến yêu trong cách tỏ bày tình thương vô cùng đáng tôn thờ của Ngài như thế. Chưa bao giờ trong nhân loại đã có một cảnh tượng lạ lùng như tình thương của Chúa Giêsu, Vua tình thương. Chưa bao giờ lịch sử có thể kể cho ta biết tình thương của một người bạn, hoặc của một người mẹ cao vời như thế ! Thật không có gì sánh được với tình thương vô cùng cao vời của Chúa Giêsu chết vì yêu thương ta, và chết đau khổ vô cùng trên thập giá ! Đây thật là đỉnh cao của tình thương !

Bởi vậy nếu trái tim tôi rung động, nếu linh hồn tôi cảm thấy xúc động khi nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, nhất là nếu trong khi tôi chiêm ngưỡng Ngài, Ngài cho tôi cảm thấy một tàn lửa của tình thương thần linh của Ngài bốc cháy trong tâm hồn tôi, tôi sẽ để mình từ từ thấm lấy sự ngọt ngào này. Chưa bao giờ tôi thấy Chúa Giêsu tốt lành và vô cùng đáng mến yêu như hôm nay. Những máu me và những khạc nhổ làm biến dạng khuôn mặt Chí thánh của Ngài càng làm tôi yêu mến Ngài. Cặp mắt sưng vù và mờ đi dưới làn nước mắt của Ngài, cặp mắt đang nhìn tôi như van xin lòng mến yêu của tôi, đã làm trái tim tôi như tan vỡ. Những giọt máu nhuộm đỏ tóc và mặt mũi Ngài đã ánh lên như những viên ngọc qúi khiến tôi say mê. “Người yêu của tôi vừa trắng vừa hồng thắm. Tóc của đầu Ngài giống như áo gấm tía của quốc vương” (Dc 5,10). Mão gai trên đầu Ngài là vòng hoa chiến thắng của Vua tình thương. Và tôi sẽ kêu lên như người hiền thê trong sách Diễm ca : “Xin hãy nâng đỡ tôi bằng những cành hoa, vì tôi muốn ngất xỉu vì yêu mến” (Dc 2,5).

Tất nhiên tình thương vô cùng của Vua Giêsu vượt xa tất cả mọi yêu thương của loài tạo vật chúng ta. Đó là tình thương của Chúa Giêsu nhập thể và của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Đó là tình thương của một Thiên Chúa, một tình thương muôn thuở và vô cùng lớn lao đã được Chúa cho tôi cảm nghiệm thấy và ôm lấy trong lòng với một lòng mến yêu khôn tả. Khi mà tình thương vô cùng của Chúa Giêsu đã được tôi cảm nghiệm như thế, thì tất nhiên nó vượt xa tất cả mọi tình thương yêu khác.

Con người nào, vật thọ tạo nào dám so sánh tư tưởng của mình với tư tưởng của Đấng tạo thành trời đất ? Ai dám so sánh sự khôn ngoan bằng hạt bụi của mình với sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa? Những hệ mặt trời vô cùng nhỏ bé của các hạt nguyên tử cũng cao rao quyền năng của Thiên Chúa như những tinh tú của ngàn triệu thiên hà trong vũ trụ… Có lẽ nào Thiên Chúa lại chịu thua con người hoặc các thiên thần sốt mến về tình thương chăng ? Thật ra chúng ta thấy Chúa vượt xa vô cùng các tạo vật của Ngài về tình thương.

Hỡi con người khốn nạn ! Mi tưởng chỉ có mi biết yêu thương, nhưng mi nên biết tình thương của mi chỉ là một thứ ích kỷ xấu xa nếu so với tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá. Trời cao hơn đất bao nhiêu, tình thương của Đấng tạo thành vũ trụ cao hơn tình thương của vật thọ tạo bao nhiêu, thì tình thương của Thiên Chúa, thể hiện nơi tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, vô cùng vượt xa tình thương của loài người bấy nhiêu.

Lạy Chúa Giêsu rất mến thương, con yêu mến và tôn thờ Chúa là Vua tình thương, là Vua mọi chiến thắng! Sánh với tình thương của Chúa, mọi tình thương đều hư vô giả dối ! con sung sướng được chiêm ngưỡng Chúa cách dịu dàng… Tình thương của Chúa là hạnh phúc của các thánh trên trời, thì cũng làm con say mê : “Chúa đã chiếm trọn trái tim con bằng một cái nhìn của cặp mắt Ngài” (Dc 4,9).

Chúa đã chết để chiếm lấy trái tim tôi và làm cho tôi nên thánh.

– Từ ngai vàng vấy máu của Ngài là cây Thập giá, Chúa Giêsu giơ hai tay đầy những vết thương về phía tôi và nói với tôi : “Hỡi vật thọ tạo nhỏ bé của Ta, không bao giờ con có thể yêu mến Ta như Ta đã yêu thương con. Con hãy xem, Ta đã chết trên thập giá này để chiếm được trái tim của con. Ta khát khao được con yêu mến. Ta nóng lòng muốn chiếm được tình yêu trung thành, toàn vẹn và tuyệt đối của con”.

Đó là lý do mạnh mẽ để chúng ta tin tưởng và yêu mến. Tôi có hiểu được điều đó không ? Chúa Giêsu ở đó, trên thập giá, để chiếm lấy trái tim tôi. Ngài không chỉ chịu chết để chuộc tội cho tôi : để làm việc này, một lời của Ngài cũng qúa đủ rồi. Ngài ở đó để chinh phục lòng mến yêu của tôi, để xua đuổi khỏi trái tim tôi tất cả mọi quyến luyến nào khác, và để làm nảy sinh trong linh hồn tôi một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu quên mình, một tình yêu kết hợp. Ngài ở đó, trên thánh giá, để làm cho tôi nên thánh.

Ta khát ! Chúa kêu như thế với toàn thể nhân loại. Tiếng kêu khi gần tắt thở đó của Chúa đã vang dội qua các thế kỷ. Vâng, Ngài khát tình mến yêu, tình mến yêu của tất cả mọi người mà Ngài muốn cứu khỏi lửa hỏa ngục, nhưng nhất là lòng mến yêu nồng nàn của những linh hồn quảng đại muốn tận hiến cho Ngài. Ngài khát tình mến yêu của các linh mục, các tu sĩ, các nữ tu của Ngài. Ngài khát khao sự thánh thiện của họ.

Ôi ! Thật là ngọt ngào được nghe biết như thế, sau những lúc khô khan và những đêm tối đầy lo âu, khi tôi tưởng chỉ có tôi yêu mến, còn Chúa Giêsu thì có vẻ bỏ quên tôi, mà tôi thì than thở và héo hon đi tìm sự hiện diện của Ngài.

Chúa Giêsu khao khát kết hiệp với tôi, ở luôn bên cạnh tôi như một người bạn tình. Ngài nóng lòng muốn biến đổi tôi nên giống Ngài. Ngài muốn thấy tôi sống khiêm nhường, quên mình, yêu mến Ngài đến điên rồ, như sự điên rồ của thập tự giá. Ngài ước mong thấy tôi sống thánh thiện, và Ngài khát khao điều đó hơn chính tôi ước ao rất nhiều.

Khi tôi tưởng đang một mình yêu mến Ngài, khi tôi tưởng những sự bất trung và những sự khốn nạn của tôi đã làm Ngài xa lánh tôi và tôi qúa xấu xa không đáng Ngài yêu thương nữa, tôi đã sai lầm dường nào ! Chúa Giêsu đã chết vì yêu thương tôi, Ngài không bỏ qua một phút nào mà không lo cho tôi, không lo làm cho tôi nên thánh.

Vậy, hỡi linh hồn tôi, hãy ôm lấy Chúa Giêsu, Ngài đã chết trên thập giá vì yêu thương mi ! Hãy nói rằng mi yêu mến Ngài, và nhất là hãy an ủi Ngài vì trước đây mi đã làm phiền lòng Ngài vì những sai lỗi của mi. Mi đã thiếu tin tưởng và tín thác, mi đã nghi ngờ tình thương của Ngài, mi đã không nhận ra tình thương vô cùng dịu dàng của Ngài.

Hãy nhìn ngắm Ngài thêm một lúc nữa ! Hãy ở lại với Ngài, đừng rời bỏ Ngài trước khi cảm thấy nơi mi một niềm tín thác trọn vẹn.

Chúa Giêsu còn giang hai cánh tay đầy những vết thương về phía tôi và nói với tôi : “Cha là lòng Nhân hậu vô biên, là sự dịu dàng vô cùng, là tình thương vô cùng. Cha là đại dương bao la của đức ái thần linh. Những đợt sóng của đại dương này giống như cơn thủy triều trào dâng và tìm chỗ để đổ xuống. Cha là tình thương vô biên và chỉ có một niềm ước ao là được yêu mến. Cha chỉ có một niềm ước ao đang thiêu đốt Trái Tim Cha, là ban tình thương của Cha cho các linh hồn. Con là kẻ đang héo hon vì lòng yêu mến, con hãy đến đây với Cha, đến với đầy lòng tín thác. Tất cả những gì về lòng mến, con ước mong cho con, hoặc cho ai khác, con hãy xin Cha, hãy xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh của con ! Cha có dịp được ban phát tình thương như thế sẽ là niềm vui lớn lao đối với Cha. Con hãy tạo cho Cha niềm vui đó đi ! Con hãy xin và hãy tin chắc sẽ được Cha ban cho. Thập giá là ngai tòa nơi Cha ban phát tình thương cách rộng rãi. Con hãy xin, hãy xin thật nhiều, đừng sợ xin nhiều qúa. Con càng ước ao yêu mến Cha hết lòng, con sẽ càng làm đẹp lòng Cha.

II.  CHÚA GIÊSU ĐÃ CHẾT NHẤT LÀ VÌ YÊU MẾN CHA NGÀI. THEO PHƯƠNG DIỆN NÀY, NGÀI ĐÁNG MẾN VÔ CÙNG VÀ LÀ NGUỒN SUỐI MỘT NIỀM VUI TINH TUYỀN

– NGÀI CŨNG CHẾT ĐỂ CHIẾM LẤY TRÁI TIM VÀ ĐỜI SỐNG CHÚNG TA, VÀ NHÂN LÊN TỚI VÔ CÙNG TÌNH YÊU CỦA NGÀI ĐỐI VỚI CHA NGÀI. LẼ NÀO TA KHÔNG CẬY TRÔNG.

Chúa Giêsu đã chết nhất là vì yêu mến Cha Ngài.

– Cho tới lúc này, chúng ta mới chỉ xét đến một phương diện, một mặt của tình yêu mến của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Nhưng còn một phương diện khác tốt đẹp hơn, đáng mến hơn đối với một linh hồn chân thành mến yêu Ngài. Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì tôi, nhưng cũng vì và nhất là vì yêu mến Cha Ngài. Đó là khía cạnh đáng mến yêu nhất của tình yêu Chúa Giêsu. Và đó cũng là điều bị người ta quên lãng nhiều nhất. Linh đạo của chúng ta qúa vị kỷ, qúa nghĩ về bản thân mình. Yêu mến Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì thương yêu chúng ta, và phải yêu mến Ngài để đền đáp tình thương của Ngài. Đó là điều tốt lành. Nhưng một linh hồn quảng đại và thật lòng yêu mến Chúa Giêsu không thể dừng lại ở đó. Chúa đã chịu chết trên thập giá, chính là vì vâng ý Cha Ngài và để tỏ lòng yêu mến Cha Ngài. Cái chết vô cùng đau đớn của Ngài trên Núi Sọ là sự tỏ bày lòng mến yêu vô cùng mà Ngài vẫn có từ thuở đời đời, đối với Cha Ngài, trong sự sống nội tại của Chúa Ba Ngôi, và nay được tỏ bày cho chúng ta trong thời gian.

Ôi, nếu tôi yêu mến Chúa Giêsu bằng một lòng mến yêu vô vị lợi, một lòng mến yêu biết quên mình, thì hình ảnh Chúa Giêsu đội mão gai và chết trên thập giá vì yêu mến Cha Ngài sẽ trở nên vô cùng đáng kính mến và tôn thờ hơn.  Một hào quang sáng chói sẽ tỏa ra từ khuôn mặt vô cùng dịu hiền của Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ toàn thiêu, dâng lên Cha Ngài, là đỉnh tuyệt cao của tình yêu đối với Cha Ngài. Của lễ toàn thiêu này của tình yêu đã làm Chúa Cha vui sướng vô cùng, và đó cũng là niềm cảm mến tôn thờ muôn đời của các thiên thần Sêraphim và các thánh nam nữ trên trời.

Ôi ! Thập giá Chúa Giêsu là ánh sáng muôn đời, là đại dương của tình thương vô biên, trong đó mọi tội lỗi, mọi điều bất chính và mọi sự khốn nạn của loài người được biến tan, như giọt nước trên một lò than hồng. Đối với một linh hồn yêu mến Chúa, thì đó là niềm an ủi vô cùng : tình yêu Chúa Giêsu không những an ủi tôi về trăm ngàn sự khốn nạn của linh hồn tôi, khiến tôi thường phải than thở, mà còn an ủi tôi về những chuyện ích kỷ của những người xung quanh tôi, làm tôi buồn sầu.

Ôi, lạy Chúa chịu đóng đinh con tôn thờ ! Con đã tìm thấy nơi Chúa tình yêu tinh tuyền mà con đã tìm từ lâu. Tình mến yêu của Chúa đối với Cha Ngài vô cùng tốt đẹp, đáng kính phục và tôn thờ ! Con yêu mến Chúa và cảm tạ Chúa vì đã yêu mến Chúa Cha vô cùng như thế. Giả như Chúa không chịu chết vì con, để chuộc tội cho con, thì nguyên sự chiêm ngưỡng lòng mến yêu của Ngài đối với Cha Ngài, khi Ngài chết trên thập giá, cũng làm cho con cảm mến và yêu mến Ngài vô cùng. Vâng, lạy Chúa, con đã thấy nơi lòng mến yêu này của Chúa thứ tình mến yêu tuyệt đối mà chúng con không thấy ở đâu hết. Đây không còn là một tàn lửa, nhưng là một lò than lửa bừng bừng của tình yêu thương vô cùng. Lò lửa này, chúng con không thể thấy ở đâu hết, mà chỉ thấy nơi Trái Tim của Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chúa Giêsu đã chết để chiếm lấy trái tim và đời sống chúng ta.

– Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá để vâng ý và yêu mến Cha Ngài : Đó là tình mến yêu tinh tuyền và quên mình. Nhưng Ngài còn nói với tôi những lời dịu dàng, khiến tôi cảm động sâu xa như sau : “Con xem, Cha chịu đóng đinh và chết trên thập giá vì yêu mến Chúa Cha. Nhưng tình yêu của Cha sẽ không chết để nhân thừa tình mến yêu này lên nhiều vô cùng : Cha chết để chiếm lấy từng triệu trái tim. Cha hiến mạng sống để chiếm lấy muôn triệu mạng sống. Nếu hạt lúa không chết đi nó sẽ trơ một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Tình mến yêu của Cha sẽ nảy mầm và sinh ra vô vàn vô số những bông lúa cho đến tận thế.

“Đó là niềm ước ao nồng nàn của Cha, niềm vui của Cha và một trong những lý do khiến Cha chấp nhận cái chết trên thập giá. Cha chết để các linh hồn tận hiến cho Cha, để con dâng trái tim con cho Cha, và để từ nay trái tim con chỉ mang nặng một tình mến yêu, là mến yêu Cha hết lòng. Con hãy dâng trái tim con cho Cha, hãy mở nó ra đón lấy tình thương nồng nàn của Cha, để lửa tình thương của Trái Tim Cha thiêu đốt con và thiêu hủy tất cả tính tự ái và ích kỷ của con.

“Con hãy dâng trái tim cho Cha, hãy dâng đời sống của con cho Cha. Cha ước ao thực hiện lòng mến yêu của Cha đối với Chúa Cha ở nơi con, nhờ lòng mến yêu của con. Cha muốn có muôn triệu trái tim của chúng con để thực hiện lòng mến yêu bao la của Cha đối với Chúa Cha. Con hãy dâng hiến trái tim cho Cha, như thể không phải là con sống nữa, nhưng là Cha sống ở trong con. Con hãy nói như Phaolô : “Không phải tôi sống nữa, nhưng đó là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). Con hãy để Cha tự do hành động trong con. Con hãy để Cha tỏ bày lòng mến yêu Chúa Cha nơi con, bằng trăm ngàn cách, trăm ngàn nhân đức. Con hãy sống như không còn linh hồn, vì Cha là linh hồn con, là chủ thể của mọi tư tưởng và mọi hành vi của con. “Chúng ta là hương thơm của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa” (2 Cr 2,15). Cha muốn chiếm lấy tất cả con người của con, biến đổi con người của con, để nhờ con mà mến yêu Chúa Cha đến mức con trở thành như bánh thánh trên bàn thờ, chỉ còn hình bóng là một vật thọ tạo, nhưng bên trong là Cha, vì con đã được thần linh hóa trọn vẹn”.

Như vậy, sau cùng tôi đã có niềm tín thác trọn vẹn và không lay chuyển chưa ? Sau cùng tôi đã hiểu những ước ao và những dự tính của Chúa Giêsu chưa ? Tôi có hiểu rằng nếu tôi ước ao mến yêu Ngài và Cha Ngài cách nồng nàn đến điên rồ, thì Chúa Giêsu còn nóng lòng ước ao điều đó hơn tôi vạn vạn lần ? Những ước ao của Ngài vô cùng vượt xa những ước ao của tôi. Và xét cho cùng, nếu tôi ước ao quên mình đi, chết cho bản thân mình, yêu mến thập giá Chúa Giêsu và được biến thành Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, thì tất cả đều là những ước ao của Chúa Giêsu ở trong tôi. Chính Ngài đã khơi dậy những khát vọng này ở trong tôi, và chính Ngài sống những khát vọng này ở trong tôi. Và chắc chắn Ngài không linh hứng cho tôi những ước vọng tốt lành này, nếu Ngài không muốn thực hiện chúng. Những ước vọng này là thứ tiền đặt cọc Ngài ban cho tôi trước, để loan báo những ân sủng đặc biệt Ngài muốn ban cho tôi. Những ước ao của tôi càng nồng nàn, tôi càng có thể tin chắc Ngài sẽ ban các ân sủng này cho tôi một ngày nào đó.

Khi nào ? Bằng cách nào ? Qua những con đường nào ? Và sẽ qua những đêm tối nào ? Đó là điều bí mật của Thánh Tâm Chúa. Tôi chỉ chắc một điều : Tôi sẽ đi tới chỗ làm vui lòng Ngài cách trọn vẹn, làm vui lòng Ngài như các thánh đã làm Ngài vui sướng. Ngoài ra, mọi sự có quan trọng gì đâu ! Điều chắc chắn là tôi sẽ đạt tới thành qủa cuối cùng, sẽ đi tới chỗ được hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu tôi yêu mến. Nếu tôi giữ vững thiện chí, nhất là nếu tôi không chút tin cậy nơi mình, nhưng trọn vẹn tín thác nơi Chúa Giêsu, tôi chắc chắn sẽ có ngày thực hiện được lý tưởng của tôi, là thấy Chúa Giêsu sống viên mãn ở trong tôi.

Paul De Jaegher S.J.

 

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 25. Hai Đời

Chúa tạo thành chúng ta đã thương cho một ơn đặc biệt, là cho chúng ta có hai đời. Một đời mau qua, và một đời bất diệt. Mỗi đời Chúa muốn chúng ta dùng một cách. Hai đời ấy, là đời này và đời sau. Đời này Chúa muốn chúng ta dùng để chịu khó, chịu khó cho nên, cho nhẫn nại, đời sau Chúa muốn chúng ta dùng để hưởng mặt Chúa, để sống một đời hạnh phúc hoàn toàn.

Nhưng, Bạn đừng quên: hai đời ấy liên lạc với nhau rất chặt chẽ, rất mật thiết. Đời này là bước đầu để chúng ta tiến đến đời sau, ta có đến được đời sau hay không, là tùy ta có biết đi, có biết dùng đời này hay không. Vậy đời này Chúa đã chỉ cho chúng ta làm những gì? Đời này Chúa chỉ cho chúng ta chịu khó, nhất là chịu khó. Đời này không phải để hưởng khoái lạc, khoái lạc chính đáng và vô tận là phần của đời sau.

Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Đời này quả thật đầy đau khổ, nhưng tại sao ta lại tìm hạnh phúc ở đời này? Vì đời này chẳng qua chỉ là như “một đêm trọ trong một cái quán hôi hám chật hẹp” như lời Thánh Têrêsa Cả nói”.

Đã đành, đời này chúng ta có thể gặp ít nhiều vui thú, Chúa muốn vậy, vì thương ta, để ta khỏi chán nản, nhưng nó chỉ là những quà nhỏ mọn cha mẹ thường cho con cái, nhất là những đứa nhỏ, để chúng nó làm việc, hoặc chịu khó. Những thú vui ấy cũng ví như những viên đường, người ta dùng để uống thuốc. Mục đích không phải để hưởng những chất ngọt của đường, nhưng là để uống thuốc cho dễ. Những vui thú Chúa cho ta gặp trên đời cũng vậy, không phải để ta dính bén vào nó, Chúa dùng nó để giúp ta chịu khó dễ hơn.

Bạn thân mến, chúng ta chỉ là khách bộ hành. Khách bộ hành thì lúc nào cũng nhìn đến chỗ quê hương, chỗ mà họ mong chóng tới. Bởi thế trên đường, họ có thể gặp những cảnh tươi đẹp, những bóng mát, nhưng có đâu họ đứng lại cả đêm cả ngày để hưởng những thú vui ấy. Không, họ không đứng lại lâu, họ chỉ nhìn qua và hưởng mấy phút, rồi họ đi, mặc dù đàng trước họ, còn bao nhiêu cái khó chịu, bao quãng đường nguy hiểm, bao vũng bùn lầy, bao khúc nóng như thiêu. Họ cam lòng đón lấy hết cả những đau khổ ấy, con mắt họ chỉ đăm đăm nhìn vào cõi xa xăm, cõi mà lòng họ lúc nào cũng nghĩ đến và mong cho chóng đến. Chính sự mong ước ấy giúp họ đủ can đảm chịu đựng hết những nỗi khổ cực họ còn gặp trên quãng đường họ đi.

Vậy còn gì vô lý bằng người bộ hành chỉ chăm tìm những thú vui vô ích, họ có thể gặp trên đường, nhất lại là những thú vui tục tằn khả ố, và vì thế làm họ chậm hoặc hỏng ngày về quê.

Chúng ta cũng vậy, không gì vô lý bằng sống đời này, để về quê thật đời sau mà chúng ta lại mải mê tìm những thú vui vô ích, những thú vui làm ngăn trở ta trên đường tiến đến quê thật là nước Thiên đàng. Làm như thế, chúng ta còn dại dột hơn người bộ hành nữa, vì người bộ hành đi tìm những thú vui ấy, thường chỉ làm chậm ngày đến quê, còn chúng ta, nếu đi tìm những thú vui hư hèn ấy, thì chúng ta còn liều hỏng mất cuộc đời bất diệt, cuộc đời hoàn toàn hạnh phúc của ta nữa.

Cũng vì biết tính nết hư hèn của ta, hay tìm những thú vui nguy hiểm cho cuộc đời sau, nên Chúa thường gieo rắc trên đường đời chúng ta những chông gai, những đau khổ, để chúng ta luôn luôn chú ý, để chúng ta nhắc nhủ mình: đời này, ta chỉ là khách bộ hành, ta phải mau mau đi tới quê thật, không được đứng lại, để hưởng những thú vui, đôi khi Chúa cho gặp trên đời.

Bạn có thấy không, tiền tài đã làm bao người đau khổ, thế mà người ta vẫn ham mê tiền tài, có người đã đành bán linh hồn, đã đành chối Chúa để kiếm mấy đồng bạc.

Tình yêu đã làm bao người đau khổ đến quyên sinh, thế mà người ta vẫn đi tìm tình yêu và vẫn bám lấy tình yêu, có người hai chân đã kề miệng lỗ, cũng không chịu bỏ cái tình chỉ một chốc nữa sẽ đẩy họ xuống hỏa ngục.

Tôi chỉ nói về tiền tài, với tình yêu, chứ bất cứ cái gì có thể làm thỏa mãn dục vọng người đời, đều có thể làm họ say mê đến quên cả linh hồn, dù những cái thỏa mãn ấy, biết mấy phen đã đem lại cho họ bao cay đắng, bao hận lòng.

Vậy nếu Chúa không pha giấm chua mật đắng vào các sự vui thú ở đời, thì còn ai nghĩ đến linh hồn? Còn ai nghĩ đến Chúa??? Cho nên những thú vui Chúa dành để cho ta ở trên đời, không phải là những cái chúng ta được dính bén vào nó, vì nếu dính vào nó, nó sẽ ghì ta lại, không cho ta tới cõi hằng sống nữa.

Một lần Chúa phán với thánh Têrêsa Cả lời này: “Hỡi con, con hãy tin nhận rằng: ai được Cha Ta yêu hơn cả, thì người ấy sẽ gặp nhiều Thánh giá nặng nề hơn cả”. Để minh chứng lời ấy, Thánh Têrêsa Cả, trên đường sửa Dòng Kín, thường phải nay đây mai đó; một hôm vào buổi chiều mùa đông, Bà lạc vào một khu rừng. Sau nhiều giờ phiêu lưu, Bà đã tìm ra được tu viện Bà có ý đi thăm. Bà giật chuông nhưng không ai ra mở cửa. Bà giật, giật mạnh, không may trượt ngã làm gẫy chân. Lúc ấy một nữ tu mới ra mở cửa. Bà than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa làm gì vậy? Con sẽ bị giam ở đây, không có y sĩ chăm nom, mọi công việc của con sẽ bị chậm trễ”. Chúa đáp: “Đó là cách Cha xử với những linh hồn Cha yêu”. Bà liền đáp: “Chính vì vậy, mà Chúa ít bạn hữu trên mặt đất”.

Nhất là Bạn hãy nghe lời sau đây đã được ghi chép trong sách Chân phúc Henricô Sudô: “Con hãy nghe lý do tại sao Cha thử thách những đầy tớ của Cha và con hãy ghi sâu vào tận đáy lòng con những lời con sắp nghe sau đây. Cha ngự trong linh hồn như ngự trong thiên đàng đầy vui thú và Cha không chịu được cho nó tìm vui thú ở ngoài Cha, Cha không chịu được cho nó bám lấy các loài thụ sinh. Cha muốn chiếm lấy nó và muốn nó trong sạch thanh tịnh, nên Cha vây quanh nó bằng một hàng rào đau khổ, để nó không thoát khỏi được tay Cha. Cha gieo rắc trên đường đời nó đầy chông gai, để nó khỏi nằm yên trên những cái hèn hạ thụ sinh và để nó chỉ tìm hạnh phúc nơi các sự toàn thiện của Cha. Chính con cũng đã có kinh nghiệm là tất cả các thánh giá Cha gửi đến cho con, bất cứ là thứ gì, thì nâng lòng con lên, và giúp con kết hợp với Cha mật thiết hơn, sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn tất cả những thánh giá con tự chọn lấy. Nếu con được tắm gội đắm chìm trong nguồn yên ủi êm ái thiêng liêng, nếu những ơn trên trời đốt cháy lòng mến của con, thì con phải biết, những lúc ấy con không được công nghiệp bằng khi con chịu thử thách, bị lạt lẽo thiêng liêng. Nhờ những sự phiền muộn quấy nhiễu, con trở thành con yêu của Cha và con chiếm được quyền lợi ăn phần gia tài trọng hậu thiên đàng: Cha ban phát ơn lành cho kẻ lành, cả kẻ dữ, nhưng Cha dành thánh giá cho kẻ Cha đã chọn riêng. Con hãy suy xét, hãy so sánh đời tạm với đời đời; con sẽ hiểu thà chịu thiêu đốt trăm năm trong lò lửa cháy, còn hơn bị mất một thánh giá bé nhỏ nhất Cha có thể và muốn ban cho. Nào không phải rằng: vui vẻ nhận lấy những sự cực phiền, tức là dành để cho mình một phần thưởng bất diệt ? Thánh giá là một món quà quý giá đến nỗi con nên biết rằng: dù cả một trăm năm con sấp mặt xuống đất xin Cha ban cho ơn ấy, con cũng không đáng được”.

Cho nên Bạn đừng ngạc nhiên khi nghe các Thánh ca tụng Thánh giá, ca tụng sự đau khổ.

Bạn hãy nghe một lời sau đây, có thể thu tóm hết mọi lời khác.

Sách Gương phúc nói: “Không gì đẹp lòng Chúa, không gì ích lợi cho chúng ta ở đời này bằng vui lòng chịu đau khổ vì Chúa Giêsu Kitô”.

Vậy Bạn ơi, đứng trước trăm nghìn sự đau đớn Bạn sẽ gặp trên đời, Bạn hãy nhìn qua những quãng đời đau đớn ấy, để nhận cho ra, đâu là quê nhà, rồi hăng hái bước mạnh đi. Khách bộ hành đứng trước quãng đường lầy lội, họ có đứng yên mà nhìn đâu, họ nhìn qua những quãng đường ấy, rồi họ nhìn quãng đường xa tắp trước mặt họ, họ bước liều để qua quãng đường khó đi.

Chúng ta cũng phải làm như vậy. Là vì ở đầu đường bên kia, chúng ta sẽ có cả một cuộc sống đời đời, để hưởng hết những cái thú vui thanh cao và sẽ hưởng đời đời.

Ta có phúc hơn người bộ hành, vì dù sao, người bộ hành cũng có thể lỡ đường, không về đến quê, do những tai nạn bất ngờ có thể xảy đến. Nhưng, chúng ta thì khác, chúng ta chắc sẽ về tới quê, tuy không biết ngày nào, và cũng không cần biết, chỉ biết chắc là nếu ta cố đi, thì thế nào cũng tới.

Tôi xin chúc Bạn lúc nào cũng nhớ đến quê thật đời sau, luôn luôn nhắc cho mình rằng: “Tôi có một quê, và rồi đây không sớm thì muộn, thế nào tôi cũng phải đến nơi”. Cùng với ý tưởng ấy, Bạn hãy bảo mình: “Nhưng tôi lại phải vui lòng lĩnh nhận hết các sự gian nan đau khổ sẽ đến, vì đó là điều kiện tối cần để đến quê nhà. Không qua đường khốn khó, không về được quê. Không qua núi Sọ không thể tới núi cây Dầu là chỗ Chúa đã lên trời… ”.

Can đảm đi, Bạn, hăng hái đi, Bạn !

Tôi thành thực cầu chúc Bạn lòng hăng hái ấy, lòng can đảm ấy!

Lm. Nguyễn Văn Tuyên DCCT

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 24. Ba Cây Thánh Gía

Tôi mời Bạn cùng tôi leo lên đỉnh núi Sọ. Chúng ta sẽ thấy ba cây Thánh giá dựng trên ấy. Và trên ba cây gỗ hèn hạ ấy, ta thấy ba người bị án tử hình. Chúng ta đã biết ba người ấy là những ai.

Bên tả là người tội lỗi khốn nạn, anh ta cưỡng lại với sự đau đớn.

Bên hữu là người trộm lành, anh ta vui lòng chịu khó.

Ở giữa là Chúa Giêsu, Đấng yêu mến sự đau khổ.

Thế giới cũng là một núi Sọ khổng lồ, cắm đầy những Thánh giá. Trên các Thánh giá ấy, là các con cái Adong, là Bạn, là tôi… là tất cả mọi người chúng ta.

Có người thì giẫy giụa khi phải đóng vào Thánh giá, giống như người trộm dữ.

Người khác thì nhẫn nại, chịu đau khổ, giống như người trộm lành.

Một số ít người khác, thì yêu mến Thánh giá như Chúa Giêsu, đấy là những người thánh, những người tạo nên người thánh.

Mỗi người chúng ta, Bạn, tôi… chúng ta vào hạng người nào trong ba hạng người ấy?

Trên Thánh giá người trộm dữ, chúng ta thấy gì? – Chúng ta thấy một người chửi rủa Thánh giá, một kẻ thù Thánh giá.

Lẽ ra người trộm dữ kia, trong cơn đau khổ, đã phải cảm thương Đấng chí công chí thánh, đang chịu cùng hình khổ như anh ta mới phải, bởi vì anh ta đã gần mồ, thì phải lo dọn mình chết, và không gì tốt bằng nhẫn nhục nhận lấy sự đau khổ để đền tội. Đàng này không, linh hồn cứng cỏi, khô rắn và thô bỉ của anh ta chỉ nhớ đến những của hèn hạ mau qua đời này, anh ta bám chặt vào sự sống đang sắp lìa anh ta và anh ta thất vọng. Để cứu được mấy phút sống tàn của anh ta, anh ta đã ngạo ngược xin Chúa làm phép lạ cứu anh ta cho sống [56]. Chúa không làm phép lạ, nên anh ta lại đổ cho Chúa là căn cớ gây khốn nạn cho anh ta, và chửi rủa Chúa. Vì sợ chết, anh ta tìm cách giẫy giụa trên Thánh giá, cho đến lúc từ Thánh giá anh ta đã chết không bằng an, ít ra chúng ta nghĩ được như vậy.

Trên đời những kẻ bắt chước người trộm dữ có thiếu không Bạn? Khi Chúa giả làm lơ, không nghe lời họ cầu nguyện, hoặc không làm phép lạ như ý họ muốn, là họ oán thán, cưu hờn, đôi khi đâm thù ghét Chúa.

Người ta kể rằng: một cụ già theo xác con ra huyệt. Lúc đã hạ huyệt rồi, ông ta đến gần, giơ tay trên quan tài của cậu con, và nói: “Tôi thề sẽ báo thù Thiên Chúa”. Thật là quái gở! Nói sao làm vậy. Ông ta đã báo thù thật, và báo thù một cách hết sức ma quỷ. Ông ta tìm cách làm gương xấu cho người khác, tìm hết cách làm hư các linh hồn. Thật là một cách báo thù hết sức ghê rợn, ít thấy xảy ra.

Không mấy người quái gở đến thế, nhưng biết bao người đã nói phạm, đàn ông thì nói phạm công khai, đàn bà thì kín đáo hơn, nhưng cũng là phạm thượng thật. Họ nói: Chúa không công bằng… tôi đã làm gì nên tội mà Chúa bắt tôi khổ thế này thế khác… Hạng người kiêu ngạo! Sao không nhớ đến tội mình đã phạm? Họ là hạng người thô bỉ, chỉ mong được lĩnh thưởng ngay từ đời này, như bọn Do Thái xưa; và tôn giáo, đối với họ, chỉ là phương thế giúp họ thêm hoặc chắc được dễ chịu, được thịnh vượng ngay từ đời này. Vì không được như ý muốn, họ nói phạm đến Chúa, họ không giữ đạo nữa.

Một hôm, ở một xứ Đạo kia, có cuộc rước kiệu. Không hiểu trong lúc đi kiệu có truyện gì xích mích… một người trong bọn họ, là ông chánh, ông trưởng gì không biết… la lối chửi rủa om xòm chung quanh Nhà Thờ… lúc về nhà ông ta đập phá bàn thờ và không cho vợ con giữ đạo nữa.

Một người khác, trong khi đi vắng, ở nhà mất trộm. Về nhà, anh ta tức quá, cả gan đem tượng Đức Mẹ ra vườn hành hạ, vì Đức Mẹ đã không biết giữ nhà cho anh ta… ấy là tôi không dám thuật ra đây những câu vô cùng phạm thượng anh ta đã nói với Đức Mẹ trong lúc ấy. Nói lên ai nghe cũng rùng mình.

Họ là những người khốn nạn, làm thế tức là họ tự làm khổ cho mình, vì họ đã tự mình làm mất sự bình an và yên ủi trong tôn giáo; chỉ có những sự yên ủi ấy mới giảm được nỗi buồn; họ làm cho họ đau khổ thêm, và buồn sầu vì đã lỗi bổn phận người có Đạo, linh hồn họ thêm lạnh lẽo tối tăm, và Chúa là sự sáng, sự nóng đã ra khỏi linh hồn họ.

Bạn thử xét mình xem, Bạn có thể tự nhủ rằng Bạn không có điều gì đáng trách về phương diện này không? Chắc là không khi nào Bạn dám tìm cách báo thù Chúa, nhưng nhiều lần Bạn đã không quạu cọ là gì? Chắc là Bạn chưa đến nỗi dám nói phạm đến Chúa, nhưng mỗi khi khó chịu quá – hoặc Bạn tưởng mình phải chịu đau khổ quá – Bạn đã không than thở kêu trách Chúa là gì? Chắc Bạn chưa đến nỗi bỏ việc làm bằng hữu Chúa, nhưng nào đã không có nhiều lần, Bạn đã bỏ một hai việc đạo đức quen làm là gì? Đã hẳn, Bạn chưa dám ngã lòng – ít ra tôi nghĩ thế – nhưng chắc là nhiều lần Bạn đã để mình chán nản, và vì chán nản, Bạn đã mong chết, để thoát nợ đời. Cái ấy không được, ông Gióp xưa đã làm thế, và ông đã bị Chúa quở. Tiên tri Giona xưa cũng đã làm thế, và cũng đã bị Chúa quở.

Vậy thì khi bị treo trên Thánh giá, chúng ta đừng làm như người trộm dữ, ta hãy nín lặng.

Trên Thánh giá của người trộm lành, ta thấy gì? – Ta thấy một người thống hối biết nhẫn nhục.

Người trộm lành trước cũng là người tội lỗi, một người lỗi nặng. Lúc đầu, anh ta cũng đã nói phạm đến Chúa, nhưng vì thấy Chúa can đảm, nhẫn nại, bình tĩnh trong sự đau khổ, anh ta đã hết sức cảm phục, anh ta lại còn ra mặt bênh Chúa nữa. Anh ta nói với người trộm kia: “Sao anh lại sỉ nhục Người, Người là Đấng công chính, nào Người có phạm tội gì đâu”. [57]

Và hạ mình xuống trước mặt Chúa, trước mặt thiên hạ, anh ta tuyên bố: “Còn chúng ta, chúng ta chịu thế này là đáng lắm”. Anh ta thành thực hối lỗi và nhẫn nại chịu khó để đền tội. Người khiêm nhường thật, lúc nào cũng đầy lòng trông cậy. Anh ta liền ngửa mặt lên cùng Chúa và than: “Lạy Chúa, khi nào Chúa về nước Chúa trị, xin nhớ đến tôi cùng”. Anh ta liền được nghe lời yên ủi Chúa phán: “Ta nói thật, ngay ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở nơi vui vẻ cùng Ta”. [58]

Đó là một người trộm lành. Ông được coi như gương mẫu những người nhẫn nại chịu đau khổ. Ông không phải người đi đón rước sự đau khổ, ông ta đã làm hết sức để tránh sự đau khổ Nhưng khi thấy sự đau khổ là hình phạt xứng đáng với các tội lỗi của mình, ông ta hiểu rằng: nhờ sự đau khổ, người ta có thể được nghĩa cùng Chúa, nên ông ta đã bắt đầu yêu sự đau khổ. Chỉ nói được là bắt đầu, vì người ta không thấy dấu gì tỏ ra ông ta đã ham mê sự đau khổ, mà không kêu ca, không lẩm bẩm. Vì biết mình chịu phạt là đúng, nên ông ta đã cúi đầu lĩnh nhận hình phạt Chúa gửi đến. Như thế mới là nhẫn nại, nhưng là sự nhẫn nại của con nhà Kitô hữu.

Không phải thứ nhẫn nại kiêu ngạo của con người bất nhẫn, họ không làm gì được, thì làm bộ không cảm thấy đau khổ. Hạng người ấy có được công gì? Họ được một tí danh vọng của loài người, là cái không đáng kể. “Họ đã được công của mình rồi” [59] nhưng hạng người khoa trương thì chỉ được chút phần thưởng mây khói.

Cũng không phải cái nhẫn nại của hạng người tin vào định mệnh… hạng người cho rằng: cái gì cũng đã có số. Họ coi đời này như một người đàn bà mặc một bộ áo thật sang, lúc người ấy bước đi thì vạt áo gạt phải đàn kiến, và đè giập chúng nó. Và tất cả loài người chỉ là đàn kiến ấy… bị đè bẹp… thế là xong. Chỉ có thế, chứ không có bàn tay Chúa nào trong ấy. Hạng người ngu ngốc ấy đáng được cái gì? Không đáng được cái gì cả… và cứ thế, là các con người kiến kia sẽ kéo nhau xuống hỏa ngục.

Cái nhẫn nại của người trộm lành là cái nhẫn nại của người công giáo: sự đau khổ, ông ta có cảm thấy. Ông ta thú nhận rằng: ông ta cảm thấy đau khổ, nhưng ông ta cũng nhận thấy rằng sự khó là do Chúa gửi đến, và nếu Chúa tha cho không bắt chịu khó, thì ông ta sẽ bằng lòng, nhưng vì Chúa muốn thì ông ta vui lòng chịu để đền tội, và để làm nguôi cơn giận Chúa. Ấy là sự nhẫn nại của con người công giáo.

Hết mọi người chúng ta phải lo cho được ít ra như thế, và nhất là những linh hồn đã dâng mình cho Chúa, trước hết phải lo cho được bằng ấy. Chúng ta đau khổ, nào chúng ta lại không phải nói rằng: tôi đáng chịu đau khổ? Nếu ta chỉ phạm một tội trọng thì chúng ta đã đáng sa hỏa ngục đời đời, vậy thì những sự đau khổ chúng ta chịu bây giờ đã thấm vào đâu với những sự đau khổ lẽ ra chúng ta phải chịu trong hỏa ngục. Nếu chúng ta chỉ phạm tội nhẹ, dù chỉ một tội nhẹ, thì chúng ta sẽ đáng chịu phạt trong luyện ngục, vậy những sự đau khổ chúng ta chịu, đã thấm vào đâu với những sự đau khổ rồi đây chúng ta phải chịu trong luyện ngục… hoặc lẽ ra chúng ta sẽ phải chịu… xin Bạn hãy xem đoạn nói về hỏa ngục và Luyện ngục trên đây, trong mục Hãy nhìn xuống.

Vậy chúng ta hãy nhận lấy những sự đau khổ ấy để đền tội, để làm nguôi cơn giận Chúa, để cứu các linh hồn, để làm sáng danh Chúa.

Đã đành, chúng ta có thể hy vọng Chúa đã tha tội cho rồi, nhưng vì Chúa đã tỏ tình thương ta như thế, ta lại không phải vui lòng chịu khó một tí để đền những sự “thiệt hại” ta đã làm cho Chúa ru? Rồi, dù Chúa đã tha tội cho ta, nhưng cửa luyện ngục vẫn còn mở rộng để đón ta. Vậy ta phải nhẫn nại chịu đau khổ để đóng khóa cửa luyện ngục lại.

Ta hãy bắt chước người trộm lành, hãy nhẫn nại cho xứng người công giáo.

Trên Thánh giá Chúa Giêsu, ta thấy gì? – Ta thấy một Đấng hy sinh khải hoàn, ca bài ca yêu mến.

Đây là mấy đặc điểm nhận thấy nơi Chúa:

1) Chúa đã hoàn toàn tình nguyện hy sinh, như lời Kinh thánh đã nói “Người đã dâng mình, vì đã tự ý muốn dâng mình” [60] Ta đã thấy Chúa mau mắn đi đến chỗ chết. Ở vườn Diệt, dù phần giác quan Chúa có phản kháng, nhưng Chúa đã vui lòng nhận lấy chén đắng. Lúc bọn Giuđa đã bị ngã ngửa, Chúa lại cho chúng đứng dậy. Chúa có sẵn mười hai cơ đội thiên thần, Chúa có sẵn toàn thể các thiên thần để bảo vệ Chúa, nhưng Chúa đã không cho phép các Đấng. Chúa có thể cứu chuộc ta mà không cần phải đau khổ, không cần phải chết, nhưng Chúa đã muốn đau khổ, Chúa đã muốn chịu chết.

2) Chúa đã hy sinh, vì lòng yêu mến. Yêu mến Đức Chúa Cha: Trước khi chịu chết, Chúa đã phán rõ ràng: “Để cho thế giới biết ta yêu mến Đức Chúa Cha thì ta hãy đứng dậy và đi” [61] Yêu mến loài người, là các em của Chúa. Lời Kinh thánh nói: “Người đã yêu ta và đã nộp mình để cứu chuộc ta” [62] Và: “Ngày nào treo Ta lên, thì Ta kéo mọi người lên cùng Ta” [63].

Chúa đã hy sinh, và hy sinh vì lòng yêu, một thứ tình yêu cao cả xứng với Thiên Chúa.

3) Chúa đã hy sinh một cách vui vẻ. Khi nói về ngày thương khó của Chúa, Chúa đã phán lời này: “Ta phải chịu phép rửa trong máu Ta, và Ta khao khát chóng tới ngày ấy chừng nào!” [64]

Thật ra ở nơi Chúa, cũng như ở nơi chúng ta, phần cảm giác vẫn không ưa chịu khổ, và để ta biết than thở cùng Chúa, như con cái than thở với cha mẹ thì Chúa đã để cho phần cảm giác Chúa than thở, nhưng trong ý muốn Chúa, lúc nào Chúa cũng ham chịu khó, cũng nhảy nhót trong khi chịu khó, và trên Thánh giá, sau khi Chúa đã than lên lời đau đớn này: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?” [65] thì Chúa đã nói một lời đầy tình yêu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. [66]

Lời ca yêu mến ấy, các bạn hữu của Chúa về sau, cũng đã xướng lên theo Chúa. Các Thánh Tông đồ, đã vui mừng sung sướng vì được chịu khổ vì Chúa. Các Thánh Tử đạo đã chạy đến chỗ tử hình, như người khác chạy đi ăn tiệc, và trong lúc say sưa đau khổ, các đấng đã thốt ra những lời như lời này: “Tôi là lúa mì của Chúa. Tôi cần phải được răng thú dữ nghiền tán tôi, các chúng hãy đến đi, nếu chúng do dự, các ông hãy thúc chúng đến, nếu không, thì chính tôi sẽ thúc chúng”. Kìa, từng đoàn đông vô số, đã lan tràn khắp hết rừng sâu, họ tìm hết cách để làm khổ cho thân xác họ, cũng như người khác tìm hết cách cho xác thịt họ được thỏa mãn. Kìa, những Bạn trăm năm Chúa trong những bức tường kia, là những của hy sinh vì Chúa và sung sướng vì được làm của hy sinh, họ đã tình nguyện đi đày vì Chúa, và sung sướng vì đã đày đọa được tấm thân vì Chúa.

Còn chúng ta, Bạn cũng như tôi, chúng ta có vào sổ những vị anh hùng ấy không? Chúng ta có thật vào sổ những người Mến Thánh giá ấy không? Tôi vừa nói mấy tiếng: Mến Thánh giá: vì trên Thánh giá của Chúa, ta không phải chỉ còn thấy con người nhẫn nại, con người cam tâm, con người vui lòng chịu đóng đanh để đền tội, nhưng ta đã thấy con người yêu mến Thánh giá, yêu say mê, say mê đến nỗi nếu có cần phải nằm luôn trên Thánh giá mới cứu được thế gian, thì Chúa cũng sẵn sàng nằm luôn trên ấy, để cho người ta muôn đời nhìn ngắm, và để cho kẻ dữ muôn đời sỉ nhục.

Chính tình yêu đã làm cho Chúa chúng ta nhảy mừng trên Thánh giá của Chúa.

Và đó cũng là gương cho hết mọi người muốn tỏ lòng mến Chúa thiết tha, thực tình, phải làm, là yêu mến Thánh giá, nhảy mừng khi được chịu khổ để tỏ lòng mến Chúa, để cứu linh hồn mình, và cứu linh hồn anh em mình.

Chắc là Bạn cũng như tôi, chúng ta đều ước ao được mến Thánh giá như Chúa, chứ không phải chỉ muốn nhẫn nại như người trộm lành. Đã đành được như người trộm lành đã là khá, và một số đông trong ta đã được đến chỗ ấy. Nhưng ta còn phải cố gắng yêu mến Thánh giá như Chúa, say mê Thánh giá như Chúa, và trong khi chịu khổ, ta sẽ xướng bài ca yêu mến như Chúa.

Đã đành, ta chưa thể và không khi nào có thể nhảy mừng trên Thánh giá được như Chúa, và dùng Thánh giá như khí giới để toàn thắng, nhưng ít ra ta hãy cố gắng bắt chước Chúa cho hết sức ta.

Nhờ thế, ta sẽ nhìn thấy Thánh giá như một cuộc toàn thắng của tình yêu, trước là yêu chính mình ta, vì Thánh giá sẽ ban cho ta được vững chắc, được bằng yên. Rồi đến tình mến Chúa, vì Thánh giá giúp ta nên thánh, mà nên thánh, tức là mến Chúa. Sau cùng là tình yêu anh em ta, vì nhờ Thánh giá ta sẽ đưa được nhiều linh hồn về cùng Chúa.

Thánh giá là thắng trận của tình yêu: khi ta suy nghĩ đến điều ấy, mà lại không yêu mến Thánh giá sao được ?

Người ta kể truyện một người nằm liệt trên giường. Đang khi người ấy suy đi nghĩ lại rằng: mình là vật vô dụng, chẳng ích lợi gì cho ai, thì Chúa Giêsu hiện đến, và dạy cho người ấy hiểu những ích lợi của Thánh giá, và người ấy đã làm bao nhiêu ơn ích mà không ngờ: Nào đã sắm sẵn cho mình một tòa cao sang trên nơi hằng sống, nào đã được đẹp lòng Chúa, nào đã làm cho nhiều người tội lỗi ăn năn trở lại, đã giúp nhiều linh hồn công chính được vững vàng, và giúp cho nhiều dân đang bị uy hiếp được thắng trận. Người ấy hết sức ngạc nhiên và sung sướng, người ấy đã xướng bài ca tụng Thánh giá.

Phần ta, ai cũng phải cố gắng sao để dùng Thánh giá như bài ca khải hoàn, bài ca yêu mến của ta, khải hoàn vì ta đã sắm được cho ta một ngôi tòa cao sang trên Thiên đàng; khải hoàn vì ta đã làm vui lòng Chúa; khải hoàn vì ta đã cứu được nhiều linh hồn; khải hoàn vì ta đã giúp được nhiều linh hồn nên thánh thiện hơn; khải hoàn vì ta đã yên ủi được bao nhiêu linh hồn đau khổ… Muốn được thế, ta hãy ngày ngày suy đến những ích lợi của Thánh giá. Nhất là ta hãy mến Chúa cho nhiều… nếu chịu đau khổ là dấu yêu mến, thì càng mến càng dễ chịu đau khổ cho người mình yêu.

Sau cùng, ta hãy cầu nguyện, cầu nguyện cùng Đức Mẹ, là Đấng, trừ Chúa ra, không ai đã đau khổ bằng Người, và cũng trừ Chúa ra, không ai đã hiểu giá trị và những ích lợi của sự đau khổ, của Thánh giá bằng Người.

Ước gì mỗi người chúng ta là một Chúa Giêsu nhảy mừng ca hát trên Thánh giá; được như vậy, thế giới sẽ thay đổi bộ mặt và hòa bình sẽ chóng trở lại, cũng như Giáo hội sẽ càng ngày càng đông con.

Chúa hy vọng vào mỗi người chúng ta. Chúng ta đừng để Chúa thất vọng.

Nhất là những người đã được hạnh phúc Chúa gọi vào con đường mến Chúa cách riêng. [67]

 

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

 

[56] Luca 23,39

[57] Luca 23,41

[58] Luca 23, 42-43

[59] Matt 6,2

[60] IS 53,7

[61] Gioan 14,31

[62] Eph 5,2

[63] Gioan 12,32

[64] Luca 12,50

[65] Matt 27,46

[66] Luca 23,46

[67] Phỏng theo Cha Billet, C.Ss.R. trong sách Le Crucifix.

Hạnh Phúc – Chương 1 - 10. CẦN ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN

Nietzsche, một triết gia thế kỷ 19, đã cố gắng diễn tả tính khí thời đại ông trong lời xác nhận: “Thiên Chúa đã chết”, qua đó ông muốn nói rằng vào thời ông con người đã đánh mất đức tin của mình; đồng thời ông cũng phóng một tầm nhìn tiên tri về tương lai và dự báo thế kỷ 20 sẽ là một thế kỷ đầy chiến tranh và cách mạng. Hai xách nhận trên đây của Nietzsche liên kết với nhau nhờ vào một lập luận còn sâu sắc hơn sự khám phá ra triết lý về “siêu nhân” đó là một khi không còn yêu Chúa nữa thì còn lâu con người mới yêu được đồng loại của mình và rồi họ sẽ phải gặp khó khăn cực kỳ trong nỗ lực yêu mến người láng giềng đặc biệt mà hiện đã trở thành kẻ thù của họ.

Thực thế, thế kỷ này là thế kỷ dẫy đầy các cuộc cách mạng. Tuy nhiên ở đây chẳng cần phải đi sâu vào lịch sử các cuộc cách mạng mang tính cách hoàn toàn kinh tế và chính trị; bởi vì chúng ta luôn luôn có khả năng biến thời đại của mình thành thời đại của các cuộc cách mạng quang vinh, cách mạng chính bản thân chúng ta. Một cuộc cách mạng sẽ hình thành bất cứ khi nào một tâm hồn biết truất phế cái bản ngã chỉ đạo nó và đồng thời biết khuất phục cái bản ngã ấy theo nguyên tắc của tình yêu. Một cuộc cách mạng sẽ bùng nổ bất cứ khi nào lòng khiêm tốn thay thế tính kiêu căng nơi chúng ta, khi nào mà chúng ta từ bỏ lòng ham hố cuồng loạn muốn thành công, muốn được tiếng.

Chúa chúng ta đã để lại một kiểu mẫu của loại người biết cách mạng chính mình: ngay đêm trước khi chết để cứu chuộc trần gian, Ngài đã quì gối trước các môn đệ của mình như thể Ngài thấp hèn hơn tất cả bọn họ. Trước đây trong cuộc đời giảng huấn của mình, Ngài vẫn thường bảo họ chớ tìm chỗ nhất nơi bàn tiệc cũng đừng ham được mọi người biết đến. Khi nghe các tông đồ tranh luận với nhau xem ai trong họ là kẻ vĩ đại nhất, Chúa liều kêu gọi họ thực hiện cuộc cách mạng về cách định giá trị của họ. Ngài bảo: “Vua chúa các dân ngoại cai trị dân họ và kẻ cai trị được mang tiếng là người gia ơn. Còn các con thì đừng làm thế, đừng phân biệt giữa người lớn nhất và người bé nhất, giữa các người cai quản và người phục vụ. Hãy nói cho ta biết: ai lớn hơn? Người ngồi ở bàn hay kẻ phục vụ ông ta? Chắc hẳn là người ngồi ở bàn phải không? Và Ta đã hiện diện giữa các con với tư cách một kẻ tôi tớ”.

Trước đây Chúa đã thiết lập cuộc cách mạng của đức khiêm tốn bằng những lời nói; giờ đây, sau bữa tiệc ly, Ngài đưa cuộc cách mạng ấy ra thực hành qua cử chỉ sau: “Ngài cởi áo khoác để qua một bên, lấy một tấm khăn quấn quanh người đoạn đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân các môn đệ rồi dùng tấm khăn cột quanh người lau chân cho họ”. Vào thời bấy giờ, các bọn nô lệ bị chỉ định phải làm những công việc hèn hạ như thế. Thật là một sự cố đảo lộn có tầm kích vĩ đại khi vị thầy của các thầy, vua của các vua quì gối xuống trước 24 bàn chân chai sạn đẫm mồ hôi và rửa sạch chúng khác nào sự tha tội của Ngài cũng rửa sạch trái tim chai cứng và linh hồn dơ bẩn của chúng ta vậy. Mọi giá trị nhân sinh vĩnh viễn bị đảo lộn qua cuộc cách mạng gây đầy sửng sốt của Đức Kitô trong lời Ngài tuyên bố: “Ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên”.

Ngay khi Chúa Giêsu thốt ra những lời này thì Cesar xem như bị truất ngôi; nguyên lý bóc lột bị phế bỏ, xấc láo kiêu hãnh bị đẩy ra cửa. Kể từ đây, mọi Kitô hữu phải cảnh giác chớ nên xét đoán theo lối thế gian, chớ tìm kiếm cho mình những phần thưởng thế gian có thể trao tặng. Khi giọt nước từ đôi tay Chúa Kitô rơi xuống vào đêm ấy, những hệ thống luân lý cổ xưa liền trở thành lỗi thời và những khái niệm cao đẹp nhất của người xưa trở nên không còn thích hợp với con người nữa. Kể từ đây, điều tồi tệ nhất gây hỗn loạn cho tâm hồn chính là không biết phục vụ tha nhân, là tự xem mình là xứng đáng có đặc quyền đặc lợi… Một lề luật mới đã ra đời: lề luật này mặc khải sự bình đẳng của mọi người trước mặt Chúa đồng thời công bố nét đẹp của lòng khiêm tốn. Đấng tự hạ mình mặc xác phàm giờ đây đang tuôn tràn hồng ân và đang dạy chúng ta bài học bằng việc tự hạ cái vô biên của mình xuống để phục vụ các tôi tớ của mình.

Cuộc cách mạng bên trong tâm hồn là một biến cố của Kitô giáo. Nó đòi buộc chúng ta không được hận thù, không được đòi hỏi quyền lợi cá nhân, danh cao tước cả cũng như không được nói lời dối trá. Trong cuộc cách mạng này, tình yêu ẩn núp từ bên trong và hoạt động như một đạo quân thứ năm luôn tín trung với Chúa ngay giữa những bản ngã rối ren mất trật tự của chúng ta. Cuộc cách mạng như thế sẽ tiêu diệt lòng kiêu ngạo và vị kỷ, sự ganh tỵ ham hố cũng như lòng khát khao dành chỗ “nhất” khiến chúng ta thường thiếu bao dung đối với quyền lợi của tha nhân. Thanh gươm tuốt ra sẽ không nhắm người láng giềng mà nhắm vào sự tự kiêu phi lý của bản ngã chúng ta. Đối với các cuộc cách mạng khác thì quả là dễ dàng giao chiến bởi vì chúng ta chống lại với “kẻ thù xấu xa” bên ngoài. Còn cuộc cách mạng Kitô giáo thật khó khăn vì kẻ thù mà chúng ta giao chiến lại là một phần của chúng ta. Tuy nhiên chỉ có cuộc cách mạng này mới đem lại an bình đích thực: còn những cuộc dấy loạn khác đều sẽ chẳng bao giờ chấm dứt bởi vì chúng chỉ kềm hãm lại đích nhắm của chúng ta mà thôi và luôn luôn để lại lòng căm hận sục sôi trong tâm hồn con người.

Tư duy hiện đại đang hướng về một cuộc cách mạng thế giới bên ngoài, cách mạng của các dân tộc, các giai cấp, các chủng tộc cũng như các đảng phái. Còn Chúa chúng ta thì không dành ưu tiên cho cuộc cách mạng mang tính xã hội. Trước tiên, Ngài muốn tái tạo từng con người bằng một cuộc phục sinh của Ngài, đoạn sau đó, qua việc sai phái Thần Trí Ngài đến với con người, Ngài cải thiện lại xã hội thế giới cổ xưa.

Thánh Augustinô có nói: “Những kẻ muốn xáo động sự an bình mà mình đang sống thì hãy làm điều ấy không phải vì căm ghét mà hãy tỏ ra mình có năng lực biến đổi nó”. Chiến tranh xảy đến khi con người phóng chiếu các xung đột nội tâm của mình ra thế giới bên ngoài. Hoà bình sẽ đến khi nhiều người biết tiến hành cuộc cách mạng nội tâm trong đó lòng kiêu ngạo của họ bị đánh tan kèm theo tham vọng ích của họ bị tiêu huỷ. Hoà bình đi theo một cuộc chiến tinh thần như thế có thể tác động gây lây nhiễm hạnh phúc từ tâm hồn này sang tâm hồn khác và đem lại bình an dương thế cho người thiện tâm.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương IV: CHÚA GIÊSU THẦY DẠY NIỀM TÍN THÁC

I.  LÒNG NHÂN HẬU ĐẦY CẢM THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU MẶC KHẢI CHO TA THẤY LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA.

–   NHỮNG DỤ NGÔN MINH HỌA LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA : NGÀI LÀ CHA CỦA CHÚNG TA.

–   VẬY TA PHẢI CÓ NIỀM TÍN THÁC CỦA NGƯỜI CON THẢO.

Lòng nhân hậu đầy cảm thương của Chúa Giêsu mặc khải cho ta thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

– Có thể chúng ta sẽ được tha lỗi về những sự thiếu tín thác, nếu chúng ta sống ở thời Cựu Ước. Tất nhiên các quyển sách thánh cũng có những lời tuyệt diệu về lòng nhân hậu và quyền năng của Thiên Chúa. Chẳng hạn những Thánh Vịnh của Vua Đavid là một bản thánh thi khôn sánh về lòng thương xót của Chúa, và mãi mãi sẽ mang lại an vui cho những linh hồn thống hối và tín thác. Nhưng đối với quần chúng Do Thái, khi đó họ thấy Thiên Chúa là Đức Giavê đáng sợ, và họ chỉ kêu thánh danh Ngài cách run sợ. Người ta không bao giờ quên việc Đức Giavê phạt Út-da (Uzza) chết tươi, vì đã chạm tay vào Hòm Bia, dầu với ý lành để đỡ cho Hòm Bia khỏi đổ nhào. (Xem 2Sm 6,6-8).

Còn chúng ta, chúng ta được phúc sống dưới thời Tân Ước. Chúa Giêsu, Mặt Trời của sự khôn ngoan thần linh, đã soi sáng và biến đổi thế giới. “Ngài là ánh sáng thật, soi sáng cho mọi người sinh ra trên trần gian” (Ga 1,9). Chúa Giêsu đã đến để mặc khải cho ta thấy Thiên Chúa vẫn được coi là mầu nhiệm và không ai biết rõ, Ngài cho ta thấy một Đấng Thiên Chúa gần như có thể sờ thấy, rất gần gũi với chúng ta. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, đã đến để nói cho ta biết tình cảm của Thiên Chúa đối với chúng ta, tình thương vô cùng thương xót, tình của Người Cha vô cùng dịu dàng đối với chúng ta. Muốn nhận biết Cha chúng ta ở trên trời, chỉ cần nhìn vào Chúa Giêsu, xem Ngài hành động và nghe Ngài nói. Chính Chúa Giêsu đã nói : “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy” (Ga 14,9). Ngài là hình ảnh rất trung thực của Chúa Cha trong thế giới hữu hình của chúng ta.

Nếu phải nói đến nét đặc điểm của con người Chúa Giêsu, thì ai cũng thấy đó là lòng nhân hậu lạ lùng của Ngài, khiến những kẻ khốn nạn nhất cũng chạy đến với Ngài. Đó là tình thương đặc biệt Ngài dành cho những người tội lỗi và những người bệnh tật, và cho tất cả những ai cần đến lòng nhân hậu của Ngài hơn. Ngài luôn mở rộng vòng tay đầy dịu dàng và thương xót của Ngài để đón nhận những người đau khổ về thân xác hoặc tâm hồn.

Ai cũng biết rõ như thế. Và người ta đã tố cáo Ngài đi qúa đà trong những hành vi cảm thương đầy nhân hậu đó. Những người Biệt phái đã nhiều lần trách móc Ngài nặng lời, vì Ngài đã thương xót các bệnh nhân mà lỗi phạm luật ngày sa-bát của Chúa. Rồi họ trách Ngài đã qúa nhân hậu với những người tội lỗi, nhất là trường hợp Ngài đã để cho một người đàn bà tội lỗi đụng chạm đến Ngài, lấy nước mắt thống hối rửa chân Ngài, và lấy tóc lau chân Ngài.

Người ta còn đi tới chỗ gài bẫy để bắt lỗi Ngài về chuyện này. Người ta dẫn đến trước mặt Ngài một người đàn bà, bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình, để thử Ngài, xem Ngài có dám nhân hậu đến độ tha tội cho người đó, chống lại luật Môisê chăng? Lòng nhân hậu bao la của Chúa Giêsu đã nên cớ vấp phạm cho những người Biệt phái tự phụ, kiêu căng và độc ác. Sự ghen ghét của họ đối với Ngài chỉ gia tăng tiếng đồn về lòng nhân hậu đầy thương xót của Ngài, và lôi kéo người ta đến với Ngài.

Và để làm cho mọi người thấy rõ đáy lòng của Ngài, để cho những người tội lỗi nhất và đáng thất vọng nhất cũng hãy tin tưởng và tín thác nơi tình thương rất nhân hậu của Ngài, Ngài đã kể ra những dụ ngôn rất ngọt ngào và rất hợp với tâm trí Người Đông phương. Ngài đã tự mô tả mình trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Ngài tự giới thiệu là người mục tử tốt lành, sẵn sàng thí mạng sống vì các con chiên của mình. Như vậy, một cách sống động và cụ thể, Ngài cho ta thấy những tâm tình của Ngài và của Cha Ngài mà Ngài là hình ảnh trung thành và sống động.

Những dụ ngôn minh họa lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

– Như thế vẫn chưa hết. Nếu những tỏ bày về lòng nhân hậu ngọt ngào của Chúa Giêsu vẫn để chúng ta bán tin bán nghi về lòng thương xót của Cha trên trời, nếu chúng ta vẫn cứng lòng như một số người và chỉ nghĩ đến quyền năng và sự khôn ngoan khi nghĩ đến Chúa Cha, và chỉ dành tình thương và lòng thương xót cho Chúa Giêsu, thì chính Ngài, chính Chúa Cứu Thế của chúng ta đã thấy cần phải mở mắt cho chúng ta.

Ngài tỏ cho ta thấy Chúa Cha, vì Ngài là hình ảnh toàn hảo và trung thực của Cha Ngài. Nhưng Ngài còn làm nhiều hơn. Ngài đã thấy Cha Ngài, muôn đời vẫn là một với Cha, cho nên Ngài có thể tỏ bày cho ta biết những mầu nhiệm khôn dò về Chúa Ba Ngôi và về tình thương bao la của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Chúng ta biết Chúa Giêsu đã tỏ bày cho ta thấy lòng nhân hậu bao la của Ngài trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu và người mục tử tốt lành. Rồi trong những dụ ngôn tương tự, Ngài đã mặc khải cho ta thấy tình thương của Chúa luôn thương xót con cái mình, cả những đứa con tội lỗi nhất. Ai trong chúng ta cũng biết dụ ngôn đồng bạc bị rơi mất và dụ ngôn con chiên lạc; trong hai dụ ngôn đó, Chúa đã nói qúa, một cách táo bạo, khi khẳng định rằng : trên trời đã vui mừng hơn, vui mừng vì một kẻ tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính ! Nhất là chúng ta tất cả đã nếm sự ngọt ngào của dụ ngôn tuyệt diệu về đứa con hoang đàng. Dụ ngôn này đã mang lại sự thống hối và niềm cậy trông cho biết bao tội nhân ngã lòng !

Như thế là chúng ta đã được giảng dạy và được  bảo đảm về tâm tình của Thiên Chúa đối với chúng ta. Những tâm tình này có thể được gọi chung một tên là tình Cha thương con : Cha của Chúa Giêsu cũng là Cha của chúng ta. Ngài là Cha và là người Cha vô cùng nhân hậu, vì Ngài là tình thương, tình thương vô cùng. Tình phụ tử của Ngài đối với chúng ta vượt xa tình thương của các người cha trần gian đối với con cái mình, cũng như tình thương của một vị Thiên Chúa vượt xa tình thương của một tạo vật.

Nơi mỗi trang của cuốn Phúc Âm, Chúa Giêsu lại càng làm nổi bật cho ta thấy tình phụ tử của Cha chúng ta ở trên trời. Ngài nhấn mạnh điều này đến độ đó là nét đặc trưng nhất của việc giảng dạy của Ngài, và đặc điểm này đã gây bỡ ngỡ cho những nhà chú giải Thánh Kinh yếu niềm tin thuộc giáo phái Tin Lành như Harnack. Chúa Giêsu luôn chỉ gọi Thiên Chúa là “Cha của anh em ở trên trời”.

Khi các môn đệ xin Ngài dạy họ cầu nguyện, Ngài đã dạy họ kinh “Lạy Cha” là kinh tốt đẹp hơn mọi lời kinh. Chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha không phải là điều kỳ diệu sao ? Thoạt tiên người ta nghĩ Ngài cũng dạy chúng ta xưng hô Thiên Chúa là “Chúa” hoặc “Chúa tể muôn loài” như kiểu cầu nguyện của người Do Thái. Nhưng Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta đã nghĩ khác, và Ngài đã dạy chúng ta: “Anh em sẽ cầu nguyện thế này : Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9). Phúc Âm Thánh Luca còn nói gọn hơn : “Anh em sẽ cầu nguyện thế này : Lạy Cha !” (Lc 11,2).

Vậy ta phải có niềm tín thác như con thảo.

 Khi đã biết tâm tình của Thiên Chúa là Cha của mình, chúng ta biết phải cầu nguyện làm sao. Phải có một niềm tin tưởng tín thác như con thảo. Và đó là điều Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài. Chỉ xin trích lại đây một thí dụ.

Sau khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về việc cầu nguyện, nhất là về niềm tin tưởng tín thác phải có khi cầu nguyện. Ngài nói : “Ai trong anh em là Cha mà con mình xin bánh mì, lại cho nó hòn đá ? Hoặc nó xin cá mà lại cho nó con rắn ?… Vậy nếu anh em là những con người độc ác còn biết cho con mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em ở trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin Ngài sao ?” (Lc 11,11-13).

Chúa đã luận lý một cách tuyệt hảo, không chê vào đâu được. Luận cứ của Ngài : Chúng ta còn tốt với con cái mình như thế, cả những người cha không ra gì, phương chi Thiên Chúa là người cha vô cùng tốt lành, vô cùng nhân hậu. Cốt lõi của lời dạy ở đây của Chúa Giêsu là : Thiên Chúa là cha của chúng ta, và là người cha vô cùng nhân hậu hơn mọi người cha, cho nên chúng ta phải hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Khi đã chấp nhận điều này, niềm tín thác sẽ là điều tất nhiên, cho nên chúng ta sẽ không được tha thứ nếu không trọn vẹn tín thác nơi Thiên Chúa, mỗi khi chúng ta cầu xin Ngài ơn gì.

Ôi ! Lạy Chúa Giêsu, con còn xa niềm tín thác con thảo này lắm, một niềm tín thác dựa trên sự cảm nghiệm Thiên Chúa là Cha của con. Xin Chúa hãy thương giúp con ! Xin ban cho con tinh thần nghĩa tử này, một tinh thần rất cần thiết. Chính Chúa đã dạy: “Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha, và không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con và kẻ được Chúa Con mặc khải cho” (Mt 11,27). Vậy xin Chúa mặc khải cho con biết Chúa Cha, vì con biết Ngài ít qúa. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Xin đừng để con sống suốt đời như một đứa mồ côi, trong khi con có một người Cha tốt lành dường ấy. Cũng như tông đồ Philipphê, con nài xin Chúa : “Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy Chúa Cha, và như thế là đủ cho con” (Ga 14,8). Xin hãy tỏ cho con thấy, hãy giúp con biết rõ Đấng mà con chưa nhận rõ tình phụ tử rất dịu dàng ! Xin làm cho con yêu mến Ngài như một đứa con thảo yêu mến Cha mình, và như thế là đủ cho con. Khi đã biết rõ Ngài, con sẽ biết phải đến với ai để xin được những gì con cần thiết. Con sẽ đến với Ngài với một niềm tín thác con thảo, vì con chắc sẽ được Ngài nhận lời con xin. Vâng, xin hãy tỏ cho con thấy Cha con ở trên trời, và con sẽ có tất cả những gì con thiếu thốn. Con sẽ đến trình bày với Ngài những ước ao của con, nhất là niềm ước ao nên trọn lành, cho con và cho những người khác. Con sẽ trình bày với Ngài niềm khao khát yêu mến và hy sinh của con. Là linh mục của Chúa, là tu sĩ, là nữ tu, con sẽ xin Ngài những ơn cần thiết cho ơn gọi nên thánh của con. Con sẽ xin Ngài những nhân đức, lòng nhiệt thành và sự thánh thiện, để việc tông đồ của con có hào quang và có kết qủa. Những người cha trên trần gian, cả những người ngoại giáo cũng lo cơm bánh và thức ăn cho con cái mình, cho nên con tin chắc Cha trên trời của con sẽ sẵn sàng ban Chúa Thánh Thần cho con, vì như Chúa đã dạy, Ngài sẽ ban cho tất cả những ai cầu xin Ngài.

II.  NHỮNG LỜI HỨA CỦA CHÚA GIÊSU : NIỀM TÍN THÁC VỮNG VÀNG SẼ ĐẠT ĐƯỢC MỌI  SỰ.

–   NHỮNG PHÉP LẠ CỦA CHÚA LÀ NHỮNG BÀI HỌC CỤ THỂ. “HÃY CẦU NGUYỆN NHÂN DANH THẦY !”

Những lời hứa của Chúa Giêsu : Niềm tín thác vững vàng sẽ đạt được mọi sự.

 Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài không từ chối con cái Ngài sự gì hết. Nhưng như thế có nghĩa là Ngài ban lập tức và đúng như ta xin chăng ?

Cần phải nhắc lại ở đây những gì đã trình bày trên kia về bản chất và những phẩm tính của một niềm tín thác đích thực. Chúng ta biết : Niềm tín thác đích thực phải được điều kiện hóa, nghĩa là chúng ta tin chắc Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, nếu những sự chúng ta ước ao đó có ích lợi cho cùng đích tối hậu của chúng ta, và nằm trong kế hoạch của Chúa quan phòng. Bởi vì, để lấy lại dụ ngôn của Chúa Giêsu, nếu chỉ tay vào con bọ cạp, tưởng đó là con cá mà xin Cha trên trời, chắc Ngài sẽ không ban cho tôi. Vậy luôn phải nhớ chân lý này, để chúng ta khỏi thất vọng vì khờ dại khi cầu xin[1]. Nhưng cũng đừng vội bỏ cuộc : khi không nhận ngay được điều ta xin, chúng ta đừng vội tự nhủ : có thể ơn này không tốt cho tôi. Nghĩ như thế sẽ sớm chấm dứt việc cầu xin của mình. Sự nghĩ tưởng như thế, sớm bỏ lời cầu xin như thế, thường là dấu chỉ một sự thiếu tin tưởng và tín thác, sợ bị chưng hửng.

Đúng thế, trong những trường hợp đó, cần phải mạnh bạo, bền chí, và dám quấy rầy Chúa bằng những lời cầu xin tha thiết. Ơn ta xin càng lớn lao, ta càng phải nài nẵng Chúa. Phải dám quấy rầy Cha chúng ta ở trên trời. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta như thế trong dụ ngôn sau đây : “Nếu anh em có một người bạn, và nửa đêm tới nhà người đó và nói: “Bạn ơi, cho tôi vay ba chiếc bánh mì, vì tôi có người bạn lỡ đường ghé nhà tôi, mà tôi không có gì dọn cho anh ấy ăn”nếu người kia từ trong nhà trả lời rằng : “Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa nhà đã đóng, các cháu đang ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho bạn được”. Thầy nói cho anh em biết : nếu người đó không dậy cho người này vay vì tình bạn, thì người đó cũng sẽ chỗi dậy vì sự quấy rầy của người này, và đưa cho anh ta số bánh anh ta cần. Cho nên thầy bảo anh em : Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở ra cho anh em. Vì ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, và ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,5-10).

Vậy rõ ràng phải kết luận rằng : ngay giữa những con người với nhau, một lời xin kiên trì sẽ thắng được sự biếng nhác hoặc sự thiếu tốt bụng của tha nhân, phương chi một lời cầu xin kiên trì như thế chắc chắn sẽ đạt hiệu qủa tốt đẹp nơi Cha chúng ta ở trên trời, vì Ngài là người Cha thương yêu ta vô cùng. Chắc chắn, Ngài có thể làm ra vẻ nặng tai, hoặc có vẻ chưa nghe thấy lời cầu xin của ta. Nhưng chúng ta phải năn nỉ. Chính Chúa Giêsu dạy ta phải làm thế, Ngài đã không ngần ngại ví Cha Ngài với người Ngài nói trong dụ ngôn trên kia, không muốn cho những gì người ta xin. Và Ngài nói : Hãy xin thì sẽ được… hãy gõ cửa thì sẽ mở cho.

 Chúng ta đừng sợ làm theo lời dạy của Chúa Giêsu. Ngài đã muốn dạy ta rằng : Thiên Chúa cũng muốn ta cầu xin và cầu xin lâu dài. Đôi khi sự việc có vẻ xảy ra ngược với những gì ta ước ao và cầu xin. Chuyện này có thể xảy ra cả trong những việc thiêng liêng và thánh thiện. Nhưng chúng ta phải vững tâm, phải táo bạo, và Chúa Giêsu bảo phải dám quấy rầy Cha chúng ta ở trên trời. Chúng ta hãy đến và thưa Chúa như người bạn trong Phúc Âm : “Con sẽ không lui ra cho tới khi Chúa nhận lời con xin. Con tin vào những lời hứa của Chúa Giêsu, con yêu dấu của Chúa”. Và như vậy chúng ta sẽ bắt ép Thiên Chúa ban cho ta những ơn xem ra Ngài cố tình không muốn ban, nhưng thực ra trái tim đầy yêu thương của Ngài rất muốn ban cho chúng ta. Khi đó chúng ta sẽ thấy rằng những sự trì hoãn này của Chúa có tính toán, và Ngài muốn như thế để có lý do ban cho chúng ta những ơn qúi trọng hơn, để thưởng cho niềm tín thác vững vàng của chúng ta.

Có tác giả đã đưa ra nhận định chí lý này : Người bạn trong Phúc Âm đã không táo bạo và không dám quấy rầy đến như vậy, nếu anh ta xin cho bản thân, hoặc xin cho gia đình anh ấy. Nhưng anh ấy muốn phục vụ một người bạn đến từ phương xa, và bất cứ người tốt lành nào cũng phải làm như vậy. Vậy thì tôi cũng vậy, nhiều khi tôi cầu xin Chúa, không phải những gì cho bản thân tôi hoặc gia đình tôi. Tôi cầu xin cho những người khác. Tôi cầu xin được bác ái, được nhẫn nhục, nhân hậu, khiêm nhường, để có thể đón nhận và cư xử với anh em cho hợp ý Chúa. Nhất là tôi xin Chúa ban cho tôi những nhân đức đó để đón tiếp người bạn vĩ đại là Chúa Giêsu, khi tôi rước lễ, khi Ngài muốn ở lại mãi mãi trong linh hồn tôi. Tôi chắc chắn sẽ được nhận lời. Người bạn của chúng ta, Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, rất yêu thương chúng ta. Ngài không ngủ bao giờ và luôn luôn sẵn lòng lắng nghe ta cầu xin, Ngài sẽ sung sướng được chúng ta quấy rầy như thế, để cầu xin Ngài tất cả những gì cần thiết để đón Ngài đến ở trong linh hồn chúng ta.

Những phép lạ của Chúa là những bài học cụ thể.

– Chúa Cứu Thế đã khẳng định cách long trọng rằng những lời cầu nguyện với niềm tin tưởng tín thác của chúng ta sẽ luôn luôn có hiệu qủa. Lời giảng dạy của Ngài về vấn đề này thật rõ ràng và chắc chắn. Tuy nhiên, để thuyết phục chúng ta hơn nữa, Ngài đã làm nhiều phép lạ để chứng tỏ  điều đó. Đó là như những bài học cụ thể cho ta. Rất nhiều lần, Ngài đã xác minh lời giảng dạy và những lời hứa của Ngài bằng những thí dụ đầy sức thuyết phục. Chúng ta hãy mở sách Phúc Âm ra, bất cứ chỗ nào chúng ta cũng thấy Ngài nói : Ngài đã làm các phép lạ đó vì niềm tin của những người đến cầu xin Ngài. “Niềm tin của con đã cứu con, đã chữa lành con” (Lc 7,50)[2]

Đó là kiểu nói quen thuộc của Chúa Giêsu. Ngài đã không nói : “Ta đã chữa lành con vì niềm tín thác của con”, nhưng Ngài nói “Niềm tin tưởng tín thác của con đã chữa lành con”, vì Ngài muốn nhấn mạnh về sự cần thiết phải có niềm tin, phải tín thác, nếu không, Ngài tuy toàn năng nhưng sẽ không hành động được. Niềm tin cậy của những bệnh nhân xin Ngài cứu chữa, làm cho Ngài khoái chí. Ngài luôn khen niềm cậy trông như thế. Có thể nói Ngài muốn lợi dụng các phép lạ Ngài làm, để dạy cho chúng ta những bài học cụ thể về niềm tín thác. Ngài đã nói như vậy với viên sĩ quan bách quân, với người bị bại liệt được thả xuống từ nóc nhà, và nhất là với người phụ nữ Canaan.

Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, những lời hứa qủa quyết của Ngài và những phép lạ chứng minh của Ngài, tất phải đủ sức thắng vượt mọi do dự và mọi nghi ngờ của chúng ta. “Lạy Chúa xin dạy chúng con cầu nguyện”. Xin dạy chúng con niềm tín thác trọn vẹn mà chúng con đang thiếu và rất cần.

“Hãy cầu nguyện nhân danh Thầy !”.

– Chúa Giêsu đã dạy chúng ta hãy đặt niềm tín thác của mình trên nền tảng lòng nhân hậu của Cha chúng ta ở trên trời. Ngài còn muốn củng cố niềm tín thác của ta bằng những lời hứa qủa quyết của Ngài, rằng ta sẽ nhận được những gì chúng ta cầu nguyện với niềm tín thác. Nhưng vẫn cần phải bảo vệ niềm tín thác của ta chống lại những nghi ngờ, do nhớ đến những sự yếu hèn của mình. Và đó là việc Chúa Giêsu đã làm khi nói những lời vĩnh biệt sau tiệc ly: “Thật, Thầy bảo thật, tất cả những gì anh em xin Cha Thầy nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho anh em. Cho đến nay, anh em chưa xin gì nhân danh Thầy. Anh em hãy xin thì sẽ nhận được, như thế để niềm vui của anh em được trọn vẹn… Ngày đó, anh em sẽ cầu xin nhân danh Thầy, nhưng Thầy sẽ không còn nói Thầy cầu xin cho anh em, vì chính Cha yêu thương anh em, bởi vì anh em đã yêu mến Thầy và đã tin rằng Thầy bởi Cha mà ra” (Ga 16, 23-27).

Đó là bí quyết nhiệm mầu để các lời cầu xin của ta được linh ứng. Tôi tin chắc sẽ được Chúa ban những ơn tôi xin, không phải vì lời cầu nguyện của tôi tốt lành và đáng Chúa lắng nghe đâu, nhưng vì Chúa Cha yêu mến Chúa Giêsu và muốn tôn vinh Ngài. Như vậy, mỗi khi cầu nguyện, tôi phải cậy nhờ công nghiệp Chúa Cứu Thế, cách minh nhiên hoặc cách tiệm nhiên.

Tất cả các lời kinh phụng vụ của Hội Thánh Mẹ chúng ta đều kết thúc bằng lời “Nhờ Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen”. Những lời này luôn được coi là những lời cuối cùng của việc cầu nguyện của chúng ta, và đó là mũi tấn công cuối cùng của chúng ta đánh vào lòng nhân hậu của Cha chúng ta ở trên trời, để nhận được những gì chúng ta cầu xin. Qua mấy lời vắn tắt này, chúng ta trình bày trước Thiên Chúa tất cả cuộc đời và những công nghiệp của Chúa Cứu Thế. Nhất là chúng ta nhắc đến cây thập giá, nơi Chúa Giêsu đã chịu chết để vâng lời Chúa Cha và đền tội cho chúng ta : Thánh Giá là dấu hiệu của sự hòa giải giữa Thiên Chúa và loài người tội lỗi, chắc chắn sẽ khiến Thiên Chúa thương đến chúng ta.

Cầu xin nhân danh Chúa Giêsu là cách tốt nhất để tránh mọi sự tin tưởng dại dột vào các nhân đức bất toàn của mình, vào sự công chính tự cao của mình và vào sự sốt sắng của lời cầu nguyện của mình. Chúng ta chỉ trông cậy vào công nghiệp vô cùng, và nhất là vào cuộc khổ nạn rất thánh của Chúa Giêsu. Nhất là chúng ta nhắc lại trước mặt Thiên Chúa những ước nguyện tha thiết của Chúa Giêsu, khi Ngài cầu xin Chúa Cha thánh hóa chúng ta : “Lạy Cha Chí Thánh, xin Cha giữ gìn họ nhân danh Cha… xin Cha thánh hóa họ trong chân lý” (Ga 17,11,24). Chúng ta cũng nhắc lại trước nhan thánh Chúa lời cầu xin cuối cùng của Chúa Giêsu, khi hấp hối trên thập giá : “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Khi cầu xin nhân danh Chúa Giêsu, chúng ta cũng làm vang lên tiếng kêu than của Chúa Giêsu trên thập giá : “Tôi khát !” (Ga 19,28). Lời này Chúa Giêsu kêu đến chúng ta, nhưng Ngài cũng kêu lên Cha Ngài. Vậy lời cầu xin của Chúa Giêsu, tức lời chúng ta cầu xin nhân danh Ngài, sẽ là lời cầu nguyện vô cùng mạnh sức, vì dựa vào công nghiệp vô cùng của Chúa Cứu Thế, làm cho lời cầu xin của chúng ta dễ được Thiên Chúa chấp nhận.

Và cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu còn hơn thế nữa. Không những chúng ta hợp với những lời khẩn nguyện của Chúa chịu đóng đinh trên thập giá, chúng ta còn hiệp thông với những lời cầu xin liên lỉ mà Chúa Giêsu không ngừng dâng lên Cha Ngài cho tất cả chúng ta, cho tôi. Đúng thế, trong lúc này và mãi mãi không ngừng, Chúa Giêsu hằng cầu xin cho chúng ta : “Ngài mãi mãi sống để chuyển cầu cho chúng ta.” (Dt 7,25). Ôi ! Mầu nhiệm khôn tả của tình thương Thiên Chúa : Chúa Giêsu luôn nghĩ đến tôi, vật thọ tạo nhỏ bé của Ngài ! Ngài dành cuộc sống trên trời của Ngài để lo trau dồi linh hồn tôi, để xin cho tôi được muôn ngàn ân sủng mà tội lỗi của tôi lẽ ra đã làm tôi mất đi. Chúa đã thưa với Cha Ngài : “Con không cầu nguyện cho họ mà thôi, nhưng cũng cầu xin cho những kẻ nghe lời họ giảng dạy mà sẽ tin kính Con, để tất cả trở nên một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha” (Ga 17,20-21).

Ôi, lạy Thầy chí thánh, xin ban cho con được thường xuyên, luôn luôn ý thức về sự hiệp nhất giữa Chúa và con đây ! Xin cho con đừng bao giờ cầu nguyện một mình, nhưng luôn bước vào cầu nguyện, dựa trên cánh tay Chúa, cậy trông vào danh Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa nơi Cha trên trời của con. Xin cho con được hiệp thông với những lời cầu nguyện rất thánh thiện mà Chúa dâng lên Thiên Chúa, khi Ngài sống trên trần gian này, để sự phong phú của những lời cầu xin đó bổ khuyết cho sự thiếu  thốn của những lời cầu xin của chúng con ! Và nhất là xin Chúa Giêsu cho con được hiệp thông với những lời khẩn nguyện mà Chúa hằng dâng lên Chúa Cha ở trên trời, cũng như trên các bàn thờ và từ trong các nhà tạm trên mặt đất này, khi Chúa đưa cho Chúa Cha thấy những thương tích của cuộc khổ nạn của Ngài !

III.  NHỮNG BÀI HỌC VỀ SỐNG TÍN THÁC: HÃY XEM CÁC BÔNG HUỆ NGOÀI ĐỒNG !

– SỐNG TÍN THÁC TRONG CUỘC ĐỜI VẬT CHẤT.

– VÀ NHẤT LÀ TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.

Những bài học về sống tín thác : Hãy xem những bông huệ ngoài đồng.

– Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải tín thác trọn vẹn và vững vàng khi cầu nguyện, để chắc chắn nhận được những gì chúng ta ước nguyện. Nhưng tín thác không chỉ giới hạn ở những giây phút cầu nguyện và đọc kinh, nhưng ta phải thực hành niềm tín thác mỗi lúc, và ở mọi dịp. Khi niềm tín thác được trải rộng ra tới mọi chi tiết và mọi biến cố của cuộc đời như thế, nó sẽ tươi nở thành “sống tín thác”. Chính sự sống tín thác như thế sẽ làm cho ta sống như những đứa con của Chúa. Chúng ta hãy nghe thêm những bài học khôn sánh mà Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng ta. Có thể nói những trang đẹp nhất và ngọt ngào nhất của sách Phúc Âm là những trang nói Chúa Giêsu dạy chúng ta sống trọn vẹn niềm tín thác.

Ngài muốn giải thoát các môn đệ khỏi những lo lắng thái qúa về cuộc sống vật chất, để tâm hồn họ được rộng mở hơn về phía trời cao. Chắc chúng ta đã nhiều lần suy gẫm về những trang này và đó là điều rất tốt. Nhưng, một lần nữa, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe những lời rất cao siêu và rất dịu dàng của Thầy Chí Thánh.

Bởi vậy Thầy bảo anh em : đừng lo lắng về cuộc sống của anh em, lo mình sẽ ăn gì, uống gì; cũng đừng lo lắng về thân xác, sẽ ăn mặc thế nào. Sự sống chẳng trọng hơn của ăn sao ? Và thân xác chẳng trọng hơn áo mặc sao ? Anh em hãy nhìn xem các chim trời chúng không gieo, cũng không gặt, chúng không tích trữ gì trong kho lẫm, vậy mà Cha anh em ở trên trời, nuôi dưỡng chúng. Anh em không đáng giá hơn chúng nhiều sao ? Ai trong anh em nhờ lo nghĩ nhiều mà có thể kéo dài cuộc sống của mình thêm được một gang ? Và tại sao anh em lo nghĩ về áo mặc ? Hãy nhìn xem những bông huệ ngoài đồng, chúng lớn lên thế nào ? Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Nhưng Thầy nói cho anh em biết Vua Salômôn quang vinh rất mực như thế cũng đã không mặc đẹp bằng một bông huệ. Vậy nếu Thiên Chúa mặc đẹp như thế cho hoa cỏ ngoài đồng là thứ nay còn, mai đã bị ném vào lò lửa, Ngài lại không làm như thế cho anh em sao, hỡi những người kém tin ? Vậy anh em đừng lo lắng và tự hỏi: Mình sẽ ăn gì, sẽ uống gì, hoặc sẽ ăn mặc thế nào đây ? Những điều đó, các dân ngoại luôn tìm kiếm, nhưng Cha anh em ở trên trời biết anh em có những nhu cầu đó. Trước hết anh em hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn tất cả những sự đó, Ngài sẽ ban thêm cho anh em. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai : Ngài mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).

Sống tín thác trong đời sống vật chất.

– Thật là tốt lành khi được nghe những lời trấn an như thế của Thầy chí thánh. Người ta cảm thấy như được dần dần nâng lên khỏi những dao động của trần thế, và được đưa vào một bầu không khí thanh quang, gần với trời. Những lời đầy thi vị và hình ảnh Đông Phương của Chúa thật là ngọt ngào và đầy sức thuyết phục. Người ta không thể tưởng tượng được điều gì vừa đơn sơ, vừa hợp lý và vừa có sức thuyết phục hơn.

Những lời này dạy ta nhìn mọi sự dưới ánh sáng của đức tin mạnh mẽ nhất, xem tất cả thế giới như sân khấu của sự xắp đặt đầy khôn ngoan và yêu thương của Cha trên trời. Chính Ngài lo cho mọi sự vật, từng sự vật, dầu nhỏ mọn nhất. Một ngọn cỏ, một bông hoa nhỏ ngoài đồng cũng là đối tượng của sự chăm lo của Ngài. Con sâu nhỏ nhất, con chim sẻ bé nhỏ, đều nhận được lương thực từ tay Ngài. Ngài nghĩ đến những nhu cầu vật chất của những loài thấp kém đó. Phương chi Ngài sẽ càng lo cho những nhu cầu của chúng ta, những đứa con của Ngài, vì chúng ta gọi Ngài là Cha chúng ta. Vậy chúng ta đừng lo lắng “như những người ngoại giáo !”. Cha chúng ta ở trên trời biết chúng ta có những nhu cầu đó.

Những lời Chúa Giêsu giảng dạy các môn đệ đã hai ngàn năm như thế, đã vang dội khắp các nước trên thế giới. Qua các thời đại, những lời này đã nuôi dưỡng và củng cố niềm tín thác cho biết bao vị thánh nam nữ, biết bao vị sáng lập các dòng tu, nhất là các tu hội hành khất, vì các ngài đã trông cậy vào sự nuôi dưỡng của Cha trên trời. Và ngày hôm nay, chính những lời đó của Chúa Giêsu đã gây dựng nên hàng ngàn tu hội dòng nam nữ, sẵn sàng hiến tất cả cho những người nghèo : thời giờ của mình, những sự chăm lo của mình, tình thương và cả những tài sản cuối cùng của mình. Giữa những vật lộn ngày càng gay cấn để sống còn, và ngược hẳn với những lo toan qúa đáng của thời đại siêu văn minh của chúng ta, hàng ngàn hàng vạn những linh hồn được đào tạo bởi những lời thần linh của Chúa Cứu Thế, đang sống ngày nào biết ngày đó, trong tâm tình thanh thản, trông cậy mọi sự nơi Cha trên trời là Đấng nuôi dưỡng các chim trời và các bông huệ ngoài đồng.

Có thể chính bản thân tôi cần suy gẫm nhiều về những lời rất tốt lành này. Quan niệm hằng ngày của tôi về thế giới, quan niệm thực hành chớ không phải quan niệm lý thuyết, có lẽ đã phần nào bị nhiễm chủ nghĩa duy vật ? Khi tôi bị một cơn bệnh hoành hành, khi một thất bại khiến tôi buồn sầu, khi người ta nói những lời xúc phạm đến tôi, một niềm tin sâu sắc có cho tôi thấy bàn tay của Thiên Chúa trong tất cả các sự việc đó chăng ? Hay là tôi đã quên rằng tất cả mọi sự dệt lên cuộc đời tôi, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, đều do Cha trên trời đã muốn và đã cho phép xảy ra vì yêu thương tôi ? Tất cả mọi sự đều được Ngài sử dụng như dụng cụ để giúp tôi dứt mình ra khỏi trái đất này, dứt mình tôi ra khỏi chính bản thân mình để gắn bó với một mình Ngài mà thôi. Một người mẹ nuôi con mình bằng sữa mình, cũng không chăm lo cho con mình bằng Thiên Chúa chăm lo cho mỗi người chúng ta, cho riêng bản thân tôi. Ngài bảo vệ tôi, nuôi dưỡng tôi, lo cho tôi sống cách tự nhiên và cách siêu nhiên, y như thể chỉ có một mình tôi trên thế gian này.

Nhiều khi vì thiếu tín thác, vì không sống tín thác, tôi đau khổ lắm. Đáng buồn thay ! Những đau khổ đó không phải là những thánh giá Chúa gửi cho tôi, nhưng đó là thánh giá tôi đã tạo ra cho mình. Tôi nghiền ngẫm cách vô ích và mãi mãi những đau khổ, những ưu phiền và những thử thách đã qua. Tôi buông lỏng cương cho trí tưởng tượng, và trong cảnh lo âu đó, tôi tự làm khổ mình về những bất trắc có thể sẽ không bao giờ xảy ra cho tôi. Tôi tự làm khổ mình bằng những đau khổ mà tôi nhớ lại đó và bằng những sự sợ hãi vô căn cớ. Tôi sẽ an vui hơn biết bao, sẽ can đảm hơn biết bao, nếu tôi gạt bỏ đi tất cả những lo nghĩ vô ích đó và sống theo lời khuyên của Thầy Chí Thánh : “Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có đủ cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34).

Sống tín thác trong cuộc đời thiêng liêng.

– Tôi phải tín thác, để Chúa lo cho thân xác tôi và những nhu cầu vật chất của thân xác tôi. Tôi càng phải tín thác để Ngài lo lắng cho linh hồn tôi. Điều này qúa hiển nhiên. Nếu Thiên Chúa tỉ mỉ chăm lo mọi nhu cầu vật chất cho tôi, Ngài còn âu yếm chăm lo gấp trăm ngàn lần cho linh hồn tôi, vì linh hồn qúi trọng muôn ngàn lần hơn thân xác. Mỗi bông hoa nhỏ đều được Ngài yêu qúi chăm lo, chắc Ngài còn chăm lo biết bao hằng ngàn bông hoa tốt đẹp là các nhân đức của linh hồn tôi : Ngài lo cho những nhân đức đó tươi nở, làm vui lòng và vui mắt Ngài, Cha nhân từ của chúng ta. Mỗi ước nguyện tốt lành và thánh thiện của tôi sẽ là một nụ hoa được Ngài yêu qúi chăm sóc, cho tới khi nó nở ra hoa, và Ngài sẽ lo cho nó kết qủa, những qủa ngon ngọt.

Tất nhiên, hành động đầy yêu thương của Ngài thường kín đáo. Đôi khi Ngài cũng cho ta cảm thấy Ngài : Ngài làm cho linh hồn tôi vui sướng vì tác động dịu dàng của Ngài, vì cũng có lúc Ngài cho tôi cảm thấy sự hiện diện mến yêu của Ngài. Vào những lúc đó, những lúc diễm phúc đó, tôi kêu lên như thánh Bênađô : “Chỉ ai có kinh nghiệm mới có thể tin : Yêu mến Chúa Giêsu ngọt ngào dường nào !”[3].  Nhưng thông thường, Ngài ẩn mình đi, để tôi có vẻ như cầu nguyện một mình, chiến đấu và làm việc một mình vì lòng yêu mến Ngài. Người ta không cảm thấy hành động thiêng liêng của Ngài. Đôi khi Ngài còn có thể cho tôi có cảm tưởng đau đớn và thần bí của sự đi khỏi của Ngài. Tôi tưởng như đã làm phiền lòng Ngài : sự khô khan và những chán nản đã tràn vào linh hồn tôi.

Những khi đó, hãy tín thác ! Không, Chúa Giêsu không bỏ tôi, để tôi làm việc và chịu đau khổ một mình đâu ! Ngài không bỏ rơi tôi đâu. Ngài không để tôi uổng phí thời giờ qúi báu để nên thánh đâu. Nếu Ngài ẩn mình lâu, có thể rất lâu, thì đó chỉ là cách thế của Ngài, để làm cho lửa mến của tôi càng bốc cháy lên. Hãy tin tưởng và tín thác nơi Ngài ! “Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng tiền nhỏ, phải không ? Vậy mà không một con nào rơi xuống đất mà không có phép Cha Thầy. Cả những sợi tóc trên đầu anh em cũng đã được đếm hết” (Mt 10,29). Vậy chúng ta đừng sợ gì hết ! Linh hồn tôi đã được thần linh hóa bởi ân sủng và được trang hoàng bằng các nhân đức, thì có giá trị hơn những con chim sẻ nhiều.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa năng nhắc lại cho linh hồn con nghe những lời đầy khích lệ của Chúa. Trong sự thinh lặng của mọi sự, xin dạy con hiểu ý nghĩa sâu xa của những lời giảng dạy của Chúa. Xin giúp linh hồn con vượt qua mọi lo lắng của cuộc sống vật chất, cũng như những lo âu vô cớ của đời sống thiêng liêng. Đó là những mảnh lưới giam hãm linh hồn con, xin cho con được biết sống tín thác, một niềm tín thác ngày càng trọn vẹn, để linh hồn con được giải thoát, và bay lên tới những miền đầy ánh sáng thần linh của Chúa, linh hồn con sẽ say sưa mến yêu Chúa vì được chiêm ngưỡng những phẩm tính thần linh của Ngài.

Paul De Jaegher S.J.

 

[1] Chúng ta có thể tin chắc rằng Chúa luôn trung thành với lời hứa : Ngài sẽ ban ơn ta xin, hoặc một ơn khác tương tự và thường qúy trọng hơn.

[2] Chúng tôi thấy cần phải nhấn mạnh đến yếu tố tin tưởng và tín thác trong niềm tin của người ta.

[3] Hymne : Jesu dulcis memoria.