8. Đời Sống Tâm Linh

Niềm Tín Thác – Chương I: BẢN CHẤT CỦA NIỀM TÍN THÁC

– SỰ CẦN THIẾT CỦA NIỀM TÍN THÁC

– ĐỐI TƯỢNG CỦA NIỀM TÍN THÁC

– NHỮNG LÝ DO CỦA NIỀM TÍN THÁC

Sự cần thiết của niềm tín thác. – Đức cậy trông, và niềm tín thác là sự phát huy và hoa trái của đức cậy, là như mặt trời dùng ánh sáng và sức nóng của nó để làm nảy sinh mọi thứ trong thế giới đạo đức, làm cho mọi thứ sống động, tăng trưởng và sinh hoa trái. Những chỗ mà các quang tuyến bị giá lạnh của nó khó soi tới, hoặc chỉ tới được mỗi năm một ít tháng thôi, thì người ta thấy sự tàn tạ, vắng bóng sự sống, có mặt sự chết. Thiếu niềm cậy trông, mọi sự sẽ rã rời, mọi thứ sẽ suy sụp, sẽ trở thành tiều tụy. Không còn phấn khởi, không còn hoạt động, không còn sự sống. Mọi thứ đều chết. Thiếu niềm tín thác, ngay cuộc sống trần gian này cũng không sống nổi. Hãy tưởng tượng hai vợ chồng không còn tin tưởng nhau, nghi ngờ nhau. Cuộc sống của họ không còn gì là vui sướng, không còn gì là dịu dàng, không còn gì là tình yêu. Một đứa bé không tin tưởng và tín thác nơi mẹ nó sẽ như thế nào ? Nó sẽ sống làm sao ?

Về đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúng ta là những đứa con bé nhỏ của Thiên Chúa, những đứa trẻ yếu đuối, bất lực, không thể sống, tăng trưởng và phát huy, nếu nhân đức hướng thần rất tốt đẹp là đức cậy không mạnh mẽ trong tâm hồn chúng ta. Nếu chúng ta không có một niềm tin tưởng tín thác thật lớn lao và vững vàng nơi Thiên Chúa, chúng ta chỉ có thể sống èo ọt. Nếu thay vì tìm kiếm nơi Chúa những ân sủng, những sự trợ giúp, những thức ăn của đời sống thiêng liêng, chúng ta lại chỉ dựa vào sức mình và tìm cách sống tự lập, thì chúng ta sẽ như những trẻ sơ sinh đã mất mẹ.

Vậy điều hết sức quan trọng là chúng ta phải lo gia tăng, lo cho đức cậy trông, niềm tín thác của chúng ta nơi Thiên Chúa lớn thêm mãi lên. Đức cậy càng vững vàng, càng mãnh liệt, thì đời sống thiêng liêng của chúng ta càng tươi nở, càng tròn đầy, nhịp tim của chúng ta càng phấn khởi và tình mến yêu Chúa càng bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.

Đối tượng của đức cậy trông. – Vậy trước hết, niềm tín thác là gì ? Thánh Tiến sĩ thiên thần nói đó là một hình thức của đức cậy trông, và ngài định nghĩa “tín thác là một niềm cậy trông được vững mạnh nhờ một sự xác tín vững vàng[1].  Ở một chỗ khác, thánh nhân còn nói: “Từ tín thác có nghĩa là niềm cậy trông mà ta có vì tin vào lời của ai đó đã hứa giúp đỡ ta[2]. Vậy có thể nói, như chúng tôi đã nói trên kia, rằng niềm tín thác là sự phát huy và hoa trái ngon ngọt của đức cậy[3].

Vậy trước hết phải biết chúng ta có thể cậy trông những gì nơi Thiên Chúa. Nói cách khác, đối tượng của đức cậy là gì ?

Điều này chúng ta đã biết từ hồi còn nhỏ. Sách giáo lý đã dạy chúng ta rõ ràng. Chúng ta không cậy trông nơi Thiên Chúa điều gì khác ngoài chính mình Ngài, vì Ngài là sự Thiện tối cao, là Hạnh phúc muôn đời của ta, và chúng ta cũng hy vọng nhận được tất cả mọi phương tiện dẫn tới Ngài. Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta vì Ngài, để chúng ta có được Ngài phần nào ngay ở đời này bằng đức tin và đức mến, để chúng ta sống nhờ Ngài và cho Ngài, để một ngày kia chúng ta có được Ngài cách trọn vẹn ở trên trời. Như vậy chúng ta cậy trông đạt được cùng đích tối hậu của chúng ta ở nơi Ngài.

Mấy lời ngắn ngủi trên đây thật là đơn giản, nhưng chúng che khuất cả một chân trời vô biên. Chúng ta là những tạo vật đáng thương hại, những hạt bụi bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã gọi chúng ta hãy lên với Ngài, hãy kết hiệp với Ngài là sự Toàn Thiện vô cùng, và Ngài cho chúng ta tìm thấy một sự ngây ngất của tình yêu diễm phúc trong việc chiêm niệm cách yêu mến các phẩm tính thần linh của Ngài.

Đó là ý định của Thiên Chúa về chúng ta, đó là niềm ước ao của Ngài, kế hoạch của Ngài. Và để chúng ta luôn hướng về Ngài, Ngài đã đặt nơi đáy lòng chúng ta một sự khát khao không nguôi đối với Ngài. “Lạy Chúa, Ngài đã tạo thành chúng con vì Ngài, cho nên trái tim chúng con bất an cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài[4]. Chúng ta thèm khát Thiên Chúa ; ngay từ khi sinh ra, chúng ta đã được Thiên Chúa ghi dấu ấn thần linh trên chúng ta. Ý thức hay không ý thức, là thánh nhân hay là người tội lỗi, tất cả chúng ta đều bị lôi cuốn cách kỳ diệu bởi Thiên Chúa, như một thứ nam châm hằng hữu và phổ quát. Chúng ta bị thu hút rất mạnh mẽ bởi Đấng là sự Thiện tối cao, đến nỗi sự khao khát hạnh phúc này cũng đồng thời là niềm khao khát hạnh phúc đã trở thành động lực vô thức và bí ẩn của tất cả mọi hành động của ta.

Chính sự thỏa mãn tròn đầy và trọn vẹn niềm khát khao sâu xa và nồng nàn này, không những đã được Thiên Chúa cho phép, mà Ngài còn truyền dạy người kitô hữu phải trông chờ ; cho nên khi họ lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, không những Ngài đã ban cho họ sự sống siêu nhiên, Ngài còn đặt vào linh hồn họ đức cậy siêu nhiên cùng với đức tin và đức mến.

Nhân đây xin nói rằng niềm khát khao siêu nhiên này gồm hai tâm tình : 10 niềm ước ao hạnh phúc siêu nhiên mà Chúa đã đặt làm đích điểm và cùng đích tối hậu của cuộc đời ta, 20 sự vững tâm sẽ đạt được niềm hạnh phúc đó nhờ nhận được từ Thiên Chúa tất cả những gì cần thiết để đạt tới.

Hai yếu tố này phát triển đồng thời, mặc dầu đôi khi yếu tố này hoặc yếu tố kia xem ra trội hơn, tùy những hoàn cảnh và những đường lối mà Thiên Chúa dắt chúng ta đi. Thật là một niềm an ủi lớn lao cho ta, khi biết rằng sự chúng ta quí mến đức trọn lành, những ước ao nồng nàn nên thánh đôi khi làm tâm hồn ta rung lên hoặc héo hon, là dấu hiệu quí giá cho biết đức cậy của chúng ta đang phát huy và, nhờ ơn Chúa, đang rất sống động.

Trong những cơn thử thách thiêng liêng lớn lao, nhất là trong những đêm tối thần bí, yếu tố thứ hai của đức cậy, tức sự vững tâm đạt được hạnh phúc muôn đời và nhận được những phương tiện cần thiết để đạt tới, sẽ bị thanh luyện trong lò những gian truân. Khi đó chúng ta thấy sự vững tâm này qúa ít ỏi và lung lay. Nhưng đó chỉ là một dáng vẻ thôi. Sự mãnh liệt của những ước ao thánh thiện làm nên yếu tố thứ nhất sẽ là một bảo đảm quí giá để khích lệ và nâng đỡ chúng ta. Cơn thử thách sẽ qua đi, và yếu tố thứ hai, tức sự vững tâm nên thánh, sẽ lại xuất hiện, mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn bao giờ hết.

Những lý do để tín thác. – Nếu chúng ta cậy trông Thiên Chúa và tất cả những gì đưa ta đến với Ngài, thì chúng ta cũng phải cậy trông mọi sự ở nơi Ngài. Không những Thiên Chúa là đối tượng, nhưng Ngài còn là lý do và sự nâng đỡ đức cậy của chúng ta. Chúng ta đặt tất cả niềm cậy trông của chúng ta ở nơi Ngài và chỉ ở nơi Ngài mà thôi, bởi vì Ngài vô cùng quyền năng và không có một sự gì khó đối với Ngài. Nhưng nhất là chúng ta cậy trông Chúa vì Ngài là Cha rất yêu thương ta. Ngài vô cùng tốt lành và đầy lòng thương xót. Sau cùng chúng ta cậy trông Chúa vì Ngài tuyệt đối trung thành với những gì Ngài đã hứa.

Nên ghi nhận ngay điều này : chúng ta cậy trông nơi Thiên Chúa vì Ngài tốt lành và quyền năng, chớ không phải vì chúng ta tốt lành, dễ thương, hoặc vì chúng ta có khả năng gì. Đức cậy xây nền trên cảm tưởng hoặc ý thức về sức mạnh của mình không phải là đức cậy kitô-giáo và siêu nhiên. Một sự tự tin như thế chỉ là một cách tính toán về khả năng của mình và không phải là đức cậy, một nhân đức hướng thần rất tốt đẹp. Sau này chúng ta sẽ có dịp thấy rằng : than ôi ! Cỏ lùng của đức cậy giả dối có thể được trộn lẫn vào hạt giống tốt, và sự cậy vào sức mình là con ký sinh trùng có thể sống bám vào và làm hại bông hoa tươi đẹp là đức cậy kitô-giáo.

Ngay từ bây giờ, chúng ta phải hiểu rằng : muốn cậy trông vào Thiên Chúa bằng một đức cậy mãnh liệt, thực hành, vững vàng, chúng ta cũng phải có một ý tưởng mãnh liệt, và không chỉ lý thuyết, nhưng là một ý tưởng thực hành về các phẩm tính của Thiên Chúa, nhất là Quyền năng, sự Tốt lành và Tình yêu đầy thương xót của Ngài. Nếu biết bao người thiếu lòng cậy trông vào Chúa, thì một trong những lý do chính là vì họ chỉ có một ý tưởng trừu tượng và mờ nhạt về Thiên Chúa. Quyền năng, Nhân hậu và Tình yêu thương xót của Thiên Chúa là những từ không gợi lên một xúc động nào trong tâm hồn họ. Bởi vậy những sự tốt lành đó của Thiên Chúa phải trở thành những thực tại sống động cho ta, những thực tại ta sờ thấy được và hết lòng yêu mến. Tóm lại, đức tin của ta phải mãnh liệt hơn, phải chiếu nhiều ánh sáng hơn vào những phẩm tính thần linh đó của Chúa. Vì đức tin của ta yếu kém, cho nên dĩ nhiên đức cậy của ta cũng không hơn gì. Một điều chắc chắn là : nhận thức của ta về Thiên Chúa và các phẩm tính của Ngài, cũng như nhận thức của ta về Chúa Giêsu càng sống động, cụ thể và phong phú, thì niềm tín thác của ta cũng sẽ càng mạnh mẽ và vững vàng.

Muốn được thế, chúng ta phải thường xuyên suy gẫm các sách thánh : các Thánh Vịnh là những thánh thi tuyệt hảo ca tụng lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa ; – Các Phúc Âm với những hoạt cảnh rất cụ thể và sống động, diễn lại trước mắt ta cuộc đời đầy yêu thương, đầy nhân hậu và lòng thương xót của Chúa Giêsu. Ta cũng phải năng đọc các sách thần bí để làm phong phú thêm cho nhận thức của ta về các phẩm tính thần linh của Thiên Chúa. Các nhà thần bí đó là những bạn chí thân của Thiên Chúa : các ngài đã tới gần Thiên Chúa hơn những người khác. Một chút ánh sáng của những phẩm tính thần linh của Chúa đã soi tới tâm hồn các ngài, khiến các ngài choáng váng và đưa các ngài vào tình trạng xuất thần yêu mến. Tiếp xúc với những tác phẩm còn nóng ran của các ngài, còn rung động vì cảm xúc, chúng ta cũng sẽ cảm thấy tưng bừng, và những sự tốt lành của Thiên Chúa mà trước đây ta vẫn thấy là mờ nhạt và lạnh lùng, thì nay rực sáng lên với những mầu sắc huy hoàng, rất gần gũi và rất sống động.

Nhưng nhất là nhận thức của tôi về Thiên Chúa phải là một nhận thức thực hành, do kinh nghiệm sống của tôi và liên hệ đến bản thân tôi. Với bất cứ giá nào, tôi phải thoát ra khỏi lãnh vực của những học thuyết để đi vào hiện thực cụ thể. Tôi phải nhờ việc nguyện gẫm, chiêm niệm và tất cả cuộc sống thiêng liêng, cùng với những đấu tranh, những thất bại cũng như những chiến thắng để nhận thấy và cảm thấy rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tôi, Chúa Giêsu là Đấng Cứu chuộc của tôi. Dần dần và bằng nhiều cách, tôi phải cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa rất tốt lành đối với tôi, Ngài thương yêu tôi, Chúa Giêsu đã chịu chết vì tôi, vì yêu thương tôi. Sau cùng, tôi phải cảm thấy rằng : ở đời này cuộc sống của tôi và ân sủng của Chúa Giêsu quấn lấy nhau, như cây dây leo quấn lấy cây sồi nâng đỡ nó.

Những điều kiện của tín thác.– Đức cậy có những điều kiện của nó. Thiên Chúa tốt lành vô cùng và đầy lòng thương xót, nhưng Ngài không quá hiền lành. Ngài ghen tuông về vinh quang của Ngài. Nhất là vì sự thánh thiện và vì sự khôn ngoan của Ngài, Ngài không thể để người ta uổng phí các ân sủng của Ngài. Ngài không gieo hạt giống trên những mảnh đất khô cằn. Và Ngài làm thế, vì chính lòng nhân hậu của Ngài, vì Ngài quá biết rằng mọi ân sủng bị từ chối và mọi hồng ân bị lạm dụng sẽ kêu đến sự công chính của Ngài, và Ngài phải trừng phạt. Vậy niềm tin cậy và tín thác của ta phải sáng suốt và khôn ngoan : chúng ta đừng cậy trông cách dại dột những điều không được cậy trông.

Nên nhớ đối tượng của đức cậy là gì : đó là sau cùng được kết hiệp với Thiên Chúa, tức là hạnh phúc muôn đời và tất cả những gì giúp ta đạt tới hạnh phúc đó. Ngoài ra, chúng ta không được cậy trông gì khác. Cho nên sức khỏe, sự thịnh vượng vật chất, thành công trong công việc làm ăn, được người khác quí trọng, cũng như những hồng ân trong đời sống thiêng liêng, như những sự an ủi của Chúa, được chấm dứt thử thách này hoặc cơn cám dỗ kia, tất cả đều tùy vào sự đạt được cùng đích tối hậu của ta là ơn cứu độ. Cậy trông khác đi sẽ không phải là đức cậy kitô-giáo nữa, mà là sự khờ dại. Một người mẹ yêu thương con đến mấy, và chính vì bà yêu thương con mình, nên không thể đưa cho con một con dao để chơi, càng không thể đưa cho nó gói thuốc độc mà nó đòi uống. Và Thiên Chúa sẽ không khôn ngoan khi vì yêu thương mà ban cho ta một hồng ân sẽ có hại cho ơn cứu độ của ta.

Bởi vì thường chúng ta không biết điều này điều kia có tốt cho ta không, ân sủng nọ ân sủng kia có vẻ rất tốt cho ta, nhưng thật sự có ích lợi cho linh hồn ta không, vì chúng ta không rõ những kế hoạch của Chúa và đường lối Ngài muốn dẫn đưa chúng ta, cho nên trong đa số các trường hợp, chúng ta phải điều kiện hóa lời cầu xin và niềm tín thác của ta. Cậy trông cách tuyệt đối vào những gì có thể nguy hại cho ta sẽ là dại dột và sẽ đưa tới chán nản.

Chúng ta thường lãng quên điều quan trọng đó. Nhất là trong lãnh vực đời sống thiêng liêng,   chúng ta thường không nghĩ phải điều kiện hóa niềm tín thác của mình. Chúng ta coi là quá hiển nhiên phải xin được ơn an ủi này, phải được ơn chiêm niệm kia, phải được kết hiệp yêu mến với Chúa, phải được cha linh hướng kia vì ngài hết sức ích lợi cho ta… Đúng rồi, theo những kế hoạch nên thánh của ta, sự thể là như thế đấy, nhưng các kế hoạch của chúng ta không phải là những kế hoạch của Thiên Chúa. “Trời cách xa đất bao nhiêu, thì những đường lối của Ta cũng cách xa đường lối của các ngươi bấy nhiêu” (Is. 60,9).

Những kế hoạch của sự khôn ngoan loài người thiển cận thường không phù hợp với những kế hoạch khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Bởi đó, biết bao nhiêu lo âu, biết bao nhiêu cay đắng, biết bao nhiêu thất vọng được coi là những nhát búa đập phá nền cậy trông tín thác của ta ! Chúng ta đã cậy trông Chúa, đã cầu nguyện nhiều và với niềm tin tưởng mãnh liệt, lẽ ra chúng ta phải được Chúa nhận lời chứ !… Nhưng, thương hại thay ! Chúng ta đã không cậy trông đúng cách ! Lẽ ra chúng ta đã phải điều kiện hóa niềm cậy trông của mình, lẽ ra chúng ta đã phải chỉ cậy trông vào Chúa, vào đối tượng duy nhất của niềm cậy trông của chúng ta.

Xin cũng đừng quên rằng một số ân sủng, một số hồng ân ta ước ao, cũng nằm trong các kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta, nhưng không đúng vào ngày giờ mà chúng ta ước ao, không theo cách mà chúng ta dự trù. Chẳng hạn, Chúa không ước ao gì hơn sự nên thánh của ta. Ngài luôn luôn lo mọi cách giúp ta. Chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng Ngài sẽ ban ơn nên thánh cho ta, nếu chúng ta cũng làm hết sức mình và cầu nguyện cách kiên trì và trong những điều kiện Ngài muốn. Nhưng ta phải để Thiên Chúa, để cho sự khôn ngoan vô cùng của Ngài chọn và định đoạt những phương tiện nên thánh của ta. Nếu Chúa trì hoãn một chút, không đáp lại lời cầu xin của ta ngay, ta không nên vì thế mà mất niềm tín thác chút nào. Thánh Phaolô đã nói : “Tôi biết tôi tin tưởng vào Đấng nào” (2 Tim 1,12). Tôi biết tôi tín thác nơi Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc tôi. Và lời Thánh Vịnh: “Tôi cậy trông vào Thiên Chúa, tôi sẽ không tủi hổ bao giờ” (Tv 30,2).

Có thể chúng ta đã có dịp nhìn ngắm những họa sĩ khi họ đang thực hiện những công trình của họ. Chúng ta thấy họ khéo léo đặt những nét trên khung vải. Chúng ta không bao giờ nghĩ đến việc hỏi họ về nghệ thuật của họ, và mỉm cười hỏi họ về ý nghĩa của những vết sơn trắng và xanh dương không ra hình thù gì hết, rồi chỗ nhiều mầu sắc quyện vào nhau kia : sau cùng các chấm sơn và những nét vẽ kia đã cho ta thấy xuất hiện trên nền vải một khung trời với những đám mây, những ngôi nhà và những con người. Thiên Chúa là nghệ sĩ thần linh cũng dầy công phu vẽ nên bức họa kỳ diệu là đời sống của ta. Chúng ta đừng vội hỏi Ngài về các kế hoạch của Ngài, và đừng muốn đưa ra các ý kiến của ta, bắt Ngài phải chấp nhận. Ngài thừa biết cách pha các mầu, phối hợp những chỗ sáng và những chỗ tối để thực hiện một kiệt tác xứng với Ngài.

Sau khi đã có sự dè dặt này, đã giữ điều kiện này, bây giờ thử xem những điều kiện để ta được tha hồ tín thác vào Chúa.

Điều kiện cần thiết hơn hết là một chút khiêm nhường, ý thức về sự bé mọn của mình, về sự bất xứng và bất lực của mình. Nếu chúng ta đến với Chúa với một cái gì gợi lên những tâm tình của người Biệt phái kiêu ngạo, thì chúng ta biết trước hậu quả của lời cầu nguyện của mình. Ngay ở trần gian này chúng ta cũng không thể chấp nhận một kẻ ăn xin dám đòi hỏi chúng ta phải rộng lượng với hắn. Thật không có gì hỗn xược hơn, khó coi hơn. Thiên Chúa càng không thể chấp nhận tính kiêu căng tự đại nơi chúng ta là những kẻ ăn xin khốn khó. Không có gì khiến Ngài ngoảnh mặt đi hơn. Nhưng nếu chúng ta không cậy vào công lao của mình, nhưng cậy vào lòng thương xót vô cùng, sự tốt lành vô biên và lượng khoan hồng của Ngài, nếu chúng ta không mắc cỡ tỏ cho Ngài thấy những nhu cầu về thân xác của ta và những ung nhọt của linh hồn ta, chúng ta có thể chắc chắn rằng Vua cả trên trời sẽ cúi nhìn chúng ta với đầy lòng thương xót, sẽ nâng đỡ ta, giúp đỡ ta và chữa lành ta.

Tâm trạng đáng quí nhất, dịu ngọt nhất và cũng dễ dàng nhất, là tâm trạng của một em bé đối với cha và mẹ nó. Đôi khi cũng nên đến với Chúa như những kẻ ăn xin rách rưới đến với Vua các vua, và khẩn nài Ngài mở rộng kho thiêng liêng của Ngài. Nhưng tốt nhất và vô cùng êm ái vẫn là đến với Chúa như một đứa bé đến với cha và mẹ rất yêu thương nó. Chúng ta hãy đến thưa Chúa rằng ta đói, ta khát, ta đau yếu, hãy nói với Chúa về những buồn phiền, những lo âu, những ước vọng của ta. Hãy thưa với Chúa như những đứa con thảo. Và hãy cố gắng tỏ lòng trông cậy Ngài ít ra cũng bằng ta tin tưởng nơi người cha trần gian của mình. Như thế đã là nhiều lắm rồi, nhiều hơn tâm tình mà ta thường có đối với Chúa, nhưng Ngài là người Cha vô cùng tốt lành hơn bất cứ những người cha tốt lành nào ở trần gian này, Ngài không đáng chúng ta yêu mến và tín thác hơn thế sao ?

Có thể người ta sẽ vấn nạn rằng : nếu phải có đức khiêm nhường để có thể tín thác trọn vẹn nơi Chúa, thì làm sao thực hiện niềm tín thác được, bởi đa số chúng ta là những người tội lỗi ? Đức khiêm nhường chẳng phải là điều chúng ta thiếu hơn cả sao? Chẳng phải đó là ơn chúng ta cần phải cầu xin sao ?

Ồ, chúng ta phải nghe và hiểu nhau. Tất nhiên không cần phải có đức khiêm nhường toàn hảo để đến với Chúa. Nhưng cần phải khiêm nhường một chút, và một chút khiêm nhường như thế không phải là khó gì, đối với chúng ta là những kẻ ý thức về tình trạng khốn nạn của mình, về những nhu cầu và những thiếu thốn của mình. Thiên Chúa không có quyền đòi một chút khiêm nhường rất tự nhiên đó sao ? Mà thật ra, chút khiêm nhường đó sẽ dần dần lớn lên, và cùng với sự tăng trưởng của đức khiêm nhường, niềm tín thác cũng tăng thêm. Tất cả các nhân đức ảnh hưởng lẫn nhau và trợ lực cho nhau. Theo mức tăng trưởng của đức khiêm nhường, niềm tín thác của ta cũng sẽ trở nên trọn vẹn hơn.

Cũng nên nói thêm rằng : ta phải thật lòng ước ao những gì ta cầu xin Chúa. Nếu những ước ao của ta mờ nhạt, uể oải, nếu chúng ta đến với Chúa vì thói quen, làm sao chúng ta có thể trông cậy Ngài ban ơn? Ân sủng ta cầu xin càng lớn lao thì ước nguyện của ta càng phải nồng nàn. Thiên thần Chúa khen tiên tri Đaniel là con người của những ước nguyện: “Phúc thay con người có những ước nguyện lớn lao”. Thiên Chúa nhìn thấu tâm can ta, Ngài thấy rõ những suy nghĩ sâu xa nhất, những khát vọng bí ẩn nhất của ta. Những khát vọng thánh thiện của ta sẽ là niềm vui của Ngài. Đó là như một lời cầu nguyện liên tục, một trầm hương bay lên từ tâm hồn ta tới tòa Chúa, mang theo những lời cầu khẩn tha thiết nhất của tâm hồn ta.

Đối với một số ơn ta muốn cầu xin, cần phải biết nài nẵng, phải có sự kiên trì thánh thiện trong việc cầu xin. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng : “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở ra cho anh em” (Mt 7,7). Đôi khi có vẻ như chúng ta phải quấy rầy Cha trên trời, nài ép Ngài cách thánh thiện. Chúng ta phải làm như người mà Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm : Người này quấy rầy bạn hữu của mình giữa đêm khuya, cho tới khi người đó chỗi dậy và cho anh ta ba ổ bánh mì mà anh ta cần. Đôi khi Thiên Chúa cũng làm ra vẻ nặng tai : chúng ta đừng bỏ đi khi thấy Ngài ra vẻ từ chối như thế. Thiên Chúa muốn ta cầu xin nhiều hơn, để ban cho ta nhiều hơn và cách vui vẻ hơn. Lời hứa của Ngài thật là dứt khoát và rõ ràng “hãy xin thì sẽ được”. Bà Monica đã cầu xin trong hai mươi năm, để con bà trở lại. Và đã có sự trở lại lớn lao dường nào! bà đã được Chúa ban cho con bà trở thành một vị thánh lớn là thánh Augustinô !

Chúng ta có một khuôn mẫu tuyệt hảo về những tâm tình phải có khi cầu nguyện : đó là người phụ nữ Samaria trong Phúc Âm. Chị là người ngoại giáo miền Tyrô. Chị đến xin Chúa Giêsu chữa con gái chị bị quỉ ám. Chúa nói đi nói lại rằng thời gian của các dân ngoại chưa tới. Có thể nói rằng người phụ nữ miền Tyrô này tới gặp Chúa Giêsu, đã được Chúa quan phòng thúc đẩy tới gặp Ngài, để Ngài có dịp dạy chúng ta một bài học tuyệt diệu và cụ thể về niềm tín thác.

Có thể tất cả chúng ta đã xúc động, đã rơi lệ, khi suy gẫm trang Phúc Âm cảm động này. Ôi ! Người phụ nữ này đã khiêm nhường, hạ mình xuống thẳm sâu, và ý thức rõ ràng về sự bất xứng của mình dường nào ! Chị thấy mình là một kẻ ngoại giáo, trước mặt một đại tiên tri Do thái ! Nhưng chị đã nài xin cách vững vàng dường nào ! Kiên trì dường nào ! Chị đến xin Ngài chữa lành con gái chị, và chị nhất định không bỏ đi cho tới khi nhận được điều mình xin. “Vâng, lạy Ngài, đúng thế, không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó, nhưng những con chó con cũng được ăn những vụn bánh rơi từ bàn ăn của chủ mình” (Mt 15,26-27). Và Chúa Giêsu rất thán phục đã nói với chị : “Hỡi người phụ nữ, đức tin của chị thật lớn lao : chị hãy được như lòng mong ước” (Mt 15,28).

Sau cùng, còn một điều kiện rất cần cho việc cầu xin được kết quả, và đáng tiếc thay ! Người ta thường bỏ quên. Đó là những lời cầu xin của chúng ta không xứng được Chúa nghe, cho nên, một cách tỏ tường hoặc trong tâm trí, chúng ta phải luôn cầu xin “nhân danh Chúa Giêsu” : Đó là thánh ý của Thiên Chúa : Chúa Giêsu phải là vị trung gian của chúng ta trong mọi sự. Bởi vì “ngoài danh của Ngài ra, không một danh nào đã được ban cho loài người để được ơn cứu độ” (Cv 4,12). Chính Chúa Giêsu cũng đã dạy : “Thầy là đường, là chân lý và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

Trong bài nói rất thân tình của Ngài sau bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói cách tỏ tường rằng chúng ta phải cầu nguyện nhân danh Ngài. Vào giờ phút long trọng của những lời trối trăn sau cùng đó, Ngài đã để lại cho các môn đệ và cho chúng ta bí quyết thần diệu, giúp cho lời cầu xin của ta luôn được Chúa chấp nhận. Ngài nói : “Tất cả những gì anh em xin Cha nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm để Cha được tôn vinh nơi Con. Nếu anh em xin điều gì nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm cho anh em” (Ga 14,13).

Thế là rõ ràng và tỏ tường lắm rồi. Nhưng một lát sau đó, Ngài lại trở lại vấn đề quan trọng này : “Thật, Thầy nói thật, tất cả những gì anh em cầu xin Cha Thầy nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho anh em. Cho đến bây giờ, anh em chưa xin gì nhân danh Thầy. Hãy xin thì anh em sẽ nhận được, để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 23,24)Chúa Giêsu không thể nói thế nào rõ ràng hơn. Bởi vậy Hội Thánh là Mẹ chúng ta, thấm nhuần tinh thần của Chúa, đã luôn tuân theo lời chỉ bảo căn dặn này của Chúa. Cho nên không bao giờ dâng một lời cầu xin lên Chúa, mà Giáo Hội không kết thúc bằng những lời đầy ý nghĩa : “Nhờ Chúa Giêsu-Kitô, Chúa chúng con. Amen”.

Đáng tiếc thay ! Những lời này có thể đã mất đi ý nghĩa sâu xa và đã trở thành một lời kết thúc đơn điệu và nhàm chán. Ít, rất ít linh hồn tốt lành có thể không phải trách mình về điểm này. Nếu trong khi cầu nguyện, nhiều linh hồn có cảm nhận khá sâu sắc về tội lỗi và sự bất xứng của mình, thì họ lại ít có cảm tưởng mạnh mẽ về sự trung gian toàn năng của Chúa Giêsu. Họ đến với Thiên Chúa một mình, không có Chúa Cứu Thế đi với họ, mà Ngài là sự nâng đỡ mạnh mẽ và đầy yêu thương để họ vững lòng tín thác. Có thể đây là vấn đề chúng ta cần phải xét mình, và sự xét mình này sẽ rất bổ ích cho ta.

Phúc thay những linh hồn không những đã biết cầu xin Chúa mọi sự nhân danh Chúa Giêsu, mà tất cả cuộc sống của họ hằng ngày diễn ra như một lời cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu, hết lòng yêu mến Chúa Giêsu !

Lý tưởng duy nhất của họ ở đời này là để Chúa Giêsu sống trong họ, họ hoàn toàn được đồng hóa với Ngài, được tan biến đi trong Ngài. Thấm nhuần Chúa Giêsu và Thần Khí thần linh của Ngài, họ luôn miệng kêu lên và lòng họ cũng không ngừng kêu lên, bằng khát vọng và bằng hành động, họ kêu lên rằng : Abba, Cha của con ! Họ tin chắc được Chúa nhận lời, vì chính Chúa Giêsu cầu nguyện trong họ. Như vậy làm sao Cha trên trời có thể từ chối họ điều gì, bởi vì làm sao Ngài có thể từ chối Giêsu Con của Ngài ?

 

 Paul De Jaegher S.J.


[1]St. Thomas, Summa theologica, IIa, II ae, q. 60, art. 6, ad tertium.

 [2]Sđd, IIa, IIae, q. 129, art. 6.

[3]Từ tín thác được dùng 2 cách. Theo nghĩa chủ động thì đó là nhân đức cậy, còn theo nghĩa thụ động thì đó là toàn bộ những tâm tình bình an, vững tâm, từ bỏ mình, những hoa trái của nhân đức cậy.

[4]St. Augustin, Confessions, q.1, ch. 1.

Niềm Tín Thác: Lời Nói Đầu

Lời nói đầu

Mục đích chính, nếu không nói là duy nhất của chúng tôi khi viết những trang này, là an ủi và khích lệ các linh hồn, làm hết sức để củng cố niềm tín thác là nhân đức rất quí trọng và cần thiết cho họ. Chúng tôi sẽ không mất thời giờ để nhắc đi nhắc lại về tầm quan trọng rất lớn lao của một nền tu đức mạnh mẽ, dũng cảm, đầy nghị lực, không thể thiếu cho việc nên thánh ; một nền tu đức thấm nhuần hy sinh và bỏ mình : đó là nền tu đức mà thánh Inhaxiô Loyola và thánh Gioan Thánh Giá đã thực tập một cách anh hùng và đã giảng dạy một cách đáng khâm phục. Chúng tôi chỉ cần nhắc tới hai vị trong số các thầy dạy vĩ đại về đời sống thiêng liêng.

Tình yêu Thiên Chúa có hai mặt : một mặt hướng về Thiên Chúa, có tên là đức ái thần linh, và một mặt hướng về bản thân chúng ta và có tên là : chê ghét bản thân mình. Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa không thể tách rời sự chê ghét bản thân ta. Nồng nàn yêu mến Thiên Chúa vô cùng đáng mến cũng là hết sức khinh chê tính tự ái xấu xa, nguồn mạch mọi tội lỗi và mọi sự khốn nạn.

Khi chú ý đọc những trang này, độc giả sẽ nhiều lần nhận ra rằng : chúng ta quan niệm đời sống thiêng liêng theo tôn chỉ được gói gọn trong câu nói của vị Tiền hô Chúa Giêsu : “Ngài phải được lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ đi” (Ga 3,30).

Từ tôn chỉ này, phải rút ra một chân lý lớn lao là : không ai có quyền ước ao đạt tới một đời sống thiêng liêng cao đẹp, sống kết hiệp với Chúa Kitô, nếu trước hết không thành tâm tập luyện cuộc sống thanh tẩy, đền tạ các tội lỗi mình và diệt trừ các nết xấu, và nếu không can đảm và kiên trì tập tành các nhân đức trong con đường tiến đức. Muốn đặt ngay cái vòm cho ngôi đền thờ dâng kính Thiên Chúa là đời sống thiêng liêng, mà trước đó không đặt một nền móng vững chắc và xây một tòa nhà cho hẳn hoi, sẽ rõ ràng là chuyện điên rồ. Vậy thiết tưởng không phải là điều vô ích, nếu chúng tôi nhắc lại chân lý trên đây, vì thời nay không ít linh hồn quảng đại, vì nóng nảy muốn kết hiệp với Thiên Chúa trong tình mến yêu, đã dại dột đốt các giai đoạn và nhân đó đã gây tai hại cho con đường nên thánh của mình.

Tác phẩm này được dành cho tất cả mọi linh hồn, bởi vì tất cả các linh hồn đều cần phải có niềm tín thác. Những linh hồn thánh thiện hơn càng phải biết sống tín thác hơn, vì họ bị thử thách ghê sợ hơn. Trong số những linh hồn thánh thiện này, có những linh hồn được Chúa thanh luyện trong lò những thử thách thần bí rất đáng sợ ! Ngài cho họ trải qua những đêm tối hãi hùng của giác quan và của tâm trí, như thánh Gioan Thánh Giá, vị tiến sĩ thần bí, đã mô tả một cách rất đầy đủ. Chúng ta không thể bỏ quên những linh hồn rất được Chúa yêu thương đó. Chúng ta sẽ nhiều lần nhắc đến họ khi bàn về những đêm tối. Và chúng ta sẽ dành hẳn một chương cho họ, khi bàn về niềm tín thác trong những đêm tối thần bí. Những linh hồn nào không kinh qua những tình trạng này, cũng sẽ nhớ lại điều đó, vì họ biết rằng có nhiều chỗ ở trong nhà của Cha trên trời.

Sau cùng, phải nói thêm rằng chúng tôi thấy cần phải khích lệ và trấn an các độc giả : chúng tôi không chỉ nói với tâm trí họ, để giáo huấn và thuyết phục họ, nhưng còn nói với trái tim họ, để an ủi họ và làm ấm lòng họ. Cho nên tác phẩm này sẽ không có vẻ một giáo trình khô khan của môn thần học  tu đức. Giọng nói đơn sơ và đầy tâm tình của những trang này có mục đích đưa người ta tới niềm tín thác yêu mến của con thảo, mà thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu là khuôn mẫu tuyệt hảo nhất của chúng ta hiện nay.

Lời tựa

“Người ta không bao giờ tín thác quá nơi Thiên Chúa tốt lành dường ấy”. “Người ta nhận được từ nơi Ngài tất cả những gì người ta cậy trông nơi Ngài”. Những lời này là của thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, Người anh hùng vĩ đại của niềm tín thác, mà sứ mạng nơi trần gian xưa, cũng như nay ở trên trời, là khơi dậy khắp nơi một đoàn đông đảo những linh hồn tín thác. Chúng tôi nghĩ những lời này là sự khuyên nhủ tốt nhất mà những trang được viết để kính dâng thánh nữ đây, có thể nêu lên, để gia tăng nhân đức rất quí trọng là niềm tín thác của các linh hồn. Tất cả chúng ta, dầu sống ở bậc nào trong xã hội, và dầu đạt tới bậc thang nào trong đời sống thiêng liêng, là những người tội lỗi hay là những người thánh thiện, chúng ta đều có một nhu cầu mênh mông về niềm tín thác, cũng như sự mênh mông của những khốn khó của chúng ta. Bởi vậy cuốn sách này được gửi tới tất cả mọi linh hồn.

Nhưng nó được đặc biệt gửi tới những linh hồn quảng đại và khẳng khái mà Tình yêu Thiên Chúa đã chinh phục, ít là phần nào : nơi những linh hồn đó, Ngài đã làm nảy sinh và tăng trưởng những ước ao thánh thiện lớn lao và những ước nguyện tông đồ rộng lớn. Chúng tôi đặc biệt tặng hiến những trang suy gẫm này cho những linh hồn đó vì hai lẽ sau đây[1]

Trước hết, họ cần phải sống tín thác hơn những người khác, cho nên cần phải được khích lệ hãy tín thác hơn. Thoạt nghe, điều này có vẻ lạ và nghịch lý. Những linh hồn này chỉ ước ao một điều: tận hiến, sống trọn vẹn cho tình yêu Chúa. Họ chỉ mong một hạnh phúc duy nhất nơi trần gian này : đó là hạnh phúc rất trong sáng và rất mến yêu là làm cho Chúa Giêsu được hạnh phúc. Vậy làm sao họ có thể có những ý tưởng nghi ngờ đối với Đấng biết rõ tất cả những khát khao yêu mến của họ, và nóng lòng muốn thỏa mãn những nguyện vọng của họ ? Vậy mà điều đó lại rất thật : những linh hồn này cần có niềm tín thác hơn.

Đó là vì để đạt tới bậc trọn lành, đạt tới sự thánh thiện mà họ hằng mơ ước và Chúa dành cho họ, họ phải trải qua biết bao nỗi khô khan và chán nản. Họ phải luôn luôn di chuyển qua lại từ một tình yêu mà ngọn lửa hồng nung nấu và thiêu đốt họ, sang một tình yêu như lửa được giấu dưới đống tro, khiến họ cảm thấy mình nguội lạnh, có vẻ không còn chút quảng đại nào hết. Và phải nói gì về những đêm tối thần bí đầy đau khổ : “Đêm tối của các giác quan” đưa họ bước thẳng vào đời sống nội tâm mãnh liệt, “đêm tối của tâm trí” còn đau đớn hơn, dẫn họ tới bờ vực của sự thánh thiện đích thực ?

Trong những cơn thử thách của sự thanh tẩy thụ động này, Thiên Chúa sẽ thử thách các nhân đức hướng thần của họ, các nhân đức tin, cậy, và mến. Thiên Chúa thử thách và thanh tẩy họ một cách kỳ lạ. Có vẻ như Ngài muốn ra sức triệt phá nhân đức cậy trông rất cần thiết này. Qua “những trò chơi tình yêu lặp đi lặp lại” với linh hồn, Ngài làm cho nó có ấn tượng sâu sắc rằng nó đang thụt lùi trên đường thiêng liêng, nó quá xấu, không đẹp lòng Ngài, nó không còn yêu mến Ngài và không còn được Ngài yêu thương. Ôi ! Những linh hồn này đáng thương hại dường nào ! Và phải chăng lòng thương xót lớn nhất của ta đối với họ sẽ là nâng đỡ họ, an ủi họ, khích lệ họ, giúp họ dầu thế nào đi nữa, vẫn hãy tin vào tình thương rất trung thành và vô cùng lớn lao của Thiên Chúa tốt lành ?

Lý do thứ hai khiến chúng tôi đặc biệt dành những suy niệm này cho các linh hồn ước ao nên thánh, đó là vì họ khát khao yêu mến. Họ đã thoáng nhìn thấy những gì đáng yêu mến nơi Thiên Chúa, họ đã hiểu rằng Thiên Chúa dễ thương mến, Ngài đáng yêu mến vô cùng, vượt xa mọi sự mến yêu mà họ có thể tỏ bày với Ngài. Và tư tưởng này giống như một ngọn lửa bừng bừng cháy ở trong họ. Nó khiến họ đăm chiêu tìm tình yêu này khắp nơi, vì chỉ tình yêu này làm họ thỏa lòng. Đối với họ, tất cả cuộc sống là để nói lên, để tỏ bày lòng mến yêu này. Họ khát khao yêu mến Chúa và nhân đó họ khát khao tất cả mọi hình thức và mọi cách tỏ bày lòng yêu mến, dầu là đền tội, dầu là phạt tạ, hy sinh, tông đồ cứu chuộc. Với những linh hồn này, chúng tôi muốn vén màn cho thấy và giúp họ hiểu rõ hơn về một kho tàng tình yêu còn giấu quá kín : chúng tôi muốn họ hãy khát khao tình yêu tín thác. Chúng tôi muốn dẫn họ vào chỗ thực hành một niềm tín thác yêu mến giữa những khi bị khô khan, bị cám dỗ, giữa những đêm tối. Ước chi, nhờ những trang này, họ biết vui vẻ và hăng hái chạy tới hình thức yêu mến này và thực thi thứ tình yêu mà Chúa Giêsu vô cùng yêu quí : đó là niềm tín thác trọn vẹn và không ngừng.

Nhờ ơn Chúa, ngày nay có nhiều linh hồn say sưa đền tạ vì mến Chúa, say sưa đền tội vì mến Chúa, say sưa tận hiến vì mến Chúa. Ôi ! Nếu những tư tưởng của chúng tôi gây được một âm vang nơi những linh hồn khẳng khái đó, và giúp họ nhìn rõ  nhu cầu của niềm tín thác mến yêu, thì chúng tôi sẽ vui mừng dường nào ! Như vậy, chúng tôi sẽ gia tăng con số những người biết an ủi Chúa Giêsu. Bên cạnh nhiều linh hồn đang hết lòng an ủi Chúa bằng tình yêu và những đau khổ đền tạ của họ, nhờ ơn Chúa chúng tôi sẽ đưa thêm đến cho Ngài một số linh hồn lo an ủi Ngài bằng tình mến yêu tín thác của mình.

Ước chi những trang này, được viết nên cho những linh hồn quảng đại, có thể góp phần duy trì nơi trái tim họ những ước ao mãnh liệt nên thánh, vì những ước ao này là yếu tố chủ yếu của niềm tín thác. Thiên Chúa đã đặt những ước ao này trong tâm hồn họ, và đó là bảo đảm quí giá nhất của sự thánh thiện. Ước chi những trang này có thể giúp họ giữ cho những ước ao này luôn nồng nàn, mặc dầu có những sai lỗi và gặp những khô khan, những cám dỗ, những sự bất lực, những đêm tối.

Xin thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu khả ái, vị thánh quí yêu của niềm tín thác, chuyển cầu cho các độc giả của chúng tôi được những ân sủng rất cần thiết, mà nếu không có, thì những suy niệm và những nỗ lực của họ để gia tăng nhân đức tín thác rất tốt lành này, sẽ vô hiệu. Bởi vì những tác phẩm của thánh nữ đã nhiều khi gây cảm hứng cho chúng tôi, và bởi vì thánh nữ không có ước nguyện nào tha thiết hơn là gia tăng con số những linh hồn sống tín thác cách anh hùng, cho nên chúng tôi xin đề tặng thánh nữ tác phẩm khiêm tốn này.

Paul De Jaegher S.J.

Nhà Cha sở Ranchi

(Chota Nagpur. Ấn Độ)


[1] Bởi vì chúng tôi viết trước hết cho những linh hồn quảng đại, cho nên trong sách này chúng tôi không nhấn mạnh và không thường xuyên nhắc tới thiện chí là cái luôn đi kèm với tín thác. Chúng tôi giả thiết phải có thiện chí.

Hạnh Phúc – Chương 1 - CÁI TÔI VÀ LỀ LUẬT LUÂN LÝ

Các nhà tâm lý học vĩ đại của mọi thời đều đồng thanh công nhận rằng cội nguồn mọi nỗi bất hạnh là lòng vị kỷ hay còn gọi là lòng ích kỷ. Ích kỷ là từ chối không chịu tuân theo hai giới răn mến Chúa yêu người, đồng thời xác định cái tôi là tiêu chuẩn mọi chân lý và luân lý.

Những kẻ sống đóng kín trong cái ngã của mình thường trải qua ba giai đoạn tâm trí như sau: thứ nhất là giai đoạn tự buông thả. Một khi cái ngã đã tự cho là tuyệt đối thì lúc đó mọi kẻ khác, mọi sự cố sự vật khác đều trở thành một phương tiện để thoả mãn cho nó. Lúc người ta còn trẻ, cái ngã ấy chỉ ước muốn thoả mãn nhục dục riêng mình, chẳng để ý gì đến các nhân cách khác, ở tuổi trung niên, cái ngã ấy khao khát quyền lực và khi con người về già, cái ngã ấy thường biến thành tính biển lận và lòng yêu thích được “an toàn”. Kẻ nào phủ nhận linh hồn bất tử thì hầu như luôn luôn thay thế vào đó sự bất tử của những phương tiện giúp tồn sinh. Ham khoái lạc mà tách lìa Chúa thì rốt cuộc luôn luôn sẽ buông mình theo nhục cảm.

Nhưng bởi vì không thể lúc nào cũng sống theo lối tự buông thả được bởi vì không những người sống buông thả xung đột với những cá thể sống buông thả khác mà còn bởi vì hưởng hoài thì khoái lạc dần dà sẽ giảm sút, nên cuối cùng cái ngã bị rơi xuống trạng thái tâm trí thứ hai là sợ hãi. Sợ hãi chính là lòng tự yêu mình bị thoái hoá. Kẻ nào chỉ biết sống hướng ngoại, chỉ luôn tìm kiếm lạc thú hoàn toàn ngoài bản ngã, thì hầu như thường rơi vào nỗi sợ mất mát bởi vì kẻ ấy đã đặt niềm tin vào những vật ít lệ thuộc vào sự kiểm soát của ý chí mình. Một người càng dựa vào chiếc gậy thuộc về một tay ích kỷ khác thì càng dễ có thể bị ngã té! Sự thất vọng là số phần của những kẻ sống hoàn toàn dựa vào giác quan! Mọi kẻ bi quan đều là những kẻ theo chủ nghĩa khoái lạc nhưng bị thất bại!

Thất vọng, thừa mứa, chán chường sản sinh ra nỗi sợ. Ích kỷ càng to sợ hãi càng lớn; cá nhân nào càng ích kỷ thì nỗi sợ hãi của hắn càng thê lương. Toàn bộ môi trường chung quanh trở nên đen nghịt kẻ thù: “Mọi người đều chống lại tôi”. Một số người sợ tuổi già, số khác sợ chết, số khác nữa sợ sự tự sát, cho đến khi cuối cùng là nỗi tuyệt vọng ngự trị, cái ngã bị trả về cội nguồn của nó để rồi phải chấp nhận mình chỉ là hư không.

Trạng thái thứ ba là sự ngu dốt. Bởi vì sự ích kỷ cắt đứt mọi liên lạc với Chúa và tha nhân nên đồng thời nó cũng cắt đứt tri thức về cả hai nguồn này, chỉ còn để lại tri thức về nỗi khốn khổ của riêng nó. Cái tôi dần dà trở nên mất ý thức về định mệnh và mục đích sống của mình. Nó có thể thu thập các sự kiện nhưng không thể kết hợp chúng lại với nhau. Tri thức của nó trở nên giống như các giáo trình trong một trường đại học hiện đại, các giáo trình này được thu thập để kiếm một tín chỉ nhưng lại chẳng hề mang lại một triết lý về cuộc sống. Sự ngu dốt càng gia tăng khi một người biết được nhiều điều nhưng lại không ăn khớp với nhau. Người khôn ngoan thì chỉ biết mỗi một điều đó là điều thiện và mọi điều khác đều được kết hiệp trong đó. Còn sự ngu dốt của kẻ ích kỷ khiến hắn chua chát và ngạo đời, thứ nhất là vì hắn không bao giờ có thể thôi ước muốn điều thiện mà Chúa đã trông cậy nơi linh hồn hắn, và thứ hai là vì hắn biết rằng mình không còn năng lực để ước muốn điều ấy nữa.

Những hậu quả bi đát của lòng tự yêu mình không phải là không có thuốc chữa. Kể cũng khá kỳ lạ, Kitô giáo khởi đầu bằng giả định rằng có nhiều người sống ích kỷ. Lệnh Chúa truyền phải yêu mến Chúa và yêu tha nhân như mình hàm chứa giả định là mọi người đều yêu chính mình. Hai từ nho nhỏ chẳng hạn “như mình” cho thấy tất cả lòng tự yêu mình. Chúng cho thấy rõ ràng là con người tự yêu mình biết bao. Luôn luôn phải có điều gì đó lộ cho thấy một người yêu thích chính mình hay điều gì đó cho thấy hắn không bằng lòng chính mình. Chẳng hạn hắn tỏ ra ham sống, khi hắn ngồi ghế xích đu mặc quần áo xịn, trau chuốt xác thân.v.v… Hắn không bằng lòng với mình khi lỡ làm điều rồ dại hoặc lỡ lăng mạ một người bạn. Nói cách khác khi thấy mình giống như tạo vật được dựng theo hình ảnh của Chúa thì hắn cảm thấy yêu mình, còn hắn sẽ không cảm thấy yêu mình khi hắn lỡ làm nhơ bẩn hình tượng ấy. Vì lẽ đó, ta phải yêu tha nhân như yêu một nhân vị dù cả khi đó là một kẻ tội lỗi vì tội nhân dầu sao cũng là một nhân vị. Tuy nhiên không được yêu tội lỗi của hắn vì tội lỗi làm mờ đi chân dung của Chúa. Nói cụ thể hơn, người ta phải yêu những người Cộng sản dù không ưa chế độ Cộng sản.

Chỉ có một lối trốn thoát khỏi lề luật này đó là tranh luận xem ai là “kẻ thân cận” giống người luật sĩ nọ từng làm. Chúa chúng ta đã trả lời rằng “kẻ thân cận” không nhất thiết phải là người sống gần cửa nhà chúng ta. Có thể đó là kẻ mà chúng ta từng xem như kẻ thù. Tuy nhiên, Chúa đã không loại trừ khả năng kẻ thù ấy vẫn có thể sống gần cửa nhà chúng ta đấy!

Gm. Fulton Sheen

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 21. Chúa là Cha

Chúa là Cha. Có khi nào Bạn suy nghĩ chân lý yên ủi ấy cho thấu đáo không? Ở đây, tôi không muốn chứng minh chân lý ấy. Bạn chỉ cần mở Phúc âm ra, và Bạn sẽ thấy nhiều lần Chúa dạy chúng ta cho biết Chúa là Cha. Chẳng hạn một lần các tông đồ xin Chúa dạy cho biết cầu nguyện, thì Chúa dạy rằng: “Khi chúng con cầu nguyên, chúng con hãy đọc: Lạy Cha chúng con ở trên trời… ” [43] Nếu Chúa chỉ phán một câu ấy, cũng đủ chúng ta tin nhận Chúa là Cha, huống chi, như tôi vừa nói ở trên, rất nhiều lần Chúa dạy chúng ta: Chúa không phải chỉ là Đấng tạo thành chúng ta, Chúa không phải chỉ là Vua, là Chúa chúng ta, Chúa không phải chỉ là Đấng cứu chuộc chúng ta, tất cả những tước vị ấy đều đúng với Chúa hết, nhưng… đọc những tiếng ấy lên, chúng ta thấy mình hình như xa Chúa quá… chúng ta có cảm giác như Chúa không biết gì mấy đến chúng ta, Chúa không săn sóc gì mấy đến chúng ta, cùng lắm Chúa chỉ chăm sóc chung chúng ta, như Chúa săn sóc tất cả các loài thụ sinh, nhưng Chúa còn muốn chúng ta gọi Chúa là Cha.

Vậy, nếu Chúa là Cha, thì tình thế đổi hẳn: chúng ta sẽ là con; và vì là Cha, Chúa sẽ săn sóc đến chúng ta chu đáo, như cha săn sóc con… và còn hơn tất cả các người cha thế gian săn sóc con, dù là người cha hiền đến đâu… ông Téctulianô nói: Nemo tam pater, nghĩa là không ai Cha bằng Chúa. Đã gọi là Cha thì phải có lòng nhân từ đại độ đối với con cái, phải tận tâm hy sinh cho con cái… phải có can đảm hy sinh tất cả, hy sinh cả sự sống, nếu cần, để tỏ tình thương yêu con…

Nhưng người cha nào ở đời đã làm được đến thế? Người cha nào ở đời đã có thể xưng được: Tôi là chính tình yêu. Chỉ có một mình Chúa, như lời Kinh thánh đã nói: Chúa chính là tình yêu.[44] Còn có thể nói thế nào rõ hơn, mạnh hơn về tình yêu của Chúa được nữa? Và Chúa đã dùng cả khối tình yêu vô cùng của Chúa, của người Cha, để phụng sự con cái là chúng ta.

Chúng ta hãy tưởng tượng một người con ở trần gian được một người cha yêu thương tha thiết bằng một trăm, hoặc bằng một nghìn người cha, thì đứa con ấy sẽ được săn sóc yêu thương biết chừng nào… và ai không nói đó là đứa con hạnh phúc nhất đời.

Nhưng Chúa không phải chỉ có một khối tình yêu như một trăm, như một nghìn, như một triệu người cha, nhưng là một thứ tình yêu gấp vô cùng lần tất cả các tình yêu của tất cả các người cha, của tất cả các người mẹ từ Adong, Evà cho đến tận thế. Và hằng ngày Chúa đem cả khối tình yêu vô cùng ấy ra để yêu thương chúng ta, để săn sóc chúng ta. Vậy mà chúng ta lại không sung sướng, sung sướng đến vỡ cả lồng xương ngực chúng ta ra sao?

Một người cha như Chúa thì không thể làm một cái gì cho chúng ta, không thể để chúng ta gặp một câu truyện gì, không thể để chúng ta bị một sự đau khổ nào mà không phải do tình yêu, một tình yêu vô cùng.

Cha yêu con đến đâu, cũng phải có lúc để con chịu khó, chịu khổ, chịu cực. Mà một ngươi Cha càng biết yêu con, càng bắt con chịu thương chịu khó, vì có biết chịu thương chịu khó, đứa con mới mong nên người được. Người cha yêu con đến đâu, thì khi con cần uống thuốc đắng, khi con cần bị mổ bị đốt, người cha cũng đành lòng bắt con uống thuốc đắng, bắt con bị mổ bị xẻ… vì có vậy, con mới sống được, con mới khỏe được.

Nếu chúng ta biết quan niệm Chúa như người cha – vì thật Chúa là Cha chúng ta – một ngươi Cha thương chúng ta, không phải chỉ lắm lắm, nhưng là thương ta vô cùng, và thương đúng lối, chứ không phải thương theo lối nhiều người cha mẹ thế gian, thương con không phải đường, thương con phần xác, phần trí, mà quên phần hồn con, quên đời sau của con… nếu ta biết quan niệm được như thế, thì không khi nào chúng ta còn phàn nàn kêu trách, khi Chúa để chúng ta đau khổ, khi Chúa trao thuốc đắng cho chúng ta, khi Chúa bắt chúng ta chịu mổ, chịu xẻ, chịu cắt, chịu chặt về đàng thiêng liêng, nói kiểu khác, khi Chúa gửi Thánh giá đến cho, vì trong tất cả những phiền muộn đau buồn, trong tất cả những Thánh giá ấy, chúng ta thấy tấm lòng yêu đương vô cùng của Chúa, chúng ta chỉ thấy hai bàn tay êm ái của người Cha… chỉ biết thương chứ không biết ghét, chỉ muốn chữa bệnh, chứ không phải bắt chúng ta chịu cay, chịu đắng để thỏa cơn giận của mình. Nói cho thân mật hơn, chúng ta sẽ hôn bàn tay nhân từ, thương yêu của Chúa, khi Chúa cho của ngon của ngọt, cũng như khi Chúa đưa thuốc đắng, cũng như khi Chúa dùng roi để sửa trị nết xấu của chúng ta.

Trước đây, khi một người con bị cha mẹ phạt, khi một người học trò bị ông thầy đánh thì sau khi bị phạt, người con, người học trò lạy cha mẹ, lạy ông thầy ba lạy để tỏ lòng biết ơn, vì cha mẹ, vì ông thầy có thương mới sửa phạt, cốt cho mình nên thân nên người.

Tại sao đối với Chúa, chúng ta không cư xử như thế, mà lại kêu ca lẩm bẩm, lại mất cả lòng tín nhiệm, có khi bỏ cả Đạo nữa? Lý do, là vì chúng ta chưa hiểu Chúa là Cha, một người Cha nhân ái vô cùng, thương con vô cùng.

Tôi rất tiếc, trong khuôn khổ quyển sách nhỏ này, không thể đem hết những đoạn rất ý nghĩa và rất cảm động của Phúc âm ra đây để giúp Bạn hiểu thêm. Tôi khuyên Bạn hãy tìm Phúc âm mà đọc. Đồng thời hãy đọc Truyện Một Linh Hồn, hoặc các sách khác nói về Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu… Bạn sẽ hiểu thêm nhiều về lòng Cha của Chúa, và Bạn sẽ thấy mình khác hẳn từ trước, khi thấy những đau khổ vây bọc quanh Bạn .[45]

Hiện thời tôi hãy xin Bạn một điều là từ đây mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, bắt đầu những tiếng: Lạy Cha chúng con, Bạn hãy thiết tha xin Chúa cho Bạn hiểu Chúa là Cha và hãy xin cho Bạn được biết đối xử với Chúa như đứa con ngoan nhất với ngươi Cha hiền nhất.

Bạn thử đi!

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 20. Chiều Chuộng

(Tặng những ai sắp đi tu)

Bạn thân yêu, người ta ai cũng kêu mình đau khổ. Nhưng nhiều người quên rằng: lắm khi chính mình làm cho mình đau khổ chứ không phải ai.

Trong bài này tôi chỉ nói đến một ví dụ, một ví dụ có ích cho Bạn sau này.

Nhiều người bỏ thế gian vào nhà Chúa, nhưng họ quên hẳn rằng: Họ vào nhà Chúa không phải để được Chúa chiều chuộng, mà là để chịu khó vì Chúa, và chịu khó cho có công nghiệp hơn. Chẳng hạn có người tưởng vào nhà Chúa, sẽ được trăm nghìn lạc thú, họ tưởng họ sẽ được tràn ngập sự yên ủi, sẽ được bơi lội trong biển vui vẻ thiêng liêng. Họ tưởng tượng họ sẽ được Chúa chiều chuộng nâng niu, như người ta chiều chuộng một đứa con đang nằm liệt trên giường.

Sở dĩ họ lầm như thế, là vì họ vào Dòng không phải để làm tôi Chúa, nhưng để tránh trút sự khó. Đàng khác, họ thấy có ít nhiều Đấng Thánh, hoặc một đôi người, khi bước chân vào Nhà Dòng, thì được hưởng ngay nhiều sự vui vẻ thiêng liêng, họ tưởng ai cũng thế và lúc nào cũng thế, thành thử khi họ thấy họ không được như vậy, là họ đau đớn, họ buồn phiền, họ than trách, họ thất vọng… rồi thêm ma quỷ cám dỗ, họ muốn bỏ Nhà Dòng để trở về thế gian, như nhiều người đã bỏ thật…

Tôi muốn Bạn hiểu rõ điều này, kẻo sau này khi Bạn thấy không được Chúa yên ủi thì Bạn đâm chán nản, ngã lòng, và liều mình bỏ ơn Kêu gọi, hoặc không bỏ ơn Kêu gọi, thì đời Bạn sống trong Dòng, cũng sẽ là một đời đau đớn: Bạn sẽ sống những ngày buồn tẻ, thiếu mọi hứng thú trong việc làm tôi Chúa. Sống bất mãn như vậy, cuộc đời tu trì không đem lại cho Bạn được chút gì yên ủi, trái lại, nó sẽ biến thành khối đá nặng đè trên người Bạn, làm cho Bạn than thở buồn phiền, chán ngán, giẫy giụa, và, đời này, Bạn đã phải khổ sở vô ích, đến đời sau, may ra khỏi khổ sở trong hỏa ngục, thì lại mất triều thiên quý báu Chúa hứa thưởng những người bỏ mọi sự để theo Chúa.

Xin Bạn chịu khó đọc kỹ những lời sau này, Bạn hãy suy cho chín chắn, và nhất là Bạn hãy xin Chúa ban ơn cho Bạn hiểu những lời tôi muốn nói với Bạn, và còn hiểu hơn thế nữa, để sau này, Bạn khỏi mắc mưu ma quỷ, và đời Bạn sẽ là một cuộc đời hạnh phúc, hạnh phúc đời sau đã đành, mà hạnh phúc ngay ở đời này, như lời Chúa đã hứa thưởng những người theo Chúa, gấp trăm ngay từ đời này… [41]

Trước hết, Bạn nên nhớ rằng: khi các Thánh, hoặc ít người nói đến những sự vui thú khoái lạc Chúa ban cho khi bỏ thế gian, thì họ không có ý nói, mình chỉ được những vui thú, mà không gặp một sự gì đau khổ.

Không, không ai muốn nói vậy. Họ chỉ có ý nói: đi làm môn đệ Chúa, không phải chỉ là dấn thân vào cuộc đời vất vả, không phải chỉ là chảy mồ hôi để trèo lên núi Calvariô, mà còn là trèo lên núi Tabôrê nữa. Vì thế, những người muốn theo Chúa đừng ngã lòng, đừng quá sợ hãi. Nếu Chúa bắt ta chịu một hai sự khó, thì Chúa lại cũng có nhiều cách để bù lại cho ta, có khi ngay ở đời này. Chúa bù cách nào, ta không biết, chỉ chắc rằng: Chúa là Đấng nhân từ độ lượng vô cùng, không khi nào Chúa chịu thua lòng rộng rãi của ta. Nào Chúa đã không phán: “Một bát nước lã làm phúc cho kẻ khó vì Chúa, Chúa cũng không quên công” [42] huống nữa, hy sinh cả một đời vì Chúa, Chúa lại quên ta sao được? Bạn hãy chắc điều ấy. Đọc truyện các Thánh, Bạn thấy các Ngài xưa đã chịu bao điều đau khổ, tôi không cần minh chứng ở đây. Nhưng tôi cũng xin tặng bạn một câu truyện về Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu.

Bà viết: “Thưa Mẹ, như Mẹ đã biết, những bước đầu trong cuộc đời nữ tu của con, con đã gặp nhiều gai hơn hoa hồng. Trước hết, linh hồn con chỉ được ăn có một thứ bánh, ấy là sự lạt lẽo khô khan, rồi Chúa đã cho mẹ chúng ta xử với con rất thẳng nhặt, có lẽ chính người không ngờ thế. Không lần nào con gặp người, mà không được nhận một lời quở trách: Con nhớ một lần, con đã để một cái màng nhện ở hàng hiên, người đã mắng con trước mặt cả nhà: “Ai mà không biết, các hàng hiên trong nhà là do một con bé mười lăm tuổi quét. Thảm hại thật. Thôi, quét cái màng nhện ấy đi, lần sau phải làm việc cho cẩn thận hơn. Những khi gặp riêng người trong một giờ đồng hồ, con thấy mình bị quở trách luôn. Mà cái làm con đau khổ hơn cả, ấy là không biết phải sửa mình như thế nào… ”. Sau khi đã kể thêm những truyện bị Bà Mẹ mắng, nhiều khi không hiểu căn cớ tự đâu, Têrêsa kết luận: “Và trong hết mọi sự, Mẹ Bề trên vẫn xử với con như thế”, nghĩa là cứ quở tránh luôn…

Nhưng có một điều cần phải chú ý là chính trong khi các Đấng gặp những điều trái ý, là lúc các Đấng đã được yên ủi, không phải những sự yên ủi ngoài giác quan hoặc những sự sung sướng trong linh hồn, nhưng yên ủi vì các Đấng thấy mình được Chúa yêu; Chúa có yêu Chúa mới gửi sự khó đến cho, càng được Chúa yêu càng gặp sự khổ.

Các Thánh đã say sưa sự đau khổ đến nỗi Thánh nữ Têrêsa Cả đã nói: “Một là chịu đau khổ, hai là chết”, chứ sống sao được. Thánh nữ Mađalêna Padi còn nói mạnh hơn nữa: “Đau khổ mà đừng chết”, vì chết thì còn chịu khó vì Chúa sao được !

Và Bạn hãy nghe lời Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu viết về người trong “Truyện một linh hồn”: “Linh hồn con đã qua biết bao cơn thử thách, con đã đau khổ rất nhiều. Lúc còn bé, con đau khổ và buồn nhưng ngày nay con mến tất cả các thứ quả đắng trong sự bằng yên và vui vẻ… ” Và: “Đừng tưởng con được bơi lội trong sự yên ủi. Không, chính sự yên ủi của con, ấy là không được yên ủi ở đời”. Nhất là những lời này: có một chị hỏi Bà: “Người ta nói: Không khi nào chị bị đau khổ lắm, có phải không?” Thánh nữ liền chỉ vào cốc thuốc đựng một chất đỏ tươi và nói: “Chị hãy nhìn cái cốc này, ai cũng tưởng nó đầy chất ngọt, nhưng thật ra không gì đắng hơn nữa. Đấy chính là hình ảnh linh hồn em : trước mắt người khác, đời em là một vườn hoa đầy những màu tươi thắm, người ta tưởng em chỉ được uống toàn những chất ngọt và thơm, nhưng thật ra em chỉ uống toàn chất đắng. Em nói chất đắng, nhưng đời em không cay đắng, vì em đã làm cho chất đắng hóa vui và ngọt… Em đã hóa thành con người không biết đau khổ nữa vì hết mọi sự đau khổ biến thành sự ngọt ngào cho em… ”.
Ông Clément Roux (Lê-măng Ru) thuộc tỉnh Grasse (Gơ-rát), đã bị những bệnh tật biến ông thành một khối điêu tàn, một mảnh giẻ, một người đau khổ. Ông đã viết trong nhật ký của ông những lời này: “Ngay từ lúc còn ít tuổi, tôi đã hiểu ý nghĩa sự đau khổ, nhất là tự nhiên mà hiểu. Mỗi khi tôi không thấy mình đau khổ, hoặc chỉ đau khổ qua loa, tôi cảm thấy một sự trống rỗng trong tâm hồn, và đi đâu tôi cũng phải mang theo. Những cái vui đều làm tôi khó chịu, những cái thú đều làm tôi nặng lòng. Bây giờ thì nhờ ơn Chúa tôi đã được thỏa mãn và hạnh phúc; vì tôi chịu đau đớn và đền tội ; không có thế tôi cảm thấy đời tôi không có nghĩa lý gì. Lạy Chúa, được đau khổ thật là một phần gia tài quí báu chừng nào cho một loài thụ sinh! Và tại sao Chúa lại đoái nhìn đến một vật thụ sinh hèn nhát, khốn nạn nhất này để nâng nó lên cao đến thế?”

Chị Claire (Cơ-le) nữ tu Dòng Thánh Bênêđitô, cũng không kém vẻ anh hùng. Chị nói: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết con muốn chịu đau khổ, con muốn như điên cuồng. Từ chối hết các thứ thú vui, dù là những thú vui được phép, để tỏ lòng con mến Chúa thật là một hạnh phúc to tát chừng nào! Vâng, con muốn làm khốn con hằng ngày, con muốn nghiền tán con hằng ngày”. Đấy không phải lời than thở trong lúc bồng bột, vì khi Thánh giá đến, chị không hề đổi thái độ, chị kêu lên: “Chúa tốt lành vô cùng. Tôi không muốn ở trong tình trạng khác. Tôi cảm ơn Chúa hết lòng… Tôi không muốn phàn nàn gì cả, vì lúc nào tôi cũng xin Chúa cho tôi được chịu đau khổ. Không tình yêu nào mạnh bằng chết cho người mình yêu. Lạy Chúa, con mến Chúa, nếu con phải chết trẻ, thì, lạy Chúa, xin ban cho con được chịu khổ cho nhiều trước đi, được chịu khổ liên lỉ, được chịu khổ cho đến cùng”. Chị chết lúc 28 tuổi, sau khi đã chịu một cuộc tử đạo mà không hề lộ một cử chỉ bất nhẫn.

Còn em bé Anne de Guigné (Anna Ghi-nhê) không biết phải làm gì để cám ơn Chúa, vì một ơn Chúa vừa ban cho mẹ em, em liền nghĩ ra được một kế, là lăn mình vào trong bụi gai, khiến hai cánh tay nhỏ nhắn của em đỏ ngòm những máu. Lúc lên 8 tuổi, em đã bị nằm lâu ngày trên một tấm phản. Nghĩ rằng như thế là được nằm trên Thánh giá cùng Chúa Giêsu Hài đồng, em nhẫn nại như một thiên thần.

Chị Maria (Marie Ste Cécile de Rome) trong khi chịu đau khổ đã kêu lên: “Alleluia! Lạy Chúa, vâng, xin Chúa cứ việc đổ và đổ thêm mật đắng vào chén của con. Con muốn nếm nó như nếm một thứ mật ngọt. Ôi, hỡi sỉ nhục thánh đã hết, hãy đến, ta yêu ngươi và ta sung sướng thân ái ôm lấy ngươi. Tôi khát, ôi! Tôi không thể tả ra được tôi khát chịu đau khổ chừng nào! Tôi khát các linh hồn chừng nào! Tôi khát tình yêu chừng nào! Đau khổ, các linh hồn, tình yêu! Đó là ba thứ mê điên cuồng mỗi giây phút thêm cháy nóng, đó là ba thứ hình khổ của tôi, đó là ba thứ tử đạo của tôi”

Rồi bạn thanh niên Gérard Raymond (Giêrađô Rây-mông), ngay lúc còn thiếu niên đã ở nhiệm nhặt hãm mình, đánh tội ghê gớm, ai cũng rùng mình, và ngay từ lúc 18 tuổi đã nhất định ôm lấy Thánh giá. Chàng ước ao được chết vì đạo: “Tôi muốn được chết cho kẻ có tội, tôi muốn được phúc tử đạo. Hôm nay, hằng ngày chịu tử đạo âm thầm, ngày mai chịu tử đạo ở góc trời Trung Hoa”. Chúa đã nghe lời chàng, chiều mồng 2 tháng giêng năm 1932 chàng bị một trận thổ huyết và trận thổ huyết ấy đã báo cho chàng sẵn sàng để hy sinh triệt để. Chàng vẫn giữ nét mặt bình tĩnh: “Tôi sẵn sàng lĩnh nhận hết mọi sự… dâng những dòng máu nóng của tuổi thanh niên, cái ấy cũng đáng giá bằng chịu tử đạo ở phương xa lúc đã già, nhưng không chắc có được. Lạy Chúa Giê su, xin làm cho con khổ, nếu đẹp lòng Chúa”.

Chàng chịu đau khổ, và chàng chết lúc có 19 tuổi, sau một cuộc đời chìm đắm trong sự bỏ mình và vui chịu hy sinh.

Còn nhiều lắm, nhưng sau đây là hai mẩu truyện của trẻ em.

Một em gái mới 9 tuổi, đã hai năm dưỡng bệnh trong một nhà thương. Một hôm, chị nữ tu khán hộ hỏi em: “Paulina, thế nào, có khá không?” Em đáp lại: “Hôm nay con không khá, vì không được chịu đau khổ mấy”.

Và đây, một em bé bốn tuổi, Monica. Em bị thương ở ngón tay, nhưng em lại nắm chặt lấy ngón tay bị thương. Một người chị hỏi rằng: “Em làm gì thế?” Em đáp: “Khi em riết chặt ngón tay, thì em đau hơn, và khi em đau hơn, thì Chúa Hài đồng Giêsu bằng lòng hơn”.

Tôi có cần trưng thêm ví dụ không? Tưởng không cần trưng thêm, vì bấy nhiêu cũng đủ cho Bạn thấy rằng: Sự vui vẻ khoái lạc thấy trong truyện các Thánh, không tất nhiên là những sự vui vẻ theo nghĩa thường, trái lại nhiều khi sự vui thú ấy, chính là những sự đau khổ, mà đau khổ rất nhiều. Vậy, thưa Bạn, Bạn đừng tưởng lầm các Thánh chỉ gặp toàn những sự vui vẻ yên ủi trong linh hồn. Nhiều người nghĩ thế, nên khi không được Chúa ban những sự vui vẻ, thì ngã lòng và lầm tưởng đời tu sĩ là một cuộc đời buồn tẻ, sầu muộn không ai sống nổi.

Một vị quan cao cấp trong triều nước Anh, một hôm đi hộ giá bà Hoàng hậu. Đến chỗ có bùn, sợ lấm giầy Hoàng hậu, ông đã cởi áo nhung rất quý đang khoác, ném xuống bùn, để Hoàng hậu bước qua lên… Người đời cho thế là lịch sự nhã nhặn.

Huống chi, làm tôi Chúa, ta càng phải quên hẳn thân mình, chỉ nhớ đến Chúa, chỉ muốn một việc, là phụng sự Chúa; và muốn phụng sự Chúa, thì phải chịu khổ, chịu khổ cho đến chết, và bằng lòng chết để tỏ lòng mến Chúa. Nếu Bạn hiểu được ơn kêu gọi, thì Bạn sẽ vui lòng chịu mọi nỗi đau thương, để đáp lại ơn Chúa.

Hằng ngày, cứ sáng dậy, Bạn nên cám ơn Chúa, vì đã ban thêm cho bạn một ngày nữa để Bạn chịu khó vì Chúa, và Bạn thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, bao nhiêu cũng được, càng nhiều càng hay, con chỉ xin một điều, là giúp con chịu cho nhẫn nại; hễ Chúa ở cùng con, thì con không cần gì khác nữa, được chịu khó như Chúa và với Chúa, thì còn vinh hạnh nào bằng!”

Chiều đến, bạn hãy than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa, vì đã ban cho con được ở trong Nhà Chúa thêm một ngày nữa. Nếu con đã nhát đảm mà tránh trút sự đau khổ, thì xin Chúa thương tha thứ… ngày mai, con xin ăn ở tử tế hơn… ”.

Bạn hãy nhớ lời Bạn đã giao hứa, các linh hồn đang cần nhờ sự đau khổ của Bạn… 3652 linh hồn đang chờ Bạn… Bạn có nhớ không? Chắc Bạn chưa quên chóng thế.
Không gì khó chịu cho một tu sĩ bằng chiều đến, khi xét mình, không thấy chịu được tí gì cay đắng khác những ngày đã qua; nghĩ đến điều ấy mà phát sợ. Thật thế, Bạn ạ. Tôi ước rồi đây, Bạn cũng cảm thấy những cái Bạn nghe từ lúc nãy.

Nói thế, để sau này khi gặp những nỗi đau thương tràn ngập linh hồn, Bạn sẽ nhớ rằng: đã có người nhắc trước cho Bạn. Tôi không nói tiên tri, vì thế nào cũng xảy ra. Bạn sẽ chán ngán; nhưng ai đã không bị chán ngán? Hết mọi người đi tu, cũng đã chịu những buổi chán nản, những phút ngã lòng. Bạn nhớ điều ấy cho kỹ, và ghi vào lòng. Bạn nên nguyện ngắm luôn về ơn Kêu gọi. Sống chết không bỏ mất ơn quý trọng ấy. Bạn hãy than thở: “Lạy Chúa con không tìm sự vui thú cho con, nếu con có ý ấy, thì thà con ở lại thế gian, con có thể tìm được một hai lạc thú tạm gửi, nhưng đã vào chốn này, con nhất định không tìm cái gì khác ngoài sự mến Chúa, và mến Chúa bằng sự đau khổ. Có bấy nhiêu, cuộc đời của con chỉ gồm trong mấy tiếng: Mến và chịu khó. Con đã đau khổ nhiều, nhưng con sẵn lòng hứng lấy hết những nỗi đau khổ Chúa còn thương gửi đến cho con”.

Vừa bước chân vào cổng Nhà Dòng, Bạn nên nhớ đọc ngay câu ấy, và không nghĩ đến những cách người ta sẽ chiều chuộng Bạn. Không, không, không. Bạn ơi, Bạn hãy bỏ ngay cái ý nghĩ sẽ được nhiều người hiểu Bạn và chiều Bạn. Không, không, không. Cái ý nghĩ ấy đã giết chết bao nhiêu người, xin Chúa cho Bạn đừng để nó giết. Trái lại, Bạn phải can đảm tiến vào Nhà Dòng, để hứng lấy những cái khó chịu, mà Bạn sẽ gặp thấy ngay giây phút đầu tiên trong đời tu sĩ của Bạn. Quên hẳn mình đi. Học vấn với tài gì đi nữa, cũng không phải là cái Bạn được dựa vào, để mong lấy một vài phút chiều chuộng nâng niu. Khốn cho những tu sĩ, hoặc nữ tu đã tìm một đôi cái chiều và chỉ thân với những người nâng niu. Bạn đừng muốn được nâng niu, và được tiếng là “con nuông của Nhà Dòng”. Không, những cái ấy đã làm hại nhiều người, ước gì Bạn đừng bị nó làm hại. Thảng hoặc, Bạn có được nâng niu chiều chuộng lúc đầu – cái ấy có thể lắm – Bạn hãy bỏ ngoài, vì nó không được lâu đâu, nó là những cái kẹo người ta thí trẻ cho nó khỏi khóc. Khi nó thôi khóc, thì biết đâu người ta lại không… ! Trong khi Bạn được những cái kẹo ấy, Bạn hãy thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, con có dám xin những đồ ngọt này đâu, nó tự ở đâu đến, chứ không phải tự con. Đã đành, nếu Chúa ban, thì con không dám từ chối, và con cám ơn Chúa. Nhưng con không cầu, mà Chúa muốn lấy lại lúc nào cũng tùy Thánh ý Chúa. Con không phải đứa trẻ thơ, cần phải dỗ phải thí. Con muốn rằng Chúa xử với con, như xử với đứa con cứng đầu cứng cổ, cần phải roi vọt, hành hạ”.

Bạn đừng tưởng như thế là nghiêm khắc quá. Không, cuộc đời các Thánh đã là cuộc đời như vậy, và cũng nhờ vậy các Đấng đã làm Thánh. Tôi muốn bạn làm Thánh, nhưng làm một Đấng Thánh được uống dấm chua mật đắng, chứ không phải một Đấng Thánh ăn đồ ngọt.

Chiều chuộng, chiều chuộng. Nó có hại, hại lắm, Bạn ạ. Vậy Bạn đừng mong gì những cái chiều chuộng vô ích thế gian. Có những cái khác đáng được yêu chuộng hơn nhiều, những cái ấy không tìm được ở trần gian.

Thôi, tôi để Bạn suy nghĩ trước mặt Chúa. Bạn hãy thề hứa với Chúa là Bạn sẽ nhất định không đi tìm sự vui thú, dù nhỏ mọn đến đâu cũng vậy.

Bạn hãy hứa đi !

Xin Chúa xin Đức Mẹ giúp Bạn hiểu những lời này. Chúng ta hãy ngày ngày cầu cho nhau được nên giống Chúa, là Đấng trên Thánh giá đã uống dấm chua mật đắng.

Nếu không, thì ta đừng trông làm Thánh.

[41] Matt 19,29
[42] Matt 10,42

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT