3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

TÌNH CHÚA MUÔN NGÀN ĐỜI

Chúa Nhật IV Mùa Vọng B

“Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi”. Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, thì nay được biểu lộ (x.Rm 16,25-26): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.

Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thủy chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.

Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người (x.2Tm 2,12-13). Theo mạc khải thời Cựu Ước thì có khi, có thời, Thiên Chúa dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng Người lại kéo ta lên, ủi an, vỗ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương (x.Gr 31,16-20). Nhưng đến thời Tân ước thì Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một…Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ…(x.Ga 3,16…).

Lời hứa ban ơn cứu độ từ ngàn xưa đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33).

Thiên Chúa không hề bỏ chúng ta. Đây là một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quãng thời gian an bình, hạnh phúc thật quá ngắn so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ (x.Tv 90,10). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.

Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? (Rm 7,19-24).

Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Người không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,5-6).

Không một ai là không có thể được cứu thoát. Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Lc 1,37 ; Mt 19,26). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi (x.1Tm 2,3-4 ). Dù chỉ một con đi thất lạc, Thiên Chúa cũng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta?

Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 13,32).

Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình”(x.2Tm 2,12-13). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoãn sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này!

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

HÃY VUI MỪNG!

Chúa Nhật Tuần 3 MV B

“Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”.

“Cuộc sống được sống trong Chúa Kitô không thể nào khác hơn là sống trong niềm vui!” – William Barclay.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa Chúa Nhật Hồng một lần nữa khẳng định ý tưởng “sống trong niềm vui” của W. Barclay. Từ bài đọc hai, lời của thánh Phaolô vang vọng, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”. Tuy nhiên, sẽ có một số người trong chúng ta dường như muốn hét lên, “Có gì mà vui?”; “Giáo Hội quá mụ mị khi bảo chúng ta ‘hãy vui mừng’ ít nữa vào thời điểm này!”.

Vậy mà, phụng vụ hôm nay vẫn đòi hỏi bạn và tôi ‘hãy vui mừng!’. Có niềm vui nào giữa lúc khó khăn, u ám và bóng tối? Có niềm vui nào khi thế giới đang ngật ngưỡng vì chiến tranh, thất nghiệp và nghèo đói? “Có!”. Nhưng dĩ nhiên, đó không phải là niềm vui phát xuất từ một lạc quan sai lầm khi mọi thứ sẽ ‘trở nên tốt hơn’; vì thực tế, mọi thứ có thể tồi tệ hơn. Đó cũng không phải là một niềm vui ảo tưởng trong tâm trí! Vậy niềm vui ở đây là gì? Phaolô trả lời, vì “Đó là điều Thiên Chúa muốn!”. Và Giáo Hội thêm rằng, “Chúa đang ở gần!”. Chìa khoá của vấn đề nằm ở Chúa Kitô. Niềm vui đích thực chỉ được tìm thấy trong Chúa Kitô. Ngài đến để cứu độ, giải thoát và ban cho chúng ta sự sống mới!

Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn vào Gioan, một nhân vật khổ hạnh, ép xác, kêu gọi sám hối. Miêu tả Gioan theo cách này, chúng ta có xu hướng quên đi niềm vui gắn liền với toàn bộ cuộc đời và ơn gọi của Gioan. Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ khi Mẹ Chúa viếng thăm. Tác giả Phúc Âm thứ tư nói về niềm vui của Gioan như niềm vui của phù rể vốn vô cùng hân hoan khi nghe giọng chàng rể. Sự khiêm nhường của Gioan đã mở ra trong Gioan ‘một không gian’ dành cho sự vui mừng đích thực. Như Gioan, chúng ta ‘hãy vui mừng’ vì sự hiện diện tràn đầy của Chúa. Cũng sẽ như thế đối với bạn và tôi!

Gioan chỉ ra con đường dẫn đến niềm vui lâu dài, con đường khiêm nhượng! Gioan biết mình không phải là ai, “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Trung thực về bản thân là bước đầu để có thể vui mừng. Tập trung vào Chúa, bạn buộc phải loại bỏ mọi trùng lặp phù phiếm; từ đó, sống trong sự thật và tập trung vào sứ vụ. Bất chấp khó khăn, sự khắc nghiệt của cuộc sống, sự giam cầm và hành quyết của một bạo chúa, Gioan hiểu rằng, khi Gioan mờ đi và lụi tàn, một ánh sáng khác đang đến, ánh sáng đích thực soi sáng thế giới tăm tối và gạt bỏ bóng đêm tội lỗi.

Anh Chị em,

“Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”. Chúa Nhật Vui Mừng trở thành một cơ hội để chúng ta mừng vui, một niềm vui lớn lao hơn niềm vui của Isaia – bài đọc một – hay của Gioan. Đó là niềm vui của Đức Mẹ, “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi!” – Thánh Vịnh đáp ca. Những gì Isaia và Gioan chỉ có thể hình dung trong thời tiên tri, nay chúng ta trải nghiệm trong thực tế của ân sủng. Chỉ còn vài ngày nữa là Lễ Giáng Sinh, không chỉ tưởng nhớ quá khứ, chúng ta hướng đến tương lai, sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, Đấng Giải Thoát, Đấng sẽ hoàn thành công việc tốt lành Ngài đã khởi sự nơi mỗi người. Vì lý do này, Mẹ Hội Thánh lệnh cho chúng ta “Hãy vui mừng!”. Hãy nhớ, đây là một mệnh lệnh, không phải một gợi ý!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đâu cần cười cả ngày con mới có niềm vui; cho con dám mỉm cười khi đang phải khóc, vì Chúa ở cùng con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

Hãy Dọn Đường

Chủ đề: “Mùa vọng là thời gian để trở về với những gì nền tảng và đặt Đức Giêsu Kitô lên hàng đầu trong cuộc đời ta”

Trong cuốn “Nội lực nơi bạn” (The Power Within You), Pat William ở tiểu bang Philadelphia có kể một câu chuyện đặc biệt sau đây:

Năm 1980, vào một buổi trưa Chúa nhật nóng bức, một bệnh nhân trẻ bị chứng tê liệt não bộ tên là Cordell Brown đang đi bộ đến câu lạc bộ quán quân thế giới Philadelphia Phillies. Cordell bước đi hết sức khó khăn, nói năng cũng rất là khó. Ăn uống đối với anh là một bổn phận hết sức nặng nhọc. Khi thấy Cordell tới, nhiều người quay mặt đi đàng khác, hoặc cố tình không nhìn thấy anh. Ðó là cách phản ứng của một số người trong hội Phillies khi thấy Cordell đi tới câu lạc bộ.

Cordell làm gì trong câu lạc bộ Phillies vậy? Anh được mời tới đó để nói chuyện với những tay ăn chơi trong một buổi nói chuyện tại nhà nguyện câu lạc bộ.

Cordell có thể nói gì với những ngôi sao màn bạc như Steve Carleton và Mike Schmit, những người sống rất xa cách với thế giới đau khổ và dị tật của anh?

Một vài người trong hội Phillies cũng tự hỏi như thế khi họ ngồi xuống để chuẩn bị nghe anh nói. Cordell bắt đầu bằng cách làm sao cho các tay ăn chơi đó cảm thấy thoải mái dễ chịu. Anh nói: “Tôi biết rằng tôi rất khác biệt với các bạn”. Rồi anh trưng đoạn thư Thánh Phaolô (1Cr. 15, 10 ): nhưng nhờ ơn của Thiên Chúa mà tôi được như thế này.

Suốt 20 phút kế đó, Cordell đã nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của anh. Anh kết luận bằng cách trả lời cho câu hỏi này: Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh nổi tiếng như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới của những người đau khổ tật nguyền như anh?

Cordell nói một cách rất duyên dáng: “Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp hòm quan tài của bạn lại, thì bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Ðó là lúc mà mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng: các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Ðức Giêsu Kitô”.

Tôi thích câu chuyện này vì hai lý do:
Trước hết, nó nói cho chúng ta về Mùa vọng. Nó mời gọi chúng ta trở về với những gì nền tảng. Nó mời chúng ta tự hỏi chính mình xem: Cái gì thực sự là quan trọng đối với chúng ta? Nó mời chúng ta nhìn vào những cái chúng ta phải coi là ưu tiên trong cuộc đời mình. Nhất là nó hỏi chúng ta xem Ðức Giêsu Kitô có phải là ưu tiên số một trong cuộc đời của chúng ta hay không?

Và điều này dẫn chúng ta tới điểm thứ hai về câu chuyện của Cordell Brown. Nó nói với chúng ta về những bài học Thánh Kinh ngày hôm nay.

Cả ba bài đọc đều nói nói về sự cần thiết phải dọn đường cho Chúa đến. Cả ba bài đọc đều nói rằng: chúng ta không sống đúng như cái mình phải sống, thì chúng ta phải chịu trách nhiệm về điều đó.

Nói cách khác, nếu chúng ta đi sai không đúng theo căn bản, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về với những cái nền tảng ấy.

Nếu chúng ta đặt công việc của chúng ta lên hàng đầu trước cả gia đình chúng ta, thì những bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta sửa chữa lại tình trạng ấy.

Nếu chúng ta đặt sự thành công lên trước tương quan cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa, thì các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta thay đổi thái độ đó.

Tại Tu viện Westminster ở Luân Ịôn, có một nhà nguyện nhỏ tên là “nhà nguyện thánh Grêgôriô”. Nhà nguyện này được xây lên để tưởng niệm những người dân Luân Ðôn bị mất mạng vì máy bay oanh tạc thời đệ nhị thế chiến. Trong nhà nguyện có bốn cuốn sách lớn, trong đó có ghi tên 6,000 tên các nạn nhân cuộc không kích đó. Một cuốn mở ra và trên trang sách lấp lánh ánh sáng có ghi một số tên nạn nhân. Mỗi ngày người ta giở ra một trang để phơi ra một số những tên mới. Khi bạn nhìn và đọc cột tên dài ấy, bạn không sao biết được người có tên mà bạn đọc thấy nghèo hay giầu, da đen, da trắng hay da nâu, là Kitô hữu, là Do Thái hay là vô thần, gìa hay trẻ, đẹp hay xấu.

Lúc đó không còn có một khác biệt nào nữa. Lúc đó tất cả những gì xẩy ra đều tùy thuộc vào bản chất con người mà mỗi người tạo ra cho mình còn sống trên dương thế.

Câu chuyện của Cordell Brown và câu chuyện nhà nguyện Thánh Grêgoriô của Tu viện Westmister khiến chúng ta tự hỏi: chúng ta phải làm gì nếu chúng ta thấy mình đã không sống đúng như cách chúng ta phải sống? Chúng ta phải làm gì nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta không chuẩn bị ngày giờ chết, hay chuẩn bị cho ngày Ðức Giêsu tái lâm bất chấp ngày nào đến trước?

Dĩ nhiên câu trả lời là: chúng ta phải làm đúng những gì Gioan Tẩy Gỉa đã đề nghị cho dân chúng thời ông làm. Chúng ta phải sám hối, phải xin Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta phải cải tà qui chánh và phải bắt đầu một cuộc sống mới. Ðó là tất cả những gì Mùa vọng muốn nói đến. Ịó là thời gian để chúng ta kiểm tra lại đời sống của mình và làm tất cả những thay đổi cần thiết trong đời sống.

Ðiều này đem chúng ta trở lại với câu chuyện đáng ghi nhớ của Cordell Brown và câu hỏi được nêu ra trong câu chuyện. Anh có thể nói gì với các siêu minh tinh như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới đau khổ tật nguyền của anh? và Cordell phải nói gì với bạn và tôi?

Cordell đã trả lời câu hỏi đó một cách duyên dáng:

“Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi này giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, ngày đó bạn sẽ chẳng khác gì tôi chút nào. Ðó là lúc mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng điều duy nhất tôi chắc chắn là: các bạn cần cái tôi đang có, và đó chính là Ịức Giêsu Kitô”.

Ðể kết thúc, chúng ta hãy thưởng thức một bài thơ cổ, nói về cuộc đời này chóng qua thế nào và điều gì quan trọng vào giây phút cuối cùng:

“Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì lúc đó thấy thời gian bò tới. 
“Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì thấy thời gian đi bộ. 
“Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững chạc, thì thấy thời gian chạy. 
“Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, thì thấy thời gian bay. 
“Chẳng bao lâu nữa là tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất. 
“Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa.”

Cha Mark Link, S.J.

Người Tín Hữu

ĐỂ CHÚA ĐẾN…

Chúa Nhật Tuần 3 MV B

Thánh Gioan Tẩy Giả cho biết rõ sứ vụ của bản thân là dọn đường cho Chúa Cứu Thế: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Chúa đi” (Ga 1, 23).

Ngài thi hành sứ vụ dọn đường bằng cách giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Ga 1, 27).

Sau đó thánh nhân còn trực tiếp chỉ thẳng vào Chúa Giêsu để giới thiệu trực tiếp: “Ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Chính Ngài là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1, 29-30).

Từ những chứng minh thực tế về những nguy hiểm liên tục xảy đến, gây nên nhiều cái chết về đời sống vật chất và tinh thần, đòi chúng ta càng phải tỉnh thức hơn bao giờ hết. Đó chính là sự khôn ngoan của ta. Đó chính là sứ điệp khẩn cấp trong mùa Vọng buộc ta phải nắm lấy.

Thánh Gioan giới thiệu Chúa cho mọi người. Từng người chúng ta cũng phải làm việc này của thánh Gioan. Chúng ta cũng phải nói cho mọi người về Chúa. Chúng ta cũng phải mời gọi mọi người dọn đường cho Chúa.

Giới thiệu Chúa cho anh chị em trong tất cả các môi trường sống, qua mọi tương quan của đời sống là bổn phận của mọi Kitô hữu. Anh chị em tin hay không, đón nhận Chúa hay không, đón nhận đến mức nào là quyền của họ. Nhưng bổn phận của chúng ta là phải giới thiệu Chúa, phải nói về Chúa, phải làm chứng cho Chúa, phải sống chứng tá cho tình yêu của Chúa.

Nhưng từng người Kitô hữu phải nhớ, để lời giới thiệu có sức  thuyết phục, cần chính đời sống chứng tá của chính họ. Nếu rao giảng về Chúa, về tình yêu cứu độ của Chúa mà không tỏa lan được ít nhất một đời sống chứng tá tương ứng, chắc chắn không thể nào có thể lôi kéo người khác tin và theo Chúa.

Vì sao sau khi thánh Gioan giới thiệu Chúa, người ta có nghe và đi theo Chúa? Không phải vì thánh Gioan xuất hiện trước Chúa, cũng không phải vì mọi người đã biết thánh Gioan, nhưng chính đời sống chứng tá của thánh Gioan mà mọi người tin và bước theo Chúa như lời thánh Gioan giới thiệu.

Qua những câu hỏi của đám đông: “Ông có phải là Đấng Kitô? Có phải là Elia? Có phải là vị tiên tri?”, cho thấy họ đánh giá rất cao thánh Gioan. Họ nhìn thánh Gioan như hình ảnh Đấng Cứu Thế, thủ lãnh Môsê hoặc tiên tri Elia. Nhưng thánh Gioan chỉ khiêm tốn nhận mình là tiếng hô trong hoang địa, là kẻ dọn đường, hơn thế nữa, còn không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu. 

Có thể nói, thánh Gioan đã không quy về mình, không tìm vinh quang cho mình, không khẳng định mình. Thánh nhân khéo léo từ chối mọi vinh quang, danh dự trần thế mà người ta lầm tưởng hay gán cho, để chỉ hướng về Chúa Giêsu và cầu xin mọi người hướng theo và bướic theo Chúa Giêsu.

Một chứng tá khiêm nhường như thánh Gioan, cuối cùng đã thành công, đã có thể dẫn mọi người về cùng Chúa.

Cũng vậy, để có thể giới thiệu Chúa cho anh chị em nhằm giúp anh chị em dọn tâm hồn họ, cũng là cách chúng ta dọn con đường tâm hồn chính mình cho Chúa đến với mình trước, ta cần thực hiện những việc làm cấp bách sau đây:

    – Thành tâm nhìn nhận mình thật mong manh, yếu đuối, cuộc sống này chỉ tạm bợ, đầy giới hạn. Từ đó khiêm tốn hơn, sống có nhân, có nghĩa hơn.

    – Luôn tạ ơn Chúa vì Chúa luôn tìm mọi cách, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh, mọi anh em xung quanh… để thức tỉnh và đưa ta về sống gắn bó với Chúa.

    – Tin vào tình yêu của Chúa, thực tâm nhìn nhận tội lỗi của mình, xin Chúa tha thứ. Đồng thời đừng để lương tâm rơi vào sự chai cứng, tàn nhẫn, gây đau khổ cho anh chị em xung quanh.

    – Một ý thức cần phải có luôn luôn, đó là ý thức ta có thể chết bất cứ lúc nào. Những nguy hiểm giết hại ta có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Ý thức như thế, không phải để hoang mang, nhưng giúp ta bình tỉnh đón nhận thánh ý Chúa, đón nhận những hoàn cảnh lắm khi bất trắc, mà Chúa muốn ta phải đương đầu.

    – Biết rằng, mọi nguy hiểm có thể đổ ập trên mình, ta sẽ bền vững trong cầu nguyện để được ở với Chúa, để có Chúa đồng hành trong cuộc đời với ta.

    – Không quên bổn phận san sẻ những mất mát, những khổ đau của anh chị em, và tận lực tận tình giúp đỡ họ, khi họ bị những hiểm nguy đe dọa, hay đã xảy đến gây đau thương mất mát.

Một vài gợi ý nhỏ nhặt bên trên giúp chúng ta sống mùa Vọng, vừa dọn tâm hồn chính mình, vừa giúp anh chị em xung quanh dọn chính cõi lòng của họ cho Chúa đến.

Ước gì hình ảnh và lời giới thiệu Chúa Cứu Thế của thánh Gioan Tẩy Giả trở thành lời nhắc nhở trách nhiệm dọn đường cho Chúa đến trong chính cõi lòng mỗi Kitô hữu. Qua đó cũng trở thành phương thế hiệu quả góp phần vào sứ vụ của Hội Thánh là loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho mọi người.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

HÃY CANH CHỪNG, HÃY THỨC TỈNH

Chúa Nhật I Mùa Vọng B

Vào thời Chúa Giêsu, không phải là không có ai chờ đợi Đấng Thiên Sai – một vị cứu tinh, mà vấn nạn đặt ra cho dân Do thái là Chúa Giêsu hóa ra chính là Đấng Mêsia mà họ đang mong chờ, nhưng Ngài lại không giống như những gì dân chúng tưởng nghĩ. Do đó, không những họ không nhận ra Con Người ngay trước mặt họ là Đấng Mêsia; mà họ còn chống đối, lên án và giết chết Ngài.

Tương tự như vậy – những cách nghĩ của chúng ta thời nay về Thiên Chúa có thể là trở ngại của chính chúng ta trong việc nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa. Chúng ta có thể bị mù quáng bởi những quan niệm sai lầm và thành kiến ​​của chính mình về Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Khi xưa người ta không nhận ra Chúa Giêsu và bây giờ chúng ta cũng không nhận ra Ngài. Đúng như Thánh Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1:26).

Vì vậy, lời khuyên cho Chúa nhật đầu tiên trong năm phụng vụ mới của Giáo hội là: “Anh em phải coi chừng, phải thức tỉnh” (Mc 13: 33).

Việc Đấng Thiên Sai đến được nói đến trong Cựu Ước như một sự kiện vĩ đại, gây chấn động, như trong bài đọc thứ nhất: “Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan, như lửa đốt củi khô, như lửa làm cho nước sôi sùng sục! Ngài sẽ khiến cho thù địch Ngài nhận biết Thánh Danh, chư dân sẽ run rẩy trước nhan Ngài, khi thấy Ngài làm những điều kinh hồn táng đởm mà chúng con không ngờ” (Is 63: 19, 64: 1-2).

Nhưng hôm nay chúng ta lại có một hình ảnh khác về việc “chủ nhà đến”. Chúa Giêsu nói “không biết khi nào thời ấy đến… không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng… ông chủ đến bất thần” (Mc 13: 33, 35-36). Thiên Chúa, qua con người Chúa Giêsu, đã đến với dân Do thái một cách bất ngờ, đầy ngạc nhiên mà không ai đã có thể nghĩ tưởng tới trước đó: Thiên Chúa đã nhập thể, trở thành một người trong chúng ta bằng xương bằng thịt, là “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Đó là điều chúng ta ngày nay mong chờ đặc biệt trong mùa Vọng này, và cả cuộc đời mình.

Thử thách đối với chúng ta là phải tỉnh táo và thức tỉnh về mặt tâm linh để nhận ra Ngài, đó là ý nghĩa thực sự của Mùa Vọng. Nhưng thật không may, đối với không ít người Kitô hữu, Mùa Vọng chỉ là khoảng thời gian bốn tuần phụng vụ trong nhà thờ, chuẩn bị trang trí những dây đèn nhấp nháy, hang đá, ngôi sao, các món quà Giáng sinh. Tất cả những chuyện bên ngoài như thế, thay vì giúp cõi lòng bên trong sốt sắng để “thức tỉnh” về mục đích của đời mình, mong chờ ngày “Con Người quang lâm”, thì lại khiến tâm linh chúng ta “ngủ mê” như bài đọc thứ nhất mô tả: “lạc xa đường lối Thiên Chúa…làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài…Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài” (Is 63: 17, 64: 6). 

Vì vậy – Chúng ta “phải coi chừng, phải thức tỉnh” (Mc 13: 33). Nỗi lo lắng thực sự của chúng ta không gì khác hơn là thức tỉnh, là tự hỏi liệu tôi có đang sống – và chết – trong cơn ngủ quên, trong cái cảm giác mơ hồ mất phương hướng và lạc lối của một kiếp sống vô thường không biết đi về đâu, mà kết cục chỉ là tiêu vong, hư không, vô lý, không còn biết sự hiện hữu của mình hướng vọng về điều gì chắc chắn, qui hướng về Ai vững bền.

Cha Anthony DeMello, một linh mục Dòng Tên nói: “Sống đạo có nghĩa là thức tỉnh. Hầu hết mọi người đều đang ngủ, mặc dù họ không nhận ra điều đó. Họ sinh ra trong ngủ mê, họ sống trong ngủ mê, họ kết hôn trong ngủ mê, họ sinh con trong ngủ mê, họ chết trong ngủ mê mà không hề thức tỉnh. Họ không bao giờ hiểu được sự đáng yêu và vẻ đẹp của điều mà chúng ta gọi là sự hiện hữu của con người” (Awareness – Tỉnh thức). Họ không bao giờ hiểu được làm thế nào để sống cách trọn vẹn, bởi vì họ bị tiêu hao quá nhiều vào vô vàn chuyện trần tục, những áp lực bận rộn của cuộc sống, đến mức cuộc sống của họ không thể coi là sống thực sự. Họ sống theo những gì xảy ra chung quanh họ hoặc những gì họ gây ra cho cuộc sống của mình. Họ sống và chết trong mê lầm như tiên tri Isaia thú nhận: “Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi” (Is 64: 5-6).

Cha Anthony De Mello kể:

  • Một đệ tử là người Do Thái hỏi: “Con phải làm việc lành nào để được Thượng Đế chấp nhận?” Minh Sư trả lời: “Làm sao thầy biết được. Thánh Kinh nói rằng tổ phụ Abraham thực thi lòng hiếu khách và Thiên Chúa ở với ông. Tiên tri Elia say mê việc cầu nguyện và Thiên Chúa ở với ông. Vua David chăm lo việc trị nước và Thiên Chúa cũng ở với ông nữa.”

“Có cách gì con có thể tìm ra việc mà Thượng Đế đã phân định cho riêng con không.”

“Có chứ. Hãy tìm kiếm trong nội tâm con khuynh hướng sâu thẳm nhất, rồi nương theo đó mà hành động.” 

Nhưng nhiều người lao vào hành động, rồi rốt cuộc chỉ để làm mọi việc tồi tệ hơn. Hành động của họ phát xuất từ những cảm xúc tiêu cực ẩn kín trong thâm tâm, từ một mặc cảm tội lỗi, giận dữ, căm ghét; từ một cảm xúc bất công hay bất cứ điều gì giống như thế. Hành động của những người vô minh này chỉ thay thế sự bất công này bằng sự bất công khác, sự giận dữ, căm ghét này bằng sự giận dữ, căm ghét khác. Và cứ như thế, tồi tệ hơn, vì chúng không đến từ lòng yêu thương chữa lành. 

Không phải là hành động của bạn mà là bản chất của bạn mới có giá trị. Thật không may, chúng ta rất ít quan tâm đến việc thức tỉnh này. Cảnh giác, thức tỉnh theo nghĩa Kinh thánh không phải là sống trong lo sợ về mọi thứ hiểm nguy có thể xẩy đến, rồi lao vào đủ mọi thứ để cố quên đi nỗi khắc khoải về sự phi lý của kiếp người, như Albert Camus, một nhà văn triết gia người Pháp, nhận thấy: “Một người muốn kiếm tiền để được hạnh phúc, và toàn bộ nỗ lực của cuộc đời người ấy đều được cống hiến cho việc kiếm được số tiền đó. Hạnh phúc bị lãng quên; phương tiện thay thế cho mục đích cuối cùng” (Albert Camus, Huyền thoại về Sisyphus và các tiểu luận khác). Cũng trong tác phẩm này, Camus thấy con người mình “sẽ mãi mãi không thể xác định được. Giữa sự chắc chắn mà tôi có về sự hiện hữu của mình và ý nghĩa mà tôi cố gắng gán cho sự hiện hữu chắc chắn đó, khoảng cách sẽ không bao giờ được lấp đầy. Mãi mãi tôi vẫn là người xa lạ với chính mình.” 

“Thức tỉnh” là “phản tỉnh”, thoát ra khỏi tình trạng “vong thân”, để trở nên đích thực là mình: nhận ra mình là ai, không còn thấy mình xa lạ với chính mình, nhận thức con đường mình đang đi, đón nhận ánh sáng để biết đâu là chân lý phải theo. Thức tỉnh là “đánh thức” mình dậy khỏi cơn mê ngủ “vô minh”. Đó là thái độ khôn ngoan người tín hữu phải có khi sống ở trần gian. 

Meister Eckhart, linh mục và nhà thần bí người Đức, nói: “Mọi người không nên lo lắng quá nhiều về những gì họ làm mà thay vào đó là về những gì họ là. Nếu họ và cách sống của họ tốt lành thì việc làm của họ sẽ rạng ngời. Nếu bạn là người công chính thì việc làm của bạn cũng sẽ công chính. Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thánh thiện dựa trên những gì chúng ta làm mà đúng hơn là dựa trên con người chúng ta, vì không phải việc làm của chúng ta thánh hóa chúng ta mà là chính chúng ta thánh hóa việc làm của mình. Dù các việc làm của chúng ta có thánh thiện đến đâu, chúng cũng không làm cho chúng ta nên thánh vì chúng chỉ là các việc làm, nhưng chính chúng ta, càng thánh thiện và trở nên chính mình cách trọn vẹn, thì chúng ta thánh hóa mọi việc làm của chúng ta, cho dù đó là những việc như  ăn, ngủ, thức, hay bất cứ điều gì” (Selected Writings).

Ngay cả việc tôi mang thức ăn cho người đói, mang nước cho người khát, hay thăm kẻ tù rạc liệu có ích gì nếu tôi làm những việc đó chỉ để phô trương “cái tôi quy kỷ – egocentric.” Khi đó, người đói khát và tù rạc chỉ là một phương tiện cho mục đích quảng cáo thương hiệu “vị kỷ” của tôi; tôi vẫn chưa thức tỉnh, vẫn vô minh, vẫn ảo tưởng về giá trị của việc “bác ái” của mình, mà lẽ ra các việc đó phải là cách giúp tôi “từ bỏ chính mình, xóa mình – self-denial” để trở nên sẵn sàng chấp nhận mất mát, thiệt thòi vì yêu thương hết lòng, như Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15: 13). Thay vì “dốc đổ chính mình – self-emptiness” tôi lại âm thầm tìm cách “làm đầy chính mình – self-fulfilment” bằng tiền bạc, của cải vật chất, tiếng tăm, thú vui, theo chuẩn mực của “cõi người tham sân si”. Liệu lòng dạ tôi đã có thể buông bỏ “cái tôi quy ngã” để trở nên chỉ còn là yêu thương chưa? Chúa Giêsu không ngừng lên tiếng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15: 12). Ngài chỉ ra con người thật của chúng ta: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17: 10).

Thánh Phaolô tha thiết nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13: 3).

Thức tỉnh như thế quả là một thách đố quá khó khăn nếu chỉ nhắm vào sức riêng của chúng ta. Yêu như Chúa yêu không phải là kết quả của năng lực riêng của chúng ta. Tình yêu ấy phải được kín múc từ nguồn yêu thương không hề cạn là Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu trao phó cho chúng ta sứ mệnh yêu thương như Ngài, thì chính Ngài làm trổ sinh trong chúng ta những hoa trái của một tình yêu như thế: “Chính Thầy đã tuyển chọn và cắt đặt anh em để anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15: 16). Chúng ta có thể loan báo tình yêu tột cùng này và làm chứng về tình yêu ấy bằng chính đời sống của ta chỉ khi ta thức tỉnh về giới hạn của mình, tin tưởng trở về với Đấng duy nhất có thể khơi nguồn tình yêu ấy trong ta. “Tất cả những gì các con xin Chúa Cha nhân danh Thầy, người sẽ ban cho các con” (Ga 16: 23).

Như vậy, để có thể “thức tỉnh”, con người cần “lắng nghe và làm theo” lời Chúa dạy: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14: 6) và kết quả của việc bước theo Chúa Giêsu là: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12: 46). Đó là lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12) một sự sống dồi dào: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).

Thức tỉnh là lấy lòng yêu thương và sự hòa hợp làm lẽ sống của chúng ta. Đó là luôn có tâm tình biết ơn, trân quý mọi khoảnh khắc cuộc đời, tha thứ, xin lỗi và vui mừng được sống trong vòng tay chắc chắn của Thiên Chúa mỗi ngày, trong cộng đồng nhân loại  – là liên tục sống mỗi ngày trong ân sủng của Chúa Kitô, để Ngài đi vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Điều chúng ta nên tự vấn là: tôi muốn sống và chết trong trạng thái tâm linh nào. Tôi có thức tỉnh luôn mãi không? Nghĩa là tôi luôn có ánh sáng, sự thật và sự sống của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu, trong con người mình không? Hay tôi đang trở nên lười biếng trong đời sống đức tin và có thể rơi vào tình cảnh ngủ mê “ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (Mc 13; 36).

Để đạt tới Sự Tỉnh Thức trọn vẹn, chúng ta cần khiêm hạ nài xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa như Thánh Phaolô đề cập trong bài đọc thứ hai: “Anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Ngài. Chính Ngài sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô” (1 Cr 7-8).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

Subcategories