8. Đời Sống Tâm Linh

BUÔNG BỎ…

Chuyện Nghe kể:

Đầu làng có cây cao to,

cổ thụ thì chưa hẳn

nhưng cũng thuộc hàng ông- cụ nếu tính thế hệ trẻ mới sinh...

Cây che bóng mát cho bao người,

bao thế hệ,

nhất là những ngày hè nóng nực, đi đồng ruộng mệt mỏi

và ngang qua...

Cây cũng lạ, cũng biết thương người,

Mùa hè thì càng sum suê cành lá,

còn mùa đông trơ trụi lá như thể dồn lực cho mùa hè thêm xanh tươi, thêm che mát,

thêm yêu thương...

Ai đó 'suy tư' thế...

Thể là Cây To cao ấy mặc nhân linh

người làng ban đầu chỉ có lòng biết ơn,

Qua bảo vệ, chăm sóc

rồi sau nâng thành Cây Thần...,

Có nghi thức cúng bái, mâm gà vịt, trái cây...

luôn có bát nhang ngút khói.

Có thờ có thiêng...

Mỗi lần ngang qua đều chắp vái,

cung kính như Bàn thờ Tổ tiên…

Nhiều câu chuyện huyền bí thêu dệt của ai đó,

qua nhiều người, nhiều thế hệ...

Cây To thêm huyền sử....

Bỗng...

Một trận cuồng phong nổi lên,

giữa mùa hè,

giữa đêm khuya...

Sáng ra, Cây thiêng thần ấy đổ gãy, bật gốc...

Cây chết...

Cây hết thiêng.

Người làng chặt về làm củi !

Có điều lạ, cả làng thắc mắc:

Tai sao nhiều trận cuồng phong mùa đông xem ra nhiều hơn, mạnh hơn mà Cây không bị quật đổ, trong lúc Cây rụng hết lá, chỉ trơ ít cành, tức đang ốm yếu...

Thế sao chỉ trận cuồng phong mùa hè, ít ỏi, cấp độ nhẹ hơn, Cây lại đang độ sung sức sum suê, sức sống mạnh nhất trong năm... Cây lại bị đổ, lăn cu đơ,

chết khô... dễ thế.

Thế là cây hết thiêng.

Hết thiêng thì hết kiêng.

Cây thành củi khiên về đun cám heo

Những câu chuyện huyền bí làm tăng thêm mê tín dị đoan chỉ là câu chuyên bịa dặt, thêu dệt....

Mua vui như kỷ niệm đẹp,

thời dại khờ, u minh.

* Vụn vặt suy tư:

Thắc mắc xem như khó hiểu, đáng cho ta suy nghĩ lắm.

Mùa đông, Cây trơ trụi lá, lên không có sức cản nhiều,

Cuồng phong có đến không có sức cản nên cũng hôn nhẹn, lọt qua...

Cây vẫn đứng vững, bình an vô sự.

Mùa hè cây nhiều cành lá, xanh tươi,

cuồng phong đến, gặp ngay nhiều sức cản, chống đất trời thiên nhiên,

thêm sức cuồng điên...

Bật đổ, không lạ…

Cuộc sống Trần gian ta cũng thể...

Mỗi khi mình Buông Bỏ,

cuộc đời thêm thanh thoát, nhẹ nhõm...

Càng thuận thiên

Biển cả cuộc đời dẫu có cuồng phong bão táp...

Không sao quật ngã.

Cuộc đời Tươi vui- Thanh thoát - Tự do,...

Trái lại, mỗi khi tích lũy, ham tích lũy...

Của có hàng ngày dùng ĐỦ chưa xong,

của DƯ chưa đủ;

của THỪA vẫn thiếu,

của THÃI không thỏa...

Lòng Tham vô đáy, tích mãi không vừa...

Ai ngờ, mỗi lần tích lũy ấy, cuộc đời mình thêm gánh nặng,

thêm mất tự do;

Thêm lưng còng, bám đất

thêm sức cản thanh thoát...

Và khi sóng gió đến,

chưa cần mức cuồng phong cũng dễ bị quật đổ.

Tham sân si chưa buông bỏ,

lại lạm dụng sức mạnh thần quyền, thế quyền…

Càng tệ hơn.

Hào nhoáng, hoành tráng, lắm tiền…

càng cho thấy mong manh, yếu đuối,

Thiếu vững bền…

Có thiêng cũng hết kiêng,

hết siêng cúng bái

Giật Mình:

Phúc Thật đầu tiên trong Tám Mối Phúc Thật:

"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,

vì Nước Trời là của họ'

TINH THẦN NGHÈO KHÓ khó chính là BUÔNG BỎ.

Buông bỏ dần,

Buông bỏ để nên giống Thầy Giê-su,

Buông Bỏ để thêm cho Giê-su hữ lơn hơn,

Đấng 'Là Đường- Sự Thật- Sự Sống'.

Buông bỏ để có Tự do trong tư cách là- làm Chủ- Là- làm Vua

điều mà ngay từ đầu Cha Trời đã trao cho Con Người- Thụ tạo ưu tuyển được dựng nên Giống Hình Ảnh Thiên Chúa.

Buông Bỏ như Thầy Giê-su:

'Chim có tổ,

cáo có hang

còn Thầy không có chỗ gối đầu'

Buông bỏ như Thầy Giê-su trên thập giá,

không một tấm vải che thân,

nhưng lại toát sáng hình ảnh đẹp: Tình Yêu Tha Thứ cho chính người gây ra oan tử cho mình

'Lạy Cha, xin tha cho chúng,

vì chứng không biết việc người làm',

Buông bỏ mà không có Tình Yêu- Không có Giê-su thì buông bỏ ấy chưa phải là buông bỏ...

Và nếu có buông bỏ, coi chừng buông bỏ thừa.

(Sinh thời, Thầy Giê-su từng kêu mời: Bỏ mình vác Thập Giá mình mỗi ngày mà theo Thầy...

Thập giá là đau khổ, thất bại nhưng Thập Giá theo Thầy Giê-su lại thành Thánh Giá - Tin Mừng Cứu Độ

Yếu tố 'theo Thầy' thiết yếu mới làm Thập Giá thành Thánh Giá

Đau Khổ có Tin vui, thành Tin Mừng)

Lm. Đaminh Hương Quất

Khi Người Không Ðáp Trả

Ai trong các con có bạn hữu nửa đêm đến nhà mình nói: Bạn ơi, cho tôi mượn mấy tấm bánh, vì bằng hữu ở xa tới mà tôi hết đồ ăn rồi. Người kia ở trong trả lời: Ðừng quấy rầy người ta, cửa đóng rồi, trẻ nhỏ ngủ hết, ai dậy mà lấy cho ông được. Nhưng nếu họ cứ gõ hoài. Ta bảo thật, người ấy không dậy mà cho vì tình bạn bè thì ít ra vì họ quấy rầy nên cũng ráng dậy mà lấy cho họ. Nên Ta bảo cho các con rõ: Vì hễ ai xin, sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho (Lc. 11: 5-10).

Chúa bảo tôi đến gõ cửa, ở đấy có chờ đợi. Ðó là lời xác định của Chúa. Như vậy, chắc chắn tôi sẽ bắt gặp nếu tôi kiếm tìm, tôi sẽ tìm thấy nếu tôi van xin.

* * *

Nhưng trong đời, tôi đã kinh nghiệm một nỗi bận tâm khó hiểu. Tôi gọi mà Chúa không đáp trả. Tôi xin mà Chúa không cho. Có những vực sâu của tâm hồn, có những đêm dài bất an, tôi hướng về Chúa nhưng tôi không gặp. Tôi không ước mơ những ước mơ lớn. Tôi chẳng xin sang giàu. Tôi chỉ xin cho tôi nhẹ bớt khổ đau tâm hồn. Tôi chỉ xin cho đỡ kéo dài bệnh tật của thân xác. Tôi chỉ xin Chúa soi cho tôi một ánh đèn khi tôi phải quyết định những vấn đề quan trọng. Tôi chỉ xin Chúa giữ tôi lại trước đêm đen mịt mùng cám dỗ. Nhưng tiếng tôi từ vực sâu lại vọng về với tôi trong nỗi vắng. Những lúc tôi cần Chúa nhất thì Ngài lại bỏ tôi đi xa. Vì sao Người im tiếng?

* * *

Ngài im tiếng. Hay có phải Ngài đang nói mà tôi không nghe? Ngài chối từ. Hay có phải cánh cửa đã mở mà tôi không vào vì có vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh? Ngài im lặng. Hay có phải Ngài bảo tôi: Hãy vào sa mạc, hãy ra bờ đá lặng thinh, hãy khép lại bớt cửa lòng rồi con sẽ nghe thấy tiếng Cha. Nhưng tôi chán những bờ đá vắng vẻ, và tôi đã yêu những vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh. Làm sao tim tôi nghe được tiếng con họa mi đang hót khi mà bày ve sầu đam mê đang kêu inh ỏi trong hồn?

Ngài thờ ơ. Hay có phải Ngài không đáp trả vì tôi bất xứng với ân sủng của Ngài. Chẳng ai có thể trách vì sao không có mặt trời nếu họ cứ sống dưới hầm tối, vực sâu. Chẳng ai có thể trách vì sao không có bình an nở giữa khu vườn tham lam. Người cha tốt là người cha đóng cửa nhà mình để đứa con khỏi ngày ngày về lấy gia tài đi hoang đàng, phung phí.

? Vì sao Chúa không cho tôi điều tôi xin? Ðã bao lần Chúa bắt tôi đi. Gian nan. Mỏi. Tôi muốn ghé tạm xuống đường ngồi nghỉ. Nhưng Chúa biết để tôi ngồi nghỉ, dần dà tôi sẽ nghe theo tiếng nói của đất thấp, tôi sẽ lười biếng đối với tiếng gọi của trời cao. Tôi trách vì sao Người không cho tôi lập nghiệp trên những ước mơ của tôi, xin làm quê hương trên những ý nghĩ riêng tư của tôi. Ngài chẳng đáp trả, vì Ngài biết đường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi. Trong những đêm đen như mù mịt, tôi gõ nhưng cánh cửa chẳng mở. Phải chăng chỉ có Ngài, Ngài mới biết những gì là tốt nhất cho phần rỗi của tôi. Như vậy, không đáp trả có là dấu chỉ của tình thương?

* * *

Khi không đáp trả, đấy cũng là một cách trả lời. Trả lời bằng lặng im nhiều khi lại là câu trả lời thâm sâu và hàm chứa nhiều ý nghĩa.

Tôi không đến với ai mà tôi biết chắc rằng tôi không thể tin cậy. Khi đến xin Chúa trợ giúp là tôi đặt niềm tin nơi Ngài. Nếu đã đặt niềm tin thì sao lại có thể phân vân. Khi Ngài im lặng như không đáp trả, tôi lo âu, thì đấy là dấu hiệu niềm tin đó không vững vàng.

Niềm tin là lời cầu nguyện để xin được biến đổi. Như thỏi đất sét tin mình nằm trong tay người thợ lành nghề. Người thợ gốm biết loại đất sét nào có sức chịu đựng để đúc gạch lót đường, loại nào có thể tạc tượng. Niềm tin vững vàng là phó thác trong tay người thợ gốm vì tin rằng mình được yêu thương và săn sóc. Tin vững vàng hệ tại phó thác rằng Chúa là người thợ gốm khôn ngoan và không lầm lẫn trong công trình sáng tạo. Chứ tin vững vàng không có nghĩa là tin mình sẽ biến đổi được ý định của Chúa để đạt được điều mình xin. Có những lời xin chẳng bao giờ được đáp trả nhưng lại là một ân sủng thật lớn lao.

* * *

Ngày còn bé tôi không biết cầu nguyện thế nào. Những ngày bom nổ nhiều là những ngày mẹ tôi càng lo. Mỗi tối, mẹ tôi bảo tôi ngồi lần hạt cầu nguyện cho cha ngoài trận tuyến. Trong trí óc non dại, tôi cầu nguyện cho cha tôi được bình yên. Một lằn đạn hiểm nghèo. Một trái mìn kín đáo. Ðời sống bếp bênh như treo bằng sợi chỉ. Chỉ một giấy báo tin thôi, tôi sẽ là đứa mồ côi. Mẹ tôi sẽ là góa phụ. Tôi đã thấy nhiều lá cờ trải lên mộ đất. Tôi đã thấy nhiều chuyến xe nhà binh chở đơn độc một quan tài, người thiếu phụ đội nón trắng ngồi lặng lẽ không còn nước mắt để khóc.

Rồi chuyện một đêm đã đến. Chiến tranh đổ xuống trên mảnh đất quê tôi. Tôi còn bé, nhưng tôi hiểu những nghẹn ngào của người có thân nhân vừa mới vĩnh biệt. Mưa ướt lẹp xẹp, tôi nghển cổ nhìn qua cửa sổ đông chật người. Một chiều mưa ảm đạm, lạnh lẽo làm sao. Mái lá thấp đổ những dòng mưa thảm não. Tôi vẫn còn nhớ cái buổi chiều xám nặng nề ấy cho tới hôm nay. Ðôi chân của cậu X. chết nằm sóng sượt trên cái phản gỗ. Bùn dính lem luốc. Mợ X. khóc thảm thiết bên xác chồng mới chết trận. Ai đã bắn chết cậu? Có phải kẻ mà cậu chưa kịp bắn?

Tò mò, tôi theo những đứa trẻ khác ra ven rừng xem xác chết. Những hố bom cày tung đất còn mới nguyên. Vải băng trắng còn lẫn với xác người chưa kịp thu. Giữa những xác người ấy, tôi thấy một người nằm chết cong queo, cụt chân vì bom nổ, máu bầm khô bết vào áo đầm đìa. Mặt cháy đen. Nhìn kỹ trên khuôn mặt ấy, tôi không quên được là chuỗi tràng hạt vẫn quàng vòng quanh cổ. Kẻ chết là một bộ đội miền Bắc. Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là bộ đội cộng sản cũng tin vào Chúa như tôi sao?

Từ ngày đó, mỗi lần giúp lễ, nhìn lên thánh giá mà hồn tôi bâng khuâng. Tôi thấy Chúa buồn. Quỳ đây, tôi cầu nguyện xin Chúa chở che cha tôi ngoài chiến trận. Nhưng người cán binh bộ độ ấy, có thể cũng có một đứa con trai bằng tuổi tôi ở ngoài miền Bắc. Nó cũng là cậu bé giúp lễ. Cứ mỗi sáng, mẹ nó cũng đánh thức nó dậy thật sớm để giúp lễ, cầu nguyện cho cha đang ở mãi trong miền Nam heo hút. Năm tháng bặt tin, chắc chiều chiều, tối tối, mẹ nó cũng rối bời lòng trí, thẫn thờ nhìn về phương Nam, dục nó đọc kinh. Chúa nghe lời tôi để cha tôi giết họ? Chúa nghe lời cậu bé kia để cha cậu giết cha tôi? Cả hai cậu bé đều cầu nguyện, Chúa biết nghe lời ai?

Tôi không tin là Chúa có câu trả lời. Tôi chỉ cảm thấy rằng Chúa khó xử ghê gớm lắm. Chúa trên thập giá như càng thêm đau đớn. Mỗi lời cầu của tôi là một vết thương cho Ngài. Mỗi nỗi lo âu của cậu bé ngoài miền Bắc kia làm Ngài thêm khổ tâm.

Tôi hình dung Chúa như một người cha. Ðứa con thứ nhất chạy đến: Cha ơi, đưa con dao cho con để con chém nó. Ðứa con kia chạy lại, sợ hãi: Cha ơi, đừng đưa! Cha có biết rằng con cũng là con của cha sao? Và người cha chỉ còn biết đớn đau mà thôi, vì cả hai con đều là con của mình.

Từ đó, mỗi buổi sáng giúp lễ, tôi thấy Chúa trên thập giá như ngậm ngùi. Tay giang rộng cứ thêm mãi khổ thương. Từ ngày đó, trong cái trí óc non nhỏ của tôi, tôi hiểu mơ màng rằng bất cứ hành động nào gây thương tích cho nhau cũng là làm khổ cho Cha trên trời.

* * *

Lạy Chúa,
Mỗi khi con cầu nguyện thì cho con biết xin được biến đổi, chứ đừng biến đổi Chúa. Làm sao con có thể biến đổi sự khôn ngoan của Chúa thành sự vụng về của con. Khi con nài Chúa làm theo ý con là con muốn đem sự hoàn hảo của Chúa thành những bất toàn giống như của con.

Con ngỡ tiếng sói sủa là vui tai. Con ngỡ lời mời của Satan là tha thiết. Con ngỡ trái táo hồng có hương thơm, nào ngờ đâu con có biết sâu độc làm tổ ở bên trong. Những lời con xin nhiều khi rất đẹp, nhưng chỉ là đẹp theo cái nhìn của con mà thôi.

Lạy Chúa,
Xin cho con hiểu rằng có những lời xin mà Chúa chẳng thể đáp trả được. Và chính lúc Chúa im lặng lại là lúc Chúa đang nói với con bằng ngôn ngữ nhiệm mầu nhất.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Mấy Cái Bánh Nhỏ

Có thể Paris, London, rồi bạn ghé vào một quán kem. Ấm với hương cà phê, đưa hồn bạn về một vùng trời. Tôi cũng đã đi qua những quán kem buổi chiều tây phương. Những quán kem có bờ công viên mát cỏ xanh, những con đường trải đá trắng thơ mộng. Cũng có những quán kem hối hả tiếng nhạc của một chiều bận rộn xua đẩy mọi suy tư.

Saigon cũng có những quán kem. Một lần về với những kỷ niệm cũ. Ghé quán kem xưa ngồi nhìn thành phố một thủa mình đã lớn lên. Ngang đời, hôm nay trở lại quê hương. Tôi đã đi qua những quán kem chiều xa xứ, quán kem không có gì để nhớ, nhưng ở quán kem trên thành phố cũ, hôm nay, tôi thấy phân vân giữa lòng mình và cuộc đời. Thìa kem gần ở môi mà như xa lắm ở trong lòng. Tôi ngồi bên này vỉa hè, chầm chậm những thìa kem nhỏ. Ở vỉa hè bên kia, mấy vành xích lô mệt mỏi đang đợi chờ tìm khách. Mặt họ hằn những gian khổ của cuộc sống. Vai áo bạc vì mồ hôi. Chắc vợ con họ đang đợi tiếng xe cọc cạnh đạp về với hy vọng một ngày đủ sống.

Một em bé đến nhìn tôi, xin tôi cho uống ly nước cam còn dở. Mắt em vẫn theo dõi sợ chủ quán đuổi. Liệu em có chờ những thìa kem còn sót lại trong đáy ly em đang nhìn? Tôi sẽ để lại ít kem cho em, hành động ấy là yêu thương hay xúc phạm?

Tôi đã đi qua những quán kem tây phương. Buổi chiều ở bờ biển Laguna Hills hay San Francisco tôi thấy cuộc đời bay trôi theo những đám mây. Những quán kem tây phương đưa tôi vào cõi mộng. Quán kem quê hương đưa tôi vào cuộc sống thật. Cả bầu trời mơ ước của một con người nằm gọn dưới đáy ly kem.

* * *

Sau khi làm phép lạ bánh hóa ra nhiều cho mấy ngàn người ăn, và họ ăn no rồi, Chúa nhìn những mẩu bánh vụn rất tiếc, căn dặn các môn đệ nhặt hết lại: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa, đừng để hư phí” (Yn. 6:12).

Ðó là câu chuyện hai ngàn năm xưa. Nếu hôm nay giảng Tin Mừng, Chúa sẽ bảo đừng đổ phí những sợi mì vì có nhiều người nghèo đói đang dang dở mong buộc cuộc đời mình bằng những miếng bánh phở dư. Nếu hôm nay Chúa vào quán kem, Chúa sẽ thấy có những thìa kem đưa một buổi chiều vào cõi mộng. Chúa cũng thấy có những con người kéo cả bầu trời mơ ước vào thìa kem còn sót lại.

“Anh em hãy thu lấy những miếng bánh thừa, đừng để hư phí”. Chúa muốn nói gì với chúng ta về “mấy cái bánh và vài con cá nhỏ” trong tương quan giữa con người với nhau? Có những nơi dư thừa trong khi có những nơi thiếu thốn.

Có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời chiều mà người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ. Các ông đã nói với Chúa: “Ðây là nơi vắng vẻ, và trời đã gần tối, xin Thày cho dân chúng về để họ vào các làng mua ăn” (Mt. 14:15). Ðó là thương xót nhập đề. Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm, nhưng có khi chỉ là xót thương không muốn nhận trách nhiệm, lúc đó khởi điểm chấm dứt ở nhập đề. Chúa trả lời các môn đệ bằng một lệnh truyền thật ngạc nhiên: “Họ không cần phải đi, anh em hãy lo cho họ ăn” (Mt. 14:16). Chúa muốn các môn đệ bước qua ngưỡng cửa xót thương khởi điểm, đem thương xót nhập đề mà vào xót thương nhập cuộc. Chính các con phải lo cho họ ăn!

* * *

Phản ứng của các môn đệ ghi trong bốn Phúc Âm như sau:

– Máthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi (Mt. 14:17).

– Máccô: Thế thì chúng tôi phải đi mua hai trăm đồng quan bánh mà cho họ ăn sao? (Mc. 6:37).

– Luca: Chúng tôi không có hơn năm chiếc bánh và hai con cá, họa chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này (Lc. 9:13).

– Yoan: Philiphê thưa: Có mua hết hai trăm đồng cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu cho bấy nhiêu người? (Yn. 6:7-8).

Xem ra họ thất vọng trước vấn đề vì “chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi”. Lo cho mình còn chưa đủ còn lo cho ai. Những phản ứng của bốn Phúc Âm chung nhau ở một cửa ngõ là không có lối vào. Họ bế tắc. Theo Phúc Âm Yoan thì chưa chắc các môn đệ đã có bánh và cá, mà là của thằng bé bán rong. Bởi đó, làm sao các môn đệ dám đề cập tới chuyện lo cho đám đông ăn dù biết họ đói và mệt lắm. Hôm nay, nghèo đói như một bãi rác mênh mông, không biết bắt đầu giọn dẹp từ đâu. Thái độ của con người hôm nay cũng là tâm trạng của các môn đệ ngày trước, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”. Trong cái nghèo khó của tôi, làm sao tôi dám cho đi. Và có khi để xoa dịu lương tâm, tôi cũng lập lại cùng mệnh đề đó, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”. Cho đi là mất, bởi thế, kẻ biết mất mà vẫn cho đi là kẻ có lòng thương xót lớn hơn niềm tin. Trong ý nghĩa này, khi niềm tin bế tắc mà có lòng thương xót thì lòng thương xót sẽ mở ngõ cho niềm tin đi về. Khi khóa ngõ lòng thương xót thì niềm tin sẽ đứng ở ngoài. Chính lòng thương xót của Chúa đã làm cho mấy chiếc bánh và hai con cá nhỏ thành lương thực nuôi đám đông.

Khi Chúa giơ “năm chiếc bánh và hai con cá” lên đọc lời nguyện thì cửa ngõ bế tắc lo âu không lối vào của các môn đệ đã trở thành lối vào không còn cửa ngõ. Ðám đông ăn no và còn dư thừa. Cũng vậy, những giúp đỡ của ta cho tha nhân, dù nhỏ nhưng đến từ lòng thương xót thì Chúa sẽ giơ lên trời cầu nguyện và nó sẽ thành hiến lễ.

* * *

Chỉ có mấy cái bánh mà hàng ngàn người ăn no, làm sao chỉ có hai con cá nhỏ mà họ ăn không hết? Có những cho đi rất nhỏ mà nhận về thật lớn lao, vì những tia nắng nhỏ ấy đã qua lăng kính quang phổ trăm màu của Chúa. Có khi nào bạn bị bệnh và phải dùng thuốc trụ sinh chưa? Ðây là câu chuyện thuốc trụ sinh.

Ngày nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước sâu. Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn nghèo.

Một đứa bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà, nhưng lại không biết bơi. Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời. Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà nghèo. Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé nằm dưới đáy ly kem. Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao. Ông hỏi cậu bé:

– Khi lớn con muốn làm gì?

– Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.

– Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?

– Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì.

– Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?

– Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.

Sau này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị. Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill.

Nhờ lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê. Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh penicillin. Tên của cậu là Fleming!

Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng. Rồi Fleming là bác sĩ. Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây. Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa. Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình. Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.

* * *

“Chính các con hãy lo cho họ ăn”. Chúa bảo các môn đệ vậy. Ðấy là hình ảnh của một cậu bé can đảm lao xuống dòng nước trước tiếng kêu của một người hấp hối. Số tiền nuôi cậu bé nhà nghèo Fleming ăn học, đối với gia đình quý tộc kia có thể đó chỉ là “năm cái bánh nhỏ và hai con cá”. Nhờ mấy cái bánh nhỏ này mà chính người con của nhà quý tộc ấy, thủ tướng của nước Anh đã được cứu sống lần thứ hai, và cả nhân loại hàng triệu triệu người được thừa hưởng công trình y khoa từ những cái bánh nhỏ đó.

Nhờ năm chiếc bánh và mấy con cá mà Chúa nuôi cả ngàn người. Phép lạ của những liều thuốc trụ sinh hôm nay và cho đến mãi mãi thế kỷ sau này mở đầu là do sự giúp đỡ mà cậu bé nhà nghèo Fleming đã nhận được.

Những buổi chiều tây phương và những quán kem. Ngồi bên ly kem người ta thả hồn vào những vùng trời ước mộng mây trôi. Những buổi chiều đông phương và những quán kem. Những thìa kem sót lại mà chứa cả bầu trời mộng ước của một tuổi thơ.

Chúa gọi lòng thương xót ở chúng ta, đừng nói chúng tôi “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, Chúa có thể cho một viên than hồng âm ỉ trong đám tro than hôm nay thành biển lửa dữ dội ngày mai. Vấn đề không phải là “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, nhưng là có bao nhiêu lòng can đảm dám cho đi.

Khi Chúa mời gọi ta cho nhau những cái bánh nhỏ là Chúa mời gọi ta cùng làm phép lạ với Chúa.

Lm. Nguyễn tầm Thường

Người đổ rác

Một ngày tôi thải biết bao nhiêu rác. Cái mùi tanh, cái mùi chua, không có thùng rác tôi không sống nổi. Nếu không thể thiếu thùng rác thì người đổ rác cũng là cần thiết.

“Hỡi Anh em, tôi viết các điều này để anh em đừng phạm tội. Nhưng ai trót phạm tội, thì này, ta có Ðấng bầu chữa nơi Cha, Ðức Yêsu Kitô, Ðấng công chính. Ngài là hy vật đền tạ các tội lỗi ta, không những các tội lỗi ta mà thôi, mà của tất cả thế gian nữa” (1 Jn. 2: 1-2).

Ðấng gánh tội trần gian

Có những bài hát ca ngợi Ðức Kitô là vua trên vua. Có nhiều nhà thần học đi tìm mầu nhiệm về con người Ðức Kitô, Ngài được gọi là Ðấng quyền năng, vô hình. Có nhiều sách tu đức đi tìm những chiều sâu suy niệm về Ðức Kitô, Ngài được gọi là Bánh Hằng Sống. Trong bao nhiêu tước hiệu, tôi thích tên gọi Ngài là Ðấng Gánh Tội trần gian.

Nói về vua thì cao sang quá. Nói về tư tế thượng phẩm thì thánh thiện quá. Nói Ngài là Ðấng Gánh Tội, lối gọi đó cho tôi hình dung Ngài thương xót và gần gũi hơn.

Chúa bảo cái dơ bên ngoài không làm người ta xấu mà là tâm địa tồi bại trong lòng (Mt. 15: 11). Như thế rác chỉ có thể làm bẩn cuộc đời, còn tội làm cuộc đời thành rác. Không muốn đời mình là rác thì tôi cần Ðấng Gánh Tội tôi biết bao nhiêu. Vì tội làm cuộc đời tôi thành rác, nên khi gọi Chúa là Ðấng Gánh Tội trần gian, có thể nói đấy chỉ là một lối phiên dịch của kiểu nói mộc mạc: Chúa là người đổ rác.

Tâm trạng người đổ rác
Người đi qua căn nhà tôi, ngõ thềm im lỉm. Ðã mấy mùa nắng mưa trôi qua. Có những chiều tàn hoàng hôn rủ xuống rất muộn, Người Ðổ Rác vẫn thờ thẩn đi ngang qua ngõ. Có những ngày ủ dột mưa nhỏ giọt lê thê, vẫn bóng Người Ðổ Rác ấy đi lặng lẽ trong cái lạnh cô độc qua căn nhà của tôi. Nhìn vào, chờ đợi, rồi lại đi.

* * *

Từ thủa xa xưa, Người không phải là kẻ đổ rác. Có một thời vũ trụ đẹp lắm. Người là nghệ sĩ. Óc sáng tạo đưa Người đến những bến bờ mênh mông của nghệ thuật. Một giải mây vàng. Một đóa ánh sáng. Một hồ thu biển lặng. Một rừng xuân trầm trầm. Tất cả công trình Người tạo dựng đã đưa vũ trụ thành tác phẩm tuyệt vời. Người là nghệ sĩ. Nhưng sau khi tạo dựng nên con người, Ngài trở thành Người Ðổ Rác.

* * *

Chiều nay, lại một lần nữa Ngài đi qua căn nhà của tôi. Vẫn dáng điệu suy nghĩ mênh mông. Ðôi vai Ngài mỏi lắm vì thập giá quá nặng phải vác hôm nào. Vẫn chiếc áo dài Mẹ Ngài may cho từ thủa vào đời gánh tội trần gian. Chiếc áo bụi đường sương đất, Ngài vẫn mang theo như tình Mẹ gởi cho con. Và chiều nay, căn nhà tôi vẫn đóng cửa, im lìm.

* * *

Không nhà ai mà không có rác. “Kẻ nói mình không có tội là kẻ tự lừa dối mình” (1 Jn. 1: 8). Lời Kinh Thánh đã nói như thế. Bởi đó, Ngài cứ băn khoăn về căn nhà của tôi.

* * *

Có những lần Người gõ cửa. Tôi biết bước chân Người đi qua. Bàn tay khô sần, gõ lên cánh cửa linh hồn tôi. Trong ngái ngủ ủ dột, tôi lặng lẽ trong hơi thở đã quen, rất quen trong căn nhà cũ.

* * *

Hồn Người là vùng trời nghệ thuật không bến bờ. Người thao thức mãi để xóa đi một mảng mầu tanh tưởi. Trong căn nhà tôi, Người biết, có mùi tanh của rác. Người băn khoăn. Sự tự do Người cho tôi đã giữ chân Người ngoài hiên thềm nhà tôi. Người chỉ là kẻ đổ rác khi có người cho rác để đổ.

* * *

Ðèn vàng ở cuối phố đã lên, chiều nay Người về chậm, những bước chân mệt mỏi. Người nhìn vào căn nhà tôi kiên nhẫn chờ đợi.

 

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Gian Nan Cho Niềm Tin

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Kitô và Mai Ðệ Liên là một gặp gỡ gian nan. Một bên là tiên tri, một bên là gái điếm, cả hai đều bị xã hội kết án. Nếu Mai Ðệ Liên vì niềm tin mà gian nan thì Ðức Kitô cũng sẵn sàng gian nan cho niềm tin của kẻ tin Ngài.

Vì niềm tin mà gian nan

Trên đường đời, hôm nay Mai Ðệ Liên đã đi tìm một địa chỉ rất mới: Ðó là địa chỉ cứu rỗi. Tôi gọi vì niềm tin mà gian nan vì muốn gặp Ðức Kitô mà người phụ nữ này đã phải chấp nhận những cái nhìn xỉ nhục của người đời. Hôm nay, bà phải đương đầu với cả xã hội đang kết án bà. Ði về một địa chỉ mà đám đông là dòng sông ngăn cách, một địa chỉ phải leo qua những cây cầu mà đám đông là kết án. Cho niềm tin dẫn về địa chỉ ấy, bà chấp nhận gian nan ngược theo chiều gió mà đi.

Gian nan cho niềm tin

Dẫu người phụ nữ can đảm, nhưng sự can đảm này vẫn mang một giới hạn. Bà đã mang tiếng là người tội lỗi, còn gì danh dự để mà sợ mất, bà chỉ chấp nhận gian nan mà thôi. Do đó, vì niềm tin mà người đàn bà gian nan thì gian nan đó cũng không thể so sánh với gian nan mà Ðức Kitô sẵn sàng chấp nhận cho niềm tin của bà.

Sự kiện Chúa để cho bà công khai ngồi cạnh mình là thái độ can đảm khác thường. Nó khác thường đến độ người Biệt phái mời Ngài đã phải tự nói với mình: “Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sờ đến mình kia là ai, và thuộc hạng nào chứ: Một đứa tội lỗi” (Lc. 7:39).

Nhìn vào sự kiện người đàn bà tội lỗi ngồi cạnh Chúa người ta có thể đặt những nghi ngờ về Ðức Kitô như: Nếu không quen biết sao người phụ nữ này lại theo ông ấy đến đây? Ðã liên hệ từ bao lâu? Ông ấy có là tiên tri thật không? Ðức Kitô có thể bị hiểu lầm, bị mất danh dự. Ðối với kẻ tin Ngài là tiên tri thì giờ này có thể đặt nghi vấn về niềm tin của mình. Ðối với kẻ dửng dưng thì giờ này là lúc sáng tỏ cho lời xác quyết của Pharisêu: “Chúng ta biết rằng tên đó là một đứa tội lỗi” (Yn. 9:23). Ðối với kẻ chống đối thì giờ này là lúc vinh quang cho lời bảo chứng: “Nó mê ăn uống, giao du với phường thu thuế và quân tội lỗi” (Mt. 11: 19).

Trong phòng tiệc, tất cả thượng khách được mời đang ngả mình trịnh trọng trên thảm quý chằm chằm nhìn Ngài. Tại sao Ðức Kitô lại để cho một phụ nữ ngồi bên cạnh xõa tóc xức dầu thơm? Ngài không mắc cỡ trước biết bao cặp mắt nhìn về mình? Ngài không sợ mất danh dự vì gặp gỡ người đàn bà như thế? Phải chăng Ngài cũng ngượng ngùng lắm, phải chăng Ngài cũng sợ bị hiểu lầm lắm. Nhưng vì một người đã bước trong gió ngược gian nan mà gởi niềm tin thì Ngài cũng sẵn sàng gian nan đi ngược chiều gió đón nhận niềm tin ấy.

* * *

Lời con cầu nguyện

Ðã có một lần, dân chúng ùa đi theo, giữa đám người đó, có những thái độ theo dõi, có những cặp mắt tò mò, rồi họ ngỡ ngàng khi thấy Chúa dừng lại dưới gốc cây, nói vọng lên: “Giakêu, xuống mau, hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi” (Lc. 19:5). Hôm ấy, người ta cũng nói về Chúa: “Ông ấy vào ngụ nhà một người tội lỗi” (Lc. 19:7).

Bữa tiệc hôm nay nặng nề làm sao. Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn nhìn về phía Chúa. Cái ngày Chúa tắt ngang qua Yêricô, rồi gặp Giakêu cũng vậy, cả đám đông đang theo, rồi bất chợt Chúa bỏ họ, chỉ nói chuyện với một tâm hồn. Hôm nay cũng thế, các khách tiệc trang trọng, thế mà Chúa bỏ hết, chỉ nói chuyện với một tâm hồn.

Ở cả hai hoàn cảnh, cho dù giữa đám đông, giữa một rừng người nhưng Chúa cứ đi tìm một người. Giữa một khung trời nhưng Chúa cứ chờ đợi một khung trời. Ở Chúa như có một cung đàn mà đám đông là lạc giọng. Khi đám đông đi tìm nguyên tắc thì cung đàn kia lại là lòng xót thương. Khi đám đông chờ đợi phán quyết thì tiếng lòng nọ lại là nhân từ. Khi đám đông là nghiêm phạt thì trái tim ấy lại là bao dung. Cứ như thế, họ lạc nhau.

Lúc Chúa nói với người phụ nữ: “Tội lỗi con đã được tha” (Lc. 7:48). Ðám đông đã nghĩ trong lòng: “Ông này là ai mà dám tha tội” (Lc. 7:49). Nhưng Chúa chẳng quan tâm gì đến họ. Chúa không trả lời họ. Chúa chỉ nói với người phụ nữ thôi (Lc. 7:50). Thái độ của Chúa cũng giống như ngày Giakêu đến gặp Chúa.

Người phụ nữ cứ đi gặp Chúa, chẳng bận tâm với đám đông. Ðám đông cũng chẳng thể làm Giakêu ngại ngùng. Còn Chúa, Chúa cũng là người không biết mắc cỡ trước những con mắt cợt đùa với lòng thương xót. Con thấy khi động đến lòng xót thương là Chúa bỏ tất cả những tập tục nghi thức.

Lạy Chúa, niềm tin của con là tiếng gọi tìm lòng thương xót. Lòng thương xót của Chúa là địa chỉ cho niềm tin con đi về. Niềm tin và lòng thương xót giao thoa với nhau. Nếu thế, trong đời sống của con, chỉ có niềm tin mà không có lòng thương xót thì niềm tin ấy lạc lõng biết lối nào đi.

Lm. Nguyễn Tầm Thường