8. Đời Sống Tâm Linh

Bóng mát

Bóng mát cần thiết để dừng nghỉ. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt lắm. Vì bóng mát chỉ để dừng nghỉ, nên nếu ngày nào bóng mát giữ chân tôi lại không muốn tôi lên đường thì lúc đó bóng mát trở thành đánh lừa tôi. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt nên tôi cần bóng mát. Trong cái cần bóng mát ấy, dễ đưa tôi đến chỗ ôm giữ bóng mát như một nuối tiếc không muốn rời bỏ.

Có những bóng mát của một ngày hành trình dài trên đường đi bộ. Nhất là, khi mồ hôi đong vào những sợi nắng chẻ tóc. Nhất là, khi gặp một trời hạ hực nắng và gió không hiền hòa. Lúc đó, tôi cần một bóng mát làm sao!

Dù là bóng mát của một quán trọ hay bóng mát của một tàng cây, bóng mát vẫn chỉ là “bóng” chứ không phải là “thực”. Vì là bóng, nên bóng mát không thể là nơi tôi nương trú. Tôi chỉ dừng chân rồi đi. Cái nguy hiểm của bóng mát là có thể làm chậm trễ hành trình tôi đi tới, có thể đánh mất đường về của tôi.

Từ bóng mát trên đường đi dẫn tôi đến “bóng mát cuộc đời”.

Bóng mát cuộc đời.

Có nhiều thứ bóng mát trong cuộc đời. Một ngày nào đó với lo âu trĩu nặng, rồi có một tình thân đến chia sẻ. Một ngày nào đó bơ vơ, rồi có một tâm hồn đến cho nương tựa. Ðấy đều là những bóng mát. Trong lúc cơ cực, một tấm lòng rộng lượng đến nâng đỡ. Những bóng mát như vậy cần thiết biết bao. Trong đời ai cũng cần những bóng mát như thế. Cuộc sống không giản dị êm đềm, có những quãng vắng lặng lẽ, có những khúc đi gian nan, để rồi cuộc sống cần những bóng mát cuộc đời.

Trong những bóng mát cuộc đời ấy có những bóng mát nguy hiểm, bóng mát lừa dối. Giữa những bóng mát cần thiết có những bóng mát bất chính. Người ta lẫn lộn những bóng mát ấy với nhau. Vì đặc tính của bóng mát là cho người ta “chất mát”. Ðam mê và tội lỗi cũng là một thứ bóng mát. Nhiều khi tội lỗi và đam mê càng cho người ta nhiều “chất mát” hơn.

Thí dụ trong hôn nhân, thí dụ trong đời tu, vì một lúc yếu lòng, vào một mùa thu ảm đạm. Rồi, ở một nơi nào đó trong tâm hồn mình, thấy bâng khuâng gợi nhớ, thấy man mác một nỗi sầu trống vắng thiếu thốn. Người ta dễ đi tìm “bóng mát cuộc đời” bằng lỗi chung thủy.

Ðời là con đường dài. Những lúc chớm sáng bình minh, người ta hăng hái lên đường, nhưng vào trưa oi bức, người ta muốn dừng nghỉ. Những ngày hạnh phúc êm ả người ta không cần bóng mát cuộc đời. Những ngày chán nản, bơ vơ, người ta không muốn lên đường, lúc ấy, những quán hạnh phúc bên đường dễ cám dỗ mời mọc làm sao.

Bóng mát và người chăn chiên.

Người chăn chiên nhìn về cuối chân trời. Nắng vẫn hanh, nhưng trong lòng người chăn chiên, chiều đang đổ xuống rất mau. Ðường vẫn còn dài. Người chăn chiên nhủ lòng: Phải ra khỏi cánh rừng khi chiều về!

Chúa Kitô cũng vậy, thời gian đối với Ngài là mùa màng cứu rỗi. Ngài nhìn cuộc sống của tôi với chiều đi mà nôn nao, hối hả: “Bao lâu còn sáng ngày, Ta phải làm việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm tối đến không ai còn làm việc được nữa” (Jn. 11:10).

Người chăn chiên tính toán kỹ lưỡng. Trời còn hanh nắng đó, nhưng phải lên đường cho kịp tránh hoàng hôn. Bầy chiên nào có biết, chúng chỉ thích an nghỉ dưới tàng cây rợp bóng. Cái êm dịu của bóng mát làm chúng ngại lên đường. Chúng muốn thiu thiu ngủ hơn ra đi. Chiều cứ xuống, chầm chậm không lời báo động. “Trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, lấy vợ lấy chồng cho đến ngày ông Noe vào tầu. Và lúc chẳng ai để ý gì, thì lụt đến và cuốn trôi đi tất cả” (Mt. 24: 38-39). Khi giấc ngủ vừa tỉnh, muốn lên đường thì đã muộn. Hoàng hôn xuống mà chưa ra khỏi cánh rừng là bóng tối bủa vây, là nguy hiểm rình chờ, sói rừng sẽ xuất hiện. Những bóng mát ấy là cõi chết rất êm. Những bóng mát đánh lừa.

Người chăn chiên lành nghề thì biết khúc đường còn bao lâu, quãng dài cần thiết bao nhiêu thời giờ để ra khỏi cánh rừng. Cho dù trời có nắng, mồ hôi có chảy, người chăn chiên vẫn cứ hối hả thúc chiên lên đường, không cho nó nằm nghỉ dưới bóng mát tàng cây. Nỗi tâm tư của người chăn là chiên chẳng hiểu mình. Chúng trách cứ, oán than. Trong bóng mát ấy, bầy chiên than thở, tại sao một chút hạnh phúc mà Ngài cũng lấy đi. Bao lần trong đời, con người đã nhìn hình ảnh người chăn chiên như kẻ khó tính, không cảm thông. Một chút hạnh phúc mà Ngài cũng không cho. Một chút an ủi mà Ngài ngăn cấm. Người chăn chiên biết cái rình mò của bóng đêm. Nhìn đường còn xa mà lo âu thương bầy chiên, nếu trời đổ tối mà chưa ra khỏi cánh rừng thì sao. Sói đến. Chết chóc. Ðổ vỡ. Dù chiên muốn hay không, người chăn chiên vẫn nhủ lòng: Nhất định phải bắt chúng lên đường!

Chúa Kitô cũng thế. Ngài thấy những “bóng mát cuộc đời” giả tạo của tôi mà lo âu. Ngài biết bóng mát ấy đang đánh lừa tôi. Bóng mát ấy có thể là tình cảm bất chính, là tiền bạc tôi không rõ ràng trong khi có trách nhiệm cầm giữ. Bóng mát ấy có thể là quyền hành tôi được trao phó, nhưng mà để thoả mãn hơn là phục vụ. Bóng mát ấy cũng có thể là giấc ngủ dài vì ngại ngùng khi thấy hành trình xám hối đòi nhiều cố gắng. Bóng mát ấy có thể là một thứ đam mê.

Những thứ bóng mát này có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng cùng một địa chỉ là lừa gạt tôi.

Khi nói về bóng mát (shadow), cả bốn Phúc Âm chỉ nói đến 2 lần. Và cả hai lần tiếng bóng mát đều liên quan đến sự chết. Lần thứ 1 trong Matthêu: “Kẻ ngồi trong bóng tối sự chết” (Mt. 4: 16). Lần thứ 2 trong Luca: “Kẻ ngồi trong tối tăm bóng chết” (Lc. 1: 79).

Trong khi những lời giảng dạy, nhiều biến cố quan trọng giữa Chúa và con người hầu hết đều xẩy ra trên đường đi đổ nắng chứ không ở trong bóng mát.

Thí dụ:

Trên đường đi Ngài hỏi họ: Người ta nói Thầy là ai? Và Phêrô tuyên tín Thầy là Ðức Kitô (Mt. 8: 27-27).

Khi bắt đầu lên đường. Một người đến hỏi: Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời (Mt. 10: 17).

Dọc đường lên Jerusalem, Ngài nói: Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời, các ký lục và thượng tế… (Mc. 10: 32-34).

Trên đường đi, họ bắt ông Simon vác thánh giá đỡ cho Ðức Kitô (Lc. 23: 26).

Trên đường đi đến một làng nọ. Mười người phong cùi đến gặp Ngài (Lc. 17: 11).

Cuộc gặp gỡ sau biến cố Phục sinh cũng xẩy ra trên đường Emmaus. Hai ông kể lại chuyện xẩy ra khi các ông đi đường và các ông đã nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh (Lc. 24: 35).

Giakêu gặp Chúa cũng là gặp trong lúc đi đường (Lc. 19: 4).

Khi người chăn chiên dùng gậy đánh để bầy chiên khỏi ươn lười ngủ vùi trong bóng mát, cũng là lúc, để thức tỉnh tôi, Chúa trao cho tôi “chút bánh đau thương và ít nước khốn cùng. Nhưng Ðấng dạy dỗ tôi sẽ không bao giờ rời bỏ tôi. Khi chân tôi xiêu bên phải, vẹo bên trái, chính tai tôi nghe tiếng từ đàng sau phán: Ðây là đường hãy đi theo đó” (Isaia 30: 18-21). Chúa biết ngày nào tôi còn nằm trong “bóng mát” giả tạo ấy, tôi chỉ ôm mơ một bóng hình hạnh phúc ảo ảnh. Những êm đềm ấy chỉ lừa dối tôi thôi.

Bóng cây mát ven đường đánh lừa bầy chiên để đêm tối ập xuống thế nào thì “bóng mát cuộc đời” đam mê cũng đánh lừa tôi để tôi mất mùa ơn sủng như thế.

* * *

Lạy Chúa,
Bao lần tâm tư Chúa buồn phiền khi thấy con dại dột nằm ẩn mình trong bóng mát. Những cảm xúc ngọt ngào của bóng mát chỉ cho con hạnh phúc giả mà thôi. Nó cản đường con về đồng cỏ quê trời. Nó làm chậm chân con ra khỏi cánh rừng nguy hiểm cho linh hồn. Những ngày con sống như thế, Chúa thấy thời gian đổ vỡ đã gần kề mà con vẫn ngủ, thì con xin Chúa, như người chăn chiên tốt lành, hãy dùng gậy mà đánh, mà lùa chiên ra khỏi bóng mát.

Xin cho con nhớ lời thánh Phaolô nhắn gởi: “Hỡi con chớ khinh chê lời sửa phạt của Chúa, chớ ngã lòng khi Chúa trách mắng con. Vì Chúa sửa trị kẻ Chúa yêu và đánh phạt kẻ Chúa nhận làm con. Chúa dùng đau khổ để dạy anh chị em. Thiên Chúa đối xử với anh chị em như đối xử với con cái. Có con nào mà cha không phải sửa phạt ư? Nếu anh chị em không nhận lời răn dạy như mọi người, anh chị em là con ngoại tình chứ không phải con thật nữa. Ðàng khác cha phần xác sửa dạy ta mà ta còn tôn kính, phương chi ta càng phải vâng phục cha phần hồn là Ðấng ban sự sống cho ta. Cha phần xác sửa trị ta theo ý riêng mình và vì lợi ích tạm thời, còn cha phần hồn thì vì lợi ích thực sự là để ta được thông phần vào sự thánh thiện của cha. Thật vậy, mọi sự sửa phạt lúc đầu chỉ gây buồn tủi, chẳng có đem lại an ủi đâu, song về sau, những kẻ vui lòng chịu thử thách như vậy, sẽ được sự bằng an và sự công chính làm phần thưởng (Hipri 12: 4-11).

Nguyễn Tầm Thường

Vòng Gai và Nụ Hôn

Ðưa chân vào đời là vô bờ những tiếng gọi đi về tương lai. Mỗi bước chân là một lựa chọn định hướng. Lối nào cũng là lời mời gọi thiết tha. Có lối đi êm đềm của hạnh phúc lứa đôi. Cũng có tiếng gọi về một cuối đồi trải dài nẻo đường lý tưởng. Ðó là lối đi của thập giá, là bước chân Ðức Kitô. Trong lối đi ấy, hồn Ðức Kitô như một cánh diều đong gió, thênh thang, thản nhiên cõi đời.

Người thanh niên nhìn về tương lai với hai nẻo đường đi, giữa cõi trời dệt mộng và lối đi nghệ sĩ như cánh diều của thập giá. Chàng chọn con đường thứ hai. Chàng yêu những chân trời nắng dội. Chàng thích những bình minh lên đường. Chàng mơ một ngày gặp Ðức Kitô để muốn một đời phiêu lưu với Ngài.

* * *

Ðức Kitô đang đi tìm những tâm hồn nghệ sĩ. Thế là họ gặp nhau. Rồi từ đó, họ rong chơi trong vũ trụ. Qua núi. Qua đồi. Có những quãng đời nắng bụi chân trần, nhễ nhãi mồ hôi nhưng mà họ vui biết bao. Ðức Kitô dậy người học trò của mình về vương quốc của Cha Ngài. Ngài bảo vương quốc ấy không có hàng rào chia ranh giới, không có đạo quân canh giữ, vương quốc là một bữa tiệc, là một luân vũ hân hoan. Rất vui. Ai vào cũng được, tuy nhiên có điều muốn luân vũ hân hoan thì họ phải tự do, phải như gió rong chơi bốn mùa, phải như mây tan ra, vì thế họ phải từ bỏ nhiều lắm.

Ðức Kitô chuẩn bị cho người học trò của mình mai sau tiếp nối bước chân trần trên cát nên Ngài đem người học trò qua tất cả mọi nẻo đường cuộc đời. Lối dạy của Ngài rất lạ. Có những chiều hôm nắng quái, để dạy cho trò về sự sống, Ngài chọn nghĩa trang im lặng. Hai Thầy trò bên ven rừng hoang vu. Giữa những ngôi mộ đã nghìn thu im tiếng mà Ngài cứ say sưa giảng: Ðó là sự sống! Ðó là sự sống!

Ðể thấy vũ trụ xôn xao, để hiểu thế nào là âm nhạc, người học trò phải vất vả theo Ngài cả một ngày dài, sau cùng Ngài dẫn vào sa mạc. Ðêm về, trăng lên. Vằng vặc không một bóng người. Lặng lẽ quá đỗi. Chỉ có mênh mông. Không một âm thanh mà Ngài chìm vào một hòa tấu như cả vũ trụ đang khiêu vũ rồi Ngài say sưa nói với học trò: Ðó là âm nhạc! Ðó là đàn ca!

Ngược theo những vạt nắng. Xuôi về những bến sông. Một lần ngang qua phố chiều, Ngài cho người học trò nhìn thấy tất cả tiền bạc giấu kín trong bao. Vàng bạc ngời sáng làm người học trò không biết nhìn nơi đâu. Chung quanh là tiền rừng bạc bể mà Ngài lại hỏi người học trò: Con thấy không, đâu là sự tự do, con thấy không, họ nghèo túng quá!

Có lần người học trò hãnh diện chỉ vào đền đài: “Kìa, Thầy nhìn xem vinh quang của Giáo Hội ta.” Ðức Kitô hỏi người học trò: “Con muốn vào ở trong đó hay con muốn đi với Thầy?” Người học trò không hiểu. Ðức Kitô nói tiếp: “Con muốn nhà tù hay tự do”. Người học trò chẳng hiểu. Ngài bảo người học trò: “Thôi đi con ạ.” Cả hai lại tiếp tục lên đường. Ở đằng trước mặt, con đường vẫn còn hun hút chưa thấy nơi tới….

* * *

Ði qua phố núi. Về qua chợ chiều. Rong ruổi trong đời đã là bao năm. Lên những bình minh rực rỡ. Xuống những mưa rầm rì. Rồi cũng đến ngày Thầy trò chia tay. Ðức Kitô đã dạy cho người học trò tất cả lý tưởng của mình. Nghi thức vào đời làm chứng nhân, kết thúc những ngày theo học với Thầy sẽ là vòng tay chúc bình an của Thầy. Trăng mờ lạnh hơi sương, người học trò nghĩ đến sáng mai, khi vạt nắng trải dài xuống sườn đồi chàng sẽ giã từ Thầy. Nôn nao như một mùa hội mới. Cũng buồn vì xa Thầy, nhưng chàng đã trưởng thành, và Thầy gởi gắm giấc mơ của Thầy nơi mình, chàng phải can đảm. Cứ nghĩ đến một ngày rong ruổi độ thân như đời Thầy, cứ nghĩ đến đời mình như cánh diều lộng gió bay cao, chàng xôn xao chờ phút giây trọng đại.

Vạt nắng bắt đầu hắt lên, nắng rực rỡ sẵn sàng làm chứng cho một chia tay hào hùng. Khi mặt trời nứt đất đẩy lên một vùng lửa cũng là lúc không gian trang trọng đón chân Ðức Kitô đến. Hiến lễ tạ ơn đã xong, chàng đến quỳ trước Thày mình nhận sứ vụ. Ðức Kitô từ từ cúi xuống chúc bình an cho người học trò của mình, gửi chàng những thâm tình lần cuối. Khi vòng tay của Ngài buông xuống bờ vai, mặt Ngài cúi sát xuống vầng trán của người học trò thì cũng là lúc mặt trời ngưng hơi thở và nắng hốt hoảng lo âu. Nhìn lên mặt Thầy mình chàng mới thấy vòng gai nhọn trên đầu Thầy cũng dần dần cúi xuống sắp sửa rạch lên trán. Một cách ngại ngùng, người học trò nhăn mặt nới thõng vòng tay. Vòng gai còn đó, nụ hôn không thành.

Ðức Kitô thấu hiểu tâm hồn người môn sinh. Ngài không thể chúc bình an cho người học trò được nữa. Sự tự do là tất cả giá trị của tặng vật, vòng tay ngại ngùng đã đánh rơi lòng muốn, ánh mắt sợ hãi đã lên mờ sương đục của thiết tha. Ðức Kitô không thể cứ cúi ôm người học trò khi mà người học trò ấy ngại ngùng. Không có tự do là cưỡng bức. Bất ngờ quá. Người học trò bối rối trước vòng gai nhọn, đôi tay đã buông thong mà không hẳn là dám dứt bỏ, muốn đi tới mà nặng trĩu ở đàng sau. Nắng đang sẵn sằng chứng giám cho cuộc lên đường anh hùng đột nhiên xanh xao sợ hãi vì chẳng biết những gì sắp xẩy ra. Ðức Kitô cũng không ngờ sự thể ngoài tầm dự đoán. Lòng xót thương đẩy Ngài đến một sáng kiến cũng không ngờ. Ðể gỡ cho người học trò khỏi mất mặt không biết phải phản ứng như thế nào trước vòng gai nhọn, Ngài ôn tồn hỏi người học trò:

? Con muốn xuống núi sáng nay không hay con muốn ở lại với Thầy ít lâu nữa?

Người học trò bám vào câu hỏi như chiếc phao để rỡ rối. Và dĩ nhiên chúng ta biết người học trò đã ở lại. Vòng gai còn đó, nụ hôn không thành.

* * *

Từ ngày nhánh gai nhọn chạm lên trán, chàng bối rối nhiều về nụ hôn. Chàng sợ vòng tay chúc bình an của Thầy, vì vòng gai và nụ hôn không thể tách rời. Chàng tự hỏi rồi lo sợ cho một cuộc lên đường. Những xuôi mùa trăng. Những ngược mùa gió. Từ ngày xuống núi không thành, chàng trăn trở tiếng gọi theo Thầy. Cánh diều lộng gió hôm nào, có đẹp, có mêng mông, nhưng không dễ để mình bay cao. Bước chân Thầy đơn sơ nghèo khó mà sao quá đỗi nặng nề đối với mình. Những vạt nắng về rồi đi, loãng thoãng trong hồn. Loãng thoãng cho thấy nỗi buồn loang lổ của một trái tim dang dở. Nó loãng thoãng nhưng đủ móng vuốt nhẩy bổ vào chiếu dọi đây đó trong vùng sâu tâm tư những ngõ tối mà khi bắt đầu cuộc sống chứng nhân chàng mới hiểu nỗi đau.

Còn Ðức Kitô, từ ngày đó, cánh diều là người học trò mà Ngài đang nương giây đẩy gió cho lên cao có lẽ sẽ bay mất. Nó đứt giây không phải vươn mình trên cõi đời mà là chao đảo rồi rơi sập.

Trong băn khoăn, sáng kiến đã đưa đến lời nguyện cầu sáng tạo táo bạo. Ngài thầm nghĩ người học trò chỉ vì sợ vòng gai chạm vào da mặt mà không dám ôm Ngài, nên Ðức Kitô quyết định xin Cha Ngài một đặc ân là tạm bỏ vòng gai trên đầu trong giây lát để có thể chúc bình an cho người học trò mà không làm nó miễn cưỡng chấp nhận. Ðức Chúa Cha chấp nhận và rừng lá lại nôn nao chứng dám cho một cuộc lên đường hào hùng.

* * *

Nhè nhẹ như cánh lá vàng thu của một đồi chiều hạnh phúc trong trái tim. Ðức Kitô an tâm hơn, có niềm vui nhưng còn kín đáo đợi chờ. Cũng như lần trước, người học trò chuẩn bị hiến lễ tạ ơn rồi chờ đợi Thầy mình đến. Từ lúc được Thầy báo tin giây phút chia tay, hình ảnh gai nhọn lại hiện về. Lần trước chia tay không thành. Mũi gai và vòng tay chúc bình an là một. Người học trò bịn rịn mồ hôi cho một cuộc lên đường. Sau cùng Ðức Kitô đã đến.

Trong là ngơ ngác khó hiểu. Ngoài là ngạc nhiên buông xuống. Người học trò chăm chăm nhìn Ðức Kitô xa lạ. Chàng chẳng thể nhận ra. Vòng gai và Ðức Kitô không thể tách rời. Thiếu vòng gai Ðức Kitô không còn là Ðức Kitô nữa. Người học trò hỏi người khách lạ.

– Ông là ai?

Ðức Kitô trả lời:

– Con không nhớ là Thầy hẹn ở đây để chúng ta có nghi thức chia tay sao?

Phân vân, người học trò nhìn lên mặt Ðức Kitô rồi xác quyết:

– Không! Ông không phải là Thầy tôi. Nhưng ông là ai mà biết bí mật câu chuyện giữa tôi và Thầy tôi?

– Ðã bao năm theo Thầy mà con không nhận ra giọng nói của Thầy sao?

Người học trò càng phân vân hơn nữa. Có lẽ là giọng nói đó chăng, nhưng còn vòng gai đâu. Dấu hiệu của Thầy mình là vòng gai hay giọng nói?

Mẩu đối thoại tiếp tục. Theo dõi hai người nói chuyện mà mặt trời lại hồi hộp ngừng thở và nắng sợ hãi lo âu không biết những gì sắp sẩy ra. Một bên nhận là Thầy. Một bên chối là không. Người học trò mỗi lúc mỗi liên tưởng đến vòng gai nhọn mà thấy khuôn mặt người khách lạ này khác Thầy mình quá. Khuôn mặt Ðức Kitô không có vòng gai trông lạ lẫm làm sao!

Rồi trời lại về những hoang mang. Rồi đất lại đi những ngập ngừng. Cuộc chia tay lần thứ hai không thành. Nắng đã lên cao trên đỉnh đồi. Nắng đổ xuống chói chang đọng vào tim người học trò những găy gắt.

* * *

Bạn thân mến, Ðức Kitô có hai khuôn mặt. Lúc Ngài lang thang ở biển hồ Galilê, lúc gọi các môn đệ theo mình, Ngài không có vòng gai trên đầu. Những ngày theo Thầy học đạo, các môn đệ chỉ theo Thầy để học bằng lời.

Sau biến cố Golgotha, từ ngày Ðức Kitô bị treo trên thập giá, khuôn mặt Ngài mang chứng tích tình yêu và cứu độ là vòng gai trên đầu. Theo Ðức Kitô để học là theo 3 năm Ðức Kitô dạy phải chết thế nào cho trọn lời Kinh thánh. Còn theo Ðức Kitô làm chứng nhân là theo Ðức Kitô sau biến cố tử nạn, là theo một khuôn mặt luôn luôn có vòng gai trên đầu. Từ ngày tử nạn thì tấm căn cước, chứng minh nhân dân của Ngài luôn luôn có vòng gai.

Hôm nay theo Ðức Kitô là làm chứng nhân chứ không phải chỉ nói về Ngài. Bỏ vòng gai trên đầu Ðức Kitô không còn là Ðức Kitô nữa. Bỏ vòng gai trên đầu, Ðức Kitô không vào phục sinh được. Vinh quang và đau thương là một. Không thể chỉ có một Ðức Kitô rao giảng mà không có Ðức Kitô bị đóng đinh. Không thể tách rời thập giá vòng gai và ơn cứu độ. Ðức Kitô chỉ rao giảng mà không vào khổ nạn đấy không phải là Ðức Kitô thật. Bởi đó, kẻ chỉ theo Ðức Kitô cắt nghĩa Kinh Thánh mà không theo Ðức Kitô vòng gai là một loại ngôn sứ giả hiệu.

* * *

Ðã hai lần người học trò không xuống núi làm chứng nhân được. Bây giờ là lần thứ ba. Bạn có nghĩ lần này người học trò xuống núi được không. Khi biết rõ theo Thầy học Kinh Thánh thì khác mà theo Thầy làm nhân chứng thì khác. Khi biết rõ vòng gai và nụ hôn là một không thể tách rời. Khi biết rõ Thầy mình luôn luôn mang vòng gai, và theo Thầy bây giờ là theo khuôn mặt vòng gai ấy, người học trò sẽ từ bỏ lý tưởng làm con diều lộng gió hay sẽ tiếp tục.

Trở về câu hỏi riêng tư của lòng mình, lần thứ ba này là của riêng bạn, của riêng tôi. Biết rõ nghĩa trang là đường vào sự sống và thinh lặng là âm nhạc. Biết rõ làm chứng nhân là theo Ðức Kitô có vòng gai. Biết rõ thập giá và phục sinh không thể tách rời. Chúng ta có theo Ngài không? Trong cõi tim mình tôi đi tìm câu trả lời cho riêng tôi, bạn tìm câu trả lời cho riêng bạn, vì tiếng gọi là một lựa chọn tự do. Thôi chúng ta phải chia tay ở đây.

Còn lần thứ ba đã xẩy ra những gì cho người học trò? Câu chuyện quá riêng tư, mà thế giới riêng tư thì chẳng phải của bạn, chẳng phải của tôi, cứ để cho người học trò đó thế giới của anh ta. Như thế chắc ta chẳng nên băn khoăn tìm hiểu lần thứ ba của người học trò làm gì.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

MẸ TÊRÊSA GIÚP THĂNG TIẾN TRONG SỰ KHIÊM NHƯỜNG

Lời khuyên của Thánh Têrêsa Calcutta đặc biệt thích hợp trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, cho chúng ta cơ hội suy ngẫm về cách chúng ta có thể sử dụng đức tin để giúp bản thân mình trở nên con người tốt nhất. Và trong việc này, không có tấm gương nào lớn hơn cuộc đời của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị thánh được nhiều người yêu mến.

Thánh nữ, đã cống hiến cả cuộc đời để phục vụ người nghèo, thường chia sẻ một số cách đơn giản để chúng ta có thể hoàn thiện bản thân hàng ngày. Và trong cuốn sách “Niềm vui của tình yêu: Hướng dẫn về cuộc sống hàng ngày”, một tuyển tập trí tuệ của Mẹ, chúng ta tìm thấy một số điều cần thiết để thêm một chút khiêm tốn vào cuộc sống của chúng ta.

Điều thú vị là Mẹ Têrêsa đã qua đời trước khi bước sang thế kỷ này, tuy nhiên lời khuyên của Mẹ là những gì mà ngày nay chúng ta thực sự nên tuân theo. Điều này đặc biệt đúng khi chúng ta điều khiển và định hướng thế giới truyền thông xã hội, trong đó mọi người đôi khi cảm thấy mình có khả năng chia sẻ ý kiến ​​và ý tưởng, nhưng lại không hề khiêm tốn.

Cuốn sách “Niềm vui trong tình yêu” của Mẹ Têrêsa chia sẻ những bước đi hướng tới sự khiêm nhường này, và như bạn sẽ thấy, hầu hết trong những bước đi đó đều cung cấp những hướng dẫn cơ bản để chúng ta trở thành những người giao tiếp tốt trên mạng xã hội:

  • Nói về bản thân mình càng ít càng tốt.
  • Để tâm đến việc riêng của mình.
  • Đừng xen vào công việc của người khác.
  • Tránh tò mò.
  • Bỏ qua lỗi lầm của người khác.
  • Chấp nhận những lời xúc phạm và những tổn thương.
  • Chấp nhận bị coi thường, bị lãng quên và không được ưa thích.
  • Hãy tử tế và dịu dàng ngay cả khi bị khiêu khích.
  • Đừng bao giờ yêu cầu được đối xử kính trọng như bạn nghĩ.
  • Luôn luôn chọn phần khó nhất.

Mặc dù chúng ta có thể sử dụng những viên ngọc trí tuệ này để sống một cuộc sống khiêm tốn hơn, nhưng chúng ta cũng có thể chia sẻ chúng với con cái, hay người thân của mình để giúp nhau cư xử không chỉ có đạo đức hơn trong cuộc sống hàng ngày mà còn tử tế khi lên mạng.

 

Cerith Gardiner - 14/02/24

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.

Từ https://aleteia.org

 

 

Rác

Tuyết rơi từ bao giờ không biết, cứ mưa trong lặng lẽ một trời đêm. Tôi vén màn nhìn qua khuông cửa kính phòng ngủ. Ðường vắng tanh. Nghe ngoài trời gió tuyết rì rào đập xuống vuông kính cửa sổ. Có tiếng xe nặng nề. Tiếng cần trục cẩu chiếc thùng sắt ở đầu ngõ. Tôi đoán trời đã gần về sáng vì xe đổ rác đang đi thu rác. Vào mùa đông ở những tiểu bang miền Bắc Mỹ 6 giờ sáng trời vẫn tối mù sương.

Phòng tôi có một thùng rác. Trong nhà tắm và vệ sinh có một thùng nữa. Xuống khỏi cầu thang là phòng khách, cũng có một thùng rác. Từ phòng khách nếu đi thẳng xuống nhà bếp, đó mới lại là thùng rác lớn. Nếu rẽ mặt là phòng làm việc của cha xứ, cũng có một thùng rác. Cạnh đó là phòng làm việc của cha phó, dĩ nhiên cũng phải có một thùng. Bên cạnh phòng cha phó là văn phòng của nhà xứ, văn phòng chính, làm sao mà thiếu thùng rác được. Tính ra đã là 7 thùng rác. Chưa tính những phòng khác và ngoài đầu nhà. Người ta cần nhiều thùng rác vì cuộc đời, đâu cũng có rác.

Sáng nay, trời mù sương tuyết phủ. Gió lạnh bay về se sắt những nhánh cây khô. Từ đường phố còn vắng hoe, người phu đã đi dọn rác.

* * *

Chỉ mấy ngày, thùng rác trong căn bếp đã đầy. Ðặc tính của rác là rác gọi ruồi nhặng tới. Rác sinh dòi bọ.

Trong những thứ làm bẩn cuộc đời có hai loại rác. Rác bên ngoài và rác trong tâm hồn. Các Biệt phái và ký lục chất vấn Chúa:

Vì lẽ gì mà môn đệ Ngài lại không noi theo lệ truyền của tiền nhân, không rửa tay khi dùng bữa? (Mt. 15: 2). Chúa gọi dân chúng lại mà trả lời họ: Không có gì ở ngoài miệng vào có thể làm cho người ta ra dơ uế được. Nhưng chính các điều bởi miệng ra là những điều làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 11).

Sau đó Chúa giải thích thêm cho các môn đệ:

Ðiều tự người ta ra, điều đó làm cho người ta ra dơ uế. Vì tự bên trong, tự lòng người ta, mà xuất ra những suy tính xấu xa: Những dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo quyệt, phóng đãng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh, vô lương tri. Các điều xấu xa đó thay thảy đều tự bên trong mà xuất ra, và làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 17-20).

Con người đề cập đến rác rưởi bên ngoài thì Chúa lại soi dọi đến rác rưởi tâm hồn. Chúa đem nó ra ánh sáng vì loại rác này khó thấy, hoặc người ta không muốn thấy. Từ thái độ của Chúa về rác, có lẽ ta cũng cần có đôi chút thời giờ để gợi một vài ý:

– Gia đình tôi không thể sống mà thiếu thùng rác, vậy đâu là thùng rác thiêng liêng của gia đình tôi?

– Bao đựng rác cũng mất tiền, tại sao tôi không tiết kiệm tiền mua bao bằng cách cứ chứa rác trong nhà? Lý do nào làm tôi không nhạy cảm với rác tội lỗi?

– Khi đổ rác, người ta đổ tất cả rác trong nhà. Một thùng có mùi hôi, cả nhà vẫn hôi. Người ta không thể để cho rác của mình gây tanh tưởi và lập luận đó là rác của tôi, tôi có tự do giữ nó trong phòng tôi! Tôi có bao giờ cho những băn khoăn về tội riêng của tôi có liên hệ tới người chung quanh trong gia đình là một băn khoăn chính đáng?

– Người ta không đổ rác từ thùng này qua thùng phòng bên kia. Nhưng là đổ tất cả ra ngoài. Tôi có thái độ nào với rác thiêng liêng trong gia đình tôi?

– Khi phát mùi tanh, khi có dòi bọ mà bao rác hãy còn vơi, người ta vẫn đem đi đổ, sao không cứ đợi cho đầy? sao không cứ đợi đúng thời khóa biểu? Tôi hiểu thế nào trong đời sống thiêng liêng với các thứ rác tinh thần và bí tích giải tội?

Tất cả sang trọng trong căn nhà của tôi chẳng có gì là quyến rũ để Chúa vào. Rác tâm hồn đã biến nó thành ngôi mộ. “Các ông giống như những mồ mả quét vôi trắng, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy hài cốt và mọi mùi hôi thối” (Mt. 23: 27).

* * *

Lạy Chúa,
Ai cũng có rác. Nhà nào cũng có rác. Trong hai thứ rác, Chúa sợ rác rưởi trong tim con người. “Khốn cho các ngươi, vì các ngươi rửa sạch bên ngoài chén đĩa, còn bên trong thì chứa đầy cướp bóc và ô uế” (Mt. 23: 25). Căn nhà của con dù có trang trí mỹ thuật đến đâu mà đầy rác, thì đấy cũng chẳng thể là nơi sống được. Gia đình con có khi nào nhạy cảm với rác rưởi vô hình?

Dù đời đẹp đến đâu, nói đến đời cũng vẫn phải nói đến rác. Cuộc sống của con cũng có biết bao nhiêu sợi chỉ thêu bạc, nhưng cũng chẳng thể tránh được những đường may tội lỗi. Như vậy, xin cho con hàng ngày khi đổ rác biết suy tư về rác cũng là đủ cho con lắm rồi.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Trên đường về

Trên đường về với Chúa, tôi đã bao lần cất cánh bay lên, nhưng có mưa phùn làm đôi cánh lạnh giá.

Ðã bao lần tôi muốn đi tới, nhưng lối về có gai góc cản ngăn.

Ðã bao lần muốn giang tay ra, cho đi nhiều hơn, nhưng có nuối tiếc bảo đừng.

Vì thế, trong mơ ước có gian nan. Và, trên đường về với Chúa vẫn là khúc đường xa xăm.

* * *

Trong cuộc sống, những giấc mơ chưa trọn vẹn là những giấc mơ buồn. Vì không trọn vẹn nên mới buồn. Nhưng đặc tính của những giấc mơ buồn lại thường là những giấc mơ lớn. Vì lớn nên mới khó trọn vẹn. Bởi đó, cái buồn của giấc mơ không trọn vẹn dường như vẫn là cái buồn giá trị, giá trị vì nó mang một hoài bão rất cao.

Cái không trọn vẹn đó thúc bách, mời gọi đi tới. Con đường tình yêu không bao giờ có giới hạn thì giấc mơ tình yêu không bao giờ cùng. Do đấy, sự chưa được trọn vẹn trong ước mơ đi về với Chúa là sự chưa trọn vẹn dễ hiểu trong thân phận làm người của tôi nơi trần thế này. Ðường tình yêu càng dài thì giấc mơ tình yêu càng sâu. Tình yêu càng sâu thì trên đường ấy, tôi cần miệt mài đi mãi.

Trên đường về với Chúa, tôi chỉ hỏi lòng tôi là tôi đã đi xa tới đâu, đã bay cao thế nào. Chứ không thể có câu hỏi tôi đã yêu Chúa trọn vẹn chưa. Từ ngàn xưa, Ngài đã biết hồn tôi là dang dở, những lời thề của tôi là những lời đoan hứa dập gẫy. Bởi đấy, tôi không thể yêu Ngài trọn vẹn nhưng Ngài đòi tôi đi về trọn vẹn.

Trọn vẹn là một mơ ước. Dang dở vì chưa trọn vẹn có chiều sâu của nó là nó làm cho mơ ước tiếp tục còn là ước mơ. Tôi có thể cầu Chúa cho tôi đạt được mọi mơ ước không? Khi đạt được mọi mơ ước rồi thì tôi không còn mơ ước nữa. Không còn mơ ước thì còn gì để mà đi tới, còn gì để mà bay lên. Trong ý nghĩ ấy, đường về với Chúa nếu còn dang dở chỉ là lời gọi tôi đi tới. Mỗi lần sa ngã chỉ là bảo tôi nhìn lên cao. Tôi không thất vọng vì chưa đạt được mơ ước.

Mơ ước đã được rồi là hạnh phúc đã được đóng khung trong một bến bờ. Tôi muốn thứ hạnh phúc vô cùng. Tôi muốn hoài hoài mơ ước. Tôi muốn vào một không gian hạnh phúc mà càng bay cao thì càng bắt gặp trời thênh thang tự do. Càng bắt gặp thì càng si mê, càng si mê thì càng nuôi mộng đi tới nữa. Tôi tin rằng hạnh phúc ấy có thật. Ðó là chính Chúa. Bởi tôi biết, tôi không bao giờ uống cạn được ân sủng của trời cao. Vì thế, tôi không xin cho tôi đạt được điều tôi mơ ước mà chỉ xin cho tôi được mãi mãi, hoài hoài đi về Ngài, sống trung thành với mơ ước đó thôi.

Và vì thế, linh hồn tôi có vì bất toàn mà lầm lỗi, thì đấy chẳng thể là lý do làm tôi thất vọng, xuôi lòng. Trên đường về nhà Cha, nếu vì yếu đuối mà dừng nghỉ. Thì, đường về nhà Cha có xa xăm thật. Xa xăm ấy vẫn là xa xăm có Chúa. Nếu vì sa ngã mà làm cho giấc mơ gian nan. Thì, đường về nhà Cha có gian nan thật, gian nan ấy vẫn là gian nan ấm lòng.

* * *

Lạy Cha,

Cha cầu xin cho con không thuộc về thế gian, nhưng Cha đã chẳng đem con ra khỏi thế gian. Ngày nào con còn trong thế gian thì con còn nghe thấy tiếng dỗ dành của những rung cảm đam mê. Từ trong bào thai của mẹ, con đã là lỗi phạm. Con có thể vấp ngã vì bóng đêm, nhưng con có thể không thuộc về đêm tối. Con không thất vọng vì những đám mưa phùn làm con ướt cánh. Con không ủ dột vì bờ đá chênh vênh giữ chân con đi tới. Vì con biết, khi Cha dìu con, thì tình trời sẽ sưởi ấm chiều mưa lạnh ảm đạm, và ân sủng sẽ gieo trên gai nhọn. Khi Cha dìu con thì ước mơ sẽ nên tha thiết, và dù có vất vả cánh ong vẫn bay về được với mật ngọt của hoa. Khi Cha dìu con thì con có thể trung thành. Khi Cha dìu con thì thánh giá sẽ là sức sống.

Lạy Cha,

Ðấy là mơ ước và cũng là lời cầu nguyện của con trên đường về.

Có giấc mơ nào đẹp mà không phải trả giá bằng thương đau? Có giấc mơ nào lớn mà không phải trả giá bằng thử thách? Có thập giá nào lên đồi Golgotha mà không quỵ ngã? Có chiều nào trong vườn Giệtsimani mà không lo âu rướm máu. Những áng mây trời chỉ bay trên đỉnh đồi. Gió lộng chỉ ở ngoài biển khơi. Tôi phải đi lên. Tôi phải miệt mài bước tới. Và Ngài đã nói với tôi: “Cha ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28: 20).

Tiếng gọi của trời cao là bảo tôi trung thành với ước mơ. Cho dù lầm lỗi có làm tôi đau khổ vì mất giá trị nhưng chẳng vì thế mà Người chê trái tim tôi nghèo nàn xấu xí. Ðôi cánh con chim sẻ sẽ chẳng bay cao được như con phượng hoàng. Nhưng một ly nước nhỏ mà đầy thì ý nghĩa hơn một ly nước lớn mà vơi.

Dù có yếu đuối cản đường. Dù có lầm lẫn che lối. Dù ngày tôi chết, tôi vẫn chưa leo được tới nửa đồi của thập giá, nhưng nếu tim tôi vẫn hồng lửa ước mơ, hồn tôi vẫn vất vả đi tìm cõi vô biên thì đấy là đường mở lối vào vườn hạnh phúc rồi.

Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một con chiên què mà cứ xiêu vẹo trèo lên. Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một đôi cánh đang lầm than vì gió lạnh, mưa ướt, mang thương tích vì gai rậm mà cứ nhất quyết tìm đường về. Và vì đó, dù trong yếu đuối của tôi, tôi vẫn thấy biển rộng, trong dòng xót thương của Cha, tôi tới đồi cao.

Lm. Nguyễn Tầm Thường