3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Thinh lặng nội tâm

Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.

Vào mùa hè, người ta thường tạm nghỉ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghỉ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.

Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.

Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…

Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.

Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.

Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.

Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất.

Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Trong cuộc sống phục vụ các tâm hồn, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà ngay sau khi nghe các Tông đồ báo cáo về những việc họ đã làm, Chúa truyền cho họ phải tìm chốn nghỉ ngơi, mặc dù đó là lúc người ta lui tới với các Tông đồ rất đông. Việc nghỉ ngơi nói đây không phải chỉ là việc giải lao bình thường, nhưng còn là một thời gian dành cho việc bồi dưỡng tinh thần. Trong thanh vắng, Chúa cho các Tông đồ hiểu: việc rao giảng Tin Mừng là chia sẻ cho người ta những gì mình ôm ấp trong tâm hồn.

Nếu mình không học hỏi thêm, không suy nghĩ, không kiểm điểm về những điều mình biết và tin, thì vốn liếng niềm tin của mình sẽ nghèo đi. Còn gì để chia sẻ cho người khác nữa? Thời gian nghỉ ngơi là lúc các Tông đồ kiểm điểm đời sống để thấy điều gì cần sửa đổi, điều gì cần phải làm thêm cho sinh hoạt truyền giáo đạt kết quả. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ vậy. Nơi vắng vẻ cũng là nơi thuận tiện cho các Tông đồ cầu nguyện. Vì cầu nguyện cũng là trau dồi đời sống nội tâm. Cầu nguyện để được ơn Thánh Thần trợ giúp. Cầu nguyện để xin Chúa tác động vào các tâm hồn đã đón nghe Tin Mừng. Đó mới là phần chính yếu để việc truyền giảng Tin Mừng phát sinh hiệu quả.

Các Tông đồ trở về, cùng với Chúa đi vào nơi thanh vắng để học hỏi, để suy tư, để cầu nguyện. Cũng như sau thời gian phân phát lương thực cho người khác, các Tông đồ trở về nguồn để lấy thêm chất liệu, hầu có thể tiếp tục lên đường phục vụ.

Trở về với Chúa để học hỏi, suy tư và cầu nguyện là việc cần thiết, mọi người tín hữu phải làm trong cuộc sống Kitô hữu hôm nay. Vì chúng ta cũng được sai đi như các Tông đồ xưa. Sau một ngày, sau một tuần, chúng ta cũng cần có thời gian trở về với Chúa để kiểm điểm lại sinh hoạt tôn giáo, học hỏi lời Chúa và cầu nguyện. Cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta có dịp thuận tiện để sống với cộng đoàn, được bồi dưỡng tinh thần và được Chúa sai đi chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã lãnh nhận.

Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.

Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.

Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi thì cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm việc mà cũng nghỉ là một người lười.

Huệ Minh

Siêu Thoát Bản Ngã

Đại Tướng Grant là Tổng Chỉ Huy quân đội trong trận nội chiến và sau này trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 18 với hai nhiệm kỳ. Đại Tướng sống rất đơn sơ, như Ngoại Trưởng Washburne đã viết về ông như sau: “Khi Đại Tướng Grant từ giã Bộ Tổng Tham Mưu để đi tranh cử Tổng Thống, ông chẳng mang theo sắc phục “Lon Tướng” và những vật dụng mà một Tướng Lãnh thường mang theo. Ông chỉ muốn làm sao để có thể di chuyển cho nhẹ nhàng. Vì thế, điều quan trọng đối với ông là càng mang theo ít đồ càng tốt. Ông chẳng cần có cận vệ đi theo, chẳng cần có lừa ngựa để di chuyển, cũng chẳng mang theo áo khoác hoặc nhiều y phục để thay đổi. Tất cả những thứ mà ông mang theo cho cuộc vận động 6 ngày là một bàn chải đánh răng. Tôi đi theo ông, nên tôi biết rõ lắm. Ông sống như một anh binh nhì, ăn như lính, ngủ như lính, lấy trời xanh làm màn che”. 

 I. ƠN TUYỂN CHỌN CAO QUÝ

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Kitô sai các Tông Đồ đi rao giảng, đi vận động cho Tin Mừng Nước Trời, Ngài cũng truyền cho các ông đừng mang theo nhiều đồ kềnh càng, không mang bị mang bánh, không mang theo tiền của, không mang hai áo choàng… để các ông khỏi bận tâm vào của cải, khỏi bị những phù vân đời này ràng buộc chi phối, làm ngãng trở sứ mạng Tông Đồ cao cả Chúa ủy thác. Tất cả chúng ta đều cũng được Chúa tuyển chọn, như Ngài đã tuyển chọn các Tông Đồ. Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi Giáo Đoàn Ephesô khi nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước nhan thánh Ngài trong tình yêu thương” (Eph 1:4). Ngay từ muôn thế hệ, Chúa đã biết chúng ta, đã yêu thương và tuyển chọn chúng ta, để chúng ta sinh vào đời, làm người rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: “Trước khi tác tạo nên con trong lòng thân mẫu, Cha đã tường hiểu con; trước khi con ra khỏi lòng mẹ, Cha đã thánh hiến con và đặt con làm tiên tri rao truyền danh Cha cho các dân tộc” (Jer.1:4-5). Chúa còn phán: “Cha đã yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha đã dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha” (Jer. 31:3).

II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA ĐÁP LẠI

Để đáp lại tình Chúa yêu thương đã tuyển chọn chúng ta; để chu toàn sứ mạng làm Tông Đồ, làm chứng nhân cho Chúa giữa trần gian; cũng như các Tông Đồ, Chúa muốn chúng ta sống thanh thản siêu thoát, không bị ràng buộc vào những của cải vật chất, không bị trói buộc và nô lệ bởi bất cứ một phù vân nào ở đời này; để dễ dàng chuyên lo thực thi sứ mạng Chúa ủy thác và đạt tới cùng đích của cuộc sống làm con cái Chúa. Dĩ nhiên, bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn phải sử dụng tiền của, vật dụng, tiện nghi cho những nhu cầu thân xác hoặc làm việc tông đồ; chúng ta cũng cần phải có những phương tiện vật chất trợ giúp, thiếu nó chúng ta cũng khó chu toàn được nhiệm vụ. Nhưng Chúa truyền dạy chúng ta đừng quá lệ thuộc vào những thứ đó, đến nỗi chúng ta trở nên nô lệ cho vật chất làm choán đoạt tâm trí, kéo ghì con người chúng ta xuống, khó vươn mình lên cao được, khiến chúng ta không thể: “Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết”. Các Thánh đã quá hiểu sự ràng buộc bởi của cải vật chất, làm ngãng trở đường tiến tới cùng đích và cản ngăn sứ mạng Tông Đồ, nên các ngài đã khước từ của cải đời này; hoặc phải dùng của cải đời này mà như không dùng, tức là không để cho mình bị chúng chiếm đoạt, đến nỗi trở thành nộ lệ cho những thứ phù ảo đó. Nhiều vị Thánh, như Thánh Phanxicô Khó Khăn chẳng hạn, đã bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, hoặc từ bỏ chức quyền sang trọng để sống một đời nghèo nàn, tầm thường, bình dị, thoát ly khỏi những bon chen trần thế, để dễ dàng thoát ly khỏi những vật chất và ngay cả chính bản thân mình, hầu mau chóng đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa và chu toàn được sứ mạng Tông Đồ làm vinh danh Chúa. Trái lại, nếu chúng ta không vươn tâm hồn lên khỏi cái bản ngã hư hèn, chúng ta cũng chẳng thể làm được ích lợi gì cho tha nhân, và cũng chẳng thể làm được lợi ích gì cho vinh danh Chúa, mà ngay cả phần rỗi chúng ta cũng khó đạt tới, chẳng hạn như câu truyện sau đây: Một ông bõ giúp việc trong một giáo xứ nọ ở Miền Bắc Việt Nam, do một Cha Xứ kể lại: “Ông sống trong Nhà Xứ bằng một đời sống khô khan nguội lạnh, hằng ngày với các công việc thông thường như dọn nhà, xay thóc, giã gạo… Cuộc sống cũng nghèo khó đơn bạch, nhưng ông lại có lòng ham mê tiền của, chỉ lo tích góp từng đồng bạc không dám tiêu dùng và cũng chẳng giúp đỡ ai, ông chỉ bo bo như thần giữ của, cho đến khi ông lâm bệnh gần chết, mà cũng chẳng sao xưng tội được để dọn mình ra trước tòa Chúa, khuyên bảo mấy cũng vô ích… Mắt ông cứ đăm chiêu nhìn lên xà nhà, nơi treo bó quần áo rách của ông và lòng thì gắn vào mớ giấy bạc ông đã bó chặt vào đùi ông, mãi sau khi chết người ta mới khám phá ra. Thật thẳm hại thay con người mê tiền của!”

Kết Luận

Xin Chúa ban cho chúng ta biết chuyên lo một điều khẩn thiết là: “Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước tiên”, tức là biết chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác làm tông đồ vinh danh Chúa, tìm cầu Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chính mình và cho các linh hồn trước hết mọi sự. Để đạt được điều ước mong trên, Chúa đòi chúng ta phải siêu thoát khỏi mọi ràng buộc và nô lệ bởi những phù ảo trần thế như tiền của, danh vọng, chức quyền, hầu dễ dàng vươn lên với Chúa.

Lm. Minh Vận, CMC

Bụt nhà không thiêng

Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:

– Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật

Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?

Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.

Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.

Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói: “Tu đâu cho bằng tu nhà – Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường là: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”. Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta. Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.

Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.

Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.

Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn cái tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến đau buồn và thất vọng? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa… vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen.

Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

 

Phương tiện và Tin Mừng

Từ câu chuyện chiếc Minsk

Sau khi về nhận xứ Malâm, Cha Gioan NVH có ngay kế hoạch bán chiếc xe máy Honda Nhật đang chạy để mua một chiếc Minsk. Bà con nực cười ông cha xứ mình chạy chiếc Minsk giống mấy người xe thồ, xe ôm, chẳng ra dáng vẻ ông cha xứ tí nào. Mãi đến mấy tháng sau họ mới hiểu, chiếc Minsk là phương tiện tốt nhất có thể đưa cha đi đến vùng Đami cách Giáo Xứ nhà 70 cây số về hướng Tây Bắc, giáp ranh với Bảo Lộc, Lâm Đồng, nơi ấy, có vài trăm con chiên đang tản mác trên các đồi chè ngập nắng.

Vào ngày 11.9.2001, chúng tôi được đi với cha Gioan đến thăm vùng Đami đèo núi.  Được biết, bà con hầu hết từ những tỉnh miền Bắc đến đây tìm kế sinh nhai. Họ sống trên đồi, nhà này cách nhà kia có khi cả cây số. Chỉ mới 6 tháng sau khi về nhận xứ và năm lần “đến xem nơi người ở và ở lại với người” mà cha Gioan đã thuộc hầu hết địa chỉ của con chiên và thành lập được ba điểm tập trung để dâng Thánh Lễ. Còn các Bí Tích hầu hết cử hành tại nhà dân. Sau hơn 10 năm, Đami nay đã tràn đầy sức sống mới của Tin Mừng, đã là Giáo Xứ với ba bốn Giáo Họ.

Chiếc Minsk là phương tiện, nhưng là phương tiện đơn sơ mà hiệu quả của một sứ giả có tấm lòng mang Sứ Điệp Tin Mừng đến cho muôn dân. Chiếc Minsk ắp đầy kỷ niệm của bao lần vấp đá, trượt đồi, té ngã, cán chó, tai nạn… và cả những lần bị rượt đuổi vì tội làm Lễ nhà dân không xin phép…

Các Linh Mục được sai đi

Hy vọng đây là một trong trăm ngàn minh họa rất hùng hồn về việc các Linh Mục, Sứ giả Tin Mừng tại Việt Nam đã và đang tuân thủ đúng lệnh truyền của Chúa Giêsu, Người Sai Đi: “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”.

Vâng, có thể nói, không vì hoàn cảnh quá sức khó khăn đến nổi Giáo Dân Việt Nam không lo lắng được, hoặc chính các Linh Mục không sắm sửa cho mình những phương tiện, tiện nghi thoải mái, nhưng vì các ngài muốn thực hiện cuộc sống đơn sơ khó nghèo như đòi hỏi của Tin Mừng, và hơn thế nữa, các ngài ý thức được việc chính yếu của lệnh sai đi là “rao giảng sự thống hối”.

Khi đề cập đến chi tiết này có thể có người bi quan vặn hỏi: “Được bao nhiêu phần trăm như thế mà dám cả quyết vậy ?” Chúng ta nên biểu quyết: “Gần trăm phần trăm”. Bởi vì, con số những người được sai đi hôm nay bị tục hóa, bị phương tiện hóa, không thi hành sứ vụ chính yếu của mình… chỉ là số phần trăm nho nhỏ thôi. Nhưng, bởi vì, sự xấu xa dễ ảnh hưởng nhanh và rộng hơn là điều tốt lành, nên khi có vài trường hợp không phù hợp là đã có thể gây hoang mang lớn lao cho mọi người.

Hơn nữa, cũng cần phải cẩn trọng trước những đồn đoán, phao tin làm mất danh dự của các Linh Mục bởi vì những người chống phá Giáo Hội cũng đang rắp tâm tìm các khe hở của các Linh Mục để thổi phồng lên cho thỏa mãn ý đồ đen tối. Thiết tưởng, dẫu sao, chúng ta cũng hãy cầu nguyện và tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần và tình yêu Chúa Kitô sẽ thúc bách các Linh Mục “thống hối, canh tân” trước khi rao giảng sự thống hối, đổi mới theo Tin Mừng.

Giáo Dân được sai đi

Không chỉ các Linh Mục mới là những người nhận lệnh sai đi loan báo Tin Mừng, mà cả mỗi tín hữu hôm nay, được sai đến trong môi trường sống của mình để làm chứng cho Thiên Chúa. Mỗi chúng ta cũng được mời gọi sống đời đơn sơ khó nghèo và đặc biệt quan tâm đến việc truyền giáo ngay trong chính lúc khó nghèo đau khổ nhất. Thế nhưng, chúng ta vẫn:

Từ chối một sẻ chia với người vì cho rằng phải đợi đến dư thừa mình mới chia sẻ được.

Từ chối thăm viếng người vì cho rằng mình không có thời gian cho việc vô bổ ấy.

Từ chối một chút chạnh lòng vì cho rằng lúc mình khốn khó chẳng thấy ai ngó tới.

Từ chối một lời tốt lành khuyên nhủ vì cho rằng người lòng chai dạ đá.

Từ chối một lời xin lỗi vì cho rằng người thấp bé hèn kém hơn mình.

Từ chối một lời cảm ơn vì cho rằng người làm ơn cho mình đang bố thí hơn là giúp đỡ.

Chúng ta đã bị lệ thuộc quá nhiều vào phương tiện, vào điều kiện, mà không chú tâm đến việc đáp đền hồng ân Thiên Chúa bằng cách loan báo sứ điệp Tin Mừng cho anh em, làm chứng về “cuộc sống bình an trong Chúa” cho mọi người.

Lời Chúa hôm nay đang nhắc nhớ chúng ta đơn sơ khiêm tốn bắt chước gương tiên tri Amos, nhận ra ơn gọi rao giảng Tin Mừng của mình là hồng ân cao cả vượt lên trên thân phận tầm thường và bất toàn của mình: “Tôi chỉ là người chăn chiên và đi hái sung vả, và Chúa đã gọi: Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân của Ta” ( Am 7, 15 ), và chu toàn sứ vụ của mình theo thể cách đơn sơ nhất, phù hợp nhất với Tin Mừng, để phục vụ cho Tin Mừng.

Nguyện xin Chúa cho các Linh Mục của Chúa chuyên tâm “rao giảng sự thống hối”, “trừ quỷ, xức dầu, chữa lành” cho đoàn chiên Chúa. Và xin cho các tín hữu Chúa không quá lệ thuộc vào phương tiện trần gian, những luôn năng nổ chu toàn sứ vụ tông đồ trong đời thường. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG

KHI TÔI YẾU, CHÍNH LÀ LÚC TÔI MẠNH

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô (6,1-6)

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.

Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

***

Bài chia sẻ Tin Mừng của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

“Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”

Cả ba thánh sử Mátthêu, Luca và Máccô đều thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê nhà và bị những người đồng hương, thậm chí những người họ hàng thân thiết coi thường. Lý do vì Người từng sống giữa họ với một cuộc sống thật giản dị tại Nadarét, quê hương của Người, và dân làng ai cũng biết Người!

Thiên Chúa yêu thương loài người đến nỗi tìm mọi cách để đến gần với con người. Người mong chờ con người mở rộng lòng và tin tưởng vào Người, nhưng Người chỉ gặp sự khước từ và hoài nghi khiến cho: “Người lấy làm lạ vì họ không tin”.

Suốt ba năm rao giảng Tin mừng, không phải lúc nào Chúa Giêsu cũng được mọi người tin nhận, nhất là những người nắm rõ luật Chúa và giữ luật nghiêm ngặt như giới Pharisiêu và luật sĩ, thậm chí các tông đồ cũng có lúc bị Chúa khiển trách là “cứng lòng, kém tin”. Hơn hai ngàn năm sau, trong thời đại chúng ta, tình trạng không tín ngưỡng, không tin vào Thiên Chúa vẫn còn! Có biết bao nhiêu phụ huynh đã tận tâm giáo dục con cái mình theo đạo Chúa, trong tinh thần Giáo Hội. Thế nhưng, hôm nay, con cháu họ không còn tin vào Thiên Chúa hoặc không còn giữ đạo nữa! Chúng ta thấy rằng chính Chúa Giêsu đã giảng dạy, đã làm những phép lạ, nhưng Người không thể làm cho dân làng của Người và ngay trong chính họ hàng thân thuộc tin vào Người, dù rằng họ vẫn tưởng rằng họ biết rất rõ về Người.

Cả ba bài đọc hôm nay đều nói về “linh đạo của sự thất bại”, đó là nhận biết sự bất toàn của mình và dám đi vào thất bại để qua đó mọi người nhận biết quyền năng của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, tiên tri Êdêkien được Chúa sai đến nói lời của Người với một dân “lòng chai dạ đá, phản nghịch và chống lại Thiên Chúa”. Dù ông có thể thất bại vì họ có thể không nghe lời ông, nhưng họ sẽ được nhận biết có một ngôn sứ đang ở giữa họ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô lại vui mừng và tự hào về những yếu đuối của mình, vì nhờ đó mà sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong ngài. Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu không vì sự thất bại nơi quê hương mà từ bỏ sứ mạng của mình. Trái lại, vì sự cứng lòng tin của những người đồng hương mà các làng chung quanh được nghe Người rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa.

“Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (c. 10). Điều này phải trở thành nguyên tắc cho những ai muốn làm việc tông đồ. Họ không hãnh diện về những tài năng mình có, cũng không nhát đảm vì mình yếu đuối, bởi họ biết phải cậy trông vào ai để thi hành sứ mạng Chúa trao phó. Vì như lời Chúa Giêsu nói với vị tông đồ: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (c. 9). Như thế, chính ơn Chúa cứu rỗi chứ không phải do công lênh hay cố gắng của con người!

Khi kể lại việc thất bại của Chúa Giêsu tại Nadarét, thánh sử Máccô nghĩ đến Giáo Hội, đến mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa vẫn đang còn tiếp diễn, mà chỉ với con mắt đức tin người ta mới nhận ra được tầm quan trọng của nó. Ngày xưa, dân làng Nadarét khinh thường Chúa Giêsu, hôm nay, vẫn còn những nhóm Kitô hữu tỏ thái độ chống lại một số lập trường của Giáo Hội khi họ tuyên bố chỉ tin vào Chúa chứ không tin vào Giáo Hội!

Bản chất của Giáo Hội là Thánh nhưng gồm những con người tội lỗi, yếu đuối và đầy giới hạn. Tuy vậy, Chúa vẫn luôn nói với chúng ta qua Giáo Hội. Người tiếp tục công trình của Người qua con người, qua những người mà chúng ta quen biết, có khi quá quen biết. Nếu việc thiếu đức tin của dân làng Nadarét làm cho Chúa Giêsu ngạc nhiên và bị xúc phạm, thì phải chăng Giáo Hội hôm nay vẫn còn bị tê liệt bởi sự thiếu đức tin hoặc sự cứng lòng tin của chính những người ở trong Giáo Hội chăng?

Trong mỗi thời đại, Chúa đều gửi đến các ngôn sứ loan báo lời Người. Ngày xưa, có các ngôn sứ như Êdêkien hay tông đồ Phaolô. Ngày nay chúng ta cũng có những vị “ngôn sứ” như mục sư Martin Luther King, Mẹ Thánh Têrêsa Calcuta, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, v.v... Các ngài đã không vì sợ những người có quyền thế hay búa rìu dư luận mà im lặng, nhưng đã lên tiếng chống lại bất công, lên án chiến tranh, bạo lực để bảo vệ những người bé nhỏ bị áp bức. Nhưng những lời nói của họ chỉ được đáp lại bằng những phản ứng thù nghịch, chống đối. Nếu họ khuyên sống chung thủy trong đời sống vợ chồng để tránh bệnh Siđa, họ lại bị dân chúng lên án. Nếu họ kêu: “Hãy ngừng mọi bạo động!”, người ta lại ám sát họ. Nếu họ mạnh dạn tố cáo bất công xã hội, nhất là đối với những người nghèo, vô gia cư, người ta lại tìm cách bịt miệng họ!

Chúng ta luôn cần đến các ngôn sứ của Chúa, nhất là trong thời đại hôm nay, mặc dù đôi lúc các vị ấy khiến chúng ta cảm thấy phiền hà, khó chịu. Họ nhắc nhở chúng ta những gì Tin Mừng truyền dạy, về luật Chúa và luật con người. Trong xã hội hôm nay, nơi những bạo lực, bất công ngự trị, nhân quyền bị vi phạm, chúng ta cần lắng nghe các ngôn sứ nhắc nhở chúng ta về tình thương yêu qua từng chặng đường của cuộc đời. 

Ước gì chúng ta biết lắng nghe và đón nhận các thông điệp mà Chúa gửi đến qua trung gian của những người thân quen của chúng ta, ngay cả qua trung gian của những người bé mọn và nơi các trẻ thơ.

* Để nghe trên Youtube:

https://youtu.be/yPIhylISwq0

 

Subcategories