8. Đời Sống Tâm Linh

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - LM NGUYỄN TẦM THƯỜNG

  •  
    phung phung
     
     From: Le Ngoc Bich 
     Suy Tư của Lm. Nguyễn Tầm Thường
     
    DANG DỞ
    Nguyễn Tầm Thường, S.J
    (Trích tập suy niệm)
     
    “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở.
     Đời mất vui khi vẹn câu thề”
     
    Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở  
     
    Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, hay là cho dù dở dang tình vẫn đẹp? Người ta nói chấm dứt mối tình dở dang, nghĩa là lúc tình đó đang dang dở thì bị chấm dứt. Có phải đã chấm dứt rồi thì không còn dang dở nữa?
     
     Dường như là thế. Chấm dứt là xong, là trọn vẹn không còn gì để nói. Khi đã chấm dứt thì tình đó thuộc về dĩ vãng nguyên tuyền. Nó dang dở trong quá khứ mà trọn vẹn xong ở hiện tại. Như vậy, tình thuộc dĩ vãng không còn tiếp tục hôm nay thì còn gì là dang dở?
     
    Xem ra là thế. Tuy nhiên, thuộc về dĩ vãng chưa hẳn là thuộc về vùng đã quên. Nếu còn nhớ thì ngay khi chấm dứt tình dang dở, tình vẫn chưa hết dở dang. Chấm dứt mà còn nhớ thì chuyện tình chỉ chấm dứt trong không gian ngoại cảnh, chứ chưa hết trong không gian tâm hồn. Vì lẽ ấy, cũng khá khó cho một định nghĩa tình dang dở là gì, và còn khó hơn, tình dang dở có còn đẹp?
     
    Có thể tìm một định nghĩa dễ hơn. Tình dang dở là tình còn nhớ. Ở đây, dang dở không có nghĩa là chấm dứt lúc còn dở dang. Dang dở là chưa xong.
     
    Tình của Đức Kitô không phải là tình đã xong trong quá khứ. Tình ấy không chấm dứt ở thập giá chiều nào trên đồi Do Thái. Tình ấy vẫn hàng ngày gọi, hàng chiều chờ. Tôi gọi tình ấy là tình dang dở. Đức Kitô tiếp tục yêu và tôi chưa nhận đủ. Ngài cho tình yêu, nhưng bàn tay có nhiều khe rãnh, nên hứng lãnh mà tình ấy cứ rơi đi hoài. Vì cái dang dở ấy nên Ngài cứ băn khoăn làm sao cho tôi múc được nhiều để hồn tôi bớt trống và tim tôi thôi vơi. Và vì thế, dở dang của tình yêu ấy là dang dở đẹp. Trong dang dở của tình yêu, cho tôi thấy trái tim Người bao dung và kiên nhẫn.
     
    Nhờ dang dở ấy mà tôi thấy Ngài không mòn mỏi vì phải đợi chờ, không đếm thời gian và đưa tình yêu vào thời khóa biểu. Giữa tôi với Ngài, còn thời gian thì còn dang dở, còn thương xót.
     
    Đức Kitô yêu tôi bằng tình trọn vẹn. Ngài là tình yêu (1 Yn. 4:16). Ngài cho tôi chính Ngài với hơi thở sau cùng trên thập tự. Nói về công việc thì xong, biến cố lịch sử trên Núi Sọ hoàn tất. Nhưng tình yêu không là biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử chỉ là một trong những đường nét để vẽ chân dung tình yêu. Tình yêu ấy vẫn yêu tôi. Thập tự giá ngày xưa vẫn là thập tự giá hôm nay, kéo dài trên bàn thờ khi tôi dâng lễ. Đức Kitô đã phục sinh, nhưng trong đau đớn của chi thể Ngài là nhân loại thì Ngài vẫn còn bị đóng đinh. Trong yếu đuối, tôi làm phai nhạt bao nhiêu chuyện tình đẹp giữa tôi và Ngài, tôi vẫn có lỗi phạm. Trong lãng quên, tôi vẫn xuôi chiều bao nhiêu cám dỗ. Vì thế, tình tôi với Ngài làm sao mà không dang dở cho được. Chỉ có tình trọn vẹn ở phía thập giá. Thập giá yêu thương nhân loại, nhưng nhân loại không có tình trọn vẹn, nên khi tình trời nối với tình đất thì tình trời mang thương khó. Ngày nào còn nhân loại thì tình giữa nhân loại và thập giá còn là tình dở dang.
     
    Không có tình yêu thì trọn vẹn cũng là trọn vẹn thiếu. Với tình yêu thì dang dở cũng là dang dở quý mến.
     
    Có những dang dở cần thiết. Dang dở cho chuyện tình còn dài, còn nhắc nhở, còn xám hối. Có một thứ dang dở mà Đức Kitô nhất định giữ:
     
     — Khi Ngài chữa mắt cho người mù, Ngài chỉ chữa một cách dang dở. Ngài lấy bùn thoa vào mắt người mù, nhưng anh ta chẳng khỏi. Anh ta phải đi rửa ở hồ Sứ Giả. Mù làm sao mà đi dễ dàng, thế mà Chúa không chữa cho xong (Yn. 9:1-41).
     
    — Tiệc cưới Cana cũng vậy. Chúa không làm phép cho có rượu, nhưng chỉ làm cho nước hóa rượu. Đức Kitô bảo các gia nhân: “Hãy múc nước đổ đầy các chum” (Yn. 2:7). Sao Chúa không làm cho có rượu luôn đi, mà lại bảo người ta đổ nước? Chúa chỉ làm một nửa. Thương xót thì trọn vẹn, nhưng thương xót ai, bởi đó, thương xót còn hệ tại đối tượng được thương xót muốn thương xót bao nhiêu. Do đấy, có những thương xót cần dang dở để đối tượng được thương xót kia lựa chọn mức độ thương xót cho mình. Nếu các gia nhân chỉ múc nửa bình thì chắc rượu chỉ có nửa bình thôi.
     
     — Làm phép cho CÓ BÁNH ĂN và làm phép cho bánh HÓA RA NHIỀU là hai thái độ rất khác nhau. Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu, hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vứt vất cái dang dở ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dang dở ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Sao Chúa cứ thích cái dang dở của các tông đồ làm chi (Mc. 6:35-43).
     
     — Thấy đền thờ thành nơi buôn bán, dơ uế mất rồi, Chúa bảo phá đi rồi trong ba ngày Ngài xây dựng lại. Tại sao Ngài không phá luôn cho tiện mà chỉ xây lại khi người khác phá (Yn. 2:13-22).
     
    Chúa thích những phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền diệu. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do nhận lãnh. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dựCái dang dở của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào.
     
    Chúa không thể nào bất toàn. Bởi đó, những gì dang dở mà Chúa để xẩy đến trong cuộc sống, tôi phải tìm hiểu. Có khi là đau khổ, có khi là những ngày chán nản. Những mũi chỉ thêu ngang dọc làm cho tấm tranh rối mù lộn xộn, nhưng nó sẽ là tác phẩm nghệ thuật khi nó hết dở dang. Con đường Hội Thánh đang đi là con đường dang dở. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là công cuộc dang dở. Nhưng trong dang dở ấy là ngưỡng cửa hi vọng. Đời truyền giáo của tôi là một hành trình đang dang dở. Tay tôi ngắn mà cánh đồng thì mênh mông. Nhưng nối tiếp những dang dở sẽ thành hoàn hảo. Người mang hi vọng là kẻ chấp nhận những dang dở Chúa để xẩy đến, và nhìn thấy dang dở trong công cuộc rao giảng thập giá là dang dở lạc quan.
     
    Dang dở của tình yêu giữa tôi và Chúa không là dang dở phải chấm dứt. Chúa không bao giờ chê căn nhà tôi nghèo nàn. Tôi cũng chẳng muốn bỏ Chúa. Dang dở chỉ vì yếu lòng. Dang dở vì vụng về trong những lựa chọn. Dang dở vì lấp lửng với những cám dỗ. Từ linh hồn thành thật rất sâu, tôi không muốn những dang dở này. Có băn khoăn về những sa ngã, có hối hận về những không trọn vẹn sẽ làm cho chuyện đường thập giá gồ ghề hơn. Những gồ ghề là những cản ngăn, nghĩa là đường thập giá sẽ thập giá hơn nữa. Khi đường thập giá trở nên thập giá hơn thì linh hồn gian nan hơn, nhưng vì gian nan đó cũng sẽ làm cho đường thập giá ấy ý nghĩa hơn.
     
    Những chuyện tình gian nan bao giờ cũng là những chuyện tình nhiều kỉ niệm. Và, bởi đó, đường thập giá cho dù dang dở vẫn luôn luôn là những chuyện tình đẹp. Không phải dang dở thì mới đẹp, nhưng là vẫn đẹp khi dở dang.
     
    Lạy Chúa, ngày nào còn hơi thở thì tim con còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng thì còn những dang dở. Nhưng đường Chúa gọi đi là đường tình thập giá không đánh dấu bằng những lần ngã dở dang. Chúa nối những dang dở ấy thành đường thập giá. Bởi đó, con hi vọng và lạc quan trong mọi dang dở của hành trình thiêng liêng. Và con phải biết Chúa rất cần một thứ dang dở là Chúa không hoàn thành cho con tất cả ước mơ nếu con không thực sự mơ ước.
     
    Ước mơ đẹp là mình ước mơ, còn ước mơ hững hờ là ước mơ người khác mơ ước dùm mình.
     
     Xin cho con không bao giờ thở dài về sự dở dang trên đường thánh thiện. Không chán chường sự dở dang trong công cuộc truyền giáo, rồi thôi rao giảng Tin Mừng, để cho khỏi băn khoăn về những dang dở ấy.
     
    Vâng, lạy Chúa, con không muốn làm cho chuyện tình thành dang dở, nhưng chỉ vì con yếu đuối. Chúa thương con, thì với Chúa, những chuyện tình dở dang của con trên đường theo Chúa vẫn là những chuyện tình đẹp.
     
    Nguyễn Tầm Thường, S.J
    -------------------------------------
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - ĐỨC TÍNH TIẾT KIỆM

  •  
    Chi Tran

     

    MỘT ĐỨC TÍNH GIÚP CHÚNG TA HẠNH PHÚC HƠN

     

    Tính tiết kiệm là một phần quan trọng cho những vấn đề nan giải của cuộc sống và mang lại nhiều kết quả tốt đẹp.

     

    Tất cả chúng ta đều tìm kiếm hạnh phúc. Nếu chúng ta hỏi ai đó liệu rằng họ có muốn hạnh phúc không, chắc chắn họ sẽ trả lời rằng: “Tất nhiên rồi!”

     

    Tính tiết kiệm làm cho những người thực hành nó trở nên cao quý và giúp họ trở nên hạnh phúc. Nó cũng giống như một mảnh rời nhỏ bé nhưng thiết yếu trong những vấn đề nan giải của cuộc sống. Đó là một lối sống sinh sôi nảy nở trong tinh thần đem lại cho chúng ta sự bình an nội tâm. Nhưng để sống tiết kiệm, điều cần thiết là phải biết cách tìm ra sự quân bình nơi những thứ mà chúng ta có được. Chúng ta không nên theo đuổi tính tiết kiệm chỉ như sự phủ nhận bản thân hay như chủ nghĩa rập khuôn theo một mốt nhất thời, mà hãy theo đuổi thứ gì đó mang lại lợi ích cho chúng ta với tư cách là một con người, điều giúp cải thiện cuộc sống của chúng ta.

     

    Nền kinh tế của chủ nghĩa tiêu dùng xoay quanh cảm giác không hạnh phúc. Nó phụ thuộc vào việc chúng ta suy nghĩ, “Tôi cần đôi giày này để có hạnh phúc” hay “Ngày tôi có được chiếc xe đó, tôi sẽ hạnh phúc...”

     

    Tuy nhiên, nếu chúng ta đang hạnh phúc và ý thức được về việc thỏa mãn, thì chúng ta sẽ không tìm kiếm một niềm hạnh phúc hời hợt nơi những đôi giày mới hay một chiếc xe hơi mới nào đó, và do đó, chúng ta sẽ trở nên tiết kiệm hơn. Hơn nữa, tính tiết kiệm không hoàn toàn là vấn đề cắt giảm tiêu dùng càng nhiều càng tốt, mà là sống với sự vô tư và lòng biết ơn.

     

    Rất dễ dàng để phân biệt được hạnh phúc của những người có được trật tự nội tâm và sự thanh thản, với những người mang vẻ bề ngoài không hài hòa với nội tâm của họ.

     

    Tại thời điểm này, có lẽ câu hỏi đầu tiên để tự hỏi bản thân là: “Tôi có muốn mưu cầu hạnh phúc hay không?” Và câu hỏi thứ hai là: “Tôi phải bắt đầu sống tiết kiệm từ đâu nếu tôi muốn cùng gia đình mình thay đổi lối sống?”

     

    Để bắt đầu, chúng ta phải xem xét những gì chúng ta cần thay đổi bên trong chính mình để theo đuổi được đức tính này. Sống tiết kiệm đòi hỏi sự tự nhận thức và tự chủ. Chúng ta có sẵn sàng nuôi dưỡng sự điều độ, chừng mực và nhã nhặn hay không?

     

    Một khi chúng ta đã thực hiện được bước cam kết này, thì chúng ta mới có thể bắt đầu thực hiện một cuộc hành trình tinh thần qua từng không gian và thói quen trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và mới xác định được những thói quen hay những thứ vật chất nào đã cướp đi sự bình an của chúng ta. Tiếp theo, chúng ta cũng nên phân tích xem chúng ta có thể cẩn trọng hơn trong những lĩnh vực nào của cuộc sống. Ví dụ: chúng ta có thể phân tích về nơi mà chúng ta có thể cắt giảm mức tiêu thụ năng lượng không cần thiết (xe hơi, hệ thống sưởi, điện), về sản phẩm sử dụng hàng ngày nào bền vững hơn, về cách chúng ta có thể tái chế hiệu quả hơn và liệu chúng ta có cẩn trọng khi thấy cần phải đáp ứng một nhu cầu nào đó.

     

    Khi chúng ta chuyển đến một ngôi nhà mới hay thay đổi quần áo cho một mùa mới trong năm, thì đây có thể là một dịp hoàn hảo để suy ngẫm về những nhu cầu thật sự của chúng ta, và do đó, hãy bán hay cho đi những gì chúng ta không cần đến, hãy luôn tìm cách cho đi những thứ vật chất của chúng ta để có được một cuộc sống thứ hai.

     

    Điều cuốn hút tôi nhất về đức tính tiết kiệm chính là khía cạnh của việc học cách mang đến cho từng vật dụng giá trị thích hợp của nó. Những hành động, quyết định và việc mua sắm của chúng ta trở thành một thứ gì đó hơn là một phản ứng bốc đồng đối với ước ao được thỏa mãn tức thời, đối với nhu cầu cấp thiết để thỏa mãn ý thích hay đối với ảo tưởng về việc lấp đầy lỗ hổng cảm xúc. Mọi thứ đều có một ý nghĩa, một lý do để tồn tại, đó là vì lợi ích chung và sự tiêu dùng có trách nhiệm.

     

    Có rất nhiều lợi ích của việc thực hành tính tiết kiệm:

     

    1Việc thực hành tính tiết kiệm giúp chúng ta nhận biết và điều chỉnh bản thân. Nó cho phép chúng ta trở thành người làm chủ của chính mình. Nó sắp xếp cách trật tự độ nhạy cảm và cảm xúc của chúng ta, cũng như sở thích và ước muốn, và những khuynh hướng sâu xa nhất của chúng ta: tóm lại, tính tiết kiệm giúp chúng ta tìm thấy sự cân bằng trong việc sử dụng của cải vật chất, và giúp chúng ta khao khát vươn tới điều tốt đẹp hơn (x. GLHTCG, số 1809).

     

    2Việc thực hành tính tiết kiệm làm cho chúng ta trở nên sáng tạo và quân bình hơn. Tính tiết kiệm phát triển đáng kể khả năng sáng tạo của chúng ta, bởi vì nó mời gọi chúng ta tận dụng tối đa tất cả các nguồn lực của mình và khám phá tiện ích thực sự của chúng.Tính tiết kiệm tạo điều kiện cho những thứ cũ kỹ có thêm một cơ hội và đức tính này cũng giúp ích cho việc tìm thấy vẻ đẹp nơi những thứ đơn giản hơn.

     

    3Việc thực hành tính tiết kiệm nuôi dưỡng các mối quan hệ của con người ở một phẩm chất cao hơn. Nếu chúng ta thực hành tính tiết kiệm, thì chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn sự tôn trọng và lòng yêu thương của những người xung quanh. Tính tiết kiệm khuyến khích chúng ta sống tích cực hơn trong hiện tại, với lòng biết ơn, có ý thức và được nối kết với tất cả những nét đẹp sẵn có nơi mỗi con người.

     

    4Việc thực hành tính tiết kiệm giúp chúng ta chịu đựng tốt hơn khi gặp phải nỗi thất vọng. Tính tiết kiệm về mặt cảm xúc giáo dục chúng ta nhận ra rằng không phải lúc nào chúng ta cũng có thể thỏa mãn những mong muốn của mình.

     

    Hạnh phúc không nằm ở việc có được nhiều thứ hơn hay hoàn thành được tất cả những gì chúng ta mong muốn. Tính tiết kiệm là một chỉ dẫn tốt đẹp giúp chúng ta không bận tâm tìm kiếm cái Vô Hạn trong cái hữu hạn một cách tuyệt vọng và không thành công.

     

    Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên Chuyển ngữ từaleteia.org (09/12/2021)

    Miriam Esteban Benito

     
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - GIUSE: NGƯỜI CHA CHIÊM NIỆM

 

  •  
    BBT CGVN
    Tue, Dec 7 at 1:33 AM
     
     
     
     

    Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

    Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity  

    (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)

    www.conggiaovietnam.net       This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

           

     Chuyên mục:

    TÔI TIN, CHÚNG TÔI TIN:

    GIUSE: NGƯỜI CHA CHIÊM NIỆM


     

     

    Lm. Giuse Phan Quang Trí, O.Carm

    Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/3dtoBt2

     

      

    Khi năm biệt kính Thánh Cả Giuse khép lại[1] thì cũng là lúc Giáo Hội Hoàn Vũ đang chìm lắng trong bầu khí tĩnh lặng sốt sáng của Mùa Trông Đợi. Trong giai đoạn chuyển tiếp từ thời Cựu Ước sang thời Tân Ước, cùng với Đức Trinh Nữ Maria, thánh Giuse là một trong những nhân vật đầu tiên được đón nhận tin mừng về thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh làm người. Như dân Israel, các ngài cũng mặc lấy tâm tình chờ đợi Đấng Thiên Sai. Về phần mình, Thánh Giuse đã mau mắn gác lại mọi toan tính riêng tư và vui vẻ đón nhận kế hoạch mà Thiên Chúa dành riêng cho ngài. Kế hoạch của Thiên Chúa thì cao siêu diệu vợi vượt xa trí hiểu biết thông thường của con người (x. Isaia 55, 8-9). Con đường mà thánh Giuse vâng lời dấn thân vào chắc chắn không phải là một hành trình dễ dàng.

     

     

     

    Đứng trước màn đêm huyền nhiệm của ơn Chúa kêu gọi, Đấng Công Chính thuộc dòng dõi Vua Đavit đã can đảm bước tới nhờ ánh sáng của ngọn đuốc đức tin và ngài “lao mình về phía trước” với hành trang là một con tim hoàn toàn thuộc trọn về Chúa. Thánh Nữ Têrêsa Giêsu (hay còn gọi là Têrêsa Avila) định nghĩa chiêm niệm là khao khát Thiên Chúa và giải thích rằng trong chiêm niệm, chúng ta trao hiến toàn bộ con tim của chúng ta cho Chúa để Ngài lấp đầy mọi khoảng không sâu thẳm của tâm hồn chúng ta[2]. Khi xưa, thánh Giuse đã bám chặt vào Chúa và để cho Chúa hoàn toàn chiếm lĩnh con người của ngài. Thánh Giuse đã nhìn nhận mọi sự bằng ánh mắt của Chúa, đã cảm nghiệm mọi tình huống bằng con tim của Chúa, và đã làm mọi thứ bằng đôi tay của Chúa. Nhờ đó mà ngài đã đủ sức kiên nhẫn để chờ đợi, đầy phấn khởi hân hoan để đón chào, và đủ tận tụy kiên quyết để chăm sóc giữ gìn Chúa Cứu Thế theo đúng như từng kế hoạch mà Thiên Chúa đã lập nên. Ngày nay, đang khi cất lên lời kinh thống thiết Maranatha, lạy Chúa xin hãy đến!” (x. Kh 22, 20), Hội Thánh lữ hành khẩn khoản ngước nhìn lên mẫu gương chiêm niệm của Thánh Bổn Mạng Giuse và học nơi ngài bí quyết giữ vững “niềm hy vọng hồng phúc” trong khi “trông chờ ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta”[3].  

     

     

     

    Chiêm Niệm: Nhận Thức của Đức Tin

    Trong khi trình bày những suy tư của mình về hình thức cầu nguyện chiêm niệm, linh mục Thomas Merton, một thần học gia nổi tiếng trong lĩnh vực thần học linh đạo của thế kỷ XX đã định nghĩa chiêm niệm chính là “nhận thức thiêng liêng”. Chiêm niệm không hẳn là “thị kiến” mà là “đỉnh cao đức tin” hay là chiều sâu thăm thẳm của lòng tin. Trong chiêm niệm, tâm hồn con người ta không cần phải được thấy các “thị kiến” mà vẫn nhận biết được những thực tại siêu nhiên. Chiêm niệm chính là cảm nghiệm được “sự đụng chạm” của Thiên Chúa. Một khi được Thiên Chúa chiếm trọn tâm hồn thì con người ta tức khắc sẽ tỏa ra sự thánh thiện của Chúa, sẽ phản chiếu ánh sáng thông tuệ của Ngài. Chính vì thế mà trong đời sống trí tuệ và tâm linh của con người, theo cha Thomas Merton, thì chiêm niệm là biểu hiện cao nhất của sự khôn ngoan và sự thánh thiện.[4] Chẳng vì thế mà chúng ta nhận ra nơi con người của thánh Giuse cả một nếp sống nội tâm sâu sắc. Thái độ trung tín và hành vi phục tùng của ngài chứng tỏ rằng thánh Giuse được Chúa ban cho khả năng nhận thức siêu việt. Nhận thức ấy là hoa trái của một đời sống kết hiệp mật thiết sâu xa với Chúa trong chiêm niệm nội tâm. Cha Nuôi Chúa Giêsu có thể đưa ra những quyết định sáng suốt và bộc lộ một sự tự do chín chắn trong mọi lựa chọn của ngài là vì ngài luôn vâng nghe theo Thần Khí (x. Ga 14, 26).  

     

    Trong thời đại mà con người ta đánh giá lẫn nhau chủ yếu dựa trên hiệu năng công việc và cơn lốc cạnh tranh khốc liệt do cơ chế thị trường gây ra thì khí chất khiêm hạ và bản tính nhẫn nại của Thánh Giuse quả là những đặc điểm khó có thể được con người thời nay chấp nhận. Làm cách nào mà thánh Giuse có thể phục vụ kế hoạch của Thiên Chúa một cách trung thành tận tụy đến thế? Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trình bày cho chúng ta một câu trả lời xác đáng trong Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế) của ngài.

     

    Trước hết, chúng ta phải thừa nhận rằng bao trùm lấy tất cả mọi câu chuyện Thánh Kinh liên quan đến Thánh Giuse là một bầu khí thinh lặng nhiệm mầu. “Chính sự thinh lặng ấy bộc lộ một cách đặc biệt chân dung nội tâm” của Thánh Giuse.[5] Ẩn chứa trong từng “hành động” của ngài là cả “một bầu khí chiêm niệm sâu xa”.[6] “Sự hy sinh hoàn toàn, mà qua đó thánh Giuse hiến dâng trọn vẹn cuộc sống cho những yêu cầu của [kế hoạch cứu rỗi nhân loại] chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng đời sống nội tâm sâu xa của ngài mà thôi. Chính đời sống nội tâm này […] mang lại cho ngài những suy luận và sức mạnh mà chỉ những tâm hồn đơn sơ và trong sáng mới có được mà thôi. [Đời sống nội tâm ấy cũng] giúp cho ngài có khả năng đưa ra những quyết định quan trọng – như quyết định ngay lập tức đặt tự do của mình trước sự quan phòng của Thiên Chúa, cũng như trao phó vào tay Thiên Chúa ơn gọi nhân bản chính đáng và hạnh phúc hôn nhân cá nhân của mình, để chấp nhận các điều kiện, trách nhiệm và gánh nặng của một gia đình, và từ khước tình yêu đôi lứa tự nhiên vốn là nền tảng nuôi dưỡng gia đình để chọn một tình yêu trinh khiết không thể sánh ví.”[7]

     

    Chiêm Niệm: Khao Khát Thiên Chúa

    Linh đạo Cát Minh, nhất là các chia sẻ thần bí của thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá, nhấn mạnh rằng chiêm niệm là tặng phẩm đến từ Thiên Chúa (x. Giêrêmia 31, 33). Nhưng để đạt đến trạng thái ân sủng đó thì con người trước tiên cần phải mở lòng mình ra. Con người phải biết kiếm tìm và khát khao Thiên Chúa. Thái độ cởi mở được bộc lộ qua nhiều cách thế khác nhau, chẳng hạn như việc chúng ta “lắng tai” nghe tiếng Chúa thì thầm trong khi cầu nguyện, hoặc qua việc chúng ta chăm chú để ý đến sự hiện hữu của Thiên Chúa trong cõi thâm sâu của tâm hồn chúng ta.[8] Trong khi chiêm niệm, người tín hữu chiêm ngắm và tín thác toàn bộ sự hiện hữu của bản thân cho Chúa. Mối tương quan giữa Thiên Chúa và người ấy lúc bấy giờ trở nên khắng khít thân mật hơn cả tình cha con ruột thịt. Trong khi mở lòng ra với Chúa, Thần Khí của Ngài sẽ khơi lên trong chúng ta ý định tuyệt đối trung thành và cảm giác bình an khiến chúng ta mạnh dạn “buông mình” vào vòng tay từ ái của Chúa quan phòng.  

     

     

     

    Nơi Thánh Giuse chiêm niệm, cả ba nhân đức tin tưởng, phó thácmến yêu như hòa quyện với nhau. Trong khi hành động vì đức tin, thánh nhân khiêm tốn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và hoàn toàn vâng phục mọi ý định do Chúa Cha truyền dạy. Chúng ta xác quyết rằng nơi mẫu gương Giuse chiêm niệm, khiêm tốnvâng phục, những người khát khao nên giống Chúa Kitô dễ dàng tìm ra bí quyết để biến ước mơ này thành hiện thực.Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16: 9). Thánh nữ Têrêsa Giêsu đã từng quả quyết rằng khiêm nhường là nền tảng của mọi đức tính tốt lành khác.[9] Một tâm hồn muốn thăng tiến các nhân đức khác thì nhất định phải rèn luyện cho được nhân đức khiêm nhường. Vì thánh Cả Giuse là mẫu gương khiêm hạ và vâng phục nên người cũng là bậc thầy của nhiều nhân đức cao trọng khác nữa. Cũng từ kinh nghiệm thiêng liêng, Thánh Têrêsa nhận ra rằng Thánh Giuse không chỉ là Đấng Bảo Trợ mà còn là thầy dạy của những ai năng thực hành cầu nguyện.[10] Cha Nuôi Chúa Giêsu vì vậy mà trở nên rất gần gũi với tất cả chúng ta, mọi thành phần của một Hội Thánh lữ hành, một Hội Thánh cầu nguyện, một Hội Thánh đang mong mỏi ngày kết hiệp viên mãn cùng với Đấng Lang Quân là Chúa Giêsu Kitô khi Ngài lại đến trong vinh quang của Ngài.      

     

     

    Chiêm Niệm: Tìm Vui trong Thi Hành Thánh Ý

    Có một điểm đặc biệt là trong kho tàng tu đức của Hội Thánh Công Giáo, thánh Giuse hầu như chưa bao giờ được nhắc đến như một môn đệ của Đấng Cứu Thế trong khi đó Đức Maria thì hay được ca tụng như “môn đệ đầu tiên” và “môn đệ chân chính” của Đức Kitô.[11] Có lẽ là vì không như Đức Trinh Nữ Maria, thánh Giuse đã lui vào trong bóng tối của sự thinh lặng một cách bí nhiệm kể từ khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng công khai. Trong khi đó, Đức Maria là người đã dõi theo sát bước đường sứ vụ của Con Chí Ái Mẹ kể từ dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana cho đến khi Người Con ấy trút hơi thở cuối cùng trên Thập Giá. Tuy vậy, thánh Giuse giống với vị hôn thê của ngài ít là ở điểm này: suốt đời thánh nhân, ngài đã hết lòng tận tụy trung thành gánh vác sứ mạng Thiên Chúa giao phó. Tuy Giáo Hội thường nhắc đến thánh Giuse bằng những danh xưng khác nhau như “Cha Nuôi”, “Đấng Bảo Vệ” chứ chưa bao giờ chính thức nói về ngài như một “môn đệ” của Chúa Kitô, chúng ta vẫn nhận thấy nơi người hình ảnh của người môn đệ được Chúa ưu ái chúc phúc: “Phúc thay ai lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Mc 3:35; Lc 11:27).[12] Chiều sâu chiêm niệm thể hiện qua thái độ chuyên chăm cầu nguyện và một đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa khiến cho thánh Giuse hiểu được thế nào là “bước đi trên đường thánh ý”. Không phải nhờ danh xưng nhưng nhờ chứng tá, thánh Giuse xứng đáng được tuyên dương là bậc thầy mẫu mực có đủ khả năng truyền đạt bí quyết trung thành cho những ai muốn dõi bước đi theo Chúa Giêsu Kitô.

     

    Năm thánh Giuse kết thúc nhưng chắc chắn mẫu gương nhân đức của ngài sẽ tiếp tục khơi lên niềm hứng khởi và thôi thúc chúng ta trở nên những “Giuse mới” cho thế giới hôm nay.  Như Cha Nuôi Đấng Cứu Thế, chúng ta được mời gọi tìm kiếm “hạnh phúc không chỉ ở sự hy sinh bản thân mà ở sự tự hiến”. Học nơi thánh Giuse, chúng ta trở nên chứng nhân sống của niềm hy vọng Kitô Giáo, mọi người sẽ “chẳng bao giờ thấy nỗi thất vọng mà chỉ toàn thấy niềm tin tưởng cậy trông” nơi con người chúng ta. “Sự thinh lặng kiên nhẫn của Đấng Công Chính” sẽ luôn là mục tiêu để chúng ta vươn tới trong ứng xử hàng ngày của chúng ta[13]Học theo gương Thánh Giuse chiêm niệm, chúng ta liên lỉ tìm kiếm Thiên Chúa trong nguyện cầu và yêu mến Chúa trong anh chị em tha nhân.

     

    Lạy thánh Giuse diễm phúc, xin hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời. Xin ban cho chúng con ân sủng, lòng thương xót và ơn can đảm. Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.

     

    Rôma, 05.12.2021

    Lm. Giuse Phan Quang Trí, O.Carm

    Hẹn gặp lại

     

     




 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - TÌM Ý NGHĨA MÙA VỌNG

ĐI TÌM Ý NGHĨA MÙA VỌNG

“Trời cao hãy đổ sương xuống

Và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội.

Trời cao hãy đổ sương xuống

Và ngàn mây hãy mưa đấng cứu đời”.

(Trời Cao. Duy Tân)

 

Những tâm tình trên đã diễn tả niềm mong đợi, thao thức của dân Chúa về sự xuất hiện của đấng cứu tinh, đấng đến để giải thoát dân Israel khỏi vòng nô lệ. Tuy Chúa đã đến, đã giải thoát Israel và toàn nhân loại nhưng không với ý nghĩa mà con người sắp đặt cho Ngài. Ngài đã đến để giải thoát nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, để chuộc lại nhân loại tội tình, và đem họ về làm con Thiên Chúa. Như vậy thì chúng ta còn chờ đợi gì? Còn mong đợi gì? Bốn tuần lễ, bốn cây nến Mùa Vọng đang nói gì với chúng ta?

Chúa đã đến. Ngài đã giáng trần trong thân phận một hài nhi nhỏ bé tại đồng quê Belem hơn 2000 năm trước. Do đó, sự chờ mong bây giờ chỉ mang một ý nghĩa hoàn toàn tâm linh, một ý nghĩa nhắc nhở chúng ta về ơn giải thoát mà Ngài đã thực hiện trong lần đến thứ nhất.

Mùa Vọng và mùa Giáng Sinh năm đó đã thực sự đi vào lòng tôi với những kỷ niệm khó quên. Nó gợi lại trong tôi những thao thức, chờ mong không chỉ mỗi lần Giáng Sinh về, mà còn suốt cả mọi ngày trong cuộc sống. Những tư tưởng này tôi cảm nhận được từ bài suy niệm của Đức Giám Mục Bernard Law, giám mục Springfield–Cape Girardeau, mà sau này là hồng y Law, tổng giáo mục, tổng giáo phận Boston.

Mùa Đông năm ấy, năm 1975, một mùa đông của miền Đông nước Mỹ thật rét buốt và buồn tẻ. Mang thân phận xa quê hương, và những ngày đầu tiên sống trên một miền đất xa lạ. Nhưng tâm hồn tôi cảm thấy ấm lại khi cùng với Đức Giám Mục Law đi tìm cho mình một ý nghĩa mùa vọng tâm linh.

Theo lời giải thích của ngài, 4 tuần lễ Mùa Vọng, 4 cây nến Mùa Vọng tượng trưng cho 4 lần Chúa đến mà mỗi người phải chuẩn bị và mong chờ. Nó không chỉ bao gồm trong Mùa Giáng Sinh, mà toàn bộ đời sống tâm linh. Đó là sẵn sàng đón tiếp Chúa trong đêm Giáng Sinh, qua các Bí Tích của Hội Thánh, trong giờ chết, và ngày cánh chung của nhân loại.

1-Chúa đến trong đêm Giáng Sinh: Ngài đã đến, và các thiên sứ đã loan báo tin vui này với các mục đồng: “Đừa sợ. Này ta báo cho các ngươi một tin vui mà cũng là tin vui cho toàn dân. Hôm nay trong thành Đavít, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi. Ngài là Đức Kitô, là Đức Chúa.” (Luca 2:10-11). Như vậy, mỗi lần Giáng Sinh về chỉ là dịp để chúng ta ôn lại biến cố trọng đại này. Nhắc lại nó với lòng biết ơn.

2-Chúa đến qua các Bí Tích: Bẩy phép Bí Tích do Chúa Giêsu thiết lập là những phương tiện để Ngài gần gũi, để Ngài tiếp xúc với mỗi người trong cuộc sống. Nó diễn tả đúng như lời Ngài đã mời gọi mỗi người chúng ta: “Như Cha đã thương yêu Thầy, Thầy cũng thương yêu các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.” (Gioan 15:9) 

-Bí Tích Thánh Tẩy: Chúa đến để tẩy rửa, để gột sạch tội khiên, và để đón nhận chúng ta vào sống trong Giáo Hội của Ngài. Qua Phép Thánh Tẩy, Ngài ban cho chúng ta quyền làm con Thiên Chúa.

-Bí Tích Thêm Sức: Chúa đến để thêm nghị lực, mặc cho chúng ta áo giáp nhân đức và trang bị để chúng ta sẵn sàng chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Ngài ban cho chúng ta nguồn ơn thiêng của Chúa Thánh Thần.

-Bí Tích Thánh Thể: Trong Phép Thánh Thể, Chúa biến thành của nuôi linh hồn. Ngài ngự vào linh hồn chúng ta. Tan biến để biến đổi chúng ta thành Ngài. Ngài đến và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

-Bí Tích Hòa Giải: Ngài đến để tha thứ, để giang rộng vòng tay yêu thương đón nhận những đứa con hoang trở về.

-Bí Tích Xức Dầu: Ngài đến để chuẩn bị đưa chúng ta về với Ngài, để : “Nếu Thầy đi và dọn chỗ cho các con, thì Thầy sẽ đến để đón các con, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó.” (Gioan 14:3)

-Bí Tích Truyền Chức: Ngài đến để tuyển chọn và mời gọi chúng ta tham dự với thiên chức linh mục đời đời của Ngài. Ngài dùng chúng ta để ban phát Thánh Thể, lời ngài, và các bí tích.

-Bí Tích Hôn Phối: Ngài đến để mời gọi chúng ta cộng tác vào việc sáng tạo của Ngài qua bí tích hôn phối.

3-Chúa đến trong giờ chết: Trong suốt cuộc hành trình dương thế, Chúa luôn luôn có mặt, và Ngài luôn ở bên chúng ta mỗi khi chúng ta cần đến Ngài. Ngài không để chúng ta một mình đi trên cuộc đời. Giờ lâm chung là giây phút quyết định của một linh hồn, giữa Thiên Đàng và hỏa ngục, giữa hạnh phúc đời đời và trầm luân muôn kiếp. Đây cũng là thời khắc ma quỉ cố gắng rình rập và tìm cách bắt các linh hồn. Đó cũng là giây phút mà Bí Tích Hòa Giải, Xức Dầu và Thánh Thể trở nên cần thiết cho mỗi linh hồn để chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa đời đời. 

4-Chúa đến trong ngày cánh chung: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống”. Đó là lời tuyên xưng mà chúng ta thường lập lại mỗi ngày. Trong ngày Chúa đến lần này, Ngài sẽ phán xét kẻ sống và kể chết. Phần thưởng đời sẽ trao tặng cho những người công chính, và ngược lại, hình phạt đời đời sẽ thuộc về ma quỉ và những kẻ thuộc về chúng. 

Tóm lại, trong bốn ý nghĩa của việc mong chờ Chúa đến, có hai lần ám chỉ chung cho số phận của loài người là lần đến thứ nhất và lần sau cùng. Và hai trực tiếp gắn liền với mỗi cá nhân, đó là lần đến qua bí tích Thánh Tẩy và các Bí Tích.

Niềm mong đợi, vì thế, sẽ trở thành một tâm lý sống tích cực của những ai tin vào Chúa. Chúng ta mong chờ Chúa đến không chỉ qua một nghi thức tượng trưng của Đêm Giáng Sinh, nhưng ý nghĩa Mùa Vọng phải là lẽ sống, niềm hy vọng, cậy trông của mỗi người trong suốt mọi ngày trong cuộc sống: “Lạy Chúa! Xin hãy đến”.

 

  Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt

Chia sẻ Bài này:
 

FacebookTwitterLinkedInPinterestViber

00:00
 
04:47
 
 
 

Bài Giảng Chúa Nhật III Mùa Vọng C

Video Player
 
00:00
 
29:48
 
 
 

 

 
 
 

Chuyên Mục

 
 
 
 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - THIÊN THẦN BẢN MẠNH

  •  
    Chi Tran
     
     
    TRUYỆN VỀ 
    Thiên Thần Bản Mệnh

    Linh Mục Công Giáo tên Lamy kể lại. 

    Một phụ nữ Công Giáo đạo đức xin tôi đến ban bí tích Xức Dầu Thánh cho chồng bà. Ông đau nặng, nhưng chưa hẳn ở vào giai đoạn cuối đời. Dầu vậy, bà ước ao cho chồng được lãnh nhận Bí Tích Bệnh Nhân khi còn tỉnh táo. Bà tự nhủ:
    "Đâu ai biết được giờ chết sẽ xảy đến thình lình như thế nào!".
    Tôi nhận lời đến ngay, nhưng không mang theo dầu thánh, sợ gây hoảng sợ cho người bệnh. Lúc đến thăm, tôi ngạc nhiên khi thấy chính ông chồng ngỏ lời xin tôi ban phép bí tích sau cùng cho ông. Tôi vội vàng ra về và hứa sẽ trở lại ngay, mang theo Dầu Thánh. Bà vợ nói với tôi:
    - "Thưa cha, con khép hờ cánh cửa ra vào. Khi nào đến, xin cha cứ tự tiện đẩy cửa vào nhà".
    Nhà hai ông bà ở trong một chung cư nơi lầu 6. Vào thời kỳ đó, các chung cư chưa có thang máy.

    Một giờ sau, tôi bước vội lên cầu thang nhưng vô ý không tính xem mình đang ở lầu mấy. Bất ngờ tôi thấy trước mặt một cánh cửa khép hờ. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào. Một người đàn ông đang nằm trên giường, không giống người đàn ông lúc nãy, nhưng tình trạng bệnh hoạn lộ vẽ trầm trọng rõ ràng. Tôi lúng túng xin lỗi và chào thăm ông. Không ngờ, người bệnh như tỏ dấu hài lòng trông thấy một linh mục Công Giáo. Ông nói ngay:
    - "Cha có biết không? Từ một tuần nay, con nài nĩ nhà con mời một linh mục đến cho con gặp. Nhưng nhà con cương quyết từ chối. Bởi lẽ cả hai vợ chồng chúng con đều là kẻ vô thần. Riêng con, ý nghĩ biết mình sắp chết khiến con kinh hoàng. Con liền tìm cách trở về với đức tin con nhận lãnh trong thời thơ ấu. Nhà con không đồng ý với con". Nhà con nói:

    - "Hễ là kẻ vô thần thì phải vô thần cho đến chết! Không có chuyện 'tôn giáo nhảm nhí' vài giây phút cuối đời!".
    Thấy nhà con một mực từ chối, con liền quay sang khẩn khoản nài van Thiên Thần Bản Mệnh con cứu giúp. Con nhớ lại bài học giáo lý ngày con còn nhỏ về sự trợ giúp của Thiên Thần Hộ Thủ.

     

    Và Thiên Thần Bản Mệnh đã ra tay cứu giúp. Bà vợ của ông vừa ra khỏi nhà, nhưng quên đóng cửa lại. Còn tôi, tôi lại đi lộn cửa, vào nhằm nhà của ông. Tôi vui mừng nghe câu chuyện ông vô thần vừa kể. Tôi giúp ông dọn mình nhận lãnh các bí tích sau cùng. Tôi trao cho ông Mình Thánh Chúa làm của ăn đàng.

    Xong xuôi đâu đó, tôi cẩn thận khép kín cửa lại và tiếp tục leo cầu thang lên lầu 6, nơi người bệnh thứ nhất đang chờ đợi tôi. Vừa đi tôi vừa đọc kinh cầu cùng Thánh Thiên Thần Bản Mệnh: 
     
    -"Lạy Thiên-Thần Chúa là đấng gìn giữ con. Xin Thiên-Thần soi sáng tâm trí con, gìn giữ trái tim con, nâng đỡ thân xác con và hướng dẫn con, vì con được Tình Yêu Thiên Quốc giao phó cho Thiên-Thần chăm sóc. Amen".

     

    (René Lejeune "Les Anges: Armée secrète du Ciel", Éditions du Parvis, 1998, trang 91-93). 
    by Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt