3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

ĐỂ CHO LỜI CHÚA BIẾN ĐỔI CUỘC ĐỜI

Suy Niệm Chúa Nhật IV Thường Niên B

Vào ngày Sa-bát, Chúa Giê-su đến giảng dạy trong hội đường. Mọi người chăm chú lắng nghe. “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.”

Lúc ấy, trong hội đường có người bị quỷ ám. Thấy Chúa Giê-su, quỷ biết ngay Ngài là Con Thiên Chúa, nên la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chúng tôi can hệ gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Bấy giờ Chúa Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người nầy!”

Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.

Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”

 

Lời Chúa có sức mạnh vạn năng

Lời Chúa Giê-su phán ra làm cho biển đang dậy sóng được lặng yên. Lời Chúa truyền cho người câm được nói, người điếc được nghe, người mù được thấy, người chết sống lại. Lời Chúa làm cho ma quỷ phải quy phục. Lời Chúa tác tạo cả vũ trụ càn khôn…

Thế thì tại sao Lời Chúa chưa khuất phục được bao người hung ác? Chưa thay đổi tâm hồn những người lầm lạc đắm chìm trong tội lỗi?

 

Sở dĩ uy lực và Lời quyền năng của Chúa khựng lại trước con người vì Chúa ban cho họ một ân huệ lớn lao và cao cả nhất là tự do. Nếu không có tự do, con người chẳng khác gì người máy, phẩm giá con người bị hạ thấp; vì thế Thiên Chúa không tước bỏ tự do con người nhưng luôn tôn trọng tự do của họ, để tùy họ định đoạt công việc của mình.

Dù con người có lạm dụng tự do Chúa ban để phỉ báng Thiên Chúa, thậm chi đóng đinh Ngôi Hai Thiên Chúa vào thập giá, thì Chúa vẫn để họ tự do làm theo ý mình.

Bao lâu con người dùng tự do của mình để khước từ Thiên Chúa, không để cho Lời Chúa uốn nắn đời mình, thì bấy lâu, Lời Chúa mất tác dụng đối với họ.

 

Đừng để Lời Chúa mất tác dụng

Một người tội lỗi xấu xa biết sử dụng tự do Chúa ban để uốn đời mình theo lời Chúa dạy thì sẽ trở nên người thánh thiện tốt lành; trái lại, một người sống trong lầm lạc tội lỗi và dùng tự do khước từ lời Chúa dạy, không làm theo tiếng lương tâm thì không thể nên tốt được.

Lời Chúa rơi vào lòng ta cũng như mưa trời rơi xuống làm cho đất phì nhiêu, cho hạt nẩy mầm, cho hoa kết trái, cho lúa đơm bông… nhưng nếu tâm hồn ta đóng lại như thùng đậy nắp thì mưa có rơi xuống bao nhiêu cũng không ích lợi gì!

Lời Chúa như ngọn hải đăng bừng sáng giữa đêm đen soi đường chỉ lối cho tàu thuyền lưu lạc giữa biển khơi tiến về bến an toàn, nhưng nếu thuyền trưởng không thèm để mắt nhìn đến thì cũng bằng không.

 

Lạy Chúa Giê-su,

Ma quỷ là loài xấu xa mà còn biết vâng phục lời Chúa truyền dạy, lẽ nào chúng con là những người con ưu ái của Chúa lại gạt bỏ lời Chúa ra ngoài tai.

Xin cho chúng con sẵn sàng vâng theo lời Chúa dạy, để xứng đáng là con cái Chúa và được hưởng sự sống đời đời Chúa hứa ban. Amen.

 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Tin mừng Mác-cô 1, 21b-28

21 Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.

23 Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên24 rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa! “25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! “28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.

CHÚA ĐẾN XÂY DỰNG HÒA BÌNH

ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH

Không có gì trên đời khiến nhân loại gớm ghét, ghê tởm, kinh sợ… cho bằng chiến tranh, vì chiến tranh gây ra vô vàn đau thương, chết chóc, tàn phá, hủy diệt… cho mọi người trên hành tinh nầy.

Và ngược lại, hòa bình và hạnh phúc là điều nhân loại luôn khát khao mong đợi.

Tiếc thay, ngay từ khởi thủy, con người đã gây chiến với nhau.

Lòng ghen ghét, hận thù, tham lam… là cội rễ, là nguyên nhân chính gây ra chiến tranh loạn lạc khắp nơi: những cuộc chiến tranh lạnh trong gia đình, chiến tranh nóng bỏng ngoài xã hội, chiến tranh dữ dội trên toàn thế giới… cũng vì ghen ghét, hận thù, tham lam… mà ra.

Thiên Chúa là Cha nhân lành rất đau lòng trước thảm cảnh đau thương nầy, và Ngài tìm cách cứu nhân loại khỏi hận thù chiến tranh bằng cách cho Con Một Ngài là Chúa Giê-su xuống thế, mang hòa bình cho nhân loại.

Lời ngôn sứ I-sai-a trong phụng vụ Thánh lễ hôm nay giới thiệu cho chúng ta biết điều nầy:

“Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một người con đã được ban tặng chúng ta. Ngài đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Ngài là … Vua thái bình” (Is 9,5).

Vì thế, khi Chúa Giê-su mới ra đời tại Bê-lem, đông đảo thiên thần đồng thanh ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.”

Ngài đến trần gian để xây dựng một trời mới đất mới, một vương quốc mới là Nước Thiên Chúa.

Dưới triều đại của Ngài, lửa chiến tranh sẽ bị dập tắt, mọi xung đột sẽ được giao hòa, những kẻ thù không đội trời chung sẽ trở nên bạn bè thân thiết.

Ngôn sứ I-sai-a đã phác họa vương quốc nầy bằng một bức tranh tuyệt vời như sau :

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.

Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.

Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.

Bé thơ còn đang bú, giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta…” (Is 11, 6-9).

Và bấy giờ

“Người ta sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái.

Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2, 4).

 

Chúa Giê-su xây dựng vương quốc nầy cách nào ?

Chúa Giê-su là Vua thái bình. Ngài xây dựng Vương quốc hòa bình bằng cách bày tỏ cho nhân loại biết một sự thật tuyệt vời là mọi người đều là con rất yêu dấu của Thiên Chúa Cha và là anh chị em con cùng một Cha, vì thế phải yêu thương đùm bọc nhau như con một nhà. Thuận hòa yêu thương là điều răn số một, là trọng tâm của Nước Trời.

 

Vương quốc nầy không phải là chuyện trong mơ nhưng đang hiển hiện trên khắp thế giới. Bất kỳ ở đâu và bất cứ ai sống theo luật yêu thương của Chúa Giê-su, sống thuận hòa bác ái với mọi người như Chúa truyền dạy, thì ở đó, Vương quốc hòa bình đang hiển trị. Ai sống thuận hòa yêu thương theo luật Chúa Giê-su, thì người đó là công dân Nước Trời.

 

Thế giới nầy chỉ thực sự hòa bình, nhân loại chỉ thực sự hạnh phúc, khi mọi người biết tôn Đức Giê-su là Vua của mình và lấy luật yêu thương của Ngài làm kim chỉ nam cho cuộc sống.

 

Lạy Chúa Giê-su,

Hằng ngày, qua kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi chúng con cầu nguyện cho Nước Cha trị đến, tức là cầu cho vương quốc hòa bình do Chúa thiết lập được hiển hiện trên mặt đất nầy.

Xin cho chúng con góp công thực hiện sứ mạng cao cả nầy bằng cách giúp cho nhiều người nhận biết sự thật là mọi người đều là con cùng một Cha trên trời, vì thế phải yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Amen.

 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Lu-ca (Lc 2, 1-14)

Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.

Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.

Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.

Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

TÌNH CHÚA MUÔN NGÀN ĐỜI

Chúa Nhật IV Mùa Vọng B

“Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi”. Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, thì nay được biểu lộ (x.Rm 16,25-26): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.

Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thủy chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.

Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người (x.2Tm 2,12-13). Theo mạc khải thời Cựu Ước thì có khi, có thời, Thiên Chúa dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng Người lại kéo ta lên, ủi an, vỗ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương (x.Gr 31,16-20). Nhưng đến thời Tân ước thì Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một…Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ…(x.Ga 3,16…).

Lời hứa ban ơn cứu độ từ ngàn xưa đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33).

Thiên Chúa không hề bỏ chúng ta. Đây là một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quãng thời gian an bình, hạnh phúc thật quá ngắn so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ (x.Tv 90,10). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.

Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? (Rm 7,19-24).

Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Người không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,5-6).

Không một ai là không có thể được cứu thoát. Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Lc 1,37 ; Mt 19,26). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi (x.1Tm 2,3-4 ). Dù chỉ một con đi thất lạc, Thiên Chúa cũng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta?

Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 13,32).

Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình”(x.2Tm 2,12-13). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoãn sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này!

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Xin vâng để Chúa đến với chúng ta

Chúa Nhật IV Mùa Vọng B

Chúng ta hân hoan chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Con Thiên Chúa đến làm người và ở giữa chúng ta. Và phụng vụ Lời Chúa trong ngày Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng loan báo cho chúng ta về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, và mời gọi chúng ta hãy đón rước Người.

Thật vậy, từ lúc một thiếu nữ tên là Maria nói tiếng “xin vâng”, lịch sử nhân loại đã thay đổi hoàn toàn vì Thiên Chúa đã bước vào lịch sử nhân loại. Thế giới từ nay sẽ không như trước nữa. Người đến để xây dựng vương quốc tình yêu, để đem lại hạnh phúc cho toàn thể nhân loại, và “triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”. Đây là triều đại của Đấng Cứu Thế đã được ngôn sứ Nathan loan báo cho vua Ðavít từ một ngàn năm trước, mà chúng ta nghe trong bài đọc I hôm nay: Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”. Tuy nhiên, Thiên Chúa không áp đặt triều đại hay vương quốc của Người trên chúng ta, Người để cho chúng ta được tự do lựa chọn, như cách thức Người đã mời gọi Đức Maria cộng tác vào kết hoạch cứu độ của Người vậy.

Khi nghe sứ thần Gabriel loan báo rằng Mẹ sẽ cưu mang Con Thiên Chúa, Mẹ Maria đã đáp lời sứ thần: Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói. Câu trả lời thể hiện sự đơn sơ tuyệt vời và niềm tin tưởng tuyệt đối của Mẹ vào Thiên Chúa. Nhờ tiếng “xin vâng”của thiếu nữ làng Nadarét, Thiên Chúa đã làm người và ở giữa con người. Người là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

Những ai có dịp ngắm bức tranh “Truyền Tin” của Fra Angelico, tu sĩ Ða Minh người Ý vào đầu thế kỷ thứ 15, sẽ thấy hình ảnh Ðức Mẹ, tay chắp trước ngực, chăm chú lắng nghe thông điệp của sứ thần Gabriel với thái độ tin tưởng và khiêm nhu. Tin Mừng kể rằng Ðức Maria “rất bối rối”, nhưng họa sĩ Fra Angelico lại muốn cho mọi người thấy nét mặt bình an của Mẹ khi đón nhận vai trò duy nhất của mình trong lịch sử cứu độ, vai trò làm Mẹ Thiên Chúa. Khi diễn tả nét bình an nơi Mẹ Maria, phải chăng bởi Fra Angelico thấy được rằng Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và sẵn sàng đáp lại tình yêu của Người.

Chúng ta đang ở gần sát lễ Giáng Sinh, và Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi tiếng “xin vâng” đầy tin tưởng và yêu mến của chúng ta để có thể đến trong cuộc đời mỗi người, và trong thế giới chúng ta đang sống. Trong sách Khải Huyền, cuốn sách cuối cùng của Kinh Thánh, Chúa nói với mỗi người chúng ta: Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20). Đúng vậy, Thiên Chúa không ép buộc chúng ta mở cửa tâm hồn mình, Người chỉ biết chờ đợi cho đến khi chúng ta sẵn sàng mở cửa cho Người bước vào.

Chúng ta có thể nghĩ rằng: tôi có là gì đâu, chỉ là một người bé nhỏ tầm thường, một người không ai biết đến, thì việc tôi có trả lời với Chúa hay không đâu có quan trọng. Hoặc chúng ta cho rằng: chắc Chúa chỉ cần những người nổi tiếng, những con người đầy tài năng để cộng tác với Người, để thay đổi thế giới… Nhưng chúng ta đừng quên rằng, Mẹ Maria cũng chỉ là một thiếu nữ vô danh của làng Nadarét. Và Thiên Chúa thích dùng tất cả những gì là bé nhỏ tầm thường để cộng tác vào trong lịch sử cứu độ của Người.

Nếu ngày xưa, nhờ tiếng “xin vâng” đầy tin tưởng và yêu mến của Mẹ Maria mà Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, thì hôm nay đây, Người vẫn cần đến lời thưa “xin vâng” của mỗi chúng ta để có thể đến với chúng ta, ở lại với chúng ta, để thay đổi cuộc đời chúng ta, và nhờ đó thay đổi thế giới xung quanh mà chúng ta đang sống. Thiên Chúa là Đấng toàn năng nhưng Ngài lại cần một chút niềm tin tưởng của chúng ta; tuy là Đấng giàu có nhưng Ngài lại cần một chút lòng quảng đại của chúng ta, và dù là Thiên Chúa Tình Yêu, Người lại đến để xin tình yêu hèn mọn của chúng ta. Nhưng liệu chúng ta có quảng đại, có đủ tin tưởng và tình yêu để cho Chúa không?

Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm, sự đơn sơ và nhất là lòng yêu mến để có thể thưa tiếng “xin vâng” với Chúa. Ước gì lễ Giáng Sinh mà chúng ta sắp mừng, là lễ của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, và cũng là lễ của “Chúng ta ở cùng Thiên Chúa”! Amen.

 Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

HÃY VUI MỪNG!

Chúa Nhật Tuần 3 MV B

“Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”.

“Cuộc sống được sống trong Chúa Kitô không thể nào khác hơn là sống trong niềm vui!” – William Barclay.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa Chúa Nhật Hồng một lần nữa khẳng định ý tưởng “sống trong niềm vui” của W. Barclay. Từ bài đọc hai, lời của thánh Phaolô vang vọng, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”. Tuy nhiên, sẽ có một số người trong chúng ta dường như muốn hét lên, “Có gì mà vui?”; “Giáo Hội quá mụ mị khi bảo chúng ta ‘hãy vui mừng’ ít nữa vào thời điểm này!”.

Vậy mà, phụng vụ hôm nay vẫn đòi hỏi bạn và tôi ‘hãy vui mừng!’. Có niềm vui nào giữa lúc khó khăn, u ám và bóng tối? Có niềm vui nào khi thế giới đang ngật ngưỡng vì chiến tranh, thất nghiệp và nghèo đói? “Có!”. Nhưng dĩ nhiên, đó không phải là niềm vui phát xuất từ một lạc quan sai lầm khi mọi thứ sẽ ‘trở nên tốt hơn’; vì thực tế, mọi thứ có thể tồi tệ hơn. Đó cũng không phải là một niềm vui ảo tưởng trong tâm trí! Vậy niềm vui ở đây là gì? Phaolô trả lời, vì “Đó là điều Thiên Chúa muốn!”. Và Giáo Hội thêm rằng, “Chúa đang ở gần!”. Chìa khoá của vấn đề nằm ở Chúa Kitô. Niềm vui đích thực chỉ được tìm thấy trong Chúa Kitô. Ngài đến để cứu độ, giải thoát và ban cho chúng ta sự sống mới!

Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn vào Gioan, một nhân vật khổ hạnh, ép xác, kêu gọi sám hối. Miêu tả Gioan theo cách này, chúng ta có xu hướng quên đi niềm vui gắn liền với toàn bộ cuộc đời và ơn gọi của Gioan. Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ khi Mẹ Chúa viếng thăm. Tác giả Phúc Âm thứ tư nói về niềm vui của Gioan như niềm vui của phù rể vốn vô cùng hân hoan khi nghe giọng chàng rể. Sự khiêm nhường của Gioan đã mở ra trong Gioan ‘một không gian’ dành cho sự vui mừng đích thực. Như Gioan, chúng ta ‘hãy vui mừng’ vì sự hiện diện tràn đầy của Chúa. Cũng sẽ như thế đối với bạn và tôi!

Gioan chỉ ra con đường dẫn đến niềm vui lâu dài, con đường khiêm nhượng! Gioan biết mình không phải là ai, “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Trung thực về bản thân là bước đầu để có thể vui mừng. Tập trung vào Chúa, bạn buộc phải loại bỏ mọi trùng lặp phù phiếm; từ đó, sống trong sự thật và tập trung vào sứ vụ. Bất chấp khó khăn, sự khắc nghiệt của cuộc sống, sự giam cầm và hành quyết của một bạo chúa, Gioan hiểu rằng, khi Gioan mờ đi và lụi tàn, một ánh sáng khác đang đến, ánh sáng đích thực soi sáng thế giới tăm tối và gạt bỏ bóng đêm tội lỗi.

Anh Chị em,

“Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”. Chúa Nhật Vui Mừng trở thành một cơ hội để chúng ta mừng vui, một niềm vui lớn lao hơn niềm vui của Isaia – bài đọc một – hay của Gioan. Đó là niềm vui của Đức Mẹ, “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi!” – Thánh Vịnh đáp ca. Những gì Isaia và Gioan chỉ có thể hình dung trong thời tiên tri, nay chúng ta trải nghiệm trong thực tế của ân sủng. Chỉ còn vài ngày nữa là Lễ Giáng Sinh, không chỉ tưởng nhớ quá khứ, chúng ta hướng đến tương lai, sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, Đấng Giải Thoát, Đấng sẽ hoàn thành công việc tốt lành Ngài đã khởi sự nơi mỗi người. Vì lý do này, Mẹ Hội Thánh lệnh cho chúng ta “Hãy vui mừng!”. Hãy nhớ, đây là một mệnh lệnh, không phải một gợi ý!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đâu cần cười cả ngày con mới có niềm vui; cho con dám mỉm cười khi đang phải khóc, vì Chúa ở cùng con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

Subcategories