- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH
Không có gì trên đời khiến nhân loại gớm ghét, ghê tởm, kinh sợ… cho bằng chiến tranh, vì chiến tranh gây ra vô vàn đau thương, chết chóc, tàn phá, hủy diệt… cho mọi người trên hành tinh nầy.
Và ngược lại, hòa bình và hạnh phúc là điều nhân loại luôn khát khao mong đợi.
Tiếc thay, ngay từ khởi thủy, con người đã gây chiến với nhau.
Lòng ghen ghét, hận thù, tham lam… là cội rễ, là nguyên nhân chính gây ra chiến tranh loạn lạc khắp nơi: những cuộc chiến tranh lạnh trong gia đình, chiến tranh nóng bỏng ngoài xã hội, chiến tranh dữ dội trên toàn thế giới… cũng vì ghen ghét, hận thù, tham lam… mà ra.
Thiên Chúa là Cha nhân lành rất đau lòng trước thảm cảnh đau thương nầy, và Ngài tìm cách cứu nhân loại khỏi hận thù chiến tranh bằng cách cho Con Một Ngài là Chúa Giê-su xuống thế, mang hòa bình cho nhân loại.
Lời ngôn sứ I-sai-a trong phụng vụ Thánh lễ hôm nay giới thiệu cho chúng ta biết điều nầy:
“Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một người con đã được ban tặng chúng ta. Ngài đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Ngài là … Vua thái bình” (Is 9,5).
Vì thế, khi Chúa Giê-su mới ra đời tại Bê-lem, đông đảo thiên thần đồng thanh ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
Ngài đến trần gian để xây dựng một trời mới đất mới, một vương quốc mới là Nước Thiên Chúa.
Dưới triều đại của Ngài, lửa chiến tranh sẽ bị dập tắt, mọi xung đột sẽ được giao hòa, những kẻ thù không đội trời chung sẽ trở nên bạn bè thân thiết.
Ngôn sứ I-sai-a đã phác họa vương quốc nầy bằng một bức tranh tuyệt vời như sau :
“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.
Bé thơ còn đang bú, giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta…” (Is 11, 6-9).
Và bấy giờ
“Người ta sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2, 4).
Chúa Giê-su xây dựng vương quốc nầy cách nào ?
Chúa Giê-su là Vua thái bình. Ngài xây dựng Vương quốc hòa bình bằng cách bày tỏ cho nhân loại biết một sự thật tuyệt vời là mọi người đều là con rất yêu dấu của Thiên Chúa Cha và là anh chị em con cùng một Cha, vì thế phải yêu thương đùm bọc nhau như con một nhà. Thuận hòa yêu thương là điều răn số một, là trọng tâm của Nước Trời.
Vương quốc nầy không phải là chuyện trong mơ nhưng đang hiển hiện trên khắp thế giới. Bất kỳ ở đâu và bất cứ ai sống theo luật yêu thương của Chúa Giê-su, sống thuận hòa bác ái với mọi người như Chúa truyền dạy, thì ở đó, Vương quốc hòa bình đang hiển trị. Ai sống thuận hòa yêu thương theo luật Chúa Giê-su, thì người đó là công dân Nước Trời.
Thế giới nầy chỉ thực sự hòa bình, nhân loại chỉ thực sự hạnh phúc, khi mọi người biết tôn Đức Giê-su là Vua của mình và lấy luật yêu thương của Ngài làm kim chỉ nam cho cuộc sống.
Lạy Chúa Giê-su,
Hằng ngày, qua kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi chúng con cầu nguyện cho Nước Cha trị đến, tức là cầu cho vương quốc hòa bình do Chúa thiết lập được hiển hiện trên mặt đất nầy.
Xin cho chúng con góp công thực hiện sứ mạng cao cả nầy bằng cách giúp cho nhiều người nhận biết sự thật là mọi người đều là con cùng một Cha trên trời, vì thế phải yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng Lu-ca (Lc 2, 1-14)
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Chúa Nhật IV Mùa Vọng B
“Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi”. Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, thì nay được biểu lộ (x.Rm 16,25-26): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.
Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thủy chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.
Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người (x.2Tm 2,12-13). Theo mạc khải thời Cựu Ước thì có khi, có thời, Thiên Chúa dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng Người lại kéo ta lên, ủi an, vỗ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương (x.Gr 31,16-20). Nhưng đến thời Tân ước thì Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một…Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ…(x.Ga 3,16…).
Lời hứa ban ơn cứu độ từ ngàn xưa đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33).
Thiên Chúa không hề bỏ chúng ta. Đây là một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quãng thời gian an bình, hạnh phúc thật quá ngắn so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ (x.Tv 90,10). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.
Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? (Rm 7,19-24).
Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Người không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,5-6).
Không một ai là không có thể được cứu thoát. Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Lc 1,37 ; Mt 19,26). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi (x.1Tm 2,3-4 ). Dù chỉ một con đi thất lạc, Thiên Chúa cũng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta?
Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 13,32).
Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình”(x.2Tm 2,12-13). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoãn sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này!
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột