3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Thịt Ta là của ăn

Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.

Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.

Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu:. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.

Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.

Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.

Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?

ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt

THUỘC VỀ

“Ngươi thuộc về Ta!”.

“Hôn nhân không phải là thiên đường, chẳng phải là địa ngục; đơn giản, nó là luyện hình!” - Abraham Lincoln. “Người độc thân là một sinh vật không hoàn chỉnh; người ấy như một nửa kỳ quặc của chiếc kéo!” - Benjamin Franklin. Một nhà tu đức lại bảo, “Dù sống đời hôn nhân, hay độc thân; bạn không thuộc về mình mà thuộc về Chúa!”. 

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi “Thuộc Về” là một trong những chủ đề của Lời Chúa hôm nay. Bài đọc Êzêkiel là một áng văn tuyệt vời diễn tả Giêrusalem như một đứa trẻ sơ sinh giữa đồng vắng được Thiên Chúa nhặt về. Với Chúa Giêsu, dù ở bất cứ bậc sống nào, bạn và tôi ‘không thuộc về mình’ mà ‘thuộc về’ Chúa! 

Qua miệng Êzêkiel, Thiên Chúa sánh Giêrusalem như một đứa trẻ rốn chưa cắt, giãy giụa trong máu, bị vứt giữa đồng… Ngài lượm về, tắm rửa, dưỡng nuôi và yêu thương nó. Nó lớn phổng, trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, được trang sức với những gì quý giá nhất. Nhưng, hỡi ôi! Cậy vào nhan sắc, nó làm điều ghê tởm. Dẫu thế, Thiên Chúa vẫn một dạ xót thương, “Ta sẽ nhớ lại giao ước đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân!”. Ngài tha thứ tất cả, “Ngươi sẽ không còn mở miệng nói gì được nữa, khi Ta tha thứ tất cả những việc ngươi đã làm”. Thiên Chúa không để mất nó, nó ‘thuộc về’ Ngài! Thánh Vịnh đáp ca tỉ tê, “Giờ đây cơn giận đã nguôi rồi, và Chúa lại ban nguồn an ủi”.

Với bài Tin Mừng, nhân câu hỏi của giới biệt phái, “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?”, Chúa Giêsu trả lời bằng cách đưa họ về buổi đầu tạo dựng, nói cho họ kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa; rằng, hai người nam nữ kết hợp với nhau sẽ trở nên bất khả phân ly. Họ được tạo ra cho nhau; đó là những người sống trong tình yêu Chúa, sinh sôi nảy nở như ý định của Ngài. Họ thuộc về nhau, nhưng vẫn ‘thuộc về’ Ngài; bởi lẽ, họ có ra, gặp nhau, cốt cho vinh quang Ngài! Tuy nhiên, giữa họ, một khi ích kỷ của một người chiếm ưu thế thì tình yêu của họ mất hết ý nghĩa; bấy giờ là “luyện hình!”.

Chúa Giêsu còn đặt ra lý tưởng cao đẹp cho những ai bị coi là “sinh vật không hoàn chỉnh” vốn tự do từ bỏ hôn nhân vì Nước Trời. Ơn gọi trong mọi bậc sống đều đến từ Thiên Chúa, Ngài ban sức mạnh, ân sủng và niềm vui cho những ai hăm hở trên đường nên thánh riêng của mình - một con đường kỳ diệu - cho từng người, không ai giống ai.

Anh Chị em,

“Ngươi thuộc về Ta!”. Sẽ dễ hiểu khi nói những “nửa chiếc kéo kỳ cục” ‘thuộc về’ Chúa; nhưng xem ra khó hiểu khi nói những người sống đời hôn nhân - thuộc về nhau - nhưng vẫn ‘thuộc về’ Chúa! Nhưng đó là sự thật, vì ai cũng phải sống cho vinh quang Ngài! Ân sủng dẫy đầy trên mỗi người dù người ấy ở bậc sống nào. Nhờ ân sủng, những con trai con gái của Chúa được biến đổi trong Chúa Kitô, được ban quyền để sống trong sự thánh khiết và lẽ thật trọn vẹn. Vì thế, dù sống đời hôn nhân, hay dâng hiến, bạn hãy cộng tác với ân sủng; hãy để ân sủng mang lại sức sống và sự tươi mới! Từ đó, chúng ta có thể tạo nên một sự khác biệt, cống hiến một điều gì đó mới mẻ, đầy hy vọng. Tắt một lời, dù là gì, ở đâu, bạn và tôi vẫn ‘thuộc về’ Chúa, sống và làm vinh danh Ngài!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dù là “nửa chiếc kéo kỳ quặc” hay đang ở “luyện hình”, dạy con tận dụng ân sủng Chúa hầu có thể tạo nên một sự khác biệt cho cộng đồng, cho thế giới!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

HAI MÀ MỘT: HAI CỦA ĂN MÀ MỘT HẠNH PHÚC

Năm ngày Chúa nhật liên tiếp của năm B, từ CN 17 đến CN 21, ta đã được và sẽ được nghe nói về đề tài bánh. Nhiều bánh quá đến độ chán chê. Mà đúng là no nê chán chê thật, nếu đó là bánh, của ăn phần xác. No nê sẽ chán chê. Nhưng cũng có một thứ bánh no nê mà không chê chán. Đề tài hôm nay là phân biệt hai thứ bánh.

Nhưng trước hết ta hãy rảo qua bối cảnh của đoạn Tin Mừng được trích hôm nay. Số là cách đây mấy tuần, ta nghe đọc: Chúa thấy đám đông thì động lòng thương, và động lòng thương, thì Chúa liền dạy dỗ họ nhiều điều. Rồi đợi đến chiều tối, cũng động lòng thương đám đông đó, Chúa hoá bánh ra nhiều nuôi sống họ. Họ thấy vậy mừng quá, muốn kông kênh ông có phép biến hoá bánh ít ra bánh đa này lên làm vua, để khỏi lo khi làm ăn thua lỗ không cơm đổ vào miệng, thì đã có ông này hoá bánh ít dùm cho. Chúa biết vậy, nên trốn đi. Nhưng nào trốn được, cuối cùng họ cũng lần ra chỗ nấp của Ngài, mà không cần treo giải 30 triệu đôla như ai đó chỉ chỗ núp của Saddam Hussein đã được. Ông hoá bánh ra nhiều ấy trốn bên kia biển hồ chứ đâu! Khi gặp lại, dân lại còn xã giao chào hỏi: Thầy đến đây bao lâu rồi vậy. Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. (Ga 6, 26). Và sau đó là một cuộc đối thoại về của ăn làm ta sống mãi.

Vậy là có của ăn mau hư nát và có lương thực trường sinh.

  1. Của ăn hư nát

Của ăn mau hư nát, ai cũng rõ, chính là thức ăn bỏ vào miệng. Dẫu cho hư nát nhưng nó làm cho ta sống, thiếu nó là chết… đói. Thức ăn này bỏ qua đêm, nhất là mùa hè oi bức, sẽ dễ hư thiu. Ngay bánh manna bởi trời xưa dân Do Thái ăn trong 40 năm sa mạc, mà ai lấy nhiều quá, ăn không hết, để qua hôm sau là liền có sâu bọ giòi. Hư thối ngay. Huống gì là bánh không phải bởi trời, như thức ăn mua ở chợ (Đakao) đây. Cũng có luật trừ là khi đi trong Sa mạc, ngày thứ sáu được lấy 2 phần, vì ngày thứ bảy ngày hưu, nên manna cũng hưu, nghỉ rơi, ngừng rớt.

Nhưng câu nói của Chúa Giêsu về hai thứ thức ăn: hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư  nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, thì thức ăn hư nát không chỉ là của ăn nhai được, mà là những  gì làm cho người ta ra hư nát, tức là: của cải vật chất, tiền tài, danh vọng, mà ai cũng thèm ăn: ăn tiền. Ăn tiền dễ hư người, dễ nát thây.  Mấy vụ xử bắn 12 phát nát thây dành cho các ông Tăng Kim Phụng, Phạm Nhật Hồng là một ví dụ. Năm Cam cũng vậy. Vậy hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hư nát. Mà vì loại của ăn thứ hai: lương thực thường tồn.

  1. Của ăn thường tồn

Chúa Giêsu hé cho thấy của ăn này vượt xa manna xưa, tuy nó cũng rơi từ trời xuống đó. Người Do Thái khoe: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: ‘Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời.’" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha Tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian". Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". Chúa Giêsu bảo họ: "Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!”.

Vậy chẳng phải tìm đâu xa: bánh bởi trời đích thực, chính là Đấng bởi trời ngự xuống. Chính là Chúa Giêsu Kitô. 

Khi hoàng đế Napoléôn nước Pháp, người chinh phục gần như cả Âu Châu, sau bị đày sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử cùng đi theo. Một hôm, thấy gần đến ngày gần đất xa trời của ông trời con một thời là Nã Phá Luân, người viết tiểu sử liền hỏi: “Ngài vui lòng cho biết: trong suốt cuộc đời của ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?” Napoléôn suy nghĩ hồi lâu, rồi nói: “Tôi nhớ nhất ngày hạnh phúc trong đời của tôi là ngày, lâu lắm rồi, khi tôi còn bé: đó là ngày tôi được rước lễ lần đầu”.

Ngày hạnh phúc nhất của Nã Phá Luân đại đế không phải là ngày ngài lên ngai vàng, không phải là ngày chiến thắng vẻ vang khắp trời Âu và vùng Châu Phi phía Bắc. Cũng chẳng phải ngày cưới Josephine xinh đẹp hoặc ngày lấy Marie Louise đáng yêu. Mà là ngày được rước lễ lần thứ nhất.

Nhưng chúng ta không phải chỉ là rước Chúa lần thứ nhất, mà lần thứ ngàn, thứ muôn, thứ vạn. Tuổi càng cao, Chúa càng vào nhiều lúc. Cả ngàn, chục ngàn lần rước Chúa, ta có xem đó là lương thực thường tồn, là ngày hạnh phúc nhất nhì cuộc sống hay không? Chắc là chưa. Tôi cũng thế. Ngày nào cũng rước. Có ngày hai ba bốn bận. Nhưng không thấy si-nhê gì. Tại sao ? Có 2 lý do: vì chúng ta chưa đưa Chúa vào bánh, và vì chúng ta rước Chúa chứ chưa phải rước tấm bánh bẻ ra.

Chúng ta chưa đưa Chúa vào bánh.Chúa không có trong bánh. Nietzsche là triết gia, tổ của vô thần. Ông đã từng nóiThiên Chúa đã chết rồi. Ông lý luận: Thiên Chúa phải chết, con người mới làm Chúa được. Tại Braxin, có người đệ tử của Nietzsche làm một tấm bảng to, trên đó ghi rõ: Thiên Chúa đã chết. Ký tên Nietzsche. Ít ngày sau, cũng trên tấm bảng đó, hiện lên dòng chữ: Nietzsch đã chết. Ký tên, Thiên Chúa. 

Không thể để Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Ta thường rước lễ như là ăn bánh chứ không phải rước Chúa, dẫu cho khi LM xướng “Mình Thánh Chúa Kitô, ta thưa Amen, tức tôi tin rõ ràng. Nhưng ta sau lễ, làm như không có Chúa trong ngày. Chúa chết ngay khi mình nhai bánh.

Rước Chúa, nhưng chưa phải là lĩnh tấm bánh bẻ ra.Ta rước Chúa cho lòng ta hạnh phúc, ta chịu lễ cho phần rỗi củariêng ta. Đó chưa phải là Thánh Thể, tấm bánh bẻ ra. Bẻ ra là chia sẻ. Chứ không phải bẻ ra cho nhỏ để dễ nuốt trôi. Nếu ta rước lễ ngàn vạn lần mà không một lần nào ta chia cơm sẻ bánh cho người đói ăn, là ta chưa rước tấm bánh bẻ ra. Hãy thử mà xem, khi ta chia sẻ, ta sẽ có hạnh phúc, và như thế ta có thể nói như Napoleon nói:  ngày hạnh phúc là ngày rước Chúa, tấm bánh bẻ ra.

Và như thế ta có thể kết hợp hai thứ bánh. Biến bánh hay hư nát thành của ăn thường tồn. Đưa của ăn cho người túng thiếu, kèm theo tình yêu là phẩm tính của Thiên Chúa, là ta có được của ăn thường tồn mang lại hạnh phúc trường sinh.

Trong trận nội chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Chàng  có hy vọng là sẽ bình phục nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá, các nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân của chàng, biết chàng nhớ nhà; nên anh tình nguyện  đi tìm nhà của người bị thương để mời bố chàng tới. Đến nhà của người bạn, anh kể rõ hoàn cảnh. Người cha của người bị thương chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một tấm bánh. Người bị thương vui mừng khi thấy cha chàng tới và nhất là khi nghe cha chàng nói: “Này con, đây là tấm bánh mẹ con đã nướng”. Người con tươi nét mặt nói: “Vâng, bánh mẹ con làm, cho con một miếng”. Từ đó chàng bắt đầu trên đường bình phục. Chàng ăn bánh có tình của mẹ trong bánh. Bánh có tình yêu, là bánh có Chúa ngự. Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời.

Có hai thứ của ăn. Của ăn hư nát và lương thực thường tồn. Hãy dùng của ăn hư nát giúp người khác để nó biến thành lương thực thường tồn mang lại niềm vui, hạnh phước và phúc trường sinh. Amen.

Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Hẹn gặp lại

THẦN LƯƠNG

(1V 19, 4-8; Ep 4, 30- 5, 2; Ga 6, 41-52).

Sách Các Vua kể câu chuyện tiên tri Êlia thách thức các tiên tri thờ thần Baal và thần Asherah. Tại núi Carmel, Êlia đã trách móc vua Ahab về sự nhu nhược đã tôn thờ các thần ngoại bang và qụy lụy người vợ ngoại là Jezebel. Chỉ một mình Êlia, vị tiên tri của Chúa còn sót lại phải đối đầu với 450 tiên tri của thần Baal và 400 tiên tri của thần Asherah. Để nhận diện Thiên Chúa thật, Êlia đã tổ chức cuộc dâng hiến lễ toàn thiêu lên thần minh của mình. Nếu thần nào chấp nhận của lễ dâng hiến sẽ là thần chính thật. Các tiên tri Baal đã dâng của lễ và gào thét nguyện cầu cả ngày nhưng chẳng có thần minh nào đón nhận của lễ. Êlia đặt bàn thờ, giết chiên và đổ ngập tràn nước trên của lễ toàn thiêu. Êlia cầu khẩn và Thiên Chúa đã nhậm lời cho lửa thiêu đốt của lễ. Tiên tri Êlia đã toàn thắng và theo khế ước đã được chấp thuận trước, Êlia giết tất cả các tiên tri của Baal. Jerebel, vợ vua Ahab ghen tức muốn trả thù và đòi lấy mạng Êlia. Êlia đã trốn lên núi.

Tiên tri Êlia lo sợ chạy trốn lên núi than van cùng Chúa và ông xin cho được chết và nói: "Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con (1V 19, 4). Theo lệnh truyền của Thiên Chúa, các tiên tri có bổn phận loan báo chương trình của Chúa cho muôn dân. Khi vua quan và dân chúng sống trong lầm lạc, các ngài hướng dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Khi dân chúng sa vào những mê lầm thờ kính các thần gỗ đá vô minh, các tiên tri giúp họ tìm ra con đường chính thật. Thường các tiên tri bị các vua chúa, ngay cả các tư tế và dân chúng tẩy chay, từ chối và bị xua đuổi bắt bớ. Trên đường trốn chạy, thiên thần của Chúa đã mang cho Êlia của ăn và nước uống. Tiên tri đã hưởng dùng thần lương này và đủ sức đi bốn mươi ngày đêm tới núi Horeb.

Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta rằng: Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô (Ep 4, 32). Hãy đối xử tốt với nhau vì chúng ta cùng có một Cha trên trời là Đấng tác tạo muôn loài, cùng chung hưởng biết bao gia sản quí báu trong vũ trụ, cùng hít thở một bầu khí quyển, uống chung một nguồn nước, cùng chia sẻ những tấm bánh và đồng hành với nhau trong thời gian và không gian của vũ trụ. Tất cả mọi người cùng sống theo những lý tưởng để tiến đến một mục đích cuối cùng vì không ai có thể sống viên mãn một mình. Cũng thế, chúng ta không thể nên trọn lành đơn lẻ. Sống là sống cùng và sống với người khác, mọi người giúp nhau nên hoàn thiện. Kẻ giàu người nghèo, kẻ khôn người dại, kẻ sang người hèn, mọi người đều đi về cùng một cõi. Chúng ta cùng nương nhau để sống an lạc và bình an.

Kinh nghiệm cho thấy, cũng vì tranh dành miếng cơm manh áo mà loài người gây ra biết bao nhiêu khổ lụy ở đời. Hậu quả của chiến tranh bành trướng, dành dân chiếm đất và muốn sở hữu chủ nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chỉ để thỏa mãn lòng tham muốn. Hằng ngày chúng ta phải miệt mài lao động để kiếm tìm của ăn nuôi sống. Từng bước, nhu cầu cần yếu là kiếm bát cơm manh áo, rồi ăn no mặc ấm, tiến tới ăn ngon mặc đẹp và rồi ăn sung mặc sướng. Tuy nhiên, những thỏa mãn về nhu cầu vật chất không thể đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người. Mọi thứ của ăn trên trần gian dù là sâm ngàn năm, sâm bổ lượng, trái trường sinh và các món ăn đại bổ cũng không thể nuôi sống con người mãi mãi. Dù vất vả ngày đêm bon chen thu quén cải vật chất hoài cũng chẳng bao giờ no thỏa.

Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thần lương vô giá. Bánh hằng sống từ trời xuống lại chính là thịt của Con Thiên Chúa, nguồn ban sự sống. Khi nghe về bánh lạ, nhiều người quá ngỡ ngàng không thể tin vào tai của mình nữa vì Lời của Chúa vượt trên trí hiểu của con người. Với các phép lạ, Chúa Giêsu đã chuẩn bị tư tưởng cho dân chúng qua việc hóa bánh ra nhiều hai lần để nuôi cả ngàn người. Chúa cũng nhắc lại bánh Manna do Cha trên trời ban xuống cho dân trong hoang mạc. Bánh hóa nhiều để dưỡng nuôi thân xác yếu hèn của con người. Mọi người ăn để sống qua ngày rồi cũng sẽ chết. Nay Chúa ban bánh trường sinh, ai ăn sẽ sống đời đời.

Chúng ta có thể minh chứng sự hiểu biết của mình qua Kinh Thánh, Triết học và Thần học, qua Huấn quyền và các nguồn học hiểu của Giáo hội về Bí Tích Thánh Thể nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta cần có sự cảm nghiệm, hòa nhập và tin yêu phó thác. Lãnh nhận bánh thiêng nuôi hồn, bánh thánh hòa nhập biến đổi trở nên máu thịt của chúng ta. Tự thân chúng ta cũng phải biến đổi để mỗi ngày trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Bí Tích Thánh Thể luôn là mầu nhiệm đức tin. Đừng bao giờ chúng ta rời xa nguồn sống ban phúc trường sinh. Thánh Thể luôn là trung tâm điểm đời sống của người Kitô hữu khắp mọi nơi.

Lạy Chúa, xin Chúa ban thêm đức tin để chúng con vững bước theo Chúa. Xin cho chúng con biết tin tưởng vào Chúa như thánh Phêrô xưa: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Lạy Chúa, chúng con tín thác vào Chúa.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

NGUỒN TRỢ LỰC ĐỜI TA

Một hiện thực của cuộc đời tại thế là không ai được ở mãi trên các tầng mây, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sau phút giây vinh quang, thành công, sốt sắng là một chuỗi ngày vất vả, truân chuyên lẫn nhàm chán của đời thường, và chưa kể đến biết bao trở ngại phải đương đầu và cả những thất bại khó tránh. Thời kỳ sốt mến sau ngày chịu chức linh mục, giai đoạn thánh thiện sau ngày tuyên khấn trong Hội dòng, tháng ngày mặn nồng sau lễ hôn ước, khoảng thời gian sau khi nhận một sứ vụ…sao mà chẳng thể được lâu. Thế rồi chúng ta phải hạ cánh với các cảnh ngộ cuộc đời dù chẳng mong và thường không như ý.

Cảnh ngộ của ngôn sứ Êlia qua bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật XIX TN B là một minh chứng. Trước mặt vua Akhap, một mình thách đấu với 450 ngôn sứ thần Baal trên núi Carmel, ngài Êlia thật can trường và đáng khâm phục. Êlia đã chiến thắng, khi cầu khẩn Thiên Chúa và được Người nhậm lời cho lửa từ trời xuống thiêu hủy lễ vật. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất chúng ta phải tôn thờ, ngoài Người ra, tất thảy đều là “sản phẩm do tay loài người làm nên”. Êlia hãnh diện về niềm tin của mình. Ngài phấn khởi về chiến công xem như của mình.

Thế nhưng Êlia đã phải lập tức rời bỏ vinh quang của chiến thắng lẫy lừng ấy để chạy trốn khỏi sự truy diệt của hoàng hậu Giêgiaben. Chỉ mỗi một tiểu đồng cùng chung cảnh ngộ với ngài. Nhưng khi vào sa mạc, thì ngôn sứ Êlia chỉ còn một thân một mình. Một mình trong cảnh tình của kẻ vừa mới thắng lại liền thua giữa hoang mạc khô cằn, Êlia buồn bã, thất vọng, ngài xin Chúa cất mạng sống mình đi: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! bây giờ, xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Thành công thì chốc lát, nhưng khó khăn, cảnh gập ghềnh thì ít thoảng qua. Cuộc đời làm con Chúa, cuộc đời người tông đồ không ít lần rơi vào cảnh “đêm tối của đức tin”. Nhìn lại dòng đời trôi qua, như Êlia, đã đôi lần chúng ta cũng muốn thiếp ngủ đi.

Chúa lại đến đánh thức chúng ta. “Chỗi dậy mau, vì đường vẫn còn xa!”(x.1V 19,7) Thiên Chúa không để một ai chịu thử thách quá sức mình. “Ơn Ta đủ cho con” (x.2 Cor 12,9). Nguồn trợ lực không phải ở dưới trần này mà là từ trên cao. Khi trao cho vị ngôn sứ bánh và nước, sứ thần muốn khẳng định với Êlia và với chúng ta rằng Thiên Chúa chính là nguồn sống đích thực đời chúng ta, là năng lực giúp chúng ta tiến bước trên cõi lữ thứ này để về quê thật.

Nguồn sống từ trời cao không còn là thứ bánh vật chất thưở nào cho dân đi trong hoang mạc 40 năm về đất hứa hay cho Êlia đủ sức tiếp bước trong 40 ngày để đến núi Horeb gặp Thiên Chúa. Nguồn sống ấy nay đã được tỏ bày cách minh nhiên là chính Đấng từ trời xuống, Giêsu Kitô. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 50-51). Chúa Kitô không ngại ngần tỏ bày một sự thật cho dù nó đi ngược với quan niệm thời bấy giờ. Người Do Thái vẫn hằng quan niệm ăn thịt ai, là xem người đó như kẻ thù (x.Tv 27,2; Dcr 11,9), và uống máu là một trọng tội đáng bị tru diệt (x.St 9,4; Lv 3,17; Dnl 12,23). Chắc chắn Chúa Giêsu biết rõ điều này, thế mà Người vẫn minh nhiên công bố thì ta đủ thấy tầm quan trọng của chân lý được tuyên rao.

Khi tuyên bố mình chính là bánh hằng sống, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là nguồn sống của chúng ta. Ai muốn được sống, sống đời đời thì phải đón nhận Người, vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người (x.Ga 14,6). Người là lẽ sống, là nguồn sống của đời chúng ta. Người là nguồn trợ lực giúp chúng ta vững trước trước gian nan, khốn khó. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).

Thực tế đã có đó nhiều người vững vàng trong cảnh lao tù, khốn khó, nhờ sức mạnh của Thánh Thể Chúa. Đã có đó nhiều vị tông đồ lấy lại được sức mạnh mà kiên trì với sứ mệnh nhờ những phút giây hiện diện trước Thánh Thể. Cành nho chỉ có thể sinh trái, đơm hoa nhờ kết liền với thân nho. Không có Người thì chúng ta chẳng thể làm được sự gì tốt đẹp (x.Ga 15,1-8). Kitô hữu chúng ta ít nhiều đều xác tín và cảm nghiệm chân lý này ngay trong cuộc đời của mình.

Sau khi Chúa Kitô truyền hãy cầm lấy bánh mà ăn, hãy cầm lấy chén mà uống, thì Người đã truyền rằng hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy (x.1Cor 11,23-25). Đón nhận Chúa Kitô là bánh hằng sống, là lương thực trường sinh, là nguồn trợ lực trong những cơn gian nan, khốn khó, cô đơn, thất vọng, để có thể tiếp tục hành trình dương thế, thì chính chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh trao ban sự sống, nguồn trợ lực cho tha nhân. Thiết tưởng cũng thật cần thiết kiểm điểm xem sự hiện diện của chúng ta có đem lại sự bình an, sức sống, nguồn trợ lực cho những người mà chúng ta gặp gỡ hay đang chung sống với chúng ta như thế nào?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa –  Ban Mê Thuột

Subcategories