2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

ĐỨC CẬY – NIỀM HY VỌNG, MỘT NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN QUAN TRỌNG

“Những người hành hương của Hy vọng” có nghĩa là gì?

Văn kiện của Đức Giáo Hoàng cho Năm Thánh bắt đầu bằng cụm từ: “Hy vọng không làm chúng ta thất vọng” (Rôma 5:5). Cụm từ tuyệt đẹp này định hình cách sống cho năm nay.

Hy vọng không làm chúng ta thất vọng!” Những từ ngữ này có ý nghĩa to lớn khi rất nhiều người và thế giới của chúng ta đang bên bờ vực tuyệt vọng.

Hãy nhìn chung quanh và xem xét hệ thống, cơ cấu và con người của chúng ta đang bị cuốn vào sự tiêu cực nói chung như thế nào. Phương tiện truyền thông ngày nay và nền văn hóa mà chúng ta xây dựng chung quanh chúng đã trở thành kẻ thúc đẩy sự tiêu cực và tuyệt vọng. Nó rao bán tin tức và kiếm tiền.

Hy vọng không làm chúng ta thất vọng!” Đây là một thông điệp kịp thời cho một nền văn minh mà sự lo lắng, trầm cảm ở tuổi vị thành niên và tự tử đang gia tăng. Đây là một chủ đề tuyệt vời để nhắc nhở chúng ta rằng con đường của chúng ta trên trần thế không được hướng dẫn bởi những gì chúng ta thấy chung quanh mình mà bởi Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà chúng ta biết và tin cậy – Chúa Giêsu Kitô là chiếc neo chắc chắn cho hy vọng của chúng ta: “Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn cung thánh. Đó là nơi Chúa Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Menkixêđê” (Hípri 6:19-20).

Định nghĩa Đức cậy

Sách Giáo lý Công giáo định nghĩa Đức cậy là “nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của chúng ta, khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các lời hứa của Chúa Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không vào sức mạnh của chúng ta” (GLHTCG, số 1817).

Có ba khía cạnh trong định nghĩa của chúng ta: (1) Đức cậy là một nhân đức đối thần; (2) Đức cậy định hướng lại mong muốn của chúng ta hướng tới thiên đàng và Thiên Chúa, và (3) Đức cậy chuyển niềm hy vọng của chúng ta vào chính mình sang Thiên Chúa.

Khi nhìn vào những khía cạnh này, chúng ta có thể thấy rằng Đức cậy rất quan trọng để đưa một người từ giai đoạn môn đệ này sang giai đoạn môn đệ tiếp theo.

Các nhân đức đối thần liên quan trực tiếp đến Thiên Chúa. Chúng giúp các Kitô hữu sống trong mối tương giao với Chúa Ba Ngôi. “Chúng giúp các Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức đối thần có Thiên Chúa Nhất Thể Tam Vị là nguồn gốc, động lực và đối tượng” (GLHTCG, số 1812).

Những nhân đức này được “Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn của các tín hữu, giúp họ có khả năng hành động như con cái của Ngài và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu” (GLHTCG, số 1813). Từ đầu đến cuối, tất cả đều là công trình của Thiên Chúa. Không có các nhân đức đối thần, sẽ không có mối tương giao với Thiên Chúa. Các nhân đức đối thần hướng lòng mong ước của chúng ta về Thiên Chúa. Chúng là nền tảng của các nhân đức luân lý và làm cho các nhân đức luân lý đó sống động.

Sách Giáo lý Công giáo tiếp tục: “Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim mỗi người; đảm nhận những sự mong đợi đang gợi hứng cho các hoạt động của con người; thanh luyện những mong đợi đó để quy hướng chúng về Nước trời; bảo vệ khỏi sự nản chí của tâm hồn; nâng đỡ khi bị bỏ rơi; mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu. Sự thúc đẩy của đức cậy gìn giữ chúng ta khỏi tính ích kỷ và đưa chúng ta đến với vinh phúc của đức mến” (GLHTCG, số 1818)

Đức cậy này, vốn không làm chúng ta thất vọng, rất quan trọng. Đức cậy đưa chúng ta đến với Thiên Chúa và sự thánh thiện, đến với sự biến đổi về mặt đạo đức và nội tâm, đồng thời giúp chúng ta luôn hướng tới mục đích cuối cùng của mình. Chúng ta được tạo dựng cho Thiên Chúa và vì vương quốc của Thiên Chúa.

Đức cậy đưa niềm hy vọng của chúng ta vào chính mình sang Thiên Chúa. Các nhân đức đối thần không chỉ được ban cho chúng ta để tiếp xúc với Thiên Chúa. Các nhân đức đối thần còn “là bảo chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người” (GLHTCG, số 1813).

Nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, người môn đệ đi sâu hơn vào tình môn đệ, vào việc cầu nguyện và vào sự kết hợp với Thiên Chúa, như mối gắn kết hôn nhân, mà Thiên Chúa hứa với tất cả các tín hữu: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Trong tâm hồn của người tín hữu, Chúa Thánh Thần thúc đẩy người đó hướng tới một sự sống nội tại bền bỉ, đó là sự thánh thiện.

Đức tin, Đức cậy và Đức ái

Đức tin là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hípri 11:1). Theo nghĩa này, đức cậy là cầu nối giữa đức tin và đức ái. Không có đức cậy, sẽ không có sự tăng trưởng trong đức tin. Không có đức tin và đức cậy, sẽ không có sự tăng trưởng trong đức ái. Đức tin, đức cậy và đức ái – ba nhân đức đối thần – không thể tách rời. Chúng tác động lên tâm hồn như một thể thống nhất, mỗi nhân đức thúc đẩy linh hồn đến với Thiên Chúa, đến với dân Chúa và cuối cùng là hướng đến đức ái.

Câu hỏi sâu xa nhất của con người là, “có gì để hy vọng?” Nếu không có Thiên Chúa, con người sẽ xây dựng những đế chế trần gian tàn bạo và độc ác. Khi niềm hy vọng của con người hướng đến điều siêu việt – đến Thiên Chúa – thì con người bắt đầu liên quan tới một nhân đức đối thần có khả năng định hướng lại những mong muốn của mình và quy hướng sự tin cậy của mình vào những gì là thánh thiêng, mở đường cho Chúa Thánh Thần mang lại sự biến đổi.

Đây chính là tình thế tiến thoái lưỡng nan. Đức tin không có đức cậy sẽ không cho chúng ta sự tin tưởng để hành động. Không có sự tăng trưởng trong mối tương giao của chúng ta với Thiên Chúa. Không có sự biến đổi về mặt đạo đức. Không đáp ứng – hoặc không đáp lại một cách đầy đủ tiếng gọi thiêng liêng của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân.

Từ khởi đầu cho đến kết thúc, tất cả đều là công trình của Thiên Chúa. Ân sủng của Ngài trong linh hồn giúp chúng ta có thể liên hệ với Thiên Chúa và xây dựng một thế giới nhân bản hơn. Không có các nhân đức đối thần, sẽ không có mối tương giao với Thiên Chúa.

Mỏ neo Hy vọng

Trong logo Năm Thánh của chúng ta, chúng ta thấy một mỏ neo. Mỏ neo đó lấy từ bản văn trong Thư gửi tín hữu Do Thái, trong đó có đoạn: “Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn cung thánh. Đó là nơi Chúa Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Menkixêđê” (Hípri 6:19-20).

Toàn bộ truyền thống Kinh thánh, từ Ađam đến Chúa Giêsu, vị Thượng Tế của chúng ta, cho thấy đức cậy giữ chúng ta không chùn bước. Đức cậy neo chúng ta vào Thiên Chúa và vào truyền thống của Hội Thánh. Đức cậy bảo vệ chúng ta khi chúng ta “ra khơi” để rao truyền Tin Mừng: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5:4). Hoặc khi có nghịch cảnh ở mọi phía: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng” (2 Cr 4:8).

Đức cậy là mỏ neo an toàn của chúng ta. “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Hípri 10:23). Trái tim của đức cậy là tin tưởng và tín thác vào Đấng đã hứa, Đấng thành tín.

Hay đúng hơn, đức cậy là tin vào những lời hứa của Thiên Chúa. Thách thức của đức cậy là gian khổ và nghịch cảnh. Ở đây chúng ta biết rằng những gian khổ và nghịch cảnh này cũng là vì Thiên Chúa, như Thánh Phaolô hướng dẫn tín hữu Rôma: “Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy” (Rm 5:3-4).

Sứ điệp chính

Các nhân đức đối thần là điều cần để được cứu độ, cho đời sống thiêng liêng và cho sự tăng trưởng trong đời sống luân lý. Đức cậy hướng chúng ta đến Thiên Chúa và thúc đẩy sự tín thác của chúng ta vào Thiên Chúa.

Bước hành động

Trong thời gian thử thách hoặc nghịch cảnh, hãy tập trung vào Thiên Chúa và kêu cầu Ngài giúp đỡ. Cứ chờ đợi trong lò thử thách để Thiên Chúa củng cố đức cậy – niềm hy vọng của chúng ta: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5:3-5).

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

Từ https://catholictt.org

KINH THÁNH CÓ THỂ TỰ MÂU THUẪN KHÔNG?


Những mâu thuẫn của Kinh thánh. Một số khác biệt giữa các đoạn Kinh Thánh có thể đặt ra vấn nạn. Một số người thậm chí còn coi đó là bằng chứng cho thấy Kinh thánh không đáng tin cậy. Vậy thì tại sao Kinh Thánh không phải lúc nào cũng nhất quán? Các yếu tố giải thích. 

  1. Chúng ta có thể tìm thấy những mâu thuẫn nào trong Kinh Thánh?

Những mâu thuẫn thì rất nhiều. Ví dụ, chúng ta tìm thấy trong Kinh thánh hai phiên bản khác nhau của Mười Điều Răn, những điều cơ bản trong Do Thái giáo cũng như trong Kitô giáo. Trong sách Xuất Hành (20:2-17), giới răn Sabbát được đưa ra để dân chúng nhớ rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới. Trong sách Đệ Nhị luật (5, 6-21), giới răn Sabbát được đưa ra là để dân chúng nhớ rằng Thiên Chúa đã đưa họ ra khỏi Ai Cập. Tu sĩ Dòng Tên Marc Rastoin [1] tin rằng: “Hai minh chứng này đều đúng. Sự khác biệt của hai phiên bản đó không đối nghịch nhau, điều đó cho thấy rõ rằng Thiên Chúa mặc khải không mâu thuẫn với Thiên Chúa Sáng tạo.” Nhà thần học Tin lành Antoine Nouis [2] diễn tả cách tinh tế rằng: “Tôi muốn nói đến những tình huống căng kéo hơn là nói đến những mâu thuẫn. Chính trong những tình huống căng kéo này mà mạc khải vẫn có thể được người ta nghe thấy và mang lại hiệu quả cho chúng ta cho đến tận ngày nay.”

 

  1. Tại sao các văn bản không mạch lạc hơn?

Đối với học giả Kinh thánh Sophie Ramond [3], “chúng ta phải hiểu rằng Kinh thánh là thành quả của một quá trình viết lâu dài”. Trên thực tế, trước khi bộ Kinh thánh quy điển được thiết lập, những văn bản này đã được viết lại và điều chỉnh nhiều lần theo nhu cầu của lịch sử và các sự kiện của thời ấy. “Những người hoặc cá nhân viết những bản văn này đọc lại lịch sử của họ như là nơi Thiên Chúa mặc khải. Sự mặc khải này là một mầu nhiệm lớn lao đến nỗi chúng ta đã tìm nhiều cách để diễn tả mầu nhiệm đó.” Từ những lần mò mẫm này, một số phiên bản của cùng một câu chuyện đã được lưu giữ trong bộ Kinh thánh quy điển. 

Đối với Antoine Nouis cũng như đối với Cha Marc Rastoin, những mâu thuẫn này thậm chí còn do cố ý. Học giả Kinh thánh Tin lành đảm bảo: “Tính đa dạng thuộc về sứ điệp của Kinh thánh. Sự trái ngược không phải là sai lầm hay quên sót.” Đặc biệt khi chúng ta tìm thấy những điều trái ngược đó dưới ngòi bút của cùng một tác giả. Khi Luca thuật lại trong Tin Mừng của mình câu chuyện về Chúa Thăng Thiên (24:50-51), ngài đặt biến cố này vào đúng ngày lễ Phục Sinh. Nhưng khi ngài nhắc lại điều đó ở đầu sách Công vụ Tông đồ (1, 3), Lễ Thăng thiên xảy ra bốn mươi ngày sau Lễ Phục sinh. Tại sao có sự khác biệt này? Antoine Nouis giải thích: “Mỗi phiên bản đều có một ý nghĩa thần học. Trong Tin Mừng, câu chuyện về Chúa lên trời khép lại cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Trong Công vụ Tông đồ, câu chuyện về Chúa lên trời mở ra thời kỳ của Giáo hội.” 

Đối với Marc Rastoin, vấn nạn này gợi nhớ đến bộ phim truyền hình dài tập The Chosen, một tác phẩm của Mỹ về cuộc đời Chúa Giêsu, dựa trên Tin Mừng Nhất Lãm cũng như của Thánh Gioan. Tuy nhiên, bản văn của Gioan rất khác với ba bản văn Nhất Lãm kia, vốn trình bày một Chúa Giêsu nhân tính hơn. Đối với Cha Rastoin, điều này gây ra khó khăn: “Việc dành ưu tiên cho Gioan hoặc cho các tác giả Nhất Lãm sẽ có nguy cơ khiến mọi người quên rằng Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Nhưng việc đưa các phiên bản của Gioan và các phiên bản Nhất Lãm vào chung một cuốn sách hoặcchung  một kịch bản là điều không thể.” Giáo hội đã giữ nguyên bốn Tin Mừng trong quy điển Tân Ước của mình, bởi vì “chính trong cuộc đối thoại giữa các Tin Mừng khác nhau mà điều gì đó được kể cho chúng ta về Chúa Kitô, Đấng đang sống và không để cho mình bị giới hạn trong các bản văn”, Antoine Nouis giải thích. 

  1. Những những tình huống căng kéo này có đặt ra câu hỏi về độ tin cậy của trình thuật trong Kinh thánh không?

Cha Rastoin tiếp tục: “Kinh thánh không phải là một cuốn sách khoa học, Kinh thánh không có tham vọng hoàn toàn mạch lạc theo quan điểm logic.” Người đọc phải chú ý đến tình trạng của các văn bản: không phải tất cả đều có chung một ý định về cùng một chân lý. Những mâu thuẫn được ghi nhận có liên quan gì? Nếu đó là vấn đề mâu thuẫn về chất liệu, chẳng hạn như tên của một nhân vật thay đổi tùy theo những quyển sách, thì điều đó có quan trọng không? “Về những điểm cốt yếu của sứ điệp, Kinh Thánh không tự mâu thuẫn vì được Chúa Thánh Thần linh hứng, nhưng vẫn giữ những tình huống căng kéo buộc chúng ta phải suy ngẫm.” Tu sĩ Dòng Tên nhắc lại câu nói này của Thánh Phaolô: “Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2 Côrintô 3, 6). 

Vậy thì chúng ta nên nghĩ gì về những tranh cãi nhất định vốn đã chống lại các nhà thần học trong nhiều thế kỷ, chẳng hạn như tranh cãi giữa những người theo Luther và những người Công giáo về ơn cứu độ nhờ ân sủng hay bằng việc làm? Cho đến khi có Thỏa thuận Augsburg năm 1999, anh em Tin Lành đã đồng ý với thánh Phaolô, vì thánh nhân cho rằng tình yêu của Thiên Chúa là điều đầu tiên dẫn đến ơn cứu độ. Những người Công giáo dựa trên một bức thư của thánh Giacôbê, vì thánh nhân cho rằng đức tin không là gì nếu không có việc làm, đặc biệt là những việc làm bác ái. Antoine Nouis giải thích: “Giacôbê phản đối quan điểm của Phaolô vì nó có nguy cơ khiến chúng ta tin rằng chúng ta không cần phải nỗ lực nhiều. Đối với tôi, không có mâu thuẫn cơ bản giữa Giacôbê và Phaolô. Thánh Giacôbê đặt mình ở mức độ các hậu quả của đức tin và tình yêu Thiên Chúa, trong khi Thánh Phaolô đặt mình ở thượng nguồn ơn cứu độ.” 

  1. Những khác biệt này có phải là trở ngại cho đức tin không?

LM Marc Rastoin giải thích: “Trong Do Thái giáo, người ta vui mừng trước những tình huống căng kéo và mâu thuẫn trong Kinh thánh, từ đó người ta có thể rút ra nhiều bài học. Chính các Giáo phụ cũng vậy, các ngài đã sử dụng những tình huống căng kéo và mâu thuẫn trong Kinh thánh để phát triển một số điểm thần học và hiểu rõ hơn ý định sâu xa của nhà lập pháp tối cao là Thiên Chúa.” 

Vậy chúng ta có nên loại bỏ sự xác tín rằng Kinh thánh tạo thành một tổng thể mạch lạc, thể hiện một sự thống nhất không? Nhà thần học Bernard Sesboüé (1929-2021) đã viết vào năm 1990: “Một cuốn sách không có sự thống nhất thì không có ý nghĩa gì: nguyên lý cơ bản về sự thống nhất của Kinh thánh quy điển là một nguyên lý cơ bản của lý trí và lương tâm con người. Nhưng sự thống nhất về ý nghĩa vốn có trong Kinh thánh quy điển cũng là một nguyên lý cơ bản của đức tin, được kết hợp chặt chẽ với niềm xác tín đã thiết lập nên quy điển.”

 

******************

 

Trích dẫn những câu nói về những mâu thuẫn trong Kinh Thánh

Mâu thuẫn… để hiểu ý tác giả thì người ta phải làm cho tất cả những đoạn trái ngược phù hợp với nhau. Vì vậy, để hiểu Kinh thánh, cần phải có một ý nghĩa để tất cả các đoạn văn phù hợp với nhau trong ý nghĩa đó; thật là không đủ nếu chỉ có một ý nghĩa phù hợp với tất cả các đoạn văn tương ứng, mà phải có một có một ý nghĩa phù hợp với ngay cả những đoạn trái ngược nhau” (Blaise Pascal,1623-1662, Pensée, số 257, Lafuma). 

Sự thống nhất này của Kinh thánh, vốn hàm ý rốt cuộc sẽ không còn mâu thuẫn nào giữa các ý tưởng và các xác quyết thần học cốt yếu khác nhau, theo quan điểm thần học, là một một nguyên lý cơ bản và không thể tách rời khỏi sự linh hứng và tính chất quy điển của Tân Ước và của các Sách Thánh” (Heinrich Schlier, 1900-1978, Tiểu luận về Tân Ước). 

Chú thích:

(1) Tu sĩ dòng Tên, tiến sĩ thần học Kinh Thánh, giáo sư tại Phân khoa Loyola Paris, tác giả cuốn Entrer dans l’Évangile avec saint Ignace - Đi vào Tin Mừng với Thánh Inhaxiô (Salvator, 2017).

(2) Học giả và nhà thần học Kinh thánh Tin lành, tác giả cuốn La Bible. Commentaire intégral verset par verset - Kinh thánh. Chú giải toàn bộ theo từng câu (6 tập, Olivétan/Salvator).

(3) Giáo sư tại Học viện Công giáo Paris, đồng tác giả với Olivier Artus trong cuốn Penser les défis contemporains avec la Bible hébraïque - Suy nghĩ về những thách thức đương thời với Kinh thánh tiếng Do Thái (Odile Jacob, 2022).

 

Tác giả: Christel Juquois, 10/11/2024

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

 

từ https://www.la-croix.com/religion/la-bible-peut-elle-se-contredire-20241011

Xin đọc thêm: https://daminhvn.net/kinh-thanh/phuong-phap-doc-kinh-thanh-phan-biet-su-that-ban-van-va-su-that-lich-su-5079.html

Làm sao để Lời Chúa luôn mới mẻ?


Lời Chúa là Lời Hằng Sống: sống động và luôn tươi mới, ấy thế mà, thực tế cho thấy: mỗi khi suy niệm Lời Chúa, ta thường có cảm giác nhàm chán, tẻ nhạt. Vậy, ta phải làm gì: để Lời Chúa luôn mới mẻ? Thưa, phải bám sát Phụng Vụ. Thật vậy, Thánh Kinh chỉ trở thành Lời Chúa, khi ta đọc Thánh Kinh trong lòng Hội Thánh, và nhất là, trong Phụng Vụ Thánh. Nếu tách ra khỏi Hội Thánh và Phụng Vụ Thánh, ta sẽ Duy Thánh Kinh (Sola Scriptura). 

Chẳng hạn, Bài Tin Mừng Lc 6,39-45, mà ta sẽ đọc vào Chúa Nhật Tuần VIII Thường Niên Năm C này, nếu không bám sát Phụng Vụ, ta sẽ dễ đi vào lối mòn: suy niệm về việc “xét đoán”, thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình. Phải chăng các nhà Phụng Vụ muốn ta suy niệm về việc “xét đoán”? Nếu đúng là “xét đoán”, thì tại sao họ không chọn câu có “cái rác”, “cái xà” để in nghiêng, mà lại chọn câu: Lòng đầy, miệng mới nói ra? Nếu ta nhảy vào suy niệm về việc “xét đoán”, mà bất chấp bối cảnh Phụng Vụ của ngày hôm đó, thì ta vô tình đã biến bài suy niệm của mình thành một bài dạy về luân lý, về cách đối nhân xử thế: dạy ăn ngay ở lành, đang khi đó, Lời Chúa là Lời Mặc Khải, hướng ta đến một đời sống đức tin: vượt lên trên những giá trị nhân bản thông thường, để đạt đến chiều kích “Kitô tính”, hầu, giúp ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. 

Nếu chúng ta để Chúa dẫn dắt mình qua từng bài đọc của Phụng Vụ ngày hôm đó, chúng ta sẽ tìm được một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, mới thấy được sự sống động và quả thật, Lời Chúa đúng là Bánh có đủ mọi mùi vị thơm ngon, chứ không phải chỉ có một vị tẻ nhạt. 

Nếu lấy câu in nghiêng: Lòng đầy, miệng mới nói ra làm sợi chỉ đỏ nối kết toàn bộ các bài đọc với nhau, ta sẽ thấy: Bài đọc một của giờ Kinh Sách được trích từ sách Gióp cho thấy: Lòng của ông Gióp đầy, nên miệng ông mới thốt ra được những tâm tình biết ơn và kính sợ đối với Đấng đã dựng nên mình, cho dẫu, ông đang phải đối mặt với biết bao tai ương bất ngờ ập đến. Ông không nguyền rủa, nhưng lại, chúc tụng ngợi khen Chúa. Bài đọc hai của giờ Kinh Sách là bài chú giải của thánh Ghêgôriô Cả cho thái độ của ông Gióp: Lòng đầy, miệng mới nói ra. Bài đọc một của Thánh Lễ, được trích từ sách Huấn Ca nhắc nhở ta: Đừng vội khen ai, phải chờ cho đến khi họ mở miệng nói, lúc đó, ta mới biết được họ là ai, bởi vì, lòng đầy, miệng mới nói ra. Bài Đáp Ca là Thánh Vịnh 91 cho thấy: Hạnh phúc thay được tạ ơn, được mừng hát, được tuyên xưng tình thương của Chúa. Để có thể nói lời tạ ơn, hát mừng, và tuyên xưng tình thương của Chúa, thì ắt hẳn, trong lòng ta phải chất chứa đầy những tâm tình của lòng kính sợ và biết ơn, cho nên, lòng đầy, miệng mới nói ra. Bài đọc hai của Thánh Lễ, được trích từ thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô, nói cho ta biết: ta sẽ chiến thắng nhờ Đức Kitô. Nếu lòng ta đầy tràn sự tin tưởng cậy trông vào Chúa, kiên trì bền chí chịu khó nhọc, thì chắc chắn, ta sẽ giành được chiến thắng. Lòng đầy, miệng mới nói ra: Lòng đầy trông cậy, ta sẽ nói ra những lời đầy tràn hy vọng, và đời sống của ta sẽ cho thấy niềm hy vọng ta đặt nơi đâu.

Câu Tung Hô Tin Mừng kêu gọi: Giữa thế gian, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm sáng tỏ lời ban sự sống. Giữa một thế gian tăm tối, đau thương, loại trừ và nguyền rủa Thiên Chúa, một đời sống đầy tràn tin tưởng cậy trông của ta sẽ trở thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Khi lòng ta chất chứa bao niềm tri ân cảm tạ Thiên Chúa, thì đời sống của ta sẽ tuôn trào những lời chúc tụng ngợi khen, cho dẫu, thực tế trước mắt thật nghiệt ngã đau thương, như tình cảnh của ông Gióp. Chúng ta tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, bởi vì, ta đã có Đức Kitô, là ánh sáng chiếu soi vào trong những bất hạnh đau thương của ta, và ta sẽ được an vui thờ phượng Chúa, như Lời Tổng Nguyện mà các nhà Phụng Vụ muốn chúng ta xin trong Thánh Lễ này.

Tác giả: Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

LÀM SAO ĐỂ ĐỌC LỜI CHÚA NHƯ ĐỌC THƯ TÌNH?

 

Thánh Kinh là bức thư tình, mà Thiên Chúa ngỏ với toàn thể nhân loại. Đã là thư tình, thì tất yếu, phải riêng tư, cá vị, chỉ người tình mới hiểu, mới dâng trào những cung bậc cảm xúc theo từng dòng câu, con chữ. Văn tự, chữ viết không hề thay đổi, nhưng, mỗi lần, ta đọc lại bức thư tình, là mỗi lần mới, không bao giờ có sự trùng lắp, nhàm chán, tẻ nhạt. Ấy thế mà, mỗi khi suy niệm Lời Chúa, chúng ta thường “nhốt” Lời Chúa vào trong những “ngăn tủ” có sẵn, khiến Lời Chúa bị bóp nghẹt, mất sức sống, để rồi, Lời Chúa không thể trở thành lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Làm sao để có thể đọc Lời Chúa như đọc một bức thư tình? Thưa, phải bám sám Phụng Vụ. Nếu không bám sát Phụng Vụ, chúng ta rất dễ rơi vào sự lười lĩnh, bởi vì, ta đã có sẵn những “bài tủ”, cứ lấy ra xài, suy niệm chi cho mệt. Chẳng hạn, với Bài Tin Mừng Mc 6,7-13: Đức Giêsu sai các Tông Đồ đi rao giảng. Khi gặp những Bài Tin Mừng về việc sai đi truyền giáo, chúng ta thường suy niệm: Người được sai đi, trước hết, phải là người đến “ở với Chúa”, rồi, “được Chúa sai đi”, khi đi, thì đi trong khó nghèo, không cậy dựa vào bất cứ thứ gì khác, ngoài một mình Chúa… Những suy niệm này “đúng”, nhưng, không “trúng”, bởi vì, Lời Chúa không chỉ có một mùi vị như thế, mà còn, có đủ mọi mùi vị thơm ngon khác, khi chúng ta đặt đoạn Tin Mừng đó, vào trong từng bối cảnh phụng vụ của những ngày lễ cụ thể.

Chẳng hạn, Bài Tin Mừng Mc 6,7-13 được đặt trong bối cảnh Phụng Vụ của Thứ Năm Tuần IV Thường Niên, Năm lẻ: Bài đọc một, câu in nghiêng được trích từ thư Hípri nói: Anh em đã tới núi Xion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống. Tác giả thư Hípri đã so sánh núi Sinai với núi Xion: các trung gian của giao ước  và Đấng Trung Gian của giao ước mới, máu của Abel và máu của Đức Kitô. Điều này cho thấy hai chế độ: lề luật và ân sủng; đến gần núi Sinai, núi lề luật với những cảnh tượng hãi hùng, kinh sợ, với những gánh nặng của lề luật; đến gần núi Xion, núi thánh, đến gần Vị Trung Gian của giao ước mới, Đấng mời gọi hãy mang lấy ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Người, để được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Do đó, các nhà Phụng Vụ đã chọn Bài Đáp Ca: Thánh Vịnh 47: Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh, chúng con đón nhận tình Chúa yêu thương: Giữa nơi đền thánh, đón nhận tình yêu, đón nhận ân sủng, chứ không phải đón nhận Lề Luật của núi Sinai. Câu Tung Hô Tin Mừng: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Triều đại Thiên Chúa là triều đại của tình yêu, của ân sủng; Tin vào Tin Mừng, là tin vào Đức Kitô, Đấng chính là Ngôi Lời, là Tin Mừng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Bài Tin Mừng, câu in nghiêng được trích từ Tin Mừng Máccô: Đức Giêsu bắt đầu sai các Tông Đồ đi rao giảng. Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy, nhưng, đến thời sau hết, Người phán dạy qua Thánh Tử. Đức Giêsu nhận sứ mạng từ Chúa Cha, và Người trao sứ mạng đó cho các Tông Đồ: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.

Qua các bản văn Phụng Vụ, và Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần IV Thường Niên: Xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người. Như lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, đã đến lúc không còn thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi kia, nhưng, thờ phượng Người trong Thần Khí và Sự Thật, không còn thờ phượng Thiên Chúa bằng thứ lề luật của núi Sinai, nhưng, bằng một luật mới trên núi thánh, núi Xion, thành đô Giêrusalem mới; không còn khiếp sợ Chúa như đầy tớ khiếp sợ ông chủ, nhưng, như con thơ kính sợ Cha hiền. Khi nhìn nhận Chúa là Cha, thì đồng nghĩa, ta cũng nhìn nhận tất cả mọi người là anh chị em con cùng một Cha trên trời. Chúng ta phải lo cho mình và lo cho anh chị em mình được hưởng ơn cứu độ. Vì thế, ta phải nhanh chân, ra đi loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người. Có hạnh phúc nào, mà người nhận được, lại không muốn chia sẻ và làm lan tỏa, để cho tất cả mọi người cùng được vui hưởng?

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

 

LIÊN ĐỚI

Thứ Năm Tuần 1 Thường Niên C

“Ngài chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo, ‘Tôi muốn, anh hãy được sạch!’”.

Vào thời nô lệ, một ông chủ hà khắc mua được một thanh niên chăm chỉ. Ông phát hiện người này có ảnh hưởng lớn trong số nô lệ của ông. Ông yêu thương và lâu sau, ngỏ ý cho anh tự do; nhưng anh từ chối! Anh muốn liên đới đến mức có thể để nâng đỡ những người bạn trong khả năng của anh. Sau một thời gian, bằng gương sáng, đạo đức và vui tươi, anh đã cảm hoá không chỉ những người bạn nhưng cả ông chủ. Họ sống chan hoà!

Kính thưa Anh Chị em,

Với Tin Mừng hôm nay, chúng ta gặp lại người trẻ ấy nơi Chúa Giêsu! Một người phong cùi đến van xin Ngài, và vì xót thương, Ngài “giơ tay đụng vào anh” bất chấp luật nhiễm uế. Ngài muốn ‘liên đới’ đến mức có thể với người cùi – đại diện cho một nhân loại cùi.

Đến với Chúa Giêsu là một con hủi bất hạnh, bất hạnh không chỉ vì anh cùi hủi nhưng vì gặp phải sự lạnh lùng từ những tâm hồn cùi hủi. Cuộc sống của anh là một cái chết chậm – bệnh tật tàn phá thân xác, mặc cảm huỷ hoại tinh thần. Và nếu coi sự lở lói thân xác như một biểu tượng tàn phá của tội lỗi thì sự chết chóc lại càng kinh khủng hơn. Lẽ ra, Chúa Giêsu chỉ cần đứng xa xa và nói, “Hãy được sạch!”; nhưng không, “Ngài giơ tay đụng vào anh”; Ngài chấp nhận trở nên uế tạp để có thể cứu lấy một con người – một nhân loại – uế tạp. Không chỉ trở nên phàm nhân, Ngài trở thành “tội nhân”, ‘liên đới’ với tội nhân hầu cứu lấy tội nhân. Mầu nhiệm này đã phần nào được hé lộ từ lúc Ngài nối đuôi dòng người phàm phu tục tử bên bờ Giorđan để xin Gioan làm phép rửa.

Tại sao Con Thiên Chúa lại muốn ‘liên đới’ với con người đến mức ấy? Ngài ‘liên đới’ chỉ vì Ngài muốn chữa lành con người không chỉ phần xác nhưng cả phần hồn; giải thoát nó không chỉ khỏi những khổ đau mà cả mọi tội lỗi, điều đang thực sự giết chết nó khiến nó chai cứng và trơ lì. Thư Do Thái viết, “Hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt” – bài đọc một; Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng!”.

Anh Chị em,

“Ngài chạnh lòng thương!”. ‘Chạnh lòng thương!’. “Cho phép tôi suy nghĩ ở đây về nhiều linh mục giải tội tốt lành có những hành vi thu hút mọi người, và nhiều người cảm thấy họ chẳng là gì, những người cảm thấy họ “nằm bẹp trên đất” vì tội lỗi của họ… Nhưng với sự dịu dàng đầy lòng xót thương, những vị giải tội tốt lành không cầm roi trong tay, chỉ chào đón, lắng nghe và nói rằng, Chúa tốt lành và rằng, Chúa luôn tha thứ; rằng, Chúa không mệt mỏi khi tha thứ!” – Phanxicô. Tội nhân ‘được thứ tha’ chính là tạo dựng mới và đó cũng là mục đích tối cao của việc Chúa Giêsu muốn ‘liên đới’ với con người đến mức có thể! Lời Chúa mời gọi bạn và tôi nhìn lại mức độ ‘liên đới’ của mình với tha nhân. Tôi có xót thương, đón nhận, cầu nguyện, hy sinh, tôn trọng và ‘liên đới’ với anh chị em tôi đến mức như Chúa muốn không?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để có thể cảm hoá một ai đó, cho con biết ra khỏi chính mình, cúi xuống, ôm lấy và xót thương!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)