2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

Hội Thánh dạy “Nên Thánh” cách nào?

Hội Thánh dạy: Chúng ta trở nên thánh thiện là hoàn toàn do bởi ơn Chúa. Điều này được diễn tả rõ ràng trong Thánh Kinh, đến nỗi, không thể nào bị chất vấn. Chân lý này phải tác động đến cách sống của chúng ta, bởi vì, nó tuôn chảy từ cốt lõi của Tin Mừng và đòi buộc chúng ta không chỉ chấp nhận nó trong trí năng, mà còn phải biến nó thành một niềm vui lan tỏa. Chúng ta chỉ có thể hát mừng quà tặng nhưng không này, khi chúng ta nhận ra những khả năng tự nhiên cũng như siêu nhiên của mình, đều là ân ban của Chúa. Điều này thật không dễ chút nào, trong một thế giới vốn nghĩ rằng mọi sự đều do tự nó, và do sáng kiến của nó.

Chúng ta không thể tự mình nên thánh, nhờ vào các việc làm đạo đức nơi Bàn Tay, hay những suy tư thần học nơi Bàn Giấy, ngay cả, những tâm tình sốt mến nơi Bàn Quỳ cũng chưa chắc, bởi vì, Bàn Quỳ vẫn có thể trở thành Bàn Quỷ, khi Satan lẻn vào thao túng ta bằng các thị kiến, phép lạ, nếu, Bàn Quỳ không được đặt ngay trước mặt, ngay bên cạnh, ngay bên dưới Bàn Thờ Thập Giá, trong sự vâng phục các Đấng Bản Quyền, bởi vì, sức nặng của chân Bàn Giấy, chân Bàn Quỳ, và Bàn Tay không đủ năng quyền: để đạp nát đầu con rắn, chỉ có, chân Bàn Thờ Thập Giá, có Đấng dùng sự khôn ngoan của Thập Giá, mới có đủ uy lực để làm được việc đó mà thôi. Vì thế, chúng ta phải đề cao cảnh giác trước những thế lực cản trở và mê hoặc chúng ta trên hành trình trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng Hoàn Thiện.

Tiến Sĩ Bàn Giấy – Kẻ Thù của Việc Nên Thánh: (1) Họ cầm tù người khác trong các tư tưởng của họ; đo lường sự hoàn thiện bằng lý trí, tri thức, hiểu biết, nhưng bỏ quên đức ái. (2) Họ không quan tâm đến tha nhân, nên họ thiếu khả năng chạm đến những đau khổ của Đức Kitô nơi những người khác. (3) Họ giảm trừ giáo huấn của Đức Giêsu thành một luận lý khắc nghiệt, lạnh lùng. (4) Họ là những ngôn sứ giả, sử dụng tôn giáo để quảng bá tri thức như: thay thế Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể bằng Đơn Nhất Tính. (5) Họ tự cho mình là thánh, là tốt lành hơn những đám đông dốt nát.

Tiến Sĩ Bàn Tay – Kẻ Thù của Việc Nên Thánh: (1)  Họ chỉ tin tưởng vào sức mạnh của mình và cảm thấy mình cao hơn người khác khi tuân giữ một số quy tắc, luật lệ. (2) Họ coi ý chí là toàn năng, ân sủng chỉ là cái được bổ sung vào. (3) Họ tự nên thánh bằng những việc làm, và những cố gắng của riêng mình, mà không cần ân sủng của Chúa. (4) Họ nghĩ mình có quyền đòi hỏi, và cũng có thể mua được ân sủng thần linh bằng những nỗ lực của mình. (5) Họ tự mãn, kiêu hãnh về khả năng xử lý những vấn đề thực tiễn, những chương trình tự lực, và thành tựu cá nhân.

Hội Thánh không ngừng dạy rằng: chúng ta nên thánh không phải bởi những việc làm hay những cố gắng của riêng mình, nhưng là bởi ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước. Ngay cả khát vọng được thanh tẩy cũng đến với chúng ta nhờ sự tuôn đổ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được nên thánh cách nhưng không, bởi vì, không có gì đi trước việc nên thánh, không phải đức tin cũng không phải việc làm, mà chính là do ân sủng. Ân sủng Chúa trao ban thì vượt quá năng lực của lý trí và ý chí của chúng ta.

Được trở nên nghĩa thiết và bạn hữu của Thiên Chúa là một điều gì đó muôn trùng siêu vượt trên chúng ta. Chúng ta không thể mua nó bằng những việc làm của mình. Đó chỉ có thể là một quà tặng, do sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa. Điều này mời gọi chúng ta hân hoan sống tâm tình biết ơn về ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này, bởi vì, khi chúng ta nhận được ân sủng, thì ân sủng đã nhận được đó, không phải do chúng ta xứng đáng. Ước gì ta ý thức rằng: Ngày cuối đời, ta sẽ ra trình diện trước mặt Chúa với đôi bàn tay trắng, tất cả những việc làm, mà ta tưởng là thánh thiện, thì đều nhiễm uế trước mắt Chúa. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

CÁC ANH EM BÉ MỌN NHẤT CỦA CHÚA

Suy niệm và sống Phúc Âm Mt 25: 31-46

Thánh sử Mátthêu, khi diễn tả về ngày cánh chung và cảnh Chúa phán xét muôn dân thiên hạ, đã cho chúng ta những suy nghĩ về số phận đời đời của chính mình. Phần thưởng hay hình phạt mà mình sẽ lãnh chịu tùy thuộc thái độ chúng ta đón tiếp và đối xử với anh chị em mình như thế nào. (Mt 25:31-46)

Là những Kitô hữu, chắc chắn chúng ta không nghĩ đến việc mang theo tiền, vàng bạc, nữ trang, kim cương, đá quý, xe hơi, du thuyền, phi cơ hay nhà cửa. Chúng ta cũng không nghĩ đến sẽ mang theo bằng cấp, học vỵ, huân chương, và địa vị mà chúng ta có trên dương thế. Những thứ này chúng ta phải bỏ lại tất cả trước ngưỡng cửa đời đời. Cái mà có thể mang theo là công và tội.

Thưởng hay phạt tùy vào công tội khi còn sống. Chúa chúng ta dù nhân từ, xót thương vô biên, nhưng cũng công bằng tuyệt đối. Bất cứ ai hễ có công thì Ngài thưởng, mà có tội thì Ngài phạt. Nhưng làm sao mà biết được công hay tội, phúc hay họa? Để trả lời câu hỏi này, Thánh Sử đã viết: Đức Vua (Chúa Giêsu) đã nói với những người được chúc phúc: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (25:35-36) Và điều khiến chúng ta ngạc nhiên không ít khi nghe Chúa nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (25:40)

Như vậy, đây là một bản án đem lại cho chúng ta niềm an ủi và sự tin tưởng. Vì để được thưởng, Chúa không đòi chúng ta phải làm những gì quá sức, không vượt quá khả năng, và cũng không cần nhiều tài năng, vốn liếng hay hiểu biết. Ngài chỉ cần chúng ta có trái tim nhân ái để mở rộng lòng mình trước những người đau khổ, nghèo đói, vất vả, túng thiếu, những người bị ức hiếp, và bị đối xử bất công trong xã hội. Những người mà Chúa gọi là những anh chị em “nhỏ bé nhất” của Ngài. Họ không thiếu và đang ở chung quanh chúng ta, có khi ngay trong gia đình chúng ta.

Ngoài những bạn bè là các người đói khát, bơ vơ khách lạ, rách rưới trần truồng, đau yếu, tù tội, Chúa còn có thêm những bạn hữu bệnh tật về tâm lý, tâm thần, những người bị xã hội coi khinh, ruồng bỏ, hất hủi, cô đơn, bị miệt thị và lợi dụng, những người đang bị dằn vặt, phân vân tìm đường hoán cải quá khứ. Họ rất cần những lời cầu nguyện, khích lệ, chia sẻ, và sự quan tâm lo lắng, săn sóc, lắng nghe của chúng ta. Họ đang đói khát nụ cười, thèm được một lời an ủi, một cử chỉ âu yếm, một bàn tay xoa dịu, một ánh mắt cảm thông, và một vòng tay mở rộng của chúng ta. Họ chính là những anh chị em bé nhỏ thầm lặng của Chúa. Họ cũng có mặt trong cuộc đời chúng ta, đôi khi lại chính là ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, và bạn hữu của chúng ta.

Mới đây, tôi đã ghé thăm một vị ân nhân đang mòn mỏi trên giường bệnh. Bà là một người mà chúng tôi rất mến mộ, rất yêu kính. Nhưng câu chuyện đã xảy ra giữa anh chị em trong gia đình bà làm tôi phải suy nghĩ. Trong 5 người con bà, tất cả đều thành đạt, tất cả đều được bà yêu thương, nhưng chỉ duy nhất một người con gái là gần gũi, chăm nom thuốc thang cho bà và luôn có mặt bên bà dù ở nhà hay trong bệnh viện. Với tôi, ngoài những đau đớn do bệnh tật, bà là một người chị em nhỏ bé của Chúa đang bị đối xử tệ bạc, bị bỏ rơi cô đơn, bị quên lãng ngay chính trong nhà và bởi những người con của bà.

“Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” (25:37-39). Nếu chúng ta có hỏi Chúa câu hỏi này hôm nay, thì Ngài cũng sẽ nói với chúng ta như đã trả lời những người đã hỏi Ngài“Những gì các con đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các con đã làm cho chính Ta.” (25:40)

“Làm mọi việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao” (St. Teresa Calcutta). Cho người khát một ly nước, đón tiếp một lữ hành trong lúc sa cơ, chia sẻ một tấm áo với người rách rưới, một bát cơm với kẻ đói khổ, thăm hỏi một bệnh nhân, và an ủi một người đang gặp thử thách, vô vọng… những việc nhỏ, nhưng với tình yêu Thiên Chúa, nó sẽ trở thành lớn lao trước mặt Ngài. Ngài sẽ coi đó như là làm cho chính Ngài.

Hy vọng rằng sau này khi đối diện với Chúa trước tòa phán xét, chúng ta cũng được nghe lời Ngài âu yếm nói với chúng ta: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ.” (25:34)

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

XIN THA NỢ CHÚNG TÔI NHƯ CHÚNG TÔI CŨNG THA KẺ CÓ NỢ CHÚNG TÔI

“Xin tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi” (Mátthêu 6:12). Người Công Giáo ai ai cũng đều thuộc lòng lời cầu này. Hơn thế nữa còn biết nó phát xuất từ Kinh Lạy Cha, một kinh nguyện duy nhất mà chính Chúa Giêsu đã dạy khi các môn đệ xin Ngài dạy họ cầu nguyện.

Lời cầu vừa mang tính cách tự thú, vừa mang tính cách thực hành. Tự thú mình là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, để kêu cầu xin ơn tha thứ: “Xin tha nợ chúng tôi”. Thực hành lòng quảng đại và trắc ấn đối với những người làm mất lòng mình: “Như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Thoạt nghe lời cầu thì không có gì mấy khó khăn, vì ai mà không có tội, và tha thứ cho một ai đó cũng không ngoài khả năng của con người. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ thì lời cầu này là một phản ảnh công bằng về đức ái hết sức quan trọng, thực hành nó không dễ dàng. Và chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải cầu nguyện.

Trước hết, có mấy ai trong chúng ta nhận mình có tội! Nhiều tội nhân và cũng có thể là chính chúng ta khi đứng trước một lỗi lầm, phản ứng đầu tiên là chối bỏ. Khi không còn chối được nữa thì đổ thừa cho người này, người khác, hoặc những lý do khiến chúng ta phải hành động như vậy.

Để hiểu được thế nào là nhận mình có tội, và thế nào là tha cho mình cũng như tha cho người khác, chúng ta cần nhớ lại dụ ngôn hai con nợ trong Phúc Âm Thánh Mátthêu (18: 21-35). Theo Tin Mừng kể lại, có lẽ lúc bấy giờ ông Phêrô nghĩ mình là người rộng lượng, quảng đại nên đã hỏi Chúa liệu ông phải tha cho anh em mình bao nhiêu lần khi họ xúc phạm đến ông, “ 7 lần” không? Đối với ông tha 7 lần đã là nhiều rồi. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu đã khiến chẳng những ông mà chúng ta cũng hết sức bỡ ngỡ: “Bảy mươi lần bẩy” (22). Nhiều như vậy thì nhẫn nại và tha thế nào nổi? Và để ông hiểu lý do, Chúa đã kể cho ông nghe dụ ngôn, đại khái một người mắc nợ nhà vua 10 ngàn nén (yến) vàng (24). Vì không thể nào trả nổi, đã khóc lóc, van xin, nên nhà vua đã tha cho ông. Ngược lại bạn ông chỉ nợ ông có 100 quan tiền, cũng tha thiết xin ông cho khất nợ nhưng ông không tha!

Số tiền nợ của ông và của người bạn ông khác nhau như thế nào? Theo ước tính 10.000 talents (nén hay yến vàng) nếu tính bằng dollar tương đương với tiền lương công nhân của 200.000 năm. Nó bằng 60.000.000 ngày làm, và trị giá 3,48 tỷ đồng. Trong khi đó, bạn của hắn chỉ nợ hắn có 100 denarii (quan) tương đương với 4 tháng lương, và trị giá 5.800 đồng.

“Xin tha nợ chúng tôi”. So sánh sự khác biệt giữa hai món nợ mới hiểu tại sao Chúa Giêsu lại nhắc đến chuyện chúng ta phải xin được tha thứ. Ý thức mình là người có tội, xin và nhận sự tha thứ để hiểu mà cảm thông, tha thứ cho người khác. Đồng thời đưa ra hình ảnh con người tội nhân của chúng ta, cũng như hình ảnh một trái tim cần rộng mở như thế nào.

Nhận mình có tội, đón nhận lòng thương xót của Chúa chính là một tấm gương, một động lực cho chúng ta để tha thứ người khác. Bởi món nợ của chúng ta đối với Chúa thì quá lớn. Từ đó chúng ta phải học lòng rộng rãi của Thiên Chúa khi tha thứ cho mình. Việc làm này rất khó và đòi hỏi nhiều cố gắng. Kinh nghiệm thực tế còn cho thấy rằng, để tha thứ người khác, chúng ta phải học cách Chúa tha thứ để tha cho chính mình trước. Vì trong rất nhiều trường hợp, chúng ta lên án mình nặng nề hơn những người khác, và đối xử hà khắc với mình còn hơn những người khác đối xử với mình. Có lẽ vì thế, việc nhận mình có lỗi và nhận ra lòng thương xót của Chúa là bước đầu để chúng ta biết và học được sự tha thứ. Để tha thứ cho người khác, chúng ta trước hết cũng phải tha cho chính mình.

“Như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Tha cho người khác, nhất là những người làm hại mình, những người mình không ưa, không thích là một việc làm không hề dễ. Điều này xem ra khó khăn hơn xin Chúa tha nợ cho mình, mặc dù trong thực tế nhiều lần chúng ta vẫn cho rằng mình không có tội. Mà vì không có tội nên không cần sự tha thứ, và cũng không hiểu được ý nghĩa của hành động tha thứ.

Ngoài ra còn phải tha đến bẩy mươi lần bẩy lại là điều xem ra không thể đối với tính ích kỷ của con người. Thông thường người ta có quan niệm rằng “đàn bà tha nhưng không quên”, nhưng trong thực tế, không phải “đàn bà”, mà cả “đàn ông” cũng vậy. Thử lặp lại một lỗi lầm nào đó nhiều lần với nhau, ta sẽ nhận ra kết quả này. Bởi đó Chúa Giêsu mới nói tha “bẩy mươi lần bẩy”.

“Xin tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Người có nợ vừa được chủ tha cho một món nợ lớn, nhưng gặp bạn chỉ nợ mình có một món nợ rất nhỏ đã tóm cổ, bỏ tù và đòi không sót một xu. Qua lời nguyện này, Chúa muốn chúng ta biết rằng món nợ mà chúng ta đối với Ngài rất lớn, và sự tha thứ mà Ngài dành cho chúng ta không thể diễn tả nổi. Ngược lại, hành động tha thứ mà chúng ta có đối với anh chị em không là bao nhiêu. Tuy vậy, nó là lý do khiến chúng ta đón nhận sự tha thứ đến từ Thiên Chúa: “Vì nếu các ngươi tha thứ cho nhau, Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi” (Mátthêu 6:14). Còn “Nếu mỗi người trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho anh em mình, thì Cha ta ở trên trời cũng sẽ xử với các ngươi như vậy” (Mátthêu 18:35).

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

KHÔNG SỢ SAI LẦM

Thứ Sáu Tuần 23 TN B

“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”.

Một người bạn nói với nhà truyền giáo A. Judson, “Một bài báo đã ví anh như một số tông đồ”. Judson trả lời, “Tôi không muốn giống Phaolô hay bất kỳ ai. Tôi muốn giống Chúa Kitô! Tôi muốn theo Ngài, uống Thánh Linh của Ngài, đặt chân tôi vào dấu chân Ngài, sống và dạy lời Ngài mà không sợ sai lầm. Ồ, tôi muốn giống Chúa Kitô thôi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Tôi muốn giống Chúa Kitô thôi!”. Phải chăng đây cũng là ý chí kiên định của Phaolô một khi ngài đã quyết tâm đánh đổi tất cả để nên giống Chúa Kitô, có Chúa Kitô, và muốn muôn dân biết Chúa Kitô! “Uống Thánh Linh của Ngài, đặt chân mình vào dấu chân Ngài, sống và dạy lời Ngài”, Phaolô đã can đảm bôn tẩu loan báo Chúa Kitô mà ‘không sợ sai lầm’.

Nhưng với chúng ta thì sao? Trước hết, bạn và tôi phải được nung nấu bởi tình yêu Chúa Kitô và hiểu biết Ngài; vì lẽ, “Người mù có thể dắt người mù được sao?” - Tin Mừng hôm nay. Nghĩa là, trước tiên, người rao giảng phải là người biết rõ, thấy rõ, mình đang đi đâu, trên con đường nào và sẽ dẫn tới đâu? Là người chỉ đường, chúng ta cần xác tín, ngoài con đường Giêsu, không có con đường nào khác! Hãy suy gẫm về tầm quan trọng này, đặt Chúa Kitô vào trung tâm cuộc sống và sứ vụ của mình; may ra, chúng ta mới có thể hướng dẫn người khác mà ‘không sợ sai lầm!’.

Thứ đến, ‘đi trong’ Giáo Hội! Chúa Kitô không chỉ thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sự dạy dỗ của Ngài, nhưng còn ban cho Giáo Hội ân sủng Thánh Thần để gìn giữ nó khỏi mọi sai lầm. Bạn không hề lẻ loi. Sự tự tin của chúng ta bắt nguồn từ sự hiểu biết “Tôi đang ở trong Giáo Hội, hợp nhất với Giáo Hội và thực hành giáo huấn của Giáo Hội!”.

Bên cạnh đó, học tập là một ‘tiến trình thường huấn’ kéo dài suốt đời, dẫu chúng ta thường coi nhẹ. Vì ‘coi nhẹ’, nên việc giảng dạy của chúng ta thường chỉ dừng lại ở cấp Vỡ Lòng hoặc Thêm Sức! Chúng ta tự mãn, ‘không biết mình nghèo’, nên những người chúng ta dạy dỗ ‘không bao giờ giàu’; hậu quả là không ít người lớn chỉ được đào tạo với những gì đủ cho một đứa trẻ! Vậy hãy học biết Chúa Kitô, đào sâu, suy tư, nghiên cứu, chiêm ngắm các mầu nhiệm của Ngài; đồng thời, cho phép ân điển Thánh Thần biến đổi cuộc sống. Được thế, bạn và tôi mới có thể nâng cao chiều kích đức tin, hâm nóng hồn tông đồ nơi mình và nơi những người chúng ta dẫn dắt mà ‘không sợ sai lầm’.

Anh Chị em,

“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”. Chớ gì bạn và tôi có chung một thao thức của Phaolô! Bởi lẽ, chúng ta chỉ có thể rao giảng Chúa Kitô, dạy dỗ và giúp người khác đến với Ngài bằng những gì chúng ta học biết và nhận được từ Ngài. Ngài là vị Thầy, vị Hướng Đạo thông thái, Đức Hôn Phu tuyệt vời của Hiền Thê Giáo Hội, Mẹ Khôn Ngoan của chúng ta; Ngài là Thầy Thuốc đa khoa có thể chữa lành sự mù loà, đánh bại mọi tội lỗi, băng bó mọi thương tích, nâng đỡ bao yếu đuối và lấp đầy những nông nổi. Được thế, chúng ta mới có thể dẫn dắt người khác mà ‘không sợ sai lầm!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin hạ thấp dãy núi tự mãn trong con, cho con biết mình ‘không giàu’ để ham học hỏi, đào sâu, chiêm ngắm; nhờ đó, những ai Chúa trao cho con ‘bớt nghèo!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

CHINH PHỤC NỖI SỢ HÃI

Tôi tin rằng một trong những lý do khiến đại dịch Covid -19 gây tổn thương nặng nề cho xã hội của chúng ta là chúng ta đang sống trong một nền văn hóa bị bao trùm bởi nỗi sợ hãi cái chết. Sợ chết là điều ai cũng cảm thấy, bởi vì cái chết dường như là kẻ thù tồi tệ nhất của cuộc sống con người. Kinh Thánh nói rõ rằng cái chết không nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho loài người. Sự chết đến thế gian do hậu quả của tội lỗi. Khi ai đó chết, ta cảm thấy có điều gì đó không đúng vì chết là một sự sai trái.

Chúng ta có linh hồn vĩnh cửu. Mối tương quan bạn bè và tình cảm mà chúng ta hình thành với nhau trong cuộc đời này sẽ kéo dài mãi mãi. Theo cách này, cái chết đi ngược lại bản tính của chúng ta, và việc sợ hãi cái chết là điều tự nhiên. Thật vậy, trong tất cả các thế kỷ tồn tại của con người, mặc dù đã vận dụng tất cả sự khéo léo tốt nhất của con người, có hai vấn đề mà chúng ta không thể giải quyết được: tội lỗi và sự chết. Đây chính là những vấn đề mà Chúa Giêsu Kitô đã đến để cứu chúng ta thoát khỏi.

Tam Nhật Vượt Qua của Lễ Phục Sinh, mà chúng ta cử hành hàng năm, có điều gì đó nói lên nỗi sợ chết này. Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng sự chết bằng cách chiến thắng tội lỗi. Khi chúng ta ăn năn tội lỗi của mình và được tháp nhập vào Chúa Kitô qua phép rửa, Thánh Phaolô nói rằng chúng ta “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Chúa Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao?” (Rm 6:3). Điều này có nghĩa là ảnh hưởng của cái chết và sự phục sinh của Ngài, sự giải thoát khỏi tội lỗi và sự sống phục sinh, được chia sẻ với chúng ta. Vì điều này, cái chết đã mất quyền lực đối với chúng ta. Chúng ta cũng có thể tuyên bố như Thánh Phaolô đã tuyên bố với người Côrintô: “Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1Cr 15,54-55).

Sự thật này thay đổi mọi thứ đối với chúng ta với tư cách là Kitô hữu. Điều đó có nghĩa là chúng ta không còn sống trong nỗi sợ chết nữa, nhưng được tự do hoàn toàn hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Điều này không dẫn đến sự coi thường ân huệ sự sống, nhưng hoàn toàn ngược lại. Nó làm cho cuộc sống tràn đầy ý nghĩa sâu sắc và cho chúng ta can đảm để có thể đối mặt với sự dữ mà vẫn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta. Sự can đảm này tràn ngập trong lòng các thánh và cho phép các ngài liều mình vì người khác.

Tôi yêu thích tấm gương của Thánh Đamiêng ở Molokai, đôi khi được gọi là “Linh mục Phong Cùi”. Thánh Đamiêng tình nguyện làm linh mục cho người cùi trên đảo Molokai, dù biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể quay trở lại. Ngài sẽ chết ở đó với những người phong. Khi được hỏi làm thế nào ngài có đủ can đảm để làm điều này, ngài nói: “Chính ký ức về việc nằm dưới tấm khăn tang hai mươi lăm năm trước - ngày tôi tuyên khấn - đã khiến tôi dũng cảm đối mặt với nguy cơ mắc phải căn bệnh khủng khiếp này, thực hiện bổn phận của mình ở đây và cố gắng chết đi cho bản thân mình nhiều hơn… bệnh tật càng tiến triển, tôi càng thấy mình mãn nguyện và hạnh phúc.”

Cộng đoàn tu trì của Thánh Đamiêng có truyền thống - ngày nay vẫn còn được nhiều tu sĩ Biển Đức và những tu sĩ khác thực hiện - khi một vị linh mục tuyên khấn, vị này nằm sấp mặt trên sàn nhà nguyện trong khi người ta đọc kinh cầu các thánh, một chiếc khăn tang sẽ phủ lên vị này như một biểu tượng chết đi cho trần thế. Thánh Đamiêng đã thoát khỏi nỗi sợ chết vì ngài đã hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa khi ngài tuyên khấn.

Quan điểm đích thực của Kitô hữu là tội lỗi là một sự dữ còn xấu xa hơn cả sự chết. Như Chúa Giêsu đã nói: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Đây là lý do tại sao các vị tử đạo đã hy sinh mạng sống của họ: các ngài thà chết chứ không phạm tội chối bỏ Chúa Kitô.

Vậy làm thế nào để chúng ta đối phó với nỗi sợ hãi tự nhiên đối với cái chết, hoặc với bất cứ nỗi sợ hãi tự nhiên nào của chúng ta? Tôi thích câu nói của Joseph Pieper, triết gia người Đức ở thế kỷ 20, đã viết rất hay về nhân đức. Ông ấy nói, “Lòng can đảm là nỗi sợ hãi cất lên lời cầu nguyện của mình.” Tất cả chúng ta đều có những nỗi sợ hãi, các thánh cũng có những nỗi sợ hãi, dường như ngay cả Chúa Giêsu trong nhân tính của mình cũng run sợ trước thập giá. Điều quan trọng là nỗi sợ hãi không ngăn cản chúng ta làm theo ý Chúa. Chúng ta càng lớn lên trong mối liên hệ hàng ngày với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện, thì chúng ta càng phó thác những nỗi sợ hãi trong lòng cho Ngài, Ngài càng đổ đầy chúng ta bằng tình yêu của Ngài và điều này càng cho chúng ta can đảm để làm bất cứ điều gì Ngài yêu cầu, ngay cả khi đối mặt với nỗi sợ chết. Như thánh Phaolô nói: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Chúa Kitô Giêsu” (Phil 4: 6-7).

Cách đây vài năm, một trong những điều tôi nhận thấy trong Kinh thánh là mỗi khi Thiên Chúa kêu gọi ai đó trong Kinh thánh thì Ngài nói: “Đừng sợ”. Cho dù đó là Abraham, Môsê, các tiên tri, Mẹ Maria hay Thánh Phêrô, dường như Thiên Chúa bảo mọi người đừng sợ vì Ngài luôn kêu gọi chúng ta làm nhiều hơn những gì chúng ta nghĩ mình có thể làm được. Vì vậy, sợ hãi sẽ là chuyện bình thường. Tuy nhiên, đức tin thay đổi điều này.

Đức tin cho chúng ta sự hiểu biết “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8: 35, 38-39). Càng lớn lên trong đức tin, chúng ta càng ít bị nỗi sợ hãi, thậm chí nỗi sợ chết, chi phối. Rồi thì, chúng ta có thể can đảm hiến tặng cuộc sống của mình bằng bất cứ cách nào mà Thiên Chúa yêu cầu.

Sau đây là một vài câu Kinh Thánh giúp thắng vượt nỗi sợ hãi:

  1. “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi.

Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi.

Ta cho ngươi vững mạnh,

Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta”

(Is 41: 10).

  1. “Nhà Aharon, hãy tin cậy Chúa,

chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che”

(Tv 113b: 10).

  1. “Anh em đừng sợ chúng, vì chính Chúa, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu cho anh em” (Đnl 3: 22).
  2. “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,

tôi còn sợ người nào?

Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi,

tôi khiếp gì ai nữa?”

(Tv 27: 1).

  1. “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”

(Gn 14: 27).

 

Tác giả: Andrew Cozzens

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

từ https://thecatholicspirit.com.