2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CẢM NGHIỆM SỐNG-REFLECTIONS -THE MOST TRINITY

  •  
    Mo Nguyen
     
    Jun 16 at 5:51 PM
     
     
    this I.jpg

                

    This I believe (The Creed) Hillsong Worship

     

     

                            THE MOST TRINITY / C – SUNDAY 16 JUNE 2019

                                            REFLECTIONS ON THE GOSPEL

                                                      (John 16: 12-15)

                                   A DIVINE COMMUNION OF LOVE

    The Christian mystery of the Trinity arises out of a sense of God as an active communion of love. I say ‘active’ when perhaps it would have been more appropriate to say an ‘outgoing’ community of love.

    The first disciples of Jesus came to understand that in their interaction with him they were being drawn into the unique personal relationship that he enjoyed with the God he addressed as ‘Abba, Father’ (Mark 14: 36; see Luke 10:21-22).

    Jesus’ death did not put an end to this experience. A key aspect of the disciples’ experience of his resurrection was a sense of still being grasped within this relationship between Jesus and the Father. So powerful was the experience that they attributed it to the creative power of God known in the Old Testament as the ‘Spirit’ (Gen 1:1-2; Ezek 36: 26-37: 14). So personal was the experience that, eventually, they came to recognise it as involving a third divine person.

    So, without injury to the basic monotheism which Christianity derived from its origins in the Jewish faith, the sense of Three Persons in the One God came into being – not as an arid theological puzzle but as a way of expressing a sense of being drawn into a divine communion of love.

    In today’s Gospel Jesus assures his disciples that their sharing in the intimate relationship between himself and the Father will not cease with his physical absence. It will continue through the gift of the Spirit, empowering them to extend that experience of divine love to the world.

    Brendan Byrne, SJ

    This I Believe (The Creed) - Hillsong Worship:

    https://www.youtube.com/watch?v=FtUNQpu2b7Q 

     

                THIS I BELIEVE (THE CREED)

     

    the Creek.jpg
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ BẢY 15-6-2019

  •  
    Chi Tran
     
     
     
    Ảnh cùng dòng
     
     

    Có thì nói có, không thì nói không.

    15/06 – Thứ Bảy tuần 10 thường niên.

    "Thầy bảo các con: đừng thề chi cả".

     

    Lời Chúa: Mt 5, 33-37

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được.

    Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".

     

    SUY NIỆM : Có thì nói có

    Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng. Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!

     

    Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: "Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ mà ra". Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Ðấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của minh đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào.

    Ðón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa về con người, người Kitô hữu phải ý thức hơn ai hết về phẩm giá cao trọng của mình. Phẩm giá ấy được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trung thực của họ. Bản sắc của người Kitô hữu có được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trong suốt của cuộc sống của họ. Niềm tin của người Kitô hữu có khả tín hay không là tùy họ có can đảm để lội ngược dòng giữa một xã hội mà dối trá đã trở thành luật sống.

    Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta suy nghĩ:

    Yêu ai cứ bảo rằng yêu

    Ghét ai cứ bảo rằng ghét.

    Dù ai ngon ngọt nuông chiều,

    Cũng không nói yêu thành ghét.

    Dù ai cầm dao dọa giết,

    Cũng không nói ghét thành yêu.

     

    Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng những lời Ngài rao giảng. Dù cái chết cũng không khóa được những lời sự thật của Ngài và cái chết của Ngài trên Thập giá cuối cùng cũng trở thành lời. Biết bao người đang chờ được nghe những lời chân thật của các Kitô hữu, không chỉ những lời thốt ra từ môi miệng, mà còn là những lời từ một cuộc sống ngay thẳng, thanh liêm.

    Nguyện xin Chúa gìn giữ và ban cho chúng ta can đảm để làm chứng cho lời chân lý của Ngài.

    (Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

    --------------------------------------------

     


CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LC- THỨ NĂM 13-6-2019

  •  
    un 13 at 8:11 AM
     
     
    Ảnh cùng dòng

    Phải sống công chính hơn.

    13/06 – Thứ Năm tuần 10 thường niên – Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

    "Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".

     

    * Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô.

    Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).

     

    Lời Chúa: Mt 5, 20-26

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.

    "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"

     

    SUY NIỆM /SỐNG VÀ CHIA SẺ: Sự thánh thiện đích thực

    Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.

    Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:

    - Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?

    Người đàn bà trả lời:

    - Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.

    Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:

    - Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?

    Người đàn bà liền nói:

    - Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.

    Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:

    - Thế bà cầu nguyện cho ai?

    Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:

    - Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.

    Chân phước Marchello ngắt lời bà:

    - Bà không cầu nguyện cho bà sao?

    Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:

    - Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.

    Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.

    Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.

    Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."

    Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?

    Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.

    (Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

     

    -------------------------------
     

 

CẢM NGHIỆM SỐNG LC- THỨ SÁU 14-6-2019

Thứ Sáu 14-6-2019

CẢM NGHIỆM SỐNG LỜI CHÚA

Bài Đọc I: (Năm I) 2 Cr 4, 7-15

"Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng sẽ làm cho chúng tôi được sống lại với Đức Giêsu và sẽ đặt chúng tôi bên Người làm một với anh em".

Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, chúng ta chứa đựng kho tàng ấy trong những bình sành, để biết rằng quyền lực vô song đó là của Thiên Chúa, chứ không phải phát xuất tự chúng ta. Chúng ta chịu khổ cực tư bề, nhưng không bị đè bẹp; chúng ta phải long đong, nhưng không tuyệt vọng; chúng ta bị bắt bớ, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Bởi vì chúng ta luôn mang trên thân xác mình sự chết của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu được tỏ hiện nơi thân xác chúng ta. Vì chưng, mặc dầu đang sống, nhưng vì Đức Giêsu, chúng tôi luôn luôn nộp mình chịu chết, để sự sống của Đức Giêsu được tỏ hiện trong thân xác hay chết của chúng tôi. Vậy sự chết hoành hành nơi chúng tôi, còn sự sống hoạt động nơi anh em. Nhưng anh em hãy có một tinh thần đức tin, như đã chép rằng: "Tôi đã tin, nên tôi đã nói", và chúng tôi tin, nên chúng tôi cũng nói, bởi chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng sẽ làm cho chúng tôi được sống lại với Đức Giêsu, và sẽ đặt chúng tôi bên Người làm một với anh em. Mọi sự đều vì anh em, để ân sủng càng tràn đầy, bởi nhiều kẻ tạ ơn, thì càng gia tăng vinh quang Thiên Chúa.

Đó là lời Chúa.  

   Đáp Ca: Tv 115, 10-11. 15-16. 17-18

Đáp: Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!" Trong lúc kinh hoàng tôi đã thốt ra: "Hết mọi người đều giả dối". - Đáp.

2) Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. - Đáp.

3) Con sẽ hiến dâng lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. - Đáp. 

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 22b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 27-32

"Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.

"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm

"Sự chết hoành hành"

 

Nếu Bài Phúc Âm hôm qua, Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người liên quan đến điều răn thứ 5 là "chớ giết người", thì bài Phúc Âm hôm nay, lời của Người dạy liên quan đến điều răn thứ 9 là "chớ muốn vợ chồng người": "Chớ ngoại tình". 

Tuy nhiên, hành động "ngoại tình" hay tội "ngoại tình" ở đây, như Chúa Kitô dạy, không phải chỉ ở chỗ trực tiếp liên hệ xác thịt với người khác phái, mà còn ở chỗ, cách riêng với nam nhân, ước muốn hoan hưởng thân xác của người phụ nữ nữa. Chính cái thèm khát dâm dục với bất cứ người phụ nữ nào nơi nam nhân thì họ đã ngoại tình với người nữ ấy rồi, cho dù người nữ ấy không có chồng: "Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ (ở đây Chúa nói trống và nói chung về "người nữ", chứ không phải là người nữ có chồng) mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi". 

Chúa Giêsu nói đến chuyện ngoại tình ở đây không phải chỉ liên quan đến nam nhân, mà theo tinh thần của điều răn Thứ 9 "chớ muốn vợ chồng ngưòi" và theo ý của Người về vấn đề cái xấu xuất phát từ trong lòng và phạm tội ngay từ trong lòng, ngoại tình ngay từ trong lòng, thì lời Người nói bao gồm cả nữ giới nữa, nếu bất cứ một người nữ nào nói chung và người vợ nào nói riêng, có tư tình với một người đàn ông đã có vợ (nơi trường hợp cả người nữ chưa chồng hay đã có chồng) hay một người đàn ông chưa có vợ (nơi trường hợp người vợ đã có chồng), thì đã phạm tội ngoại tình với ngưoòi đàn ông ấy rồi, cho dù chưa ăn nằm với chàng ta. Chẳng hạn lúc nào cũng mơ tưởng về chàng đến độ lén lút tìm cách liên lạc với chàng hoặc gặp chàng v.v. 

Còn trường hợp họ có chồng mà bị chồng bỏ, không phải vì lý do gian dâm là hành vi hoàn toàn phản nghịch lại với bản chất của hôn nhân vợ chồng nên một xác thịt với nhau (chứ không phải với bất cứ một ai khác ngoài chồng của mình hay vợ của mình), thì người chồng bỏ vợ ấy đã tạo cơ hội chẳng những cho vợ mình ngoại tình mà còn cho cả người nào ăn nằm với nàng nữa: "bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa". 

Ở đây Chúa Kitô chỉ nói đến trách nhiệm của người chồng bỏ vợ nếu nàng ăn ở với người khác, hay nếu người nam khác ăn nằm với nàng, nhưng không phải vì thế mà Người không bao gồm tội ngoại tình của người chồng, ở chỗ, một khi không có vợ, người chồng bỏ vợ ấy có thể sẽ đi đến chỗ thèm thuồng dâm dục với bất cứ người đàn bà nào không phải là vợ của mình, thậm chí vì đã thèm thuồng người nữ khác ngon hơn vợ của mình nên họ đã bỏ vợ mình, hay họ trực tiếp liên hệ dâm dục với những người đàn bà mà chàng cảm thấy bị thu hút bất khả chống cưỡng, khi không còn vợ nữa, đến độ họ có thể cưỡng hiếp người ta khi bị chống cự cho thỏa mãn thú tính lăng loàn của họ. 

Một trong những lý do chính yếu khiến con người sa ngã phạm tội đó là vì họ quên mất sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa trong tâm hồn của họ và trong cuộc đời của họ. Ngài là Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, cho dù những gì sâu thẳm nhất trong thâm tâm của họ, như ước muốn hoan hưởng xác thịt của người nữ nào mà họ đang thèm khát. Và cũng chính vì Thiên Chúa biết cả những gì kín mật nhất và xấu xa của họ như thế mà tác động ước muốn ấy mới xấu xa và có tội phạm đến Ngài. 

Bởi thế, muốn giữ mình sạch tội nói chung và khỏi tội dâm dục ngay từ ước muốn nói riêng, con người Kitô hữu tự bản chất vốn yếu hèn như tất cả mọi phàm nhân trên trần gian này, cho dù có Thánh Sủng trong tâm hồn từ khi lãnh nhận Phép Rửa, nhưng Thánh Sủng như kho tàng thần linh cô cùng quí báu ấy nơi chúng ta chẳng khác gì, như Thánh Phaolô diễn tả trong Bài Đọc I hôm nay: "chúng ta chứa đựng kho tàng ấy trong những bình sành", dễ vỡ và dễ bị mất đi, cần phải có ơn Chúa gìn giữ đặc biệt, bởi "quyền lực vô song đó là của Thiên Chúa, chứ không phải phát xuất tự chúng ta", như Vị Tông Đồ Dân Ngoại này đã thâm tín và khẳng định trong cùng Bài Đọc I hôm nay. 

Nhờ ơn Chúa, nhờ "quyền lực vô song của Thiên Chúa" nơi mình, Kitô hữu mới có thể sống trọn lành, đến độ có thể nói như Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Mặc dầu đang sống, nhưng vì Đức Giêsu, chúng tôi luôn luôn nộp mình chịu chết, để sự sống của Đức Giêsu được tỏ hiện trong thân xác hay chết của chúng tôi", đến độ Kitô hữu có thể thông đạt sự sống thần linh trọn hảo đó cho anh chị em của mình đúng như cảm nghiệm của Thánh Phaolô Tông Đồ được ngài bày tỏ ngay sau đó: "Vậy sự chết hoành hành nơi chúng tôi, còn sự sống hoạt động nơi anh em". 

Vì kho tàng Thánh Sủng vô cùng quí báu nơi Kitô hữu được chứa đựng nơi bình sành thân xác vô cùng yếu hèn của họ mà không có quyền lực vô song của Thiên Chúa họ không thể nào giữ mình sạch tội và trong sạch về xác thịt trên thế gian đầy những cám dỗ khiến con người vốn hướng hạ không thể nào không sa ngã, mà họ cần phải tin tưởng vào Thiên Chúa và gắn bó van xin cùng Thiên Chúa theo chiều hướng của Bài Đáp Ca hôm nay:  

1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!" Trong lúc kinh hoàng tôi đã thốt ra: "Hết mọi người đều giả dối".

2) Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con.

3) Con sẽ hiến dâng lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

TN.XL-6.mp3  

CẢM NGHIỆM SỐNG - PENTECOSTSUNDAY HOLY SPIRIT

  •  
    Mo Nguyen
    Jun 8 at 5:09 AM
     
     
    Oh Holy.jpg

               

                            OH HOLY SPIRIT

     

                       PENTECOST SUNDAY / C  - 09 JUNE 2019

                                 REFLECTIONS ON THE GOSPEL

                                          (Jn 14: 15-16, 23-26)

                                     THE CHURCH EMPOWERED

                                               WITH THE SPIRIT

    Luke is the evangelist who has most memorably depicted the bestowing of the Spirit upon the Church, locating the experience on the Jewish feast of Pentecost (Acts 2:1-11). As its name in Greek indicates, this feast took place fifty days (seven weeks) after Passover. It involved a pilgrimage to Jesusalem, where Israel gathered to give thanks for the completion of the grain harvest and to celebrate the gift of the land.

    The theme of gathering appears in the lists of visitors to Jerusalem from so many regions who hear the testimony of the Spirit-filled apostles each in their own language. The primary reference is to pilgrim from the Jewish diaspora, but we can find here also a foretaste of the universal mission of the Church. The renewed People of God is now being empowered and equipped for its mission to be a ‘light for revelation to the nations’ (Luke 2:32). Overcoming the disunity of humankind symbolised by the tower of Babel (Gen 11:1-9), the Church will speak in many languages. Through each it will convey the same essential message: the outreach of God’s compassionate love for the world (‘the marvels of God’).

    In the Gospel, taken from St John, the risen Lord imparts the Spirit, along with the gift of peace, to the disciples on Easter Sunday evening. He has died as the ‘Lamb of God who takes away the sins of the world’ (1:29, 36; 19: 36). Now it is their task to take to the world the reconciliation he has won from the Father.

    Brendan Byrne, SJ

    Holy Spirit Come - Hillsong Worship:

    https://www.youtube.com/watch?v=6zg3kG2K45Y

     

                          HOLY SPIRIT COME

     

    Hoy Spirit.jpg