2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - CHÚA GIESU VUA VŨ TRỤ

 

  •  
    qua1955 . - Nov 23 at 12:50 PM
     
     
    LỄ ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
     
    Chia sẻ Lời Chúa - Chủ nhật 24-11-19
     
    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. (23: 35-43)
    "KHI NÀO VỀ NƯỚC NGÀI, XIN NHỚ ĐẾN TÔI" (C. 42)
     
    Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người Này Là Vua Dân Do Thái".
    Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu? "Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta." ( C. 42-43)

    CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ:
     
    Ông Philatô đã hỏi Chúa Giê-su: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"(Ga. 18, 33). Chúa Giêsu thừa nhận: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."(Ga. 18, 37) Nhưng ngài cũng nói: "Nước tôi không thuộc về thế gian này."(Ga. 18, 36 )
     
    Trước khi chết, một người trộm lành đã cầu xin Chúa Giêsu: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi."(Lc. 23, 42) Chúa Giêsu cũng đã đáp lời cầu xin của người trộm lành: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta. (Lk. 23, 43) Thật tuyệt vời cho một tên trộm lành có thể ở vào vương quốc của Chúa Giêsu trước bất cứ ai?
     
    Tôi học được gì từ nơi người trộm lành? Anh ta khiêm nhường và thừa nhận rằng anh là một tội nhân trước Chúa Giêsu. Anh ta can đảm nói với một tên trộm khác sự thật về Giêsu là một người vô tội. Anh ta tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Rỗi có thể cứu anh qua sự tha thứ tội lỗi của anh và cho anh được vào trong vương quốc của Ngài.
     
    Một tên trộm lành đã đáp lại lời công bố của Chúa Giêsu: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."(Mc. 1, 15)
     
    Chúa Giêsu là Vua trên tất cả các vị vua trên trần gian này. Ngài sẽ trở lại để phán xét mọi dân tộc vào trong ngày sau hết. Số phận của mỗi cá nhân phụ thuộc vào cách đáp lại lời của ngài và tin vào Ngài. Nước Thiên Chúa sẽ không có chỗ cho những kẻ kiêu ngạo không thừa nhận tội lỗi của mình, không chịu sám hối tội lỗi và tin vào Chúa Giêsu.
     
    Trước khi lên thiên đàng, Chúa Giêsu truyền lệnh cho các môn đệ của mình: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án."(Mc. 16, 15-16)
     
    "Nếu hôm nay các ngươi nghe tiếng Ta, xin hãy đừng cứng lòng nữa."(TV. 95, 8)
     
    Chúa Giêsu Kitô là vua cao cả nhất và trên hết các vua. A-men!
     
    Bình an của Chúa Kitô!
     
    Đa-Minh Quang Hoàng, người Kitô hữu.
     
    --
     
    The Solemnity of Our Lord Jesus Christ, King of the Universe.
     
    Bible sharing - Sunday 11-24-19
     
    Gospel LK 23: 35-43
     
    The rulers sneered at Jesus and said, "He saved others, let him save himself if he is the chosen one, the Christ of God." Even the soldiers jeered at him. As they approached to offer him wine they called out, "If you are King of the Jews, save yourself." Above him there was an inscription that read, "This is the King of the Jews." Now one of the criminals hanging there reviled Jesus, saying, "Are you not the Christ? Save yourself and us." The other, however, rebuking him, said in reply, "Have you no fear of God, for you are subject to the same condemnation? And indeed, we have been condemned justly, for the sentence we received corresponds to our crimes, but this man has done nothing criminal." Then he said, "Jesus, remember me when you come into your kingdom." He replied to him, "Amen, I say to you, today you will be with me in Paradise."
     
    Reflection!
     
    "Pilate said to Jesus, “Are you the King of the Jews?”(JN. 18, 33). Jesus admitted. "You say I am a king. For this I was born and for this I came into the world, to testify to the truth."(Jn. 18, 37) but he also said, "My kingdom does not belong to this world."(Jn. 18, 36)
     
    Before his death, a good thief asked Jesus, "Jesus, remember me when you come into your kingdom."(Lk. 23, 42) Jesus accepted his asking, "Amen, I say to you, today you will be with me in Paradise.”(Lk. 23, 43) Is it so wonderful for a good thief could be in the kingdom of Jesus before anyone?
     
    What do I learn from a good thief? He was humble and admitted that he a sinner before Jesus. He was courageous to tell another thief the truth about Jesus an innocent man. He believed Jesus a Savior could save him by forgiving his sins and let him be with Him in his kingdom.
     
    A good thief responded to what Jesus' proclamation: "The kingdom of God is at hand. Repent, and believe in the gospel.”(Mk. 1, 15)
     
    Jesus is the King above all kings of the world. He will return to judge all nations on the last day. The fate of each individual depends on how to respond to his word and believe in Him. The King of God would not for arrogant who do not admit their sins, repent the sins and believe in Jesus.
     
    Before ascending heaven, Jesus commanded his disciples, “Go into the whole world and proclaim the gospel to every creature. Whoever believes and is baptized will be saved; whoever does not believe will be condemned."(Mk. 16, 15-16)
     
    "If today you hear his voice, harden not your heart."(Ps. 95, 8)
     
    Jesus Christ, the greatest king and above all kings! A-men.
     
    Peace of Christ!
     
    Dominic Quang Hoang, a Christian.
     ------------------------------------

 

CẢM NGHIỆM SỐNG LC- TION -KING OF THE UNIVERSE -C

  •  
    Mo Nguyen - Nov 22 at 12:30 PM
     
     
    ănh.jpg

     

                                   Last Sunday in Ordinary Time

                                             24 November 2019

       OUR LORD JESUS CHRIST, KING OF THE UNIVERSE – YEAR C

                                                SOLEMNITY

    A REFLECTION (Luke 23: 35-43)

    BEARING WITNESS TO THE TRUTH. With a wooden cross for a throne, at a place where thieves were crucified, the king of the Jews meted out a judgement to a common thief: ‘this day you will be with me in paradise’. This king can still be found among the criminals and outcasts of our society, in the worst parts of our cities and towns. Worshipping him in the least of our brothers and sisters, we too will experience his compassionate judgement.

    A Hymn of God's Word "To Bear Witness for God Is Man's Duty" | The Church of Almighty God:

    https://www.youtube.com/watch?v=O72Gire7alg

     

    hat.jpg

    LẠY CHÚA CHÚA LÀ VUA - Ns. Lm Duy Thiên - MP4 PS:

    https://www.youtube.com/watch?v=hyx4L_RzB6c  
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ HAI CN33TN-C

  •  
    Tinh Cao - Nov 17 at 10:48 PM
     
     

    Thứ Hai CN33TN-C

     

    LẮNG NGHE Lời Chúa

     

     

    Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67

    "Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".

    Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

    Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi, là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma; năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.

    Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều người, chúng nói rằng: "Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai hoạ". Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.

    Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.

    Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158

    Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài (x. c. 88).

    Xướng: 1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài. - Ðáp.

    2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài. - Ðáp.

    3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.

    4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa. - Ðáp.

    5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

    6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài. - Ðáp.

     

    Alleluia: Lc 16, 31

    Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 18, 35-43

    "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.

    Ðó là lời Chúa.


     

    CẢM NGHIỆM SÓNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

     

     

    Một vũ điệu thần linh tuyệt vời 

     

    Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên, cũng là bài Phúc Âm theo Thánh Marco (10:46-52) được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B, về phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu "cho một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường".
     
     
    Tuy nội dung của 2 bài Phúc Âm này được cả hai Thánh Ký Marco và Luca thuật lại giống nhau, nhưng về chi tiết hơi khác nhau một chút. Chẳng hạn ở những chi tiết rõ ràng sau đây:
     
     
    Trước hết, về nơi xẩy ra phép lạ Chúa, trong khi Thánh ký Marco thuật lại rằng "Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô", thì Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm hôm nay lại viết rằng "Chúa đến gần thành Giêricô".
     
     
    Sau nữa, về bản thân của nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này, trong khi Thánh ký Marco (một vị thánh ký viết Phúc Âm ngắn nhất trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, nhưng lại khá chi tiết về các biến cố xẩy ra) cho biết rõ lý lịch của nạn nhân là "con ông Timê tên là Bartimê", thì Thánh ký Luca lại chẳng nói gì hết.
     
    Còn nữa, về thái độ của người mù ngồi ăn xin bên vệ đường này, trong khi Thánh ký Marco cho biết rõ chi tiết về phản ứng của nạn nhân khi nghe thấy mình được Chúa Giêsu gọi đến là "anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu", thì Thánh ký Luca lại chỉ vắn tắt viết: "anh đến gần bên Người".
     
     
    Sau hết, về lời truyền chữa lành của Chúa Giêsu phán cùng nạn nhân, trong khi Thánh ký Marco ghi lại rằng: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh", thì Thánh ký Luca ở đây lại chi tiết hơn Thánh ký Marco một chút như thế này: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
     
     
    Ngoài ra, cả hai vị Thánh ký đều giống nhau ở thái độ của nạn nhân là khi nghe biết có Chúa Giêsu ở đấy thì van xin, và càng bị trấn át thì càng la to hơn, cho đến khi được Người gọi đến, và cũng giống nhau ở câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và nạn nhân trước khi phép lạ xẩy ra, đó là Chúa Giêsu hỏi nạn nhân muốn Người làm gì cho nạn nhân và nạn nhân đã xin Người phục quang cho mình. 
     
     
    Ở đây, để thêm vào các suy niệm và suy diễn đã được chia sẻ cho Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXX Thường Niên Chu Kỳ Bcó hai chi tiết khiến chúng ta suy nghĩ không ít:
     
     
    Chi tiết thứ nhất liên quan đến đấng chữa lành, đó là "Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người", và chi tiết thứ hai liên quan đến nạn nhân được chữa lành: "anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa".
     
     
    Thật vậy, đây là quả là một vũ điệu thần linh tuyệt vời. Ở chỗ, tác động thần linh từ Đấng Chữa Lành đã được phản hồi hết sức tương xứng bằng một đáp ứng thần linh từ nạn nhân được chữa lành. 
     
     
    Nạn nhân trước khi được chữa lành không hề dám tự động quẳng áo choàng đứng lên tiến đến gần Chúa Giêsu khi thoạt tiên vừa nghe thấy Người đến gần chỗ nạn nhân đang ngồi ăn xin, mà chờ đợi cho tới khi được Người gọi tới. Thái độ cứ ngồi yên một chỗ đợi chờ không phải là thái độ không nhiệt tình, mà là một thái độ tin tưởng hơn hết, ở chỗ, một đàng thì kêu la van xin cho bằng được, trong khi lại ngồi yên tại chỗ như thể nạn nhân cảm thấy mình hoàn toàn bất xứng không đáng đến gần Chúa Giêsu, cũng như bất lực không thể nào làm gì được nếu không có Người. 
     
     
    Đúng thế, tác động thần linh bao giờ cũng đến trước đáp ứng thần linh của thụ tạo, như yếu tố thiết yếu và điều kiện bất khả thiếu để thụ tạo nhờ đó và do đó mới có thể bị động, mới có thể cảm động và mới có thể di động theo tác động thần linh. Bởi thế, chỉ khi nghe thấy Chúa Giêsu truyền gọi, nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này mới đến được và được đến với Người. 
     
     
    Thực tế sống đạo cũng cho thấy thực tại nàyở chỗ, những ước muốn tốt lành của chúng ta cũng cần phải được Thiên Chúa tác động trước, hơn là tự chúng ta có được, vì chúng ta theo bản tính tự nhiên đã bị hư đi theo nguyên tội, luôn hướng hạ hơn là hướng thượng. Một khi chấp nhận ước muốn tốt lành bởi tác động thần linh khởi động ấy, chúng ta mới bày tỏ lòng khát vọng của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nhờ đó Thiên Chúa được dịp ban cho chúng ta chính những gì Ngài đã muốn ban nên đã soi động chúng ta ước muốn trước khi van xin. 
     
     
    Cuộc hội ngộ thần linh trong bài Phúc Âm hôm nay đã xẩy ra một cách hết sức ngoạn mục. Ở chỗ, nạn nhân kháo khát được chữa lành, trong khi Thiên Chúa vô cùng nhân hậu đã sẵn muốn chữa lành cho nạn nhân rồi, và chỉ chờ đến giờ của mình là ra tay lập tức, tức là cho đến khi nghe thấy nạn nhân kêu xin mình thì đáp ứng ngay, như thể Đấng Chữa Lành thụ động còn nạn nhân chủ động, như xẩy ra trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại. 
     
     
    Nạn nhân mù ngồi ăn xin hằng ngày ở thành Giêricô tên Bartimê này, chắc đã lâu lắm rồi, với một thân phận nghèo khổ và tương lai mịt mù như bóng tối hằng che phủ đôi mắt của nạn nhân, có ngờ đâu lại bất ngờ được gặp và gặp được Đấng chữa lành cho mình, và như thế, quả thực cuộc đời của nạn nhân đã được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình Ngài ra, giống hệt như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh trong Phúc Âm Thánh ký Gioan (9:3).
     
     
    Phải chăng cảm nhận được như vậy, nạn nhân diễm phúc này đã không còn thiết gì thế gian này nữa, vì nạn nhân được sáng mắt không phải chỉ thấy được ánh sáng tự nhiên mà nhất là thấy được chính "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), một thứ ánh sáng thần linh ban sự sống đã chữa lành cho nạn nhân, và vì thế nạn nhân đã "đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa"? 
     
     
    Bản thân của nạn nhân đã trở thành một cuộc thần hiển cho Thiên Chúa tỏ mình ra, chẳng những cho chính nạn nhân, mà còn cho cả cộng đồng gần xa của nạn nhân nữa. Mục đích của Thiên Chúa ban ơn cho bất cứ một ai không phải chỉ cho riêng người đó mà còn qua người đó cho các người khác nữa. Bao giờ cũng thế. Đó là nguyên tắc và đường lối tỏ mình ra của Ngài. Bởi thế, bài Phúc Âm hôm nay đã kết luận như sau: "Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa".

    Chưa hết, nếu để ý chúng ta còn thấy người mù ăn xin bên vệ đường này phải là một con người có một đời sống nội tâm siêu việt, được bộc lộ ra qua lời van xin của anh ta ngỏ cùng Đấng mà anh ta tin có thể chữa lành cho anh ta: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít, xin  thương xót tôi" (lần hai cũng thế, tuy không còn lập lại tên Giêsu).

    Tại sao anh mù ăn xin này lại kêu lên câu này, một câu nói cho thấy tất cả đức tin chân thực của anh ta vào nhân vật Giêsu Nazarét, một nhân vật lần đầu tiên anh được gặp dù không thấy nhưng vẫn tin, tin hơn cả thành phần lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái và tin hơn cả thành phần thông luật và dạy luật trong dân nữa, nếu không phải là vì anh ta tin rằng nhân vật "Giêsu" ấy chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng được sai đến không phải để giải thoát dân Do Thái khỏi quyền lực chính trị như hầu hết dân chúng mong đợi, mà là để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Và vì sự chết và đau khổ là hậu quả của tội lỗi mà nếu nhân vật "Giêsu" là Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì Người có thể cứu anh ta khỏi mù.

    Trong câu trả lời của anh ta cho câu hỏi của Chúa Giêsu "anh muốn tôi làm gì cho anh?" rằng "xin cho tôi được thấy" cũng hàm chứa một ước vọng sâu xa của anh ta trong thời gian anh ta bị mù lòa, một thứ mù lòa về thể lý nhưng không thể bịt bùng tâm hồn chiêm niệm tràn đầy ánh sáng siêu nhiên của anh ta. Ước vọng được anh ta bày tỏ qua lời "xin cho tôi được thấy" đó là được thấy "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) là chính Chúa Giêsu, hơn là chỉ được thấy ánh sáng mặt trời, thấy lại những người thân yêu, thấy lại họ hàng thân hữu v.v. Đó là lý do, vì "xin cho tôi được thấy" "ánh sáng thế gian" mà ngay sau khi được chữa lại, được thấy lại, anh ta đã "đi theo Người và ca tụng Thiên Chúa". 

    Về tình trạng mù lòa về thể lý được Chúa Kitô chữa lành trong bài Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho tình trạng mù lòa thiêng liêng cũng cần được chữa lành bởi Người, một tình trạng mù quáng thiêng liêng vô cùng nguy hiểm và khốn nạn đến chính phần rỗi của con người, chẳng những của chung con người qua hai nguyên tổ ngay từ ban đầu, mà còn qua chính dân Do Thái được Thiên Chúa của tổ phụ họ tuyển chọn để làm dân riêng của Ngài và để Ngài có thể qua họ tỏ mình ra cho dân ngoại. Thế mà, qua giòng lịch sử cứu độ của họ, biết bao nhiêu lần họ đã mù quáng đến phản bội Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, đến độ có 2 lần Ngài tính tiêu diệt họ (xem Xuất Hành 32:10; Đệ Nhị Luật 9:14; Dân Số 14:12). Thế mà họ vẫn chưa chừa, vẫn tiếp tục mù quáng chối bỏ Ngài và truất phế Ngài, nhất là dưới thời đế quốc Hy Lạp, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:

    "Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua... Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".

    Tuy nhiên, trong dân Do Thái không phải ai cũng bị mù quáng như vậy, trái lại "cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết". Câu họa của bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh tâm nguyện của thành phần sáng mắt tin tưởng này: "Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài", một bài Đáp Ca (từ Thánh Vịnh 118) đồng thời cũng chất chứa tâm tình trung kiên của họ:

    1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài.

    2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài.

    3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài.

    4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa.

    5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài.

    6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     

    Thu.2.XXXIII.mp3  

    Kỷ Niệm Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Phêrô Và Phaolô Tông Ðồ

     

    Vua Constantin Cả (270-337) đã chiến thắng quân Maxence dưới tường thành Rôma năm 312, nhờ sự xuất hiện lạ lùng của cây Thánh Giá lơ lửng giữa không trung với hàng chữ: "In hoc signo vince" (Tin vào dấu này, ông sẽ thắng). Năm 313, ngài đã ban hành chiếu chỉ (Edit de Milan) chấm dứt cuộc bách hại người Công Giáo và cho tự do tôn giáo. Sau đó, năm 323, nhà vua mới thật sự trở lại Công giáo. Ðể tỏ lòng biết ơn về chiến thắng Maxence, ngài đã xây cất nhiều đại thánh đường nguy nga, trong số đó phải kể vương cung thánh đường thánh Phêrô và thánh Phaolô.

    Ðền thờ thánh Phêrô được xây cất năm 326 và được nới rộng ra năm 1506 với sự cộng tác đắc lực của nhiều kỹ sư và nghệ sĩ có tiếng: Rosellinô. Bramante, Raphael, Michel Ange, Carlô Modernô và Silvestrê. Riêng cái tháp cao 138m, rộng 42m. Thánh Silvestrê và Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII đã thánh hiến ngày 18/11/1626.

    Ðền thờ thánh Phaolô được xây cất trên đường Ostie, bên "ngoài thành" Vatican, và được thánh hiến cũng cùng một ngày với đền thánh Phêrô. Năm 1823, một cuộc hỏa tai đã thiêu hủy gần hết và Ðức Grêgoriô XVI và Ðức Piô IX đã chọn ngày định tín "Ðức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội" để thánh hiến lại, với sự chứng kiến đông đảo của các Giám Mục.


     

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAChZeFje8nO02eR6Ujvj2vaVxAXxc%3D8Sf5cjUVDL95h%2B19mfFg%40mail.gmail.com.
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ NĂM CN33TN-C

    • Tinh Cao <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.>Bcc:This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
    • Phụng Vụ Lời Chúa "Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi".Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và các con ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng nói với Mathathia rằng: "Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa và những người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác". Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: "Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác".Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: "Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!" Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa. Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán. - Ðáp. Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.Phúc Âm: Lc 19, 41-44Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.Ðó là lời Chúa. 


      "Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: 'Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác'"Thế rồi, "ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ.... Đoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: 'Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!' Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa".Thật vậy, lời kêu gọi của Matha-thia trong Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói âm vang lời Thiên Chúa kêu gọi "ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ" trong Thánh Vịnh 49 ở bài Đáp Ca hôm nay:2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán.



      LeMeDangMinh.mp3   


    • Tung hô Tin MừngĐức Giê-su giơ tay chỉ các môn đệ và nói : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.

 

  • ✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

 

    • 46 Khi ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
      (Bài Giáo Lý Thánh Mẫu của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II)1- Ý muốn giữ sống đời của một trinh nữ, được hiển nhiên nơi những lời của Mẹ Maria trong giây phút Truyền Tin, theo truyền thống đã được coi là khởi điểm và là khởi động cho đức đồng trinh Kitô giáo trong Giáo Hội.Thánh Âu Quốc Tinh không thấy nơi quyết định này việc hoàn tất của một chỉ thị thần linh mà là một lời khấn tự do chọn lựa. Như thế việc chọn lựa này mới có thể cho thấy Mẹ Maria là một mẫu gương cho “các kẻ đồng trinh” suốt giòng lịch sử của Giáo Hội. Mẹ Maria “đã hiến dâng đức đồng trinh của mình cho Thiên Chúa khi Mẹ chưa biết Đấng Mẹ sẽ thụ thai, nhờ đó hình ảnh của đời sống thiên đình trong một thân xác trần gian chết chóc được thực hiện bằng một lời khấn chứ không phải bằng một chỉ thị, nhờ việc chọn lựa yêu thương chứ không phải bởi nhu cầu phục vụ” (De Sancta Virg., IV, PL 40:398).Vị Thiên Thần không yêu cầu Mẹ Maria sống đời trinh nữ; chính Mẹ Maria tự ý tỏ ra ý hướng muốn giữ mình đồng trinh của Mẹ. Việc chọn lựa yêu thương dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn hiến mình cho Chúa bằng một cuộc sống đồng trinh được tỏ hiện nơi sự dấn thân này.Khi nhấn mạnh đến tính chất tự động nơi quyết định của Mẹ Maria, chúng ta không được quên rằng nguồn mạch của hết mọi ơn gọi đều do Thiên Chúa khởi động. Bằng việc chọn sống đời đồng trinh, người thiếu nữ thành Nazarét đáp ứng một tiếng gọi nội tâm, tức là đáp ứng tác động của Thánh Linh đã soi sáng cho Mẹ biết về ý nghĩa và giá trị của tặng ân đồng trinh nơi bản thân của Mẹ. Không ai có thể chấp nhận tặng ân này mà lại không cảm thấy được kêu gọi hay không lãnh nhận từ Thánh Linh ánh sáng và sức mạnh cần thiết.Mẹ Maria đã mạnh mẽ quyết định sống đồng trinh2- Mặc dù Thánh Âu Quốc Tinh sử dụng chữ “khấn hứa” để tỏ cho những ai ngài gọi là “các trinh nữ thánh” mẫu gương đầu tiên cho bậc sống của họ, Phúc Âm không chứng thực rằng Mẹ Maria đã minh nhiên thực hiện lời khấn này, một hình thức tận hiến và dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa là hình thức đã từng được thực hiện từ các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội.Theo Phúc Âm chúng ta thấy rằng Mẹ Maria đã thực hiện một quyết định cá nhân muốn sống đời trinh nữ, dâng hiến tấm lòng của Mẹ cho Chúa. Mẹ muốn trở thành một hôn thê trung thành của Ngài, hoàn trọn ơn gọi của Mẹ như một “nữ tử Sion”. Tuy nhiên, bởi quyết định của mình, Mẹ trở nên mẫu thức cho tâá cả những ai trong Giáo Hội muốn chọn việc dấn thân phục vụ Chúa bằng một tấm lòng không chia sẻ nơi đức đồng trinh.Không có một cuốn Phúc Âm nào hay bất cứ một bản văn Tân Ước nào nói với chúng ta về thời điểm Mẹ Maria đã quyết định sống đời trinh nữ. Tuy nhiên, câu Mẹ hỏi vị thiên thần vào lúc Truyền Tin đã thật hiển nhiên cho thấy rằng Mẹ đã thực hiện một quyết định rất mạnh mẽ. Mẹ Maria không ngần ngại bày tỏ lòng ước mong của Mẹ muốn giữ đức đồng trinh này của mình ngay cả trước vai trò làm mẹ được bày tỏ với Mẹ, cho thấy rằng ý nguyện của Mẹ đã chín mùi từ lâu.Thật vậy, việc Mẹ Maria chọn sống trinh nguyên không được thực hiện trước một viễn ảnh không thể biết được về việc trở nên Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng đã được phát triển trong ý thức của Mẹ trước biến cố Truyền Tin. Chúng ta có thể cho rằng khuynh hướng này bao giờ cũng hiện hữu trong long của Mẹ: ân sủng đã sửa soạn cho Mẹ trở thành một trinh mẫu chắc chắn đã tác dụng đến toàn thể cuộc phát triển về con người của Mẹ, trong khi đó Thánh Linh không thôi tác động nơi Mẹ, từ những năm ấu thơ nhất của Mẹ, ước muốn được hoàn toàn nên một với Thiên Chúa.3- Những việc kỳ diệu ngày nay vẫn được Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn và đời sống của rất nhiều giới trẻ trước hết đã được hiện thực nơi linh hồn của Mẹ Maria. Ngay cả trong thế giới của chúng ta đây, một thế giới bị phân tâm rất nhiều bởi những thứ thu hút của một nền văn hóa thường nông nổi hời hợt và hưởng thụ, vẫn có nhiều thanh thiếu niên chấp nhận lời mời gọi xuất phát từ gương của Mẹ Maria để tận hiến tuổi trẻ của mình cho Chúa cũng như cho việc phục vụ anh chị em của mình.Quyết định này là sự chọn lựa những giá trị cao cả hơn, hơn là việc từ bỏ những giá trị về nhân bản. Về vấn đề này, trong Tông Huấn Marialis Cultus của mình, vị tiền nhiệm khả kính Phaolô VI nhấn mạnh là bất cứ ai nhìn vào chứng từ của Phúc Âm với một tâm trí cởi mở “sẽ cảm nhận rằng việc chọn lựa của Mẹ Maria về tình trạng đồng trinh… không phải là một thứ loại trừ bất cứ những giá trị của bậc sống hôn nhân mà là một chọn lựa can đảm được Mẹ thực hiện để tận hiến bản thân mình trọn vẹn cho tình yêu của Thiên Chúa” (số 37) ra sao.Tóm lại, việc chọn sống đời đồng trinh được tác động bởi lòng gắn bó trọn vẹn với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt hiển nhiên nơi Mẹ Maria. Mạc dù trước biến cố Truyền Tin, Mẹ không nhận thức về nó, nhưng Thánh Linh đã tác động Mẹ việc tận hiến trinh nguyên liên quan đến Chúa Kitô: Mẹ vẫn là một trinh nữ để tiếp nhận Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế bằng tất cả con người của Mẹ. Đức đồng trinh đã bắt đầu nơi Mẹ Maria như thế cho thấy chiều kích tập trung vào Chúa Kitô của nó, thiết yếu cho cả đức đồng trinh được thực hành trong Giáo Hội, một đức đồng trinh mô phỏng theo gương mẫu cao cả nơi Người Mẹ của Chúa Kitô. Nếu đức đồng trinh nơi bản thân của Mẹ, được liên kết với vai trò làm mẹ thần linh, vẫn là một sự kiện phi thường, thì nó cống hiến ánh sáng và ý nghĩa cho hết mọi tặng ân trinh nguyên.Đức đồng trinh tận hiến là nguồn mạch của việc sinh hoa kết trái thiêng liêng4-  Biết bao nhiêu là nữ nhân trẻ trung trong lịch sử Giáo Hội, khi chiêm ngưỡng thấy tính chất cao cả và mỹ lệ nơi tâm hồn trinh nguyên của Mẹ Chúa Kitô, đã cảm thấy phấn khởi trong việc quảng đại đáp ứng tiếng gọi của Thiên Chúa bằng cách theo đuổi lý tưởng sống đồng trinh! “Như tôi đã nhắc đến trong Thông Điệp Redemptoris Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc, “Chính đức đồng trinh này, theo gương của Vị Trinh Nữ Nazarét, là nguồn mạch của sự phong phú thiêng liêng đặc biệt: nó là nguồn mạch của vai trò làm mẹ trong Thánh Linh” (số 43).Đời sống trinh nguyên của Mẹ Maria đã tác động nơi toàn thể dân Kitô hữu niềm trân trọng tặng ân đồng trinh và niềm ước muốn là nó cần phải gia tăng trong Giáo Hội như là một dấu hiệu thượng quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi thực tại và như là một thứ ngưỡng vọng tiên báo về một đời sống mai hậu. Cùng nhau, chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho những ai ngày nay vẫn còn quảng đại hiến đời mình sống đồng trinh để phụng sự vương quốc của Thiên Chúa.Đồng thời, trong khi ở các miền khác nhau được phúc âm hóa lâu đời chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa hưởng thụ dường như trở thành những rào cản cho nhiều giới trẻ trong việc theo đuổi đời sống tận hiến, chúng ta cần phải gia tăng nguyện xin Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, cho một cuộc triển nở mới về ơn gọi tu trì. Nhờ đó, dung nhan của Người Mẹ Chúa Kitô, được phản ảnh nơi nhiều trinh nữ đang nỗ lực theo Vị Thày thần linh, sẽ tiếp tục trở thành dấu hiệu cho tình thương và lòng âu yếm của Thiên Chúa đối với nhân loại.  Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 21/8/1996, trang 7.
    • Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
    • Bài 29– 7/8/1996: Việc chọn lựa của Mẹ Maria tác động đức đồng trinh dâng hiến 
    • Lc 11,28
    • Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ha-lê-lui-a.
    • Tin Mừng
    • Mt 12,46-50

 

  • LỄ ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH

 

    • Xin mời đọc và nghe về Lễ Mẹ Dâng Mình cùng ngày Thứ Năm 21/11/2019
    •  
    • TN.XXXIIIL-5.mp3  
    • Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 
    • 3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.
    • 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng.
    •  
    •  
    • Bởi vậy, lần khóc thứ hai này của Người trước hình ảnh của một thành thánh Giêrusalem nguy nga đồ sộ sẽ bị tàn phá liên quan đến hình ảnh về một Giáo Hội của Người cũng sẽ có ngày bị "các đạo quân Gog và Magog" đông vô kể công hãm, như Sách Khải Huyền đã tiên báo (20:9), khiến cho một số chi thể của Người bị tử thương muôn đời về phần rỗi vô cùng tiếc xót của họ! 

      Nếu biết được Thiên Chúa yêu thương loài người đến đâu thì mới cảm được sự kiện khóc thương này của Chúa Giêsu, như thể Người tiếc thương chẳng những cho các linh hồn bất tử vô cùng quí giá bị hư đi mà còn khóc thương cho chính Tình Yêu Vô Cùng Nhân Hậu đầy Khôn Ngoan và Toàn Năng của Thiên Chúa, một tình yêu đã yêu thương loài người "đến cùng" (Gioan 13:1), không còn thể nào yêu hơn được nữa, không còn cách nào để yêu họ hơn được nữa, đã chẳng những trở nên vô ích và thành đồ bỏ đối với những linh hồn hư đi ấy, mà còn trở thành án phạt đời đời cho họ nữa.

      Phải chăng những giọt nước mắt không thể cầm được nơi Chúa Kitô phần nào diễn tả tất cả nỗi xót xa đớn đau của một Vị Thiên Chúa Toàn Thiện và Toàn Ái trước thân phận hư đi của một số linh hồn bất hạnh được Ngài yêu thương dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài để nhờ đó họ có thể hiệp thông thần linh với Ngài?

      Phải chăng những giọt nước mắt ngọc ngà chảy ra từ đôi mắt vô cùng từ bi nhân hậu của Vị Thiên Chúa hóa thân làm người Giêsu Nazarét ấy mới là một chút dạo khúc mở đầu cho nỗi thống khổ sẽ lên tới tột cùng ở Vườn Cây Dầu khi Vị Thiên Chúa làm người này toát mồ hôi máu ra nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44), hình ảnh báo trước cuộc tử nạn vô cùng đau thương của Đấng cho dù đã chết vẫn chưa được dung tha, vẫn còn bị một lưỡi đòng phũ phàng oan nghiệt đâm thâu qua làm cho "máu và nước chảy ra" (Gioan 19:34)? Ôi LTXC!

      Tuy nhiên, tình trạng Thành Thánh Giêrusalem bị tàn phá được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chị là một tai họa, một hậu quả gây ra do tội lỗi của dân Chúa "đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng", mà còn là một thách thức đối với những tâm hồn nào còn trung thành với Ngài, để Ngài tiếp tục tỏ mình ra cho cả thành phần vô đạo bách hại họ và sát hại họ nữa, như trường hợp của Matthias cùng với gia đình của ông và những người bất khuất đáp lại lời kêu gọi hào hùng của ông, như được Sách Macabê quyển thứ 1 thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay:
    • Chúa Kitô khóc lần thứ nhất trước ngôi mộ của Lazarô đã chết đến xông mùi sau 4 ngày (xem Gioan 11:39) không phải vì Lazarô là người bạn thân của Người đã chết sắp được Người hồi sinh, cho bằng vì Người thấy trước có một số môn đệ của Người sẽ bị vĩnh viễn hư đi trong mộ tử thần không bao giờ chỗi dậy được nữa, cho dù có nghe được tiếng Người gọi, hay hoàn toàn không còn nghe được tiếng Người nữa. 
    • Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu khóc được Phúc Âm thuật lại; lần thứ nhất xẩy ra vào lúc trước khi Người hồi sinh Lazarô (xem Gioan 11:35). Vậy tại sao Người lại khóc khi thấy thành thánh Giêrusalem này, nếu không phải lý do ở ngay những lời Người nói với thành thánh ấy: phải chăng chính là vì thành thánh có đền thánh là nơi Thiên Chúa Cha của Người ngự này sẽ bị quân thù phá tan tành thành bình địa "không hòn đá nào trên hòn đá nào", hay là vì "ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng" nên sẽ bị nông nỗi kinh hoàng khủng khiếp chưa từng thấy ấy?
    • "Trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: 'Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp lũy bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
    • Và tầm mức gần Thành Giêrusalem của Chúa Giêsu đến độ mắt của Người có thể trông thấy được toàn cảnh của thành này, và vì trông thấy thành Giêrusalem như thế mà Người đã thổn thức khóc, như Phúc Âm thuật lại như sau:
    • Thật ra giữa bài Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau một khúc phúc âm không thích hợp vào thời điểm của Mùa Thường Niên Tuần XXXIII này, đó là khúc phúc âm về biến cố Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, một khúc phúc âm đã được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Lễ Lá, ở phần nghi thức rước lá trước lễ. 
    • Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, bài Phúc Âm tiếp tục thuật lại hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau khi "Người đã gần đến Giêrusalem - he was near Jerusalem" được Thánh ký Luca ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm qua, thì bài Phúc Âm hôm nay cho biết "Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem - coming within in sight of the city".
    • Những giọt châu lệ của một Tình Yêu Thương Xót quá thống khổ
    •  
    • Suy nghiệm Lời Chúa
    •  
    • Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
    • "Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
    •  
    • Alleluia: x. Cv 16, 14b
    • 3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.
    • Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng. - Ðáp.
    • Ðáp Ca: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15
    • Ðó là lời Chúa.
    • Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử với Zimri con ông Salomi.
    • Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
    • Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 2, 15-29
    •  

 

  • Bài trích sách ngôn sứ Da-ca-ri-a.

 

  • 14Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò,
    vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi,
    - sấm ngôn của Đức Chúa.
    15Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Đức Chúa :
    Chúng sẽ thành dân thánh của Ta,
    và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi.
    Bấy giờ, các người sẽ nhận biết rằng
    Đức Chúa các đạo binh đã phái tôi đến với các người.
    16Đức Chúa sẽ lấy Giu-đa làm cơ nghiệp,
    đó là sở hữu của Người trên Đất Thánh
    và Người sẽ lại tuyển chọn Giê-ru-sa-lem.
    17Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Đức Chúa,
    bởi vì Người tỉnh giấc và ra khỏi Nơi Thánh của Người.
  • Đáp ca
  • Lc 1,46-47.48-49.50-51.52-53.54-55 (Đ. c.49) 
  • Đ.Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn !Đ.Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn !Đ.Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn !Đ.Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn !Đ.Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn !Đ.Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn !
  • 54Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,55như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
    vì Người nhớ lại lòng thương xót
    dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
    và cho con cháu đến muôn đời.
  • 52Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
    Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.53Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
    người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
  • 50Đời nọ tới đời kia,
    Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.51Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
    dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
  • 48Phận nữ tỳ hèn mọn,
    Người đoái thương nhìn tới ;
    từ nay, hết mọi đời
    sẽ khen tôi diễm phúc.49Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn !
  • 46Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,47thần trí tôi hớn hở vui mừng
    vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
  • To:TDCTT Cao Tinh
  • Nov 20 at 6:26 PM
  • --------------------------------------

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

  •  
    Jerome Nguyen Van Noi - Nov 15 at 12:48 AM
     
     

    TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

    + TGM. Giuse Nguyễn Năng

    1- Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

    Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

    Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

    Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

    Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

    Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.

    Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

    2- Ngày lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.

    Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?

    Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

    Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.

    Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.

    Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

    3- Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

    Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

    Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

    Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.

    Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô Anna Năm xác nhận:”Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho”.Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: “Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.”

    Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

    Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

    Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

    Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

    Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.

    Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.

    4- Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.

    Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

    Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.

    Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

    Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

    Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

    Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

    *SUY TƯ VÀ QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG: Chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô. "Tôi biết tôi đã tin vào ai?” (2 Tm 1,12). Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế. .

     

    TÌNH CA TỬ ĐẠO VIỆT NAM

    Bài tình ca tử đạo

    Thắm màu máu đỏ tươi

    Trầm hùng và tuyệt diệu

    Âm vang cả đất trời.

    Những con người yếu đuối

    Có sức mạnh niềm tin

    Dẫu hiểm nguy không ngại

    Vẫn hiên ngang ngước nhìn.

    Da vàng và máu đỏ

    Sắc màu thiêng Việt Nam

    Kiên cường ôm thập giá

    Dám chết vì đức tin.

    Ác nhân luôn hèn hạ

    Dùng đủ mọi cực hình

    Nhưng tín nhân không sợ

    Vẫn yêu Chúa hết tình.

    Bài tình ca tử đạo

    Những nốt yêu hòa âm

    Êm đềm ngọt giai điệu

    Dệt tình khúc Việt Nam. 

    Viễn Dzu Tử

    Kinh nguyện 

    Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 

    Đội ơn Thiên Chúa muôn trùng

    Ban cho các Đấng Anh Hùng Việt Nam

    Một lòng chối bỏ trân cam

    Mặc ai dụ dỗ chẳng ham phúc trần.

    Máu đào dâng hiến trọn thân

    Quyết tâm theo Chúa- chứng nhân Nước Trời

    Ngày nay cho đến muôn đời

    Thanh nhàn vĩnh phúc, gương soi chiên đoàn.

    Chúng con còn ở trần gian

    Nguyện xin các Thánh thông ban hộ phù

    Ơn thiêng: sức mạnh, thân tu 

    Nếu không tử đạo, cần cù siêng năng.

    Vượt qua tục luỵ, lưới giăng

    Noi gương các Thánh, Chúa hằng xót thương

    Chờ ngày Chúa gọi lên đường

    Về cùng các Thánh đồng hương Nước Trời. Amen. .

    (Thế Kiên Dominic)

     

     

     

    --