1. Hôn Nhân & Gia Đình

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - ĐỨC KHÓ NGHÈO CỦA LM

  •  
    Chi Tran CHUYỂN
     

    ĐỨC KHÓ NGHÈO CỦA LINH MỤC

     

    Khó nghèo, giản dị, thậm chí khổ hạnh nghe có vẻ đơn giản, nhưng những điều này thực sự có ý nghĩa gì đối với người linh mục giáo phận?

     

    Hình ảnh hiện lên trong tâm trí tôi lúc này là một căn biệt thự bên bờ biển.

    Khi các vụ bê bối về lạm dụng tình dục của linh mục nổ ra đầu năm 2002, mở đầu cho thời gian mà Richard John Neuhaus gọi là “Mùa Chay trường kỳ” của chúng ta, tôi chỉ mới được thụ phong linh mục gần hai năm.

    Phản ứng đầu tiên của tôi là sửng sốt và tức giận. Ngay sau khi các giám mục Hoa Kỳ cam đoan sẽ “phục hồi niềm tin” trong những năm của thập niên 90, thì giờ đây họ lại bao che cho các hành vi lạm dụng một lần nữa. Đối mặt với dư luận, tôi cảm thấy thật hổ thẹn khi bị xem là người có liên đới với những linh mục tội lỗi ấy. Trong lúc nhiều người cố gắng biện minh cho vấn đề - là vấn đề chỉ liên quan đến một số nhỏ trong hàng giáo sĩ chứ không phải toàn bộ Hội Thánh – thì tôi trả lời rằng: “Không sao cả! Chúng ta phải trở nên tốt đẹp hơn thế.” Dù vậy, thực sự bằng một cách nào đó, mọi thứ dần trở nên tươi sáng hơn. Khi chia sẻ vấn đề này trên giảng đài, cha sở của tôi và tôi nhận được một sự ủng hộ mạnh mẽ từ giáo dân. Sau đó, các giám mục dường như cuối cùng cũng chịu giải quyết vấn đề một cách thẳng thắn và dứt khoát. Báo cáo của John Jay đặt dấu chấm hết cho sự im lặng của Hội Thánh, và Hiến chương Dallas trở thành hình mẫu cho các thể chế khác trong việc bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên. Lời phản hồi dù không trọn vẹn – như lời trình bày của Hồng y Dulles – nhưng Giáo hội Hoa Kỳ dường như đang bước sang một trang mới, tươi sáng và tốt đẹp hơn.

     

    Dẫu vậy, một khía cạnh của vấn đề này vẫn còn bị dấu kín. Một trong những nhân vật then chốt trong phản hồi của các giám mục là Hồng y Theodore McCarrick, khi ấy là tổng giám mục Washington, D.C. Có nhiều tin đồn không tốt về các hành vi của ông ta đối với những chủng sinh, thế nhưng không có kết luận gì được đưa ra trước khi ông ấy được trở thành một trong những giám mục nổi tiếng nhất Hoa Kỳ.

     

    Mùa hè 2018, tôi đến Washington để học thần học luân lý tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ với mục đích chuẩn bị cho sứ vụ tại chủng viện. Không lâu sau đó, McCarrick bị buộc phải ngưng các thừa tác vụ công khai vì những cáo buộc khả tín về lạm dụng. Tin tức này như chứng thực những tin đồn tôi đã nghe, thế nhưng vì bận rộn chuẩn bị cho sự chuyển biến từ cha sở thành một sinh viên, nên tôi không lưu tâm nhiều đến nó. Kế đến, với những cáo buộc kinh khủng, Báo cáo của Pennsylvania Grand Jury dường như đưa chúng ta về lại những ngày đen tối của năm 2002. Liệu chúng ta có thể vượt qua những chuyện này? Đâu là giới hạn của sự suy đồi trong Hội Thánh?

     

    Khi tôi nghe biết về một căn biệt thự bên bờ biển ở Jersey, nơi McCarrick thường đưa các chủng sinh và các cá nhân mà ông ta ưu ái đến đó, sau đó tìm cớ để một trong số họ lên giường với mình. Điều này thật làm tôi tức điên lên – không chỉ đơn giản bởi những điều tệ hại ông ta đã làm ở đó, mà ngay từ ban đầu, tôi còn muốn biết tại sao và có cần thiết hay không khi ông ta được quyền lui tới một căn biệt thự ven biển ấy. Có mấy người được McCarrick gọi đến phục vụ có đủ khả năng sở hữu một thứ sang trọng như thế? Tại sao ông ta lại có được đặc ân như vậy?

     

    Căn biệt thự ven biển này được sở hữu bởi tổng giáo phận Newark và được McCarrick sử dụng cho mục đích cá nhân của ông, là một trong rất nhiều cách thức mà vị hồng y này tận hưởng những của cải mà ông thu góp được nhân danh Hội Thánh. Như thế, nó thể hiện một sự suy đồi sâu xa hơn những gì tôi nghi hoặc. Không biết bao nhiêu lần tôi đã đọc về các linh mục không chỉ phạm tội nghịch với sự độc thân khiết tịnh mà còn phạm đến sự liêm chính trong quản lý tài chính? Suốt nhiều năm qua, có quá nhiều chuyện tai tiếng về những khoản tiền đút tay để tránh khỏi việc tố tụng hay để ém nhẹn những tiết lộ đáng hổ thẹn với cánh báo chí, sự tham ô để dung dưỡng một đời sống xa hoa kiểu “hàng tư tế”, và các hành vi đáng ngờ để bào chữa cho khả năng gây quỹ hoặc những món quà đắt giá.

     

    Thế nhưng, cho đến nay, tôi vẫn xem các sự việc trên là vấn đề cần phải được giải quyết bởi người khác – bởi các giám mục, các nhà đào tạo, các hội đồng tư vấn, vv… Nhưng giờ đây, tôi nhận ra rằng tôi phải là một phần của các giải pháp. Các vụ bê bối kéo dài nhiều thế kỷ đã làm hoen ố thanh danh của hàng linh mục. Tôi và các anh em linh mục của tôi cần phải làm gì để phục hồi niềm tin tưởng và đảm bảo cho việc loan báo tin mừng được hiệu quả đây?

     

    Tôi tin tưởng rằng nếu muốn có niềm hy vọng vào sự đổi mới trong hàng linh mục, thì các linh mục chúng tôi phải lưu tâm đến mối liên hệ giữa dục vọng và sự xa hoa, đến sự thất bại trong việc kiểm soát ham muốn ở nhiều khía cạnh trong đời sống của mình. Sự tận hiến cho Chúa Kitô và cho việc phục vụ dân Chúa phải biểu lộ cách tỏ tường trong mọi mặt của đời sống linh mục. Nhưng bằng cách nào để có được điều đó đây? Lịch sử Giáo Hội sẽ cho chúng ta một câu trả lời đầy đủ.

     

    Sự cải tổ trong Giáo hội thường được đặt nền móng bằng việc thực hành đức khó nghèo cách tự nguyện. Vào thế kỷ III, thánh Antôn ẩn tu từ bỏ mọi của cải trần thế và lánh vào sa mạc ở vùng Ai Cập, ngài trở thành “cha của các ẩn sĩ” và đặt ra một cung cách sống hoàn toàn trái ngược với các Kitô hữu được sinh trưởng cách sung túc do địa vị xã hội của họ đang lớn mạnh trong Đế quốc La Mã thời bấy giờ. Cũng có một Bênêđíctô thành Nursia, người gây bàng hoàng cho thành Rôma suy đồi trong thế kỷ VI. Thánh nhân lui vào trong hoang địa và thiết lập một tu luật chú trọng vào việc cầu nguyện và lao động, tu luật ấy vẫn còn là một khuôn mẫu cho Kitô giáo Tây phương ngày nay. Vào thế kỷ XIII, thánh Phanxicô Assisi dẫn dắt một cuộc canh tân trong Giáo hội Công giáo bằng cách mang vào mình “sự khó nghèo thánh”, và thánh Đaminh thành Osma, đấng sáng lập dòng Thuyết giảng, nhận ra rằng sự giàu sang của Giáo hội đang gây cản trở cho việc rao giảng tin mừng. Ở thế kỷ XVI, thánh Têrêsa Avila, thánh Inhaxiô Loyola và nhiều vị thánh khác cũng canh tân đời sống thánh hiến nhờ vào việc đánh đổi một đời sống sung túc và nhận lấy sự khổ hạnh mang lại tự do. Gần đây hơn, Phong trào Công nhân Công giáo của Thánh Dorothy Day (Dorothy Day’s Catholic Worker) và các phong trào giáo dân khác đã tìm thấy những cung cách sống mà ở đó người Kitô hữu hoàn toàn phó thác bản thân vào sự quan phòng của Thiên Chúa chứ không phải vào của cải trần gian.

     

    Theo truyền thống, một sự khác biệt lớn giữa các linh mục dòng và linh mục “triều” (các linh mục trực thuộc giáo phận, không ở trong một dòng nào) nằm ở điểm các linh mục dòng phải ưng thuận các lời khuyên phúc âm về sự khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Tuy thế, tất cả các linh mục đều phải hứa vâng phục đức giám mục hoặc bề trên hợp pháp của mình, và đa phần các linh mục trong giáo hội Công giáo Tây phương bị buộc phải giữ mình độc thân khiết tịnh. Vậy điểm mấu chốt phân biệt giữa linh mục dòng và linh mục triều chỉ còn nằm ở lời khấn khó nghèo.

     

    Tại sao lại có sự khác biệt này? Bởi vì, trong lịch sử thời kỳ đầu, các linh mục coi xứ thường được phép kết hôn. Đến ngày nay, các linh mục của Giáo hội Công giáo Đông phương và Chính thống giáo (trừ các giám mục) cũng được phép kết hôn trước khi được truyền chức (điều này giống với các phó tế vĩnh viễn theo Nghi lễ Latinh). Việc giữ lời khấn khó nghèo trong khi vẫn phải tìm cách chăm lo cho gia đình là rất khó và bất công.

     

    Tuy nhiên, ở Tây phương, nơi luật độc thân khiết tịnh bị bắt buộc, các linh mục từ lâu vẫn có được các nguồn thu nhập riêng nhờ vào bổng lễ, tặng phẩm từ các tín hữu và nhiều cách thức khác. Chỉ trong nhiều thế kỷ gần đây, một khoản lương ổn định, đồng nhất trong một giáo phận mới trở thành những quy tắc, kèm theo đó là các chế độ hưu dưỡng, chăm sóc sức khỏe, và nhiều phúc lợi khác cho các linh mục.

     

    Ở một đất nước giàu có như Hoa Kỳ, linh mục giáo phận được xem như những quý ông độc thân của tầng lớp trung lưu. Với hầu hết các chi phí của mình, gồm phí thực phẩm và nhà ở, phí chăm sóc sức khỏe, họ có rất nhiều các khoản thu nhập khả dụng. Mặc dù Giáo hội luôn khích lệ các linh mục dùng các khoản dư đó cho các nhu cầu hoạt động tông đồ, đặc biệt là cho người nghèo, thế nhưng số tiền đó vẫn được các linh mục sử dụng cho mục đích cá nhân. Kết quả là nhiều linh mục có đủ điều kiện để đến các nhà hàng sang trọng, tận hưởng những kỳ nghỉ xa hoa, và thực hiện nhiều thú vui khác.

     

    Dẫu vậy, kể từ Công đồng Vatican II, Giáo hội đã kêu gọi các linh mục giáo phận “tự nguyện gắn bó với đức khó nghèo bởi nhờ đó họ ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và nhiệt thành hơn trong sứ vụ thánh thiêng của mình”. Trong tông huấn Pastores Dabo Vobis (Những mục tử như lòng mong ước), thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khuyên nhủ các linh mục đón nhận “khổ hạnh”, trong khi đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô bằng gương mẫu và giáo huấn của mình đã mời gọi các linh mục sống một đời sống giản dị.

     

    Khó nghèo, giản dị, thậm chí khổ hạnh nghe có vẻ đơn giản, nhưng những điều này thực sự có ý nghĩa gì đối với người linh mục giáo phận? Chắc chắn đó không phải là một sự thiếu thốn của cái nghèo không tự nguyện. Ngoài một mái nhà che đầu và ba bữa cơm một ngày, vị linh mục giáo phận sẽ cần một chiếc xe hơi và điện thoại di động để thi hành sứ vụ. Ngài cũng không phải cam kết sống khó nghèo chung với một cộng đoàn dòng tu; nhiều linh mục sống một mình, số ít còn lại thì sống cộng đoàn với một hoặc hai linh mục khác, những linh mục này thường không có cùng sở thích, thói quen và cũng hiếm khi ở lại giáo xứ quá vài năm.

     

    Có lẽ, câu chuyện được kể bởi Đức Hồng y Dolan có thể minh giải về kiểu khó nghèo mà các linh mục được kêu mời. Đức Hồng y đến viếng thăm một thầy dòng Đaminh và nhận thấy rằng phòng của thầy ấy rất tối giản. Đức Hồng y hỏi vị tu sĩ rằng thầy cất các đồ dùng còn lại của mình ở đâu. Vị tu nói rằng đây là tất cả những gì thầy ấy sở hữu, và sau đó hướng chú ý đến việc Đức Hồng y cũng chỉ mang theo bên mình vẻn vẹn một cái vali. Đức Hồng y đáp lại, “Nhưng tôi chỉ ghé ngang qua thôi mà”. Vị tu sĩ trả lời, “Không phải chúng ta mới là tất cả sao? [Đâu cần gì nữa]”

     

    Thật vậy, Công đồng Vatican II tuyên bố rằng tinh thần nghèo khó theo phúc âm là một điều mà tất cả các Kitô hữu nên thiết tha mong mỏi. Đức khó nghèo theo phúc âm bắt đầu với nhận thức rằng tất cả thụ tạo chỉ là phù vân, và với khao khát sử dụng chúng để làm vinh danh Thiên Chúa và trợ giúp anh chị em của mình. Như thánh Inhaxiô Loyola đã phát biểu, “Tôi chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở. Để làm được điều đó, tôi cần phải giữ cho mình được bình tâm đối với mọi tạo vật trong tất cả những gì nằm trong sự tự do của tôi và không bị cấm.” (Linh thao, số 23)

     

    Sự tận hiến này có thể được đào sâu khi chúng ta suy ngắm rằng chúng ta nỗ lực theo đuổi đức khó nghèo trong sự noi gương Đức Kitô, Đấng được thánh Phaolô cho là, “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8:9). Trong việc Nhập Thể, Chúa Kitô đã tự ý trút bỏ vinh quang, mặc lấy điều mà Christopher Franks đã gọi là sự khó nghèo tự bản thể (ontological poverty): sự khiêm hạ trước mặt Chúa Cha trong việc chấp nhận thân phận con người. Trường phái Linh đạo Pháp đã mô tả hình thức khó nghèo ấy là anéantissement – sự “hủy mình ra không” của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên nhầm lẫn tư tưởng trên với ý nghĩa rằng chúng ta chẳng có chút giá trị nào – không phải vậy! – nhưng đúng hơn là chúng ta liên tục được nhận lãnh từ Thiên Chúa món quà của sự hiện hữu. Chúng ta phải dưỡng nuôi một thái độ tin cậy khi đối mặt với những yếu nhược của mình trong một thế giới sa đọa, và phó thác trọn con người cho sự quan phòng của Thiên Chúa.

     

    Dù vậy, tinh thần khó nghèo phải được củng cố bằng sự khó nghèo vật chất. Có lẽ những tài sản của tôi không “sở hữu” tôi, nhưng điều đó không thể hiện rằng tôi đầy đức độ trong việc sử dụng của cải vật chất hay tôi rất quảng đại với người nghèo. Mẫu gương Chúa Giêsu rất sáng ngời ở điểm này. Chúa Giêsu được sinh ra trong một chuồng gia súc, và khi dâng hiến Người trong Đền thờ, cha mẹ Người đã dâng lễ vật của người nghèo. Người nói với những kẻ muốn theo Người, “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:57). Người và các môn đệ cũng phải nhờ vào các một nhóm người phụ nữ khi di chuyển từ làng này qua làng khác. Và Người khép lại cuộc đời trần thế bằng việc trút bỏ mọi thứ được cho là thuộc về Người.

     

    Nhưng Chúa Giêsu không hoàn toàn túng thiếu. Thánh Tôma Aquinô chỉ ra rằng Chúa Giêsu không bắt chước sự khắc khổ của Gioan Tẩy Giả, bởi vì sứ vụ của hai người hoàn toàn khác nhau. Gioan kéo mọi người vào sa mạc để chịu phép rửa và hoán cải, Chúa Giêsu đến để mang Tin mừng cho người nghèo và vì thế Người gặp gỡ họ ở chính nơi họ thuộc về. Người không từ khước hưởng nhờ sự bác ái của tha nhân, cho dù đó là những người bạn ở Bêtania, hay ông Simon thuộc nhóm Pharisêu, hay chủ tiệc cưới Cana, hoặc thậm chí là môn đệ Matthêu trong bữa tiệc mừng ông được hoán cải. Người còn bị gọi là kẻ tham ăn hay một tay ăn nhậu! Dù thế, Chúa Giêsu đi bất cứ nơi đâu mà sứ vụ của Người dẫn lối, Người luôn sẵn sàng lên đường đến nơi kế tiếp: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38).

     

    Trong một trình thuật nổi tiếng của Tin mừng, người thanh niên giàu có nọ đến hỏi Chúa Giêsu về việc anh ta phải làm gì để có được sự sống đời đời. Chúa Giêsu trước hết bảo anh ta hãy tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa. Chàng thanh niên thưa là đã chu toàn những điều đó rồi, nhưng anh ta còn đang tìm điều khác nữa. Chúa Giêsu đáp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19:21). Qua nhiều thế kỷ, đoạn Kinh Thánh này vẫn luôn gợi hứng cho các thánh nhân và những ai sống đời sống thánh hiến. Có đôi khi nó cũng được dùng để ủng hộ cho quan điểm về hai “tầng lớp” trong Giáo hội: tầng lớp thứ nhất gồm những người chỉ tuân giữ các giới răn, và thứ hai là những người “muốn nên hoàn thiện”, đồng thời tuân theo các lời khuyên phúc âm. Tuy nhiên, thánh Tôma Aquinô lưu ý rằng lời kêu mời trở nên hoàn thiện được trao ban cho tất cả mọi người, và sự hoàn thiện đó không tồn tại trong các lời khuyên phúc âm nhưng trong Đức Ái. Dù chúng ta được báo trước là sẽ rất khó để người giàu vào nước trời, nhưng nó không nghĩa là không thể được; thánh Tôma chỉ ra trường hợp của tổ phụ Abraham, người có rất nhiều của cải nhưng luôn bước đi trước mặt Thiên Chúa và đã nên hoàn thiện.

     

    Hơn nữa, chúng ta thường lãng quên điểm mấu chốt trong câu chuyện về người thanh niên giàu có: Không chỉ dừng lại ở việc bán hết của cải và bố thí cho người nghèo mà thôi, nhưng còn một bước nữa là anh ta phải đến và theo Chúa Giêsu. Sự khó nghèo sẽ là một lợi khí của tự do trong việc đáp lại lời kêu mời trở nên người môn đệ.

     

    Cuối cùng, con đường của người môn đệ sẽ dẫn tới Thập giá và những hành động tự hiến trọn hảo. Nỗi sợ cái chết – việc chúng ta không bằng lòng để thừa nhận rằng:  suy cho cùng, chúng ta không phải là chủ nhân của số phận mình – thôi thúc trong chúng ta một ảo tưởng rằng không gì có thể phương hại tới bản thân chúng ta nếu chúng ta tích góp đủ của cải. Nhưng “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8:36).

     

    Các linh mục được kêu mời trở nên một chứng tá đi ngược dòng đối với chủ nghĩa tiêu thụ đang làm suy thoái môi trường sống và sản sinh ra “nền văn hóa loại bỏ” – theo cách gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, nền văn hóa này cũng tác động đến thái độ hướng tha của chúng ta. Thật dễ dàng để ruồng bỏ những người bạn, vợ/chồng, hoặc con cái một khi họ trở thành gánh nặng cho chúng ta. Chúng ta thường xem tha nhân như những vật cản cần phải loại bỏ hay những công cụ để đạt được mục đích của mình. Các linh mục không phải không nhiễm lối suy nghĩ này.

     

    Vì thế, đức khó nghèo theo tinh thần phúc âm cung cấp một giải pháp hữu hiệu cho sự khủng hoảng đang còn tiếp diễn trong Giáo hội. Bằng cách khước từ những sự vật hoặc con người được cho là thuộc về mình “cách chính đáng”, chúng ta có thể kiểm soát được điều mà thánh Augustinô gọi là libido domiandi – ham muốn thống trị - thứ cám dỗ chúng ta coi bản thân mình là chúa của mọi sự thay vì đón nhận quyền thống trị của Chúa Kitô. Đức khó nghèo có thể giải phóng chúng ta ra xa “dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của” (1Ga 2:16) – và tháo cởi chúng ta khỏi sự dính bén với các ham muốn, sự thiếu khiết tịnh và lạm dụng quyền lực – những thứ được phô bày trong các vụ bê bối.

     

    Làm sao để sống đức khó nghèo? Chay tịnh là bước khởi đầu: cơn đói thể lý cho thấy: sự lệ thuộc của chúng ta vào trật tự tạo dựng, nhu cầu của những kẻ không có đủ ăn, và cơn đói thiêng liêng hướng về Thiên Chúa. Sự nhiệt tâm và quảng đại bố thí (cách khôn ngoan) là bước tiếp theo. Một thần học gia đã đề xuất điều mà tôi muốn gọi là “kế hoạch 50-50” của Giakêu. Cùng nhớ lại khi Giakêu gặp Chúa Giêsu, ông ấy không bị buộc phải cho đi mọi thứ mình có – chỉ phân nửa là đủ rồi. Điều gì sẽ xảy ra nếu, khi chúng ta lên kế hoạch mua sắm, hoặc nghỉ mát, chúng ta cũng sẵn sàng trao tặng số tiền tương tự như thế cho những người nghèo?

     

    Sự khó nghèo theo phúc âm cũng củng cố sự thăng tiến của nhân đức thờ phượng, nghĩa là dâng cho Thiên Chúa điều đáng thuộc về Người. Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về mọi sự, vì thế chúng ta chẳng thể nào chu toàn trọn vẹn bổn phận của mình. Nhưng món nợ đó nên sản sinh ra nỗi sợ con thảo của chúng ta dành cho Thiên Chúa, đó là khởi điểm của sự khôn ngoan. Nỗi sợ này là sự kính sợ chúng ta kinh nghiệm khi đứng trước Thiên Chúa và nhận ra tất cả những gì chúng ta có và chúng ta là đều hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, đó chính là thái độ được rèn giũa nhờ vào đức khó nghèo theo tinh thần phúc âm.

     

    Kinh nghiệm về sự nhân lành của Thiên Chúa trong những khía cạnh trên dẫn chúng ta tới một niềm hy vọng thực sự. Tinh thần khó nghèo nuôi dưỡng một niềm hy vọng cánh chung về một sự đổi mới toàn vũ trụ. Vì đức khó nghèo được dựa trên nhận thức rằng chúng ta được tạo tác không phải để thỏa mãn những dục vọng thể lý tầm thường, và dựa trên ý thức tối hậu rằng tài sản của Hội Thánh là chính Chúa Giêsu Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).

     

    Cuối cùng, trong đức khó nghèo chúng ta vui mừng đón nhận sự lệ thuộc vào Thiên Chúa và nhìn ngắm mọi thụ tạo như là những tặng phẩm từ Người. Chúa Giêsu nói: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10:8). Là những người môn đệ, chúng ta tự do dâng hiến bản thân, dâng hiến những thứ thuộc về chúng ta, để phục vụ cho Tin mừng và cho những kẻ được Chúa Kitô chịu chết vì họ. Đây đúng là một đời sống sung mãn thật sự.

     

    Quang Sáng

    Chuyển ngữ từ: firstthings.com (3.2022) 
    Lm. Timothy J. Cusick  
    Giám học tại Đại chủng viện St. Vincent de Paul, Florida, Hoa Kỳ

     

     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - ĐTC PHANXICO - BÀI VỀ TUỔI GIÀ -

 

  •  
    Tinh Cao
     
    Trọng kính Cộng đồng Dân Chúa,

    ĐTC Phanxicô tiếp tục loạt bài về Tuổi già đến bài thứ 10 về nhân vật Gióp, với đoạn cuối cùng của Sách Gióp sau đây:

     

    Ông Gióp thưa với ĐỨC CHÚA: Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu. […]

    Con đã nói dù chẳng hiểu biết gì về những điều kỳ diệu vượt quá sức con.

    Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến.

    Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn.

    ĐỨC CHÚA giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước kia.

    Sau đó, ông Gióp còn sống thêm một trăm bốn mươi năm nữa, ông được thấy con cái cháu chắt đến bốn đời. (G 42,1-6.12.16)

    Trong bài giáo lý 10 này, ĐTC nêu lên 2 tấm gương: 1 phải tránh là gương bạn bè của ông Gióp và 1 cần theo là gương ông Gíóp, như sau:

    "Thiên Chúa quở trách những người bạn của Gióp, những người cho rằng họ biết mọi sự, về Thiên Chúa và về đau khổ, và khi đến để an ủi Gióp, rốt cuộc họ lại phán xét ông bằng những khuôn mẫu sẵn có của họ. Xin Chúa gìn giữ chúng ta khỏi thói đạo đức giả hình và trịch thượng này!

     "Chúa nói với các bạn của Gióp như thế. “Gióp, tôi tớ của Ta, sẽ chuyển cầu cho các ngươi. Ta sẽ đoái nhìn nó và sẽ không xử với các ngươi xứng với sự ngu xuẩn của các ngươi, vì các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta” (42,7-8).

    Các nạn nhân có một loại quyền phản kháng khi đối diện với sự dữ, đó là quyền Thiên Chúa ban cho bất cứ ai, thậm chí tự thẳm sâu do chính Thiên Chúa khơi lên.

     "Nếu bạn có những vết thương trong lòng, những nỗi đau và bạn cảm thấy muốn phản kháng, ngay cả phản kháng đối với Chúa, Chúa sẽ lắng nghe bạn, Chúa là Cha, Chúa không sợ lời cầu nguyện phản kháng của chúng ta. Chúa hiểu điều đó.

    "Hãy tự do, hãy tự do trong lời cầu nguyện của bạn, đừng giam hãm lời cầu nguyện của bạn trong những khuôn mẫu định sẵn! Đừng! Lời cầu nguyện phải thật tự phát, giống như của một người con với cha mình, nói ra tất cả mọi sự bởi vì nó biết cha sẽ hiểu điều đó.

     "Lời tuyên xưng đức tin của Gióp – nổi lên từ chính lời khẩn cầu không ngừng của ông lên Thiên Chúa, công lý tối cao – cuối cùng được kiện toàn với một kinh nghiệm gần như thần bí, khiến ông phải thốt lên: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến.” (42,5).

    "Chúng ta hãy nhìn người già, nhìn bằng tình yêu, nhìn vào kinh nghiệm của họ, những người đã phải chịu đau khổ rất nhiều trong cuộc sống, những người đã học được rất nhiều điều trong cuộc sống. Họ đã trải qua rất nhiều và cuối cùng có được bình an này, một điều gần như thần bí, nghĩa là sự bình an của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và nói rằng: “Con đã biết Chúa qua những lời người ta nói, nhưng bây giờ chính mắt con đã nhìn thấy Chúa”.


    Tiếp kiến chung (18/5): Thử thách của đức tin và phúc của sự chờ đợi

    DTCPhanxico-GiaoLyTuoiGia.Bai10.mp3


     

    --

 

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH -


  •  
    Các vị là những người mất quyền công dân trong vấn đề này rồi. Nhưng xin gửi như một tài liệu giáo dục.
    Duyệt
     
     

    “CHỒNG GIÀ VỢ TRẺ LÀ TIÊN”?!

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

     

    “Chồng già vợ trẻ là tiên, vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần.” Dù là duyên hay nợ khi đã về chung một nhà là nên nghĩa vợ chồng. Nhưng cái duyên, cái nợ ấy liệu sẽ kéo dài được bao lâu và trong những điều kiện nào còn tùy thuộc nhiều yếu tố, trong đó có tuổi tác. Thực tế, tuy không chứng minh được sự chênh lệch tuổi tác sẽ gây nên những khó khăn cho hạnh phúc hôn nhân như thế nào, nhưng chắc chắn nó có ảnh hưởng đến sự lâu bền của một cuộc tình. [1]  

     

    Các nhà khảo cứu đã phân tích rõ về ảnh hưởng tuổi tác liên quan đến ly dị. Paula England, giáo sư tại New York University và nhóm khảo cứu của bà đã phỏng vấn 3.622 cặp vợ chồng trong một nghiên cứu mang tính quốc gia từ 1987 - 1988, 1992 - 1994, và 2001 - 2002. Cùng với thời điểm từ 1987-2002, phỏng vấn 747 cặp đã ly thân hoặc ly dị. Kết quả cho thấy là những người đàn ông lấy vợ lớn tuổi đa số chủ động ly dị. Nếu người đàn bà hơn người đàn ông 3 tuổi hoặc hơn, con số ly dị có thể lên đến 87%, trong khi người vợ chủ động ly dị khoảng 23%. Nhưng nếu người vợ trẻ hơn cơ hội ly dị vợ sẽ là 50%.   

     

    Theo tâm lý phát triển, khi bước vào tuổi 60 cũng là thời gian bắt đầu cho sự đi xuống về thể lý, đồng thời kéo theo những mặc cảm tâm lý của cả hai phía. Khởi đầu của sự đi xuống đó là mắt mờ, tóc bạc trắng, răng lung lay, da nhăn nheo… Tiếp đến là một số bệnh của “người già” như tiểu đường, thoát vị đĩa đệm, gout, cộng với huyết áp cao, mỡ cao. Sức khỏe thể lý đi xuống kéo theo phong độ cũng xuống dốc về phía đàn ông. Về phía phụ nữ thì sắc đẹp ở tuổi này cũng bắt đầu về chiều. Hơn thế, sự xuống dốc này theo cấp số nhân. Có nghĩa là càng ngày càng kém đi. Chuyện chăn gối giữa vợ chồng cũng không còn mặn nồng nữa. Người chồng lớn tuổi sẽ mang mặc cảm là không đem lại hạnh phúc cho vợ, và người vợ lớn tuổi cũng mặc cảm vì không đáp ứng được nhu cầu sinh lý của chồng. Từ đó những tư tưởng “chán cơm, thèm phở”, ghen tương, ngờ vực bắt đầu nhen nhúm. Trong tương quan xã hội, giao tiếp bạn bè, nếu có ai đó nửa đùa, nửa thật hỏi một câu: “Cụ ông, lão bà ở nhà dạo này như thế nào, có khỏe không?”, thì không khỏi chạnh lòng!

     

    Làm gì mà không khỏi chạnh lòng. Người đàn ông năm nào nhìn đẹp trai, phong độ, giầu có, thành đạt, có địa vị lại lãng mạn, tâm lý đã khiến trái tim người vợ trẻ rung động. Còn bây giờ! Làm gì mà không khỏi giật mình. Người đàn bà mới đây cũng còn “mặn mòi” duyên dáng, đã khiến trái tim mình “mù lòa”, nhưng không ngờ!…

     

    TÂM SINH LÝ VÀ KINH TẾ

     

    Đi vào những đòi hỏi thực tế của đời sống hôn nhân, tâm sinh lý, những nhu cầu và khả năng sinh lý của cả hai phía sẽ có những thay đổi khi người phụ nữ bước vào tuổi “hồi xuân”, tuổi mà từ ngữ chuyên môn gọi là “midlife crisis” từ 40 đến 60 tuổi. Một phụ nữ hơn chồng 5, 10 tuổi hoặc hơn nữa sẽ không còn khả năng thoả mãn nhu cầu chăn gối của chồng. Nên biết rằng, sinh lý đối với đàn ông vừa là một hành động theo bản năng, và cũng vừa là một nhu cầu. Ngược lại, với những người chồng già hơn vợ 10 tuổi hoặc hơn nữa sẽ khó theo kịp đòi hỏi của người vợ trẻ. Từ đó vấn đề ngoại tình, hoặc nhàm chán rất khó tránh khỏi.

     

    Xét về phương diện tài chính, một số ý kiến cho rằng những cô gái trẻ chấp nhận mối tình già thường là lý do tài chính, quyền lực, hoặc danh giá, “Gái tham tài, trai tham sắc”.  Và điều này càng khiến cho các người vợ trẻ ở vào vị trí dễ bị tổn thương. Trong các nền kinh tế trước đây và ngay cả bây giờ, đa số phụ nữ lệ thuộc vào kinh tế do chồng mang lại. Về phía đàn ông, khi sức mạnh xã hội tăng lên, họ có thể tìm được vợ trẻ, đẹp và hấp dẫn. 

     

    Ngoài ra, nếu một người đàn ông 40 hoặc 50 tuổi muốn có con, chắc chắn họ sẽ không kết hôn với một người đàn bà ở độ tuổi tương tự, vốn ít khả năng hoặc không còn sinh con được. Do đó, phần đông nếu đàn ông ở tuổi này mà nghĩ đến chuyện có con, thường là họ tìm những người vợ trẻ hơn họ, vì đàn ông cũng như phụ nữ, khả năng sinh sản có xu hướng giảm sau độ tuổi khoảng 35. Ở một số phụ nữ khả năng thụ thai còn mất sớm hơn. Thêm vào đó, phụ nữ càng lớn tuổi, cơ hội sinh con mang hội chứng Down's syndrome càng cao.

     

    Lấy vợ quá trễ đối với người đàn ông còn phải chịu cảnh: “Cha già con mọn.” Theo Tiến sỹ Elena Touroni, nhà tâm lý học và là nhà sáng lập Văn Phòng Tâm Lý Chelsea tại Luân Đôn (London) nhận định, nếu nhìn về đường dài của đời sống hôn nhân, chúng ta : “cần cả cha mẹ còn sống để nuôi dạy con cái.”  Đây là cái nhìn của những người nghiêm túc muốn có một đời sống gia đình và con cái.

     

    NHẬN ĐỊNH CỦA CÁC NHÀ CHUYÊN MÔN:

     

    Nói chung, xã hội hôm nay vẫn nhìn người đàn ông già sánh bước bên người vợ còn quá trẻ bằng cặp mắt không mấy thiện cảm. Một câu nói ví von ám chỉ như: “trâu già gặm cỏ non” hay “già mà còn chơi trống bỏi”. Tại Âu Mỹ, những người đàn ông ham gái trẻ, hiếu sắc thường được gọi là “cougar” (beo già) và “toyboy” (trai bao). Còn những cô gái trẻ với những người chồng già là “đào non” hay “đào mỏ”.

     

    Các nhà nghiên cứu nhận thấy người trẻ nói chung, đặc biệt ác cảm với các mối quan hệ mà người đàn ông lớn tuổi hơn, và cho rằng mối quan hệ này là một sự đổi chác - đổi tình dục để đạt được một kiểu sống, mức sống nào đó. Một mối tình vợ già, chồng trẻ hiện đang gây sự chú ý của truyền thông là Tổng thống Pháp Emmanuel Macron với người vợ hơn ông 24 tuổi. Họ được chú ý vì một người là tổng thống, còn người kia là cô giáo trước đây của tổng thống.

     

    Cũng theo Tiến sỹ Touroni, về mặt tâm lý, cặp với người cùng tuổi khiến cho mối quan hệ của họ có nhiều khả năng đi xa hơn. Họ dễ hiểu nhau hơn, cùng có những đam mê hoặc sở thích giống nhau nên dễ dàng chấp nhận nhau, nhờ đó, họ có thể tiếp tục tìm thấy những điểm chung. “Trong 10 năm đầu tiên của hôn nhân, mọi người cho biết họ có mức độ hài lòng hôn nhân cao hơn nếu bạn đời của họ nhỏ tuổi hơn.”

     

    Tóm lại, các mối quan hệ và hạnh phúc của các cặp vợ chồng chênh lệch tuổi tác, theo thời gian sẽ giảm nhiều hơn nếu so với các cặp cùng tuổi.  

     

    HẠNH PHÚC HAY KHÔNG HẠNH PHÚC?

     

    Phụ nữ ly dị tăng 38% nếu kết hôn với những người đàn ông trẻ tuổi hơn mình. Mức độ gia tăng tùy theo tuổi tác.

     

    -Hạnh phúc hơn với vợ trẻ

     

    Phần đông đàn ông muốn mình lớn tuổi hơn vợ. Một khảo cứu về khác biệt tuổi tác giữa hai vợ chồng có thể ảnh hưởng lâu dài như thế nào trong hôn nhân đăng trên the Journal of Population Economics năm 2017, theo đó, các nhà khảo cứu cho thấy rằng hạnh phúc gia tăng mỗi năm nếu người chồng hơn tuổi người vợ. Nhưng đối với phụ nữ thì ngược lại. 

     

    Đàn ông có vợ trẻ hơn, dĩ nhiên không phải là quá trẻ, hài lòng hơn so với những người kết hôn với những người vợ già. Theo Terra McKinnish, giáo sư kinh tế học tại CU Boulder và đồng tác giả trong cuộc khảo cứu thì phụ nữ phần nào không hài lòng với người chồng già, và một cách nào đó, “hạnh phúc với những người chồng trẻ.” 

     

    -Hạnh phúc giảm dần sau 10 năm

     

    Khảo cứu cũng cho thấy rằng, những người có vợ trẻ không phải lúc nào cũng hạnh phúc với người chồng lớn tuổi. Trên thực tế, những người hạnh phúc cao lúc ban đầu lại trở thành mất hạnh phúc cách dễ dàng sau này. Mức độ hạnh phúc cao ban đầu với người vợ trẻ sẽ trở nên giảm dần chỉ sau 6 tới 10 năm. Ngoài ra cũng theo thời gian, những người lấy vợ quá trẻ sẽ trở nên kém dần hạnh phúc so với những người đàn ông lấy vợ ngang tuổi của họ.  

     

    KẾT LUẬN

     

    Ngoài những yếu tố thu hút, quyến rũ lúc ban đầu như giầu sang, tiền của, danh giá, địa vị… Hạnh phúc hay không hạnh phúc, hài lòng hay không hài lòng trong đời sống hôn nhân giữa những cặp vợ già chồng trẻ, hoặc chồng trẻ vợ già còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố: thể lý, tâm lý, tâm sinh lý, và tâm linh. Không thể phụ nhận có những cặp đôi chênh lệch tuổi tác nhưng vẫn hạnh phúc, chung thủy với nhau, nhưng các cuộc khảo cứu đều cho thấy rằng khác biệt tuổi tác từ 4 đến 5 tuổi được cho là khoảng cách lý tưởng.

    Cách nhau từ 8 đến 10 tuổi thường có những dấu hiệu cao của dè chừng, cãi cọ, và bất hòa dễ dẫn đến ly thân, ly dị. Xã hội thường tỏ ra khắt khe, nghi ngờ những mối tình chênh lệch từ 10 tuổi trở lên. Vì thời gian sẽ qua mau, còn lại là trách nhiệm và bổn phận thay thế cho sự lãng mạn, tình tứ. [2]

     

     

    _______

     

    Tài liệu tham khảo:

     

    1. https://bestlifeonline.com › age-gap-divorce-news

    A Three Year Age Gap Can Raise Men’s Risk of Divorce

     

    2.  Knot the 'right' Age: Age gap of spouses matters, but - The ...

    https://www.asianage.com › discourse › knot-the-right-ag...

     

     

     

     

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - CN5PS-C

  •  
    Chi Tran CHUYỂN
     
     
     


    Điều răn mới: hãy yêu thương nhau.

    15/05 – CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH Năm C.

    "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".

     

    Lời Chúa: Ga 13, 31-33a. 34-35

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.

    "Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".

    * Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

    Suy niệm CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH - Năm C

    Lời Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35

     

    1. Điều răn mới--‘Manna’

    Suy Niệm

    Gandhi được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Độ.

    Ông say mê Kinh Thánh, nhất là bài giảng trên núi.

    Ông nghĩ rằng Kitô giáo sẽ là câu trả lời thích đáng

    cho những xung đột giữa các giai cấp ở Ấn.

    Một ngày nọ ông đến dự lễ tại một nhà thờ.

    Nhưng người giữ cửa ngăn ông lại,

    và bảo ông nên đến dự lễ ở một nhà thờ khác dành cho người da đen.

    Ông đã bỏ đi và không bao giờ quay trở lại.

    Có thể chúng ta đã mất một Kitô hữu tốt như Gandhi

    chỉ vì có sự phân biệt màu da nơi nhà thờ.

    Biết đâu thế giới này lại chẳng có nhiều Gandhi,

    họ sống tinh thần Đức Kitô còn hơn cả các Kitô hữu.

    "Thầy ban cho anh em một điều răn mới:

    hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em."

    Lời trăn trối của Đức Giêsu vẫn làm chúng ta nhức nhối.

    Ở đây Ngài không nhắc chúng ta yêu thương người ngoài,

    nhưng Ngài đòi buộc các môn đệ Ngài yêu thương nhau.

    Yêu thương nhau trở thành điều răn mới,

    mới vì Ngài đòi họ phải yêu nhau như Ngài đã yêu họ.

    Vấn đề cốt lõi là cảm nhận được tình yêu của Ngài.

    Trước khi công bố điều răn mới này,

    Đức Giêsu đã rửa chân cho môn đệ, trong đó có Giuđa.

    Ngài cúi xuống bên chân Giuđa để bày tỏ một tình yêu.

    Sau đó Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa

    như đưa ra một vẫy gọi thân thương cuối cùng. (x. Ga 13,26)

    Nhưng vô ích, Giuđa không đổi ý.

    Anh vẫn ra đi để làm điều mình muốn (x. Ga 13,31).

    Đức Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình.

    Ngài sẽ yêu đến cùng bằng việc hiến mạng trên thập giá.

    Đức Giêsu đã yêu trước khi truyền cho ta yêu nhau.

    Nếu ta không cảm nhận được tình yêu Ngài dành cho ta,

    thì ta cũng chẳng thể yêu nhau như Ngài muốn.

    Có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu:

    đeo thánh giá nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn...

    Nhưng theo Đức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của nhóm môn đệ

    là tình yêu thương mà họ dành cho nhau:

    cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại...

    Giữa các môn đệ, có bao dị biệt, bao hàng rào.

    Nếu không vượt qua được những hàng rào dị biệt này

    thì coi như việc truyền giáo bị đổ vỡ.

    Tiếc thay, vẫn chưa có sự hiệp nhất

    giữa các Kitô hữu khác màu da, khác văn hoá, khác quan điểm chính trị...

    Có bất đồng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo ở Nga,

    giữa người Công Giáo và người Tin Lành ở Bắc Ailen.

    Đến bao giờ mọi Kitô hữu có thể đọc chung kinh Lạy Cha,

    mừng chung với nhau lễ Phục Sinh trong một ngày,

    cử hành chung với nhau một phụng vụ.

    Thế giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu.

    Ước gì thế giới Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi

    mời mọi người đặt chân tới.

    Gợi Ý Chia Sẻ

    Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương lẫn nhau? Có những dấu hiệu nào để nhận ra tình yêu thương đó?

    Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, cộng đoàn của bạn có làm chứng đủ về tình yêu thương nhau trước mặt mọi người chưa?

    Cầu Nguyện

    Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

    trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

    Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến,

    và tin tưởng và thiện chí của nhau.

    Khi cộng tác với nhau,

    xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

    nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen,

    những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi.

    Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

    để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người,

    nhất là nơi những ai khác quan điểm.

    Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

    để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

    và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

    Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

    xin cho chúng con được triển nở không ngừng

    và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

    2. Yêu người như Chúa--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

    Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.

    Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.

    Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.

    Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

    Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

    Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

    Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

    Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

    Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

    Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.

    Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

    Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

    KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

    1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?

    2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?

    3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

     3. Điều răn mới – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá--Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm

    “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

    Người ta cho rằng: yêu thương phát xuất từ con tim. Người ta còn nói: Tình yêu xưa như trái đất, nghĩa là tình yêu có từ khi có trái đất hay trái đất xưa bao nhiêu thì tình yêu lâu đời bấy nhiêu. Như thế, tình yêu cũ kỹ lắm rồi! Ở đấy, Đức Giêsu không nói đến thời gian có tình yêu. Người chỉ nói phải đổi mới tình yêu.

    Tình yêu đã bị hủ hoá, tha hóa vì nó chứa quá nhiều các thứ trần tục, nó bị ô nhiễm bởi tội tổ tông, làm mất giá trị cao quý của con người siêu việt là con Thiên Chúa.

    Nó nghiền những thứ: nghiền rượu, nghiền thuốc, nghiền ma túy, mê tiền, mê của, say đắm tình dục xác thịt. Nó bị lôi cuốn, đắm chìm, nô lệ cho những thứ đồ vật. Nó bị sai khiến bởi vật chất, vật chất đã làm chủ con người. Nó hạ giá con người xuống dưới hàng vô tri vô giác. Trong khi đó giá trị con người hơn: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì?”

    Dầu yêu người khác như chính mình, như yêu quê hương, yêu tổ chức, yêu đồng bào, yêu nhân loại, thường được diễn tả bằng những câu ca dao như:

    “Bầu ơi thương lấy bí cùng.

    Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”

    “Nhiễu điều phủ lấy giá gương.

    Người chung một nước phải thương nhau cùng”

    Ngay thời kỳ Vua Nghiêu, Vua Thuấn đã đề cao:

    “Tứ hải giai huyng đệ”: Bốn bể đều là anh em.

    “Lấy dân làm gốc”: Dân là quý, xã hội là thứ yếu.

    Hay câu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: Mình không muốn cho mình, thì đừng làm cho người. Luật Cựu Ước cũng dậy: “Ngươi sẽ không báo oán, không căm thù với con cái dân ngươi, nhưng ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình” (Lev. 19, 18). Tất cả những điều hô hào như thế đều là điều răn cũ, vì một là ta yêu đồ vật thì giá trị con người của ta bị đánh giá bằng đồ vật, hai là ta yêu người thì ta ngang hàng với người mà thôi.

    Đồ vật và loài người chỉ có giá trị tạm thời, chóng tàn. Còn Đức Giêsu, Người ban cho ta điều răn mới là để nâng cao con người lên bậc con Thiên Chúa, một giá trị siêu việt trường tồn vinh quang. Cho nên, Người kêu gọi: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy yêu thương anh em”.

    Yêu như Thầy yêu anh em: Thầy là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, sống hòa mình với mọi người, nhất là những người đau khổ. Thầy là Đấng Cứu thế, đến phục vụ và cứu chữa những người bệnh tật, tội lỗi, trộm cướp và quỷ ám. Thầy là Đấng thượng phẩm đời đời, đến hiến mạng sống chịu chết làm lễ vật hy sinh tế lễ giao hoà loài người với Thiên Chúa. Thầy là Đấng hằng sống đã sống lại, để cho người ta được sống đời đời. Thầy là Con Thiên Chúa để cho con người được làm con Thiên Chúa vinh phúc muôn đời. Đó là tình yêu của Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau như vậy. Chính vì hiểu như thế, Thánh Augustinô đã giải thích: “Sau khi lột bỏ con người cũ, nó mặc cho ta con người mới… Kẻ vâng theo giới răn mới này được canh tân, không phải nhờ một thứ tình yêu nào, nhưng chỉ nhờ tình yêu mà Chúa đã phân biệt với tình yêu xác thịt khi Người nói thêm rằng: “Như Thầy đã yêu chúng con”. Tình yêu ấy đổi mới chúng ta, những kẻ hát khúc ca mới. Tình yêu ấy đã canh tân tất cả những người công chính ngày xưa, các thánh tổ phụ, các tiên tri thời trước, cũng như đã đổi mới các dân tộc và toàn thể nhân loại sống rải rác khắp mặt địa cầu. Nó đang kết hợp lại thành một dân mới, làm thành thân thể người bạn trăm năm mới của con Thiên Chúa (Bài đọc II, thứ năm sau Chúa nhật hai Phục sinh: Kinh nguyện).

    Hội Thánh là bạn trăm năm của Đức Kitô đặt lệnh truyền điều răn mới này vào những ngày Đức Kitô chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết và đang chuẩn bị khải hoàn về trời.

    Trong hoàn cảnh này, điều răn mới có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là trong những lúc càng nhiều nguy biến, gặp nhiều âm mưu hãm hại, càng phải triệt để thương yêu nhau để chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết thì mới được khải hoàn về trời với Đức Kitô Phục sinh vinh hiển.

    Thương yêu nhau là dấu chắc chắn chiến thắng. Chúng ta chiến thắng không phải bằng tiêu diệt kẻ thù, mà bằng làm cho kẻ thù được trở về với tình yêu của Chúa: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng thương yêu nhau”. Họ nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa tức là họ đã nhận biết Chúa, nhận biết tình yêu cứu độ của Chúa. Họ phục thiẹn, tất nhiên họ đã trở về với Thiên Chúa rồi đó.

    Họ trở về với Thiên Chúa là ta đã làm Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Kitô, làm Thiên Chúa được tôn vinh chính là thực hiện công cuộc cứu thế của Đức Giêsu.

    Khi chúng ta thực hiện điều răn mới của Chúa, chúng ta sẽ được, như Thánh Gioan, thấy trời cũ đất cũ biến thành trời mới đất mới, thấy thành Giêrusalem cũ biến thành Giêrusalem mới, thấy mọi người mọi nơi, như đồi Canvê biến thành nơi sáng láng vinh hiển như núi Tabor, sẽ thấy mọi nơi mọi lúc có Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, sẽ không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa vì những điều cũ đã biến mất! (Bài đọc II)

    CẦU NGUYỆN VÀ SỐNG CẦU NGUYỆN:

    Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim sắt đá của con nên trái tim thương yêu, thông cảm. NHỜ CHÚA THÁNH THẦN đổi mới con tim thịt máu xác phàm nên trái tim giống Thánh Tâm chan hoà tình thương yêu Chúa, con QUYẾT TÂM thực thi điều răn mới của Chúa và làm cho thế giới khô cằn trở thành Nước Trời xanh tốt phì nhiêu.

    ---------------------------------------------