1. Hôn Nhân & Gia Đình

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - MỪNG NGÀY HIỀN PHỤ

SỐNG TỈNH THỨC - KHÔNG LÊN THIÊN ĐÀNG MỘT MÌNH

  •  
    Chi Tran
     
     


    Không thể lên Thiên Đàng một mình
    Thiên Đàng chắc là nơi ai cũng ước ao sau cuộc sống trần gian này. Hành trình về quê hương ấy người ta không thể đi một mình. Vì nếu độc hành sẽ đi nhanh, nhưng khó đến đích.
    Ngược lại, đi cùng nhau có thể chậm, nhưng lại đến được nơi muốn đến. Điều ấy hoàn toàn đúng cho hành trình đức tin của mỗi người. Tiếc là ngày nay nhiều người muốn “độc quyền” nên thánh, hoặc muốn “đóng cửa” đối với những ai không cùng tôn giáo với mình.
    Nếu lật lại từng trang Tin Mừng, Thiên Chúa luôn mời gọi con người nên thánh cùng với nhau:
    – “Chúa phán cùng Cain rằng: “Abel, em ngươi đâu?” (St 4,1–15).
    – “Bạn bè thương mến nhau luôn luôn, và anh em sinh ra để giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn.” (Cn 17,17).
    Chúa vẫn mời gọi đoàn dân:
    – “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” (Lv 19,2).
    Hay Chúa Giêsu nhiều lần nhấn mạnh:
    – “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,48).
    – “Anh em phải yêu thương người thân cận như chính mình.” (Mt 22,39).
    – “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. (Mc 16,15)
    – “Điều chúng tôi cầu xin là anh em được nên hoàn thiện.” (2Cr 13,9).
    –v.v.
    Đây là sứ mạng của Đức Giêsu: cứu độ hết thảy mọi người, đưa con người về Thiên Đàng. Ngài cũng trao sứ mạng ấy cho các tông đồ, cho Hội Thánh và cho mỗi người[1]. Bởi đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại rằng: “Chúng ta cùng nhau nên thánh. Việc nên thánh là một chuyến đi với cộng đồng, cùng bước bên nhau. Không thể nên thánh một mình và Thiên Chúa cũng không cứu rỗi ai một mình.” (Tông Huấn Vui Mừng Và Hân Hoan, 6).
    Đành rằng mỗi người phải có tương quan cá vị với Thiên Chúa, nhưng họ không thể quên những người bên cạnh. Sẽ là mâu thuẫn nếu người ta nói yêu mến Thiên Chúa nhưng lại ghét bỏ anh chị em mình. Các vị thánh là người đã thành công trong mến Chúa yêu người. Họ nên thánh trong việc giúp cho biết bao người nên thánh. Nơi linh đạo của mỗi nhà dòng, vị thánh tổ phụ của họ để lại biết bao gợi hứng và chỉ dẫn cho người đời nên thánh.
    Nếu ai đó yêu mến Thiên Chúa đủ mạnh, những người xung quanh cũng tìm được chút gợi hứng để nên thánh. Vả lại, người càng gần Chúa, họ càng ước mơ cho những người xung quanh cũng được hưởng niềm hạnh phúc này. Có người trao lại cho đời những công trình vĩ đại, đường lối tuyệt vời để nên thánh. Không ít người âm thầm cầu nguyện cho người khác đến gần Chúa hơn. Dù ở hoàn cảnh nào, người khao khát nên thánh cũng muốn cho tha nhân chung con đường với họ.
    Có người nói vui rằng trước cổng Thiên Đàng luôn đông người. Nghĩa là nếu vào Thiên đàng, chắc chắn là cùng nhau. Tưởng tượng trước ngai tòa Chúa, Thiên Chúa hỏi: “Những người khác đâu?” Chúng ta phải trả lời thế nào? Trong khi đó, Chúa muốn chúng ta tương thân tương ái lẫn nhau. Chúa mời gọi người ta nên hoàn thiện mỗi ngày. Đó luôn là mời gọi không chỉ nhắm đến chuyện nên thánh riêng tư, nhưng đòi hỏi lan tỏa ơn thánh thiêng ấy cho người xung quanh.
    Nếu đọc cuốn Giáo Lý Youcat dành cho người trẻ, bạn cũng thấy số 122: “Ta phải trở nên thánh chung với nhau. Ta phải đến với Thiên Chúa chung với nhau, trình diện trước Thiên Chúa chung với nhau. Ta không được gặp Thiên Chúa tốt lành người này sau người kia. Thiên Chúa có thể nói tốt lành sao được, nếu ta lại ra đi người này không có người kia?”
    Cụ thể trong gia đình, người cha không thể nên thánh, nếu không chu toàn trách nhiệm của người chồng, người cha. Người vợ cũng thế. Hóa ra nên thánh không gì khác hơn là, nhờ ơn Chúa, họ yêu người thân cận như chính mình. Chắc chắn sự thánh thiện của họ sẽ làm men muối cho nhiều tâm hồn khác nữa nên thánh.
    Đời sống Giáo Hội cũng thế. Cha xứ, người tu sĩ hay thậm chí cả Giáo Hoàng cũng không thể nên thánh một mình. Thiên Chúa sẽ đòi họ trả lời về hoa trái mà họ đã làm nơi dương thế. Họ đã sinh lợi được bao nhiêu nén bạc ân sủng Thiên Chúa trao cho. Ân sủng tài năng ấy chỉ nên “tấm vé” vào Nước Trời, khi bên họ có nhiều người nữa.
    Cũng vậy, một trong những tiêu chuẩn để Giáo Hội phong thánh cho ai đó là đời sống thánh thiện của họ. Nghĩa là, họ lan tỏa được tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa cho tha nhân. Nói cách khác, đời sống của họ lôi cuốn được nhiều người nên thánh. Đó là ơn Chúa, nhưng cũng là đòi hỏi của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em.” (Ga 15,12).
    Thật thú vị để chúng ta đọc qua vài chỉ dẫn nên thánh cùng nhau của Giáo Hội. “Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống. Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự dấn thân ấy cách thật vui tươi. Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh. Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở một địa vị có quyền lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung.”[2]
    Hy vọng đời sống đạo của mỗi người luôn gần gũi với người khác. Tha nhân là quan trọng. Họ chính là món quà để giúp mỗi người nên thánh. Đành rằng yêu Chúa có vẻ khó, nhưng yêu người khác, nhất là yêu kẻ thù, lại càng thách đố hơn. Biết sao được khi Chúa đòi người tín hữu, người muốn vào Thiên Đàng phải thực thi điều ấy. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta đi cùng nhau và cùng kiến tạo môi trường thánh thiện. Quan trọng là chúng ta dám trao đôi tay, tâm trí cho Thiên Chúa hay không mà thôi!
    Đã đến lúc cùng nhau hướng về Thiên Chúa. Thái độ kỳ thị, loại trừ và đóng kín với người khác hoàn toàn không thích hợp nữa. Bởi, thánh giá luôn có hai thanh: thanh dọc là tương quan với Thiên Chúa, thanh ngang là tương quan với tha nhân. Người ta chỉ có thể vào Thiên đàng nếu vác cả hai thánh của thánh giá. Đây là cơ hội và cũng là thách đố. Hy vọng chúng ta cùng nhau hẹn trước cổng Thiên Đàng. Nơi đó, Thiên Chúa chào đón mỗi người như một đoàn dân thánh thiện.
    Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
    [1] Công Ðồng Vatican II viết: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11.3).
    [2] x. Tông Huấn Vui mừng và hân hoan, số 14.
     
     
    2 lượt chia sẻ
     
    Chia sẻ
     
     
     
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TGP SAIGON

  •  TGM NGUYỄN NĂNG

    Thứ Năm tuần 10 Thường niên năm II - Giữ luật với tâm tình yêu thương (Mt 5,20-26)

    Tin mừng: Mt 5, 20-26

    20 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

    21 “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.

    22 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.

    Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.

    23 Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, 24 thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.

    25 Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục.

    26 Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

     

    1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Luật yêu thương Chúa Giêsu dạy cần thực hiện cách cụ thể: sống hòa thuận và biết tha thứ. Ta cần phải sống yêu thương tha thứ như lễ vật dâng Chúa mỗi ngày.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con hân hoan dâng Cha tâm tình yêu mến cùng với anh em con. Hôm nay, con không đến với Cha một mình, nhưng con đến cùng với anh em khác.

    Lạy Cha, trên đường đến với Cha, con còn gặp biết bao trở ngại từ chính con. Con chưa hòa hợp được với anh em. Con còn khó chịu với người bên cạnh. Nhưng Cha muốn con nắm chặt tay bạn bè trong tình thương mến. Cha muốn con đi bước trước đến với người bất hòa với con, làm hòa với họ trước khi đến với Cha.

    Lạy Cha, con chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Con Cha trên thập giá, hy lễ của Chúa Giêsu. Trước khi hoàn tất hy lễ ấy, chung quanh thập giá đông vô kể những kẻ bất bình và thù oán, họ đang hả hê vì đã giết được Ngài. Con Một Cha đã ngước mắt lên thưa với Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Thật là cao cả. Chính Thiên Chúa đã làm hòa với người đang cướp mất mạng sống mình. Lạy Cha, đây chính là lý do duy nhất thôi thúc con tha thứ cho anh em. Tha thứ không phải là nhát đảm nhưng là hành động anh hùng, không phải là thua thiệt, nhưng là nhận được nhiều hơn. Cùng với hy lễ thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay, con xin dâng Cha không phải chỉ lời cầu nguyện, không phải chỉ tâm tình yêu mến, nhưng xin dâng lên Cha lòng quảng đại tha thứ cho anh em. Amen.

    Ghi nhớ: “Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.
    Kính chuyển:
    Hồng
     

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA BA NGÔI

  •  
    Chi Tran
     
     
     


     

    THIÊN CHÚA BA NGÔI
    VÀ SỰ THÁNH THIỆN CỦA ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

     

    Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là sự sống của tình yêu ra khỏi mình để hướng tới người khác: 

     

    WHĐ (11.6.2022) - Khi còn là một học sinh trung học, tôi thường xuyên thảo luận về thần học với bố của tôi. Trong khi tôi là một đứa trẻ thích về thần học, (sau này, tôi đã theo học thần học tại trường đại học), còn bố tôi lúc ấy đang học thần học trong một chương trình đào tạo mục vụ giáo dân. Chính bố cũng là người đầu tiên nói với tôi về tính tương hợp giữa gia đình và Thiên Chúa Ba Ngôi.

     

    Tuy nhiên, khi nói về tính tương hợp giữa gia đình nhân loại và Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta đừng quên nhìn nhận rằng cách nói này có những giới hạn nhất định, vì tự nó, ngôn ngữ và hình ảnh của con người không thể diễn tả một cách thấu đáo về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

     

    Gia đình như một cộng đoàn của các ngôi vị

    Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, có 3 Ngôi vị nhưng chỉ có một bản tính duy nhất, đó là bản tính thần linh. Trong khi đó, một gia đình nhân loại bao gồm những cá vị và mỗi cá vị lại mang bản tính con người khác nhau. Ngoài ra, cả Ba Ngôi luôn hiệp nhất với nhau: Chúa Cha luôn ở trong Chúa Con, Chúa Con luôn ở trong Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần luôn ở trong Chúa Cha và Chúa Con, đây là điều không thể có trong gia đình nhân loại.

     

    Thật thế, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm rằng, dù có hiệp nhất, và hoàn hảo đến đâu thì gia đình vẫn luôn bao hàm những sự khác biệt, thậm chí lộn xộn! Trong gia đình vẫn có đó những quan điểm, sở thích ​​khác nhau giữa vợ-chồng, cha mẹ-con cái, và anh chị em với nhau; vẫn có đó những bất đồng, dù lớn dù nhỏ, xảy ra trong cuộc sống; và vì thế, vẫn luôn đòi hỏi những sự cố gắng liên lỉ hàng ngày, nhờ đó, mỗi người biết đặt ý muốn cá nhân sang một bên để có thể hoà hợp, làm vui lòng, và chiều theo muốn tốt lành của người khác.

     

    Hơn nữa, do hậu quả của sự Sa ngã nguyên tổ, gia đình của chúng ta luôn bị thách thức bởi những yếu đuối, sai phạm của nhau. Có ích kỷ, có bất hòa, có những buổi sáng gắt gỏng và những đêm mất ngủ. Nhưng chúng ta không ngã lòng, thất vọng, vì chúng ta có thể chiêm ngắm, cầu nguyện, và phó thác để cảm nghiệm gia đình cần sống như thế nào theo mẫu gương của sự hiệp nhất, và tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.

     

    Sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi trong Gia đình

    Sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần được ngụ ý trong toàn bộ Phúc âm. Chẳng hạn như Chúa Giêsu đã từng khẳng định: "Tôi và Chúa Cha là một" (Ga 10, 30); “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9) “Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11, 27); “Khi Đấng Bàu Chữa đến, Đấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, Thần Khí sự thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta” (Ga 15, 26); và “Ðức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa” (Lc 4, 1-2a); … Nhưng động lực của mối tương quan hiệp nhất này là gì?

     

    Giáo lý Công giáo cho chúng ta biết rằng, chúng ta tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất nhưng không đơn độc. Chúa Cha là Đấng sinh thành, Chúa Con là Đấng được sinh ra, và Chúa Thánh Thần là Đấng xuất phát. Đây là sự đơn giản hóa mầu nhiệm phong phú và cao sâu về Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng, khi Giáo hội nói rằng chân lý của đức tin là một “mầu nhiệm”, thì không ngụ ý theo cách mà một người mẹ khăng khăng với đứa con của mình: “Đó là chân lý bởi vì mẹ đã nói như vậy!” Đúng hơn, Giáo hội có ý muốn nhìn nhận rằng, có những chiều sâu rộng của đức tin mà con người không thể đạt đến tận cùng, vì đó vốn là những điều vượt trên mọi điều chúng ta có thể hiểu được theo cách thức phàm nhân.

     

    Dù thế, đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là một thực thể trừu tượng, xa vời đến độ chúng ta không thể hình dung. Nhờ ân sủng của Bí tích Rửa tội, Kitô hữu được kết hiệp và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tên gọi của bài Giáo lý này là "Thần hóa", mà với tôi, sau lần đầu tiên được nghe trình bày trong một lớp thần học tại trường đại học, đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi. Thánh Athanasiô đã có câu nói rất nổi tiếng, "Thiên Chúa đã trở thành con người, để con người có thể trở thành Thiên Chúa". Điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ trở nên thần thánh, mà là chúng ta sẽ được cuốn vào một sự kết hiệp yêu thương sâu sắc đến độ chúng ta được dự phần vào đời sống của chính Thiên Chúa.

     

    Thật vậy, sự Nhập thể đã biến điều này thành hiện thực. Vì với sự Nhập thể, và sau đó là sự Thăng thiên, Chúa Kitô ngự trị nơi cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Giêsu Kitô đã không trút bỏ bản tính nhân loại của Người, nhưng đã mang nhân tính ấy về với Chúa Cha. Đây chính là niềm hy vọng cho vận mệnh cuối cùng của cuộc đời chúng ta.

     

    Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong Gia đình

    Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là sự sống của tình yêu ra khỏi mình để hướng tới người khác: Từ đời đời Chúa Cha hướng về Chúa Con, yêu thương Chúa Con bằng Tình Yêu khôn tả là chính Chúa Thánh Thần. Tình yêu này không phải là về những cảm giác hạnh phúc, mà là về một niềm vui sâu thẳm, vô tận, một niềm vui chỉ có thể có được khi trao tặng tất cả, và tuôn đổ không ngừng cho người mình yêu.

     

    Trong đời sống gia đình bất toàn của chúng ta, tình yêu trao tặng của Ba Ngôi là mẫu mực mà chúng ta được kêu gọi để hướng tới. Nhưng làm sao có thể hiện thực hoá tình yêu này, nhất là nơi những gia đình tan vỡ, dang dở?

     

    Trước hết, khi noi gương tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi không có nghĩa là chúng ta phớt lờ những hành vi không xứng hợp của người khác sang một bên; cũng không có nghĩa là chúng ta chấp nhận những sai phạm, bất công, bạo hành từ vợ / chồng, cha mẹ hoặc con cái chẳng hạn. Tình yêu không chỉ đòi hỏi lòng thương xót, mà còn cần có sự công bằng. Do đó, mục đích tối hậu là chúng ta nhắm tới sự thánh thiện của cả chúng ta lẫn thành viên trong gia đình.

     

    Thứ đến, bất kỳ hình thức gắn kết nào với nhau đều phải được mô phỏng theo tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Yêu thương là chấp nhận, tôn trọng và hài hòa trong chính sự khác biệt của nhau. Điều này không có nghĩa là các gia đình sẽ luôn hoà thuận, nhưng sự bất đồng quan điểm không phải là để thắng trong khi tranh cãi, mà là để giành được trái tim của nhau; sự khác biệt ý thích trong cách sống không phải để thoả mãn chính mình, mà là để cảm thông, thấu hiểu và bù đắp cho nhau.

     

    Cuối cùng, gia đình là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, không có nghĩa là biến gia đình thành một hình tượng cao cả hơn là thực tại nó muốn phản ánh. Gia đình không phải là mục tiêu cuối cùng, nhưng chỉ là một phần trong cuộc hành trình của chúng ta tiến về quê trời, nơi tất cả sẽ được hiệp nhất trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mối liên kết bền chặt, trọn vẹn, và hoàn hảo hơn bất kỳ mối tương quan nào của con người trên trái đất này.

     

    Trong hy vọng, chúng ta hãy hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi và tin tưởng Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta đi vào mối hiệp thông thắm thiết với nhau trong Gia đình và với Ngài.

    Michele Chronister

    Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
    Dòng Đa Minh Thánh Tâm
    Chuyển ngữ từ: 
    catholicexchange.com (9. 6. 2022)

     

    ----------------------------------------

NGÀY TRỞ VỀ NHÀ CHA -

  •  
    Chi Tran
     
     
     
     
     


    KINH NGHIỆM SỰ CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT
    (Sau khi Chúa cho sống lại năm 1985)
    Tôi sinh ngày 16 tháng 7 năm 1949 tại Kerala, Ấn Độ. Cha mẹ của tôi là Joseph và Theresa Maniyangat. Tôi là người con lớn nhất trong 7 anh chị em: Jose, Mary, Theresa, Lissama, Zachariah, Valsa và Tom.
    Vào năm 14 tuổi, tôi gia nhập tu viện St. Mary ở Thiruvalla. Bốn năm sau đó, tôi đổi sang tu viện St. Joseph ở Alwaye, Kerala để tiếp tục đời tu. Sau 7 năm triết học và thần học, tôi được thụ phong linh mục vào ngày 1 tháng 1 năm 1975. Sau đó, tôi làm công tác truyền giáo ở Giáo Phận Thiruvalla.
    Vào năm 1978, trong thời gian tôi đang dạy ở tu viện St. Thomas ở Bathery, tôi là một thành viên hoạt động trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala và bắt đầu tổ chức các cuộc tĩnh tâm, đại hội của phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala.
    Vào Chúa Nhật Lễ Kính Lòng Thương Xót ngày 14 tháng 4 năm 1985, khi trên đường đi dâng lễ cho một nhà thờ phía bắc ở Kerala, tôi đã bị tai nạn thật khủng khiếp. Tôi đang lái xe gắn máy bị một người say rượu lái chiếc xe jeep đụng vào đầu xe. Sau đó người ta chuyển tôi tới bệnh viện cách xa khoảng 35 dặm. Trên đường tới bệnh viện, linh hồn tôi đã lìa khỏi xác, và tôi đã cảm nghiệm được sự chết. Ngay lúc đó, tôi gặp Thiên Thần bản mệnh. Tôi được nhìn thấy thân xác của tôi và những người đưa tôi đến bệnh viện. Tôi nghe tiếng họ đang khóc và cầu nguyện cho tôi. Lúc đó Thiên Thần bản mệnh nói với tôi rằng: “Tôi sẽ đưa cha lên Thiên Đàng; Thiên Chúa muốn gặp và nói chuyện với cha.” Thiên Thần bản mệnh cũng nói với tôi trên đường đi sẽ cho tôi thấy Hỏa Ngục và Luyện Ngục.
    Trước tiên, Thiên Thần dẫn tôi tới Hỏa Ngục. Thật là một cảnh rất khủng khiếp! Tôi đã nhìn thấy Satan và các quỷ dữ với độ nóng phừng phực khoảng 2000 độ F, giòi bọ bò lúc nhúc, người ta la hét và chửi bới, một số khác đang bị tra tấn bởi quỷ dữ. Thiên Thần bảo tôi những người này đã mắc tội trọng mà không ăn năn hối cải khi còn sống. Tôi đã hiểu ở đó có 7 mức độ đau đớn của hình phạt khác nhau tuỳ theo tội trọng mà họ đã phạm khi còn sống, linh hồn họ rất xấu xí, độc ác và kinh khiếp. Đó là một kinh nghiệm đáng sợ. Tôi có nhìn thấy một số người quen nhưng tôi không được phép nêu tên của họ. Những tội bị rơi vào Hỏa Ngục chính yếu là các tội: phá thai, dâm dục, trợ tử, ghen ghét, không tha thứ và phạm thánh. Thiên Thần bảo tôi rằng, nếu những người này thống hối trước giờ chết thì họ có thể tránh được Hỏa Ngục, chỉ phải đền bù ở Luyện Ngục. Tôi còn hiểu rằng một số người hối cải chịu đau khổ để đền tội ở đời này. Bằng cách đó, họ sẽ tránh được luyện ngục và được lên thẳng Thiên Đàng.
    Tôi rất ngạc nhiên khi thấy có cả các linh mục và giám mục ở Hỏa Ngục. Trong số những người đó, một số người tôi không bao giờ dám nghĩ họ sẽ bị sa Hỏa Ngục. Những giám mục và linh mục này bị sa Hỏa Ngục vì đã giảng dạy sai lầm và làm gương xấu.
    Sau khi thăm Hỏa Ngục, Thiên Thần đưa tôi đến Luyện Ngục. Ở đây cũng vậy, có 7 mức độ hình phạt và lửa cháy phừng phực khác nhau. Nhưng ở Luyện Ngục thì không khủng khiếp như ở Hỏa Ngục. Người ta không tranh giành và chửi bới. Nỗi đau khổ chính của họ là không được chiêm ngắm Thiên Chúa. Một số người trong Luyện Ngục họ mắc tội trọng nhưng họ đã ăn năn thống hối với Chúa trước khi chết. Mặc dù những linh hồn này đang chịu hình phạt, họ vẫn cảm nhận sự bình an và họ biết rằng ngày nào đó họ sẽ được hưởng thánh nhan Chúa. Tôi đã được phép nói chuyện với linh hồn ở Luyện Ngục. Họ xin tôi và mọi người cầu nguyện cho họ để họ sớm được về Thiên Đàng. Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Ngục, họ sẽ nhớ ơn và cầu nguyện lại cho chúng ta khi họ về Thiên Đàng.
    Thật rất khó mà diễn tả Thiên Thần của tôi đẹp như thế nào. Thiên Thần sáng như ánh hào quang. Thiên Thần luôn đồng hành với tôi trong công việc mục vụ, đặc biệt là mục vụ chữa lành. Thiên Thần luôn đi với tôi bất cứ nơi nào và tôi rất biết ơn về sựbảo vệ của thiên thần cho đời sống của tôi.
    Kế tiếp, Thiên Thần đưa tôi lên Thiên Đàng. Chúng tôi băng qua con đường hầm sáng láng. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự bình an và hoan hỉ bằng lúc này. Ngay tức khắc, tôi nghe thấy điệu nhạc du dương những Thiên Thần đang ca hát và tôn thờ Chúa. Tôi nhìn thấy những vị Thánh đặc biệt là Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, nhiều giám mục và linh mục thánh thiện. Những vị này sáng láng như các vì sao. Khi tôi đến trước mặt Chúa, Chúa Giêsu bảo tôi “Cha muốn con trở lại trần gian, trong cuộc sống thứ hai của con, con sẽ trở nên dụng cụ hòa bình và chữa lành cho mọi người, con sẽ đến một nơi đất lạ và con sẽ nói tiếng nước ngoài, mọi sự sẽ được Cha chúc phúc.” Sau những lời đó, Đức Mẹ Maria bảo tôi “Con hãy làm những gì Chúa bảo con, Mẹ sẽ giúp con trong công việc mục vụ của con.”
    Không một ngôn từ nào có thể diễn tả được sự đẹp đẽ của Thiên Đàng. Nơi đó chúng ta đầy tràn bình an và hạnh phúc vượt quá hằng triệu lần sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa rất là tốt đẹp hơn bất cứ sự tưởng tượng nào. Mặt của Ngài thì sáng láng và rực rỡ hơn ngàn lần ánh sáng của mặt trời. Những bức tranh mà chúng ta nhìn thấy ở thế giới này chỉ là những bóng mờ so với sự lộng lẫy của Ngài. Bên cạnh Chúa Giêsu là Mẹ Maria, Mẹ rất đẹp và sáng láng. Không có một hình ảnh nào trên thế giới có thể so sánh với vẻ đẹp thật sự của Mẹ. Thiên Đàng là quê thật của mỗi người chúng ta. Chúng ta cố gắng trở về Thiên Đàng và hưởng hạnh phúc nhan thánh Chúa mãi mãi. Sau đó tôi cùng Thiên Thần trở lại trần gian.
    Lúc xác tôi còn nằm ở bệnh viện, bác sĩ đã kiểm tra toàn bộ và xác nhận tôi đã chết. Nguyên nhân của sự tử vong là do mất quá nhiều máu. Gia đình tôi đã được thông báo khi họ còn ở xa. Nhân viện bệnh viện quyết định đưa xác tôi xuống nhà xác. Bởi vì bệnh viện không có máy lạnh, nên họ lo ngại xác sẽ có mùi hôi.
    Ngay lúc họ chuyển xác tôi tới nhà xác, linh hồn tôi trở lại thân xác. Tôi cảm thấy rất đau đớn bởi vì những vết thương và nhiều xương bị gẫy. Tôi bắt đầu rên la, những người xung quanh tôi chạy tán loạn la hoảng lên vì sợ hãi. Một trong những người đó đã đi gọi bác sĩ và nói “Xác chết đang rên la.” Bác sĩ đến kiểm tra lại thân thể tôi và phát hiện tôi vẫn còn sống. Bác sĩ ấy nói rằng “Cha Jose vẫn còn sống, đây là phép lạ, hãy đem cha trở lại bệnh viện.”
    Khi họ đưa tôi đến phòng để truyền máu, đồng thời họ mổ và sửa lại những xương đã bị gẫy. Họ sửa lại xương quai hàm, xương sườn, xương chậu, xương cổ tay và xương chân phải của tôi.
    Sau hai tháng điều trị tại bệnh viện, bác sĩ về xương đã cho tôi biết là tôi không bao giờ có thể đi lại được nữa. Nhưng tôi đã nói với bác sĩ: “Thiên Chúa đã cho tôi sống lại, gửi tôi về trần gian thì cũng sẽ chữa lành tôi.” Sau một tháng cắt băng bột, tôi vẫn không thể đi lại được. Trong lúc chúng tôi đang cầu nguyện tại nhà, tôi cảm thấy rất đau đớn ở nơi xương chậu. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, sự đau đớn đã hoàn toàn biến mất và tôi nghe thấy có tiếng nói với tôi: “Con đã được chữa lành, đứng dậy và đi.” Tôi cảm thấy an bình và được chữa lành hoàn toàn trong con người của tôi. Tôi đứng dậy và bước đi. Tôi ngợi khen và tạ ơn Chúa cho phép lạ này.
    Tôi báo cho bác sĩ về cái tin mà tôi đã được chữa lành, ông ta rất ngạc nhiên. Ông ta nói với tôi rằng: “Thiên Chúa của ông là Chúa thật. Tôi phải theo Thiên Chúa của ông.” Bác sĩ này là người theo đạo Hindu, ông ta đã hỏi tôi về đạo thánh. Sau đó, ông ta học đạo và chính tôi là người đã rửa tội cho ông để gia nhập đạo Công Giáo.
    Theo sứ điệp của Thiên Thần, tôi đã đến Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 11 năm 1986, với công tác là linh mục truyền giáo. Lúc đầu, tôi làm việc cho Giáo Phận Boise ở Idaho từ năm 1987 tới 1989, kế đến tôi làm tuyên úy cho một nhà tù trong Giáo Phận Orlando, Florida từ năm 1989 tới 1992.
    Năm 1992, tôi thuyên chuyển đến Giáo Phận Thánh Augustinô và làm việc tại nhà thờ Thánh Máthêu ở thành phố Jacksonville trong hai năm. Sau đó tôi được chỉ định làm chính xứ của nhà thờ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời từ năm 1994 đến 1999. Vào năm 1997, tôi được chính thức công nhận là linh mục trong giáo phận. Từ tháng 6 năm 1999 đến nay, tôi là cha quản nhiệm nhà thờ Đức Mẹ của Lòng Thương Xót ở thành phố MacClenny, Florida. Đồng thời tôi cũng phục vụ cho trại tù Starke, trung tâm cải huấn Raiford và trong bệnh viện MacClenny. Hơn nữa, tôi cũng là cha linh hướng của Hội Lêgiô Marie của địa phận.
    Trong mỗi ngày thứ bảy đầu tháng, giáo xứ tôi có giờ chầu Thánh Thể và Thánh Lễ chữa lành. Mọi người đến từ nhiều nơi trong tiểu bang Florida và các tiểu bang khác. Tôi đã được mời đến cho mục vụ chữa lành ở nhiều thành phố lớn trong nước như New York, Philadelphia, Washington DC, San Jose, Dallas, Chicago, Birmingham, Denver, Boise, Idaho Falls, Ontario, Miami, Ft. Lauderdale, Poolsville và nhiều nước trên thế giới như Ireland, Spain, Czech Republic, India, France, Portugal, Yugoslavia, Italy, Canada, Mexico, Cayman Island và Hawaiian Islands.
    Xuyên qua công tác mục vụ chữa lành qua phép Thánh Thể, tôi đã thấy nhiều người được chữa lành về thể xác, linh hồn, tâm hồn cũng như cảm xúc. Nhiều bệnh khác nhau như ung thư, si đa, tim, mắt, xuyễn, đau lưng, lãng tai và nhiều bệnh khác đã được chữa lành hoàn toàn. Thêm vào đó, nhiều lần trong năm có những cuộc chữa lành đặc biệt về giòng tộc mà đã ảnh hưởng bởi tội lỗi của cha ông cũng đã được chữa lành hoàn toàn.
    Vì thế chúng ta cần sự chữa lành về gia tộc. Các bác sĩ và nhiều thuốc men không thể giúp chúng ta chữa lành về các loại bệnh tật này.
    Trong mục vụ chữa lành, đã có nhiều người được nghỉ ngơi trong ơn Chúa Thánh Thần trước Thánh Thể Chúa và nhiều người được đổi mới tâm linh cũng như chữa lành về thân xác.
    Tường thuật của Linh Mục Jose Maniyangat
    Chuyển dịch: Anna Liên Nguyễn Seattle ngày 7 tháng 11 năm 2007
    Thân mến.
    Anne Liên Nguyễn dịch