6. Văn Hóa & Gia Đình

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH -

  •  
    Hung Dao
     
     
    VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH
     
     
     
    Sent: Monday, March 15, 2021, 04:19:54 AM CDT
    Subject: VAN HOA :Sự Thông Thái Bất Tận: Tốt Hơn Cả Vàng
     

     Sự Thông Thái Bất Tận: Tốt Hơn Cả Vàng

    Thiên Hòa 

    image.png
    “Trường học Athens” bởi Raphael, 1511. 

    Liệu trí tuệ chỉ bao gồm kiến thức, hay còn cái gì khác?

    Có nhiều thứ mà thế giới chúng ta cần hơn lúc này, hơn cả sự khôn ngoan.

     

    Nhưng nó chính xác là gì?

    Hãy để tôi bắt đầu bằng việc quan sát rằng con người chúng ta có thể “biết” sự việc ở ba cấp độ khác nhau.

    Cấp đầu tiên và tầng thấp nhất là dữ liệu thuần túy, bao gồm các sự thật biệt lập, dữ kiện, số liệu, ngày, con người, và sự quan sát. Đây là hình thức thấp nhất về sự "hiểu biết".

    Cấp độ thứ hai chính là kiến thức, có tổ chức và hệ thống hóa những dữ liệu chúng ta nhận thức được, từ đó mà hiểu nguyên nhân và kết quả của chúng.

    Cấp độ thứ ba và tầng cao nhất chính là trí tuệ.

    Những tư tưởng vĩ đại trong suốt lịch sử đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau, nhưng tôi xin được tranh luận, những định nghĩa tương thích lẫn nhau về trí tuệ.

    Hãy bắt đầu với Socrates. Trong tác phẩm “Lời xin lỗi” của Plato, học trò của Socrate, đã kể rằng: Chaerephon, bạn của Socrates, đã hỏi Nhà tiên tri ở Delphi rằng liệu có người nào khôn ngoan hơn Socrates không. Nhà tiên tri nói rằng không có. Socrates đã phân vân bởi điều này, và sau khi cân nhắc câu trả lời của Nhà tiên tri đã kết luận rằng ý nghĩa của nó là: "Người đàn ông này trong số các bạn, những người phàm, là người khôn ngoan nhất, giống như Socrates, hiểu rằng sự trí tuệ của mình là không có giá trị". Từ Socrates, chúng ta thấy rằng sự khôn ngoan bao hàm ý thức về những giới hạn của bản thân, lòng khiêm tốn.

    Trong cuốn “Đạo đức Nicomachean”, học trò của Plato, Aristotle, đã phân biệt giữa hai loại trí tuệ: lý thuyết và thực hành. Trí tuệ lý thuyết về bản chất bao gồm kiến thức sâu rộng và hiểu biết sâu sắc về một chủ đề cụ thể. Mặt khác, trí tuệ thực tiễn chính là kiến thức về làm thế nào để sống tốt, vì theo Aristotle, “Hiển nhiên rằng việc có trí tuệ thông thái thực tiễn mà không thể sống tốt là không thể xảy ra”. Vì vậy, đối với Aristotle, trí tuệ vừa là kiến thức sâu rộng của học vấn vừa là một cuộc sống đức hạnh.

    Tuân Tử, một triết học gia người Trung Quốc sống sau thời Aristotle, khẳng định rằng một người thông thái là người đầu tiên ra lệnh cho bản thân mình, và từ đó ra lệnh cho những điều xung quanh người ấy - gia đình, nơi làm việc, hoặc nếu anh ta là người cai trị quốc gia.

    “Đối với người tu dưỡng tâm tính”, ông nói, “không gì tốt hơn sự chính trực”. Với sự chính trực này, một người trí tuệ có thể thích nghi với thế giới xung quanh: “Nếu bạn là người có kỷ luật, thì bạn sẽ hiểu ra. Khi bạn đã ngộ ra được, bạn có thể thích ứng với mọi thứ". Biến đổi và thích ứng nối tiếp nhau gọi là “Thiên đức”. Từ đó, chúng ta thấy rằng Tuân Tử tin rằng "Thiên đức" của trí tuệ bao gồm khả năng thích ứng với thế giới xung quanh chúng ta.

     

    Tương tự như vậy, một số sách trong Kinh Thánh hầu như chỉ tập trung vào trí tuệ. Ví dụ, Vua Solomon xác định Thượng Đế là nguồn trí tuệ tối thượng. Theo như lời của Thánh Thomas Aquinas, người đã trích dẫn lời của Aristotle, “Cân nhắc căn nguyên thuộc về sự khôn ngoan”, mà Thánh Thomas đã xác nhận với Chúa, Đấng tối cao an bài cho mọi sự việc.

    Và vì sự khôn ngoan cuối cùng được đồng nhất với Thượng Đế, Kinh Thánh có đầy những lời khuyên về việc lắng nghe những người có thẩm quyền trên chúng ta, những người thông thái và kinh nghiệm. Sách về sự khôn ngoan cũng nhấn mạnh rằng để trở nên khôn ngoan, chúng ta cũng phải lắng nghe những lời chỉ trích, và chấp nhận những lời quở trách từ những người thông thái. Tương tự như vậy, Kinh Thánh cũng khẳng định những gì được nói bởi Aristotle, Tuân Tử và nhiều người khác, rằng khôn ngoan có nghĩa là sống có đạo đức phẩm hạnh.

    Do đó, trí tuệ vượt xa thông tin dữ liệu và kiến thức theo nhiều cách.

    Trước tiên, trong khi thông tin dữ liệu và kiến thức có thể được định hướng bằng nhiều lý do bề mặt (vẻ đẹp trong nghệ thuật, thiết kế trong kỹ thuật, luật trong luật học, v.v.), trí tuệ cuối cùng lại được định hướng đến căn nguyên, mang tên Thượng Đế. Như vậy, nó áp dụng và định hướng cho mọi thứ khác trong cuộc sống, vì cuộc sống bắt nguồn từ Thượng Đế.

    Thứ hai, sự khôn ngoan đòi hỏi sự khiêm tốn và sự sẵn lòng chấp nhận lời khuyên và thậm chí cả lời khiển trách — cả hai đều là điều không cần thiết trong thu thập dữ liệu hoặc kiến thức.

    Thứ ba, trí tuệ là bản chất được kết nối với phẩm hạnh, và do đó nó không chỉ là những gì chúng ta nghĩ về cuộc sống, mà còn là cách chúng ta sống với nó. Dữ liệu và kiến thức có thể tồn tại như điều trừu tượng trong tâm trí. Nhưng trí tuệ nhất thiết phải trở thành hóa thân trong cuộc sống. Đó là một trạng thái hiện hữu. Nó nhìn xa hơn phía chân trời, và hiểu rằng dữ liệu và kiến thức sẽ không bao giờ có thể lấp đầy sự hiểu biết mà chỉ có thể dùng để mô tả.

    Cuối cùng, trí tuệ phải được thúc đẩy bởi tình yêu với học tập, cuộc sống, nhân loại và cuối cùng là Thượng Đế. Nhiều người có được chính xác dữ liệu và kiến thức trong đầu, nhưng nếu họ thiếu đi trí tuệ, họ có thể sử dụng sai vì họ không được neo giữ bởi tình yêu đối với bất kỳ điều gì lớn hơn bản thân họ, như Thánh Phao-lô đã quan sát, “Kiến thức” tăng lên, nhưng tình yêu được bồi đắp”. Sở hữu dữ liệu và kiến thức thường có thể dẫn đến kiêu ngạo. Sở hữu trí tuệ thì ngược lại.

    Mặc dù đây không phải là điều đầy đủ toàn diện về trí tuệ, nhưng nó cho chúng ta đủ để xác định được những gì đặc trưng của một người trí tuệ theo nhiều tư tưởng vĩ đại trong suốt lịch sử. Để trở thành một người trí tuệ, người ta phải — tối thiểu — phải là người:

    1. Kính sợ và tôn trọng Thượng Đế;
    2. Khiêm tốn thừa nhận những khiếm khuyết và hạn chế của mình;
    3. Lắng nghe những sửa chữa và lời khuyên của người lớn tuổi và những người có nhiều kinh nghiệm hơn; và
    4. Thích nghi tất cả những điều trên vì cuộc sống đức hạnh.

    Đây là bốn nguyên tắc nằm trong chuyên mục Sự Thông Thái Bất Tận, mục đích của chúng tôi là mang trí tuệ của những bộ óc vĩ đại trên khắp thế giới và lịch sử nhân loại áp dụng vào cuộc sống hiện đại — ngay cả khi, hoặc có lẽ đặc biệt là khi mâu thuẫn với quan điểm và giả định của chúng ta.

     

    Lý do rất đơn giản, đã được Vua Solomon nói rõ cách đây 3.000 năm: “Hạnh phúc là người tìm thấy trí tuệ, và người có được sự hiểu biết, vì lợi ích có được từ hiểu biết tốt hơn lợi ích có được từ bạc và lợi nhuận của hiểu biết còn tốt hơn cả vàng”.

    Thiên Hòa
    Theo Joshua Charles 

    -------------------------------

     

    --

     

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - 40 NĂM TU ĐẠO

 

  •  
    Hung Dao
     
    Wed, Mar 3 at 8:00 AM
     
     
     
     
    >
    Sent: Wednesday, March 3, 2021, 04:13:10 AM CST
    Subject: VAN HOA :40 năm tu Đạo, vì sao Khương Tử Nha vẫn phải hạ phàm ngồi câu cá?
     

    40 năm tu Đạo, vì sao Khương Tử Nha vẫn phải hạ phàm ngồi câu cá?

     
     

    Khương Tử Nha vốn là đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn, 30 tuổi đã lên núi, trải qua quá trình khổ tu 40 năm, đối với ông, phú quý tại nhân gian sớm đã xem nhẹ như mây khói…

    ‘Phong Thần Diễn Nghĩa’ là một tác phẩm văn học sử nổi tiếng. Khương Tử Nha là nhân vật chính trong câu chuyện xưa này nên cũng được người đời sau chú ý đến nhiều hơn. Mặc dù người đọc có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nếu ai đó có hiểu biết về văn hóa truyền thống Trung Hoa 5000 năm sẽ hiểu được nội hàm của văn hóa Thần truyền, đồng thời cũng có cái nhìn thấu đáo hơn về hành động câu cá thú vị của Khương Tử Nha. Hành động đó không phải để đùa cợt mà ẩn chứa bên trong là nội hàm sâu sắc của văn hóa tu luyện. 

    Ở đây tác giả chỉ nói lên quan điểm cá nhân của bản thân về Khương Tử Nha, đồng thời cũng đưa ra một cái nhìn sơ lược về nội hàm tu luyện trong văn hóa truyền thống Trung Quốc .

    Tại sao Khương Tử Nha lại được đi phong Thần? 

    Phong Thần là một sự kiện lớn, là đại sự của Thiên Thượng, do thiên mệnh cùng vô số nhân duyên tổng hợp lại mà thành, tuyệt đối không phải chiểu theo ý thích của Thần. Sự kiện phong Thần là một việc hiếm thấy trong đời, ngàn năm khó gặp. Chương thứ 15 của ‘Phong Thần Diễn Nghĩa’ có nói rõ ràng rằng: 

    “Lúc này, Thành Thang đối diện với sự diệt vong, nhà Chu hướng đến hưng thịnh, đúng thời Thần Tiên phạm giới, Nguyên Thủy phong Thần, Khương Tử Nha hưởng phúc làm tướng, vừa gặp thời lại gặp số, không phải việc ngẫu nhiên”. 

    Tại đây chúng ta nên lý giải câu “Thành Thang đi đến diệt vong, nhà Chu hướng đến hưng thịnh” như thế nào? Nếu ai đã đọc qua truyện ‘Phong Thần diễn nghĩa’ đều sẽ thấy được hành vi tàn bạo vô sỉ không thể chấp nhận được của Thương Trụ Vương, vậy thì triều đình nhà Thương liệu có còn được phép tồn tại? Do vậy sự “diệt vong” này đến từ chính Trụ Vương, ông Trời không cho phép một kẻ tàn ác như vậy tồn tại gây họa loạn nhân gian. Vậy là Thương Trụ Vương đã đem cơ nghiệp của tổ tiên hủy hoại trong tay mình. 

    Ở đây, “Thiên mệnh” và biểu hiện ở xã hội con người hoàn toàn hòa nhập, và là một thể thống nhất. Cho nên người xưa giảng “Thiên nhân hợp nhất”, thật sự có quá nhiều nội hàm ẩn chứa bên trong. Văn hóa truyền thống Trung Hoa là nền “văn hóa nửa Thần”. Mà “nhà Chu hướng đến hưng thịnh”, Chu Văn Vương dùng đức kết nối với Trời. Trong truyện nói rất nhiều đến Chu Văn Vương nhân đức, dĩ nhiên là ông nên làm vương thiên hạ. “Đức” là một khái niệm trọng yếu trong văn hóa truyền thống Trung Hoa. Người có “đức” lớn thì có thể “làm vua thiên hạ”, người có ít hơn một chút thì cũng có thể như Khương Tử Nha “hưởng phúc tướng quân”. Nếu người thiếu đức thì dù có làm hoàng đế cũng sẽ khiến đất nước diệt vong. 

    ‘Phong Thần Diễn Nghĩa’ có nhắc đến một vấn đề trong, đó là “Thần Tiên phạm giới”. Hóa ra Thần Tiên nếu giữ mình không tốt cũng sẽ phạm giới và bị đánh rớt xuống trần gian. Trong truyện ‘Tây du ký’ cũng có nói về sự việc này. Ví dụ như Sa Tăng và Trư Bát Giới vốn là Thiên tướng trên trời, nhưng bởi phạm giới mà bị giáng trần. 

    Đối với việc tu Đạo thành Tiên cũng có những yêu cầu rất nghiêm khắc. Nếu không tu đắc chính quả, cuối cùng vẫn phải chuyển sinh trong lục đạo luân hồi. Trong chương 99 của ‘Phong Thần diễn nghĩa’, Khương Tử Nha được đứng đầu bảng phong Thần. Nguyên Thủy Thiên Tôn ở Ngọc Hư Cung đọc sắc lệnh phong Thần, trong đó có viết như sau: 

    “Hỡi ôi! Tiên phàm khác bậc, người không đạo đức khó thành. Thần quỷ riêng phần, há kẻ gian tà có thể trộm. Dẫu có luyện ra hòn đảo, chưa từng trảm lại 3 thi, chung quy vẫn chịu kiếp số 500 năm; Nếu đến cuối cùng vẫn nhất mực mơ mơ hồ hồ, trí tuệ không siêu thoát khỏi Dương Thần, khó đoái hiện được ước hẹn tại Dao Trì 3000 năm. Cho nên mọi người dù nhìn thấy đường Đạo nhưng vẫn không thể chứng đắc quả bồ đề. Có tâm tự tu luyện nhưng tham si chưa buông, thân dẫu nhập cửa Thánh nhưng tính nóng còn khó bỏ. Cần tu bỏ hết lỗi lầm thì vận hạn mới hết và kiếp số mới đổi thay”. 

    Tại sao Khương Tử Nha phải xuống núi phong Thần? 

    Khương Tử Nha 

    Khương Tử Nha vốn là đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn, 30 tuổi đã lên núi, trải qua quá trình khổ tu 40 năm, đối với ông, phú quý tại nhân gian sớm đã xem nhẹ như mây khói. Cơ bản ông không muốn xuống núi phong Thần (không giống như Thân Công Báo). Khương Tử Nha một lòng nghĩ đến tu Đạo thành Tiên, chỉ tiếc căn cơ còn kém, đường tu Tiên chưa thành, chỉ có thể lấy mấy chục năm công phu tu luyện đổi lấy công danh hiển hách tại nhân gian mà thôi. Ông xuống núi cũng là do sư phụ Nguyên Thủy Thiên Tôn sắp đặt. Lý do này được giải thích rõ ràng trong hồi thứ 15 của ‘Phong Thần diễn nghĩa’. 

    Thiên Tôn nói: “Con từ nhỏ bạc mệnh, đạo Tiên khó thành, chỉ có thể nhận phúc tại nhân gian. Hiện nay Thành Thang sắp diệt, nhà Chu nên hưng thịnh, vậy con thay ta xuống núi ra công giúp nước. Sống làm tướng, chết làm Thần, như vậy mới không uổng công phu tu luyện mấy chục năm trời. Còn nơi này không phải là chỗ con có thể ở được lâu, nên sớm chuẩn bị xuống núi”.

    Tử Nha năn nỉ: “Ðệ tử bỏ nhà lên núi, dốc lòng lánh tục tu Tiên bốn chục năm, duy nguyện bỏ đời theo đạo. Vẫn biết tu hành là khổ, muốn thành chính quả không phải một sớm một chiều, đệ tử vẫn một lòng tình nguyện ở trên núi chịu khổ hạnh, không dám tham luyến công danh phú quý nơi phàm trần, mong Sư Tôn thu nhận”. Thiên Tôn nói: “Duyên mệnh của con như vậy, phải làm theo Thiên ý, sao có thể thực hiện khác được đây?” Tử Nha lưu luyến không nỡ rời đi… 

    Từ góc độ này mà nói, trong lịch sử, một người có thể tu thành đắc đạo quả không phải chuyện dễ dàng. Cho dù các điều kiện khác đều tốt nhưng căn cơ của người đó lại có khiếm khuyết thì cũng khó thành công trong tu luyện. 

    Khương Tử Nha câu cá như thế nào? 

    Vào ngày hôm đó, Khương Thượng đi đến khu vực phía Nam Kỳ Châu cách 40 dặm, cách huyện Quắc về phía Nam 10 dặm, bên bờ sông Vị Thủy, có khe suối Bàn Khê. Khương Thượng đã vâng mệnh, ngồi câu cá bên bờ sông Vị Thủy, dùng lưỡi câu thẳng, không cần mồi nhử, ngồi cách mặt nước 3 thước. Ông còn tự nói: “Người phụ mệnh, ngồi câu cá”.  

    Người đời sau đều biết đến câu thành ngữ: “Khương Thái Công câu cá, người nguyện mắc câu”. Tuy nhiên, mọi người lại ít chú ý đến phương thức câu cá của ông. Họ còn tưởng rằng đây chỉ là câu nói đùa vui. Kỳ thực, câu nói này còn ẩn chứa điều huyền bí. Khương Tử Nha là người tu Đạo nên không được sát sinh, do đó ông đã dùng lưỡi câu thẳng và không có mồi nhử. Còn việc ông ngồi cách vị trí mặt nước 3 thước, hành động này là để cho người bình thường nhìn thấy, muốn người đời nhận ra sự khác người của ông mà dùng lời tốt đẹp dẫn Vương đến. 

    Mặc dù Khương Tử Nha được sư phụ sắp xếp xuống núi phong Thần, nhưng đối với việc tu Đạo ông không hề dám buông lơi chút nào, thời thời khắc khắc đều lấy tâm tính người tu để yêu cầu chính mình, trong truyện cũng có nhiều đoạn mô tả hành động của ông. Ví dụ như trong chương thứ 15 có mô tả về chuyện vợ chồng của Khương Tử Nha như sau: 

    “Sau khi kết hôn, cả ngày Tử Nha nhớ về núi Côn Lôn, chỉ lo con đường tu Đạo không thành nên trong lòng bất an, không có tâm trạng muốn vui vẻ với Mã Thị”. 

    Đối với một người tu luyện mà nói, trong xã hội nhân loại, nếu như buông lỏng các tiêu chuẩn của người tu luyện, ham vui hưởng thụ, như vậy thì con đường tu đạo của người đó sẽ bị hủy ngay. 

    Người xưa rất tôn kính người tu Đạo 

    Trong xã hội cổ và cận đại, con người rất tôn kính người tu luyện. Ví dụ như trong truyện Thủy Hử, Lỗ Đề Hạt giết người, vì tránh né hình phạt mà xuất gia làm hòa thượng, sau đó quan phủ không đến tìm ông ta nữa. Bởi vì Lỗ Đề Hạt đã là người xuất gia, còn quan phủ chỉ quản sự việc của người bình thường. Trong chương cuối của ‘Phong Thần diễn nghĩa’, sau khi Võ Vương lên làm bá chủ thiên hạ, ông liền thực hiện việc phân đất phong hầu. Lý Tịnh cùng bảy người tu Đạo từng lập công lao lớn nhưng lại không muốn nhận hưởng phú quý, đã nói với Võ Vương như sau: 

    “Chúng thần đều là những kẻ man di vốn xuất thân từ nơi sơn cốc, xuống núi theo lệnh của thầy để hành theo Thiên mệnh, diệt trừ họa loạn nhân gian. Nay thiên hạ đã thái bình, chúng thần nên về núi vâng mệnh Sư phụ. Vinh hoa phú quý, công danh lợi lộc nơi hồng trần không phải điều chúng thần mong muốn. Hôm nay chúng thần bái biệt Hoàng Thượng. Hy vọng bệ hạ sắc phong chúng thần được trở về núi, đây quả thực là hồng ân to lớn”. 

    Nghe những lời này, Võ Vương không còn cách nào khác, buộc phải dẫn theo bá quan văn võ tiễn đưa nhóm người Lý Tịnh ra tận vùng ngoại ô phía Nam. 

    Lý Tịnh và nhóm người tu đạo bước tới, bái biệt và nói: “Chúng thần có tài đức gì, đâu dám phiền bệ hạ đích thân ban thưởng yến tiệc. Chúng thần xin cảm tạ bệ hạ!” Võ Vương khoát tay an ủi nói: “Hôm nay các khanh trở về núi, chính là nơi thế ngoại đào viên, trẫm cùng các khanh không còn quan hệ vua tôi. Các khanh đã quá khiêm tốn tồi…” 

    Võ Vương dùng tư cách của bậc thiên tử đối đãi ngang hàng cùng nhóm người Lý Tịnh, bỏ qua quan hệ quân thần. Chi tiết này đã phản ánh chân thực xã hội truyền thống Trung Nguyên xưa. Từ vua quan đến người dân đều vô cùng tôn kính người tu Đạo. 

     

    San San biên dịch

     

     

    --

     

 

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - CAC CÂU ĐỐI TẾT

  •  
    Hung Dao
     
    Thu, Feb 11 at 8:05 AM
     
     
     
     
     
    Sent: Thursday, February 11, 2021, 05:17:53 AM CST
    Subject: VAN HOA :NHỮNG CÂU ĐỐI TẾT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT 1
     
      NHỮNG CÂU ĐỐI TẾT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT
      
    image.png

    image.png
    image.png
    image.png

     

    --
    Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "HoaTuDo".
    Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    Để xem cuộc thảo luận này trên web, hãy truy cập https://groups.google.com/d/msgid/hoatudo/CAKtO7RiRbviBJXV6yZ3odnhom41r13U2Dqg_4RZPVq_1aAfEDg%40mail.gmail.com.
     

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - ĐẠO HIẾU

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Feb 12 at 10:06 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     

    Đạo hiếu 

    Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình,

     thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin.
     (1Tm 5,8)

    Nói đến gia đình Việt Nam là nói đến đạo hiếu và tình gia tộc. Bước vào cuộc sống hôn nhân, hai vợ chồng không phải chỉ bước vào cuộc sống riêng tư đóng kín chỉ với riêng hai người, mà còn mở ra với cha mẹ đôi bên, cũng như với anh chị em họ hàng.

    Như chúng ta đã biết: sau ba điều răn nói về bổn phận đối với Thiên Chúa, điều răn thứ tư nói về bổn phận thảo kính cha mẹ. Như thế, Kinh Thánh coi hiếu thảo là điều răn thứ nhất và quan trọng nhất trong tương quan giữa người với người[1]. “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa[2]“. Chính Chúa Giêsu, khi đến trần gian đã nêu gương hiếu thảo cho chúng ta: Cuộc sống ở trần gian của Ngài vỏn vẹn chỉ có ba mươi ba năm, nhưng Ngài đã dành ba mươi năm sống hiếu thảo, vâng lời trong gia đình Nadarét[3].

    1. Với cha mẹ

    1.1. Khi cha mẹ còn sống

    Lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ phát xuất từ sự biết ơn đối với những bậc đã cộng tác với Thiên Chúa thông truyền cho mình sự sống, cũng như đã chăm lo nuôi dưỡng và giáo dục mình nên người. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con?” (Hc 7,27-28)

    Công đồng Vaticanô II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh[4]“.

    Khi cha mẹ còn sống, con cái bày tỏ lòng hiếu thảo qua việc: yêu mến, tôn kính, vâng lời, chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ.

    Yêu mến và tôn kính cha mẹ. Thiên Chúa muốn ta thật lòng yêu mến và tôn kính cha mẹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm.

    . Trong tư tưởng, ta thực tình nhìn nhận cha mẹ đáng trọng kính, vì đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ, hướng dẫn, gây dựng hạnh phúc cuộc đời cho ta.

    . Trong lời nói, ta lựa cách xưng hô và chuyện trò thật khiêm cung, êm ái, không bao giờ dùng những lời nói cứng cỏi, nóng nảy đối với cha mẹ.

    . Trong việc làm, ta năng thăm viếng, hoặc thư từ, hỏi han, bày tỏ lòng yêu mến bằng quà biếu, tìm cách làm cho cha mẹ được vui. Khi lo liệu việc trọng đại, dù đã ở riêng, ta cũng nên bàn hỏi cha mẹ vì các ngài có ơn Chúa để giúp ta[5]. “Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ, biết đón trước ý muốn của các ngài, sẵn sàng bàn hỏi và chấp nhận những lời khuyến cáo đúng đắn của cha mẹ. Khi không còn chung sống với cha mẹ, con cái vẫn phải tôn kính, vì lòng tôn kính này bắt nguồn từ sự kính sợ Thiên Chúa, một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần[6]“.

    Vâng lời cha mẹ. Lòng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoãn và vâng phục. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn dụ của cha, và đừng ruồng bỏ giáo huấn của mẹ.... Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con”(Cn 6,20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13,1).

    Khi chưa trưởng thành, con cái phải mau mắn vâng lời cha mẹ trong tất cả những gì hợp luật Chúa, không nên trách móc phàn nàn. “Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa”(Cl 3,20). Ngay cả khi đã trưởng thành và dù đã ở riêng, nếu ta có làm điều gì sai trái mà được cha mẹ nhắc nhở, cần mau mắn vâng theo. Hơn nữa, người con trưởng thành cần biết đón trước điều cha mẹ mong muốn để làm đẹp lòng cha mẹ. Khi cha mẹ lâm chung, có trăn trối điều gì, con cái nên vui lòng tuân giữ. Ngược lại, nếu cha mẹ có ép buộc điều gì trái lương tâm, con cái nên tìm cách giãi bày để cha mẹ cảm thông, chứ không được hùa theo[7].

     

     

    Chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ. Phải luôn luôn giúp đỡ cha mẹ về phần hồn và phần xác, nhất là khi các ngài già cả, ốm đau, thiếu thốn, cần tận tâm tận lực phụng dưỡng, lo thuốc thang đầy đủ, vui vẻ thăm nom sớm tối. Đây là trách nhiệm của con cái. Đừng vì keo kiệt, ganh tị nhau mà để cha mẹ khổ cực. Phải cầu nguyện cho cha mẹ được mọi ơn lành, lo liệu cho cha mẹ được lãnh các bí tích và dọn mình chết lành. Sách Huấn ca nhắc nhở những người làm con:

    Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi,
    chớ làm phiền lòng người, khi người còn sống.
    Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng,
    ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người.
    Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng.
    Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi,
    và xây dựng đức công chính của người.

    Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn,
     ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.
    (Hc 3,12-16)

    1.2. Khi cha mẹ qua đời

    Khi cha mẹ qua đời, con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Anh chị em cần hoà thuận yêu thương nhau, noi gương cha mẹ để nên lành nên thánh. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.

    Hội Thánh Công giáo đón nhận việc thờ cúng ông bà như thế nào? Hội Thánh nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc. Tuy nhiên cần loại trừ những hình thức trái ngược với giáo lý Công giáo.

    Cũng cần nâng cao ý thức lịch sử về gia đình: Quan tâm bảo tồn gia phả và những kỷ vật của ông bà cha mẹ đã qua đời. Gia đình nào đã thất lạc gia phả, nên tìm cách dựng lại những gì còn biết được, nên làm càng sớm càng tốt khi những bậc cao niên trong dòng họ còn đủ minh mẫn để cung cấp các dữ liệu họ nắm được. Cũng nên quan tâm lưu giữ những hình ảnh và giấy tờ quan trọng của gia đình để các thế hệ sau có sử liệu.

    2. Với họ hàng đôi bên

    Đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình. Bởi vậy, cần yêu mến và học cách cư xử với tất cả mọi người trong dòng họ hai bên, như ông bà, chú bác, cô dì, cậu mợ và anh chị em. Cần sống tình gia tộc bằng cách năng lui tới viếng thăm và giúp đỡ theo khả năng của mình.

    4 GHI NHỚ :

    1. H. Tại sao con cái phải hiếu thảo đối với cha mẹ?

    T. Vì cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh thành, nuôi dưỡng và giáo dục ta nên người. Ngoài ra, đây còn là điều răn Chúa đã truyền dạy.

    2. H. Con cái biểu lộ lòng hiếu thảo với cha mẹ như thế nào?

    T. Con cái bày tỏ lòng hiếu thảo qua những việc sau đây:

    - Một là khi các ngài còn sống thì phải yêu mến, tôn kính, vâng lời, chăm sóc và giúp đỡ.

    - Hai là khi các ngài qua đời phải lo an táng, cầu nguyện và xin lễ.

    - Ba là anh chị em trong nhà cần hoà thuận yêu thương nhau, noi gương cha mẹ để nên lành thánh.

    3. H. Ta cần cư xử thế nào với họ hàng đôi bên?

    T. Ta phải kính trọng và yêu mến mọi người trong gia tộc; năng lui tới và giúp đỡ theo khả năng mình.

    4 GỢI Ý SUY NGHĨ :

    1. Có người nói: “Theo đạo Chúa là bỏ ông bà”. Anh chị trả lời thế nào?

    2. Anh chị đã biết gì về cha mẹ, anh chị em và họ hàng của bạn mình?

    4 CẦU NGUYỆN :

    Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha đã muốn biểu lộ tình Cha yêu thương chúng con qua tấm lòng yêu thương của người cha người mẹ trần thế. Cha còn muốn rằng, sau Cha, chúng con phải tôn kính cha mẹ vì các ngài đã có công sinh thành và dưỡng dục chúng con nên người. Xin Cha chúc lành, nâng đỡ và ban mọi ơn lành hồn xác cho cha mẹ chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết biết lấy tình yêu mà đáp lại tình yêu của các ngài bằng cách sống hiếu thảo, yêu mến, tôn kính, vâng lời và phụng dưỡng các ngài.

    Xin cho các ngài, ngay ở đời này tìm thấy niềm hạnh phúc được phục vụ Cha và yêu mến Cha. Và xin cho chúng con một ngày kia được sum họp với nhau trên Nước Trời. Amen.
     
    simonhoadalat
     
     

 

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - CHUC XUÂN 2021

CHÚC XUÂN

Xuân về kính chúc bạn yêu

Lạc quan vui sống trọn điều ước mơ

Ngày đêm tín thác kính thờ

Lòng thương xót Chúa bến bờ bình an

Dù cho cô vít lây lan

Bắc Nam đều bị cô nàng tấn công

Mùa xuân vẫn cứ nở bông

Chim kia vẫn hót cánh đồng bình an

Tình yêu Thiên Chúa chứa chan

Hồng ân muôn thuở Ngài ban mọi thời

Nhân tai do tại người đời

Cớ chi trách Chúa, bạn ơi lầm rồi

Giờ lo sám hối mà thôi

Tránh xa tội ác quyết tôi luyện mình

Cầu xin Đức Chúa thương tình

Cứu nhân độ thế biến hình hôm nay

Trần gian mơ ước đổi thay

Tai qua nạn khỏi xuân này yên vui.

BCT

Xuân Tân Sửu

 

Chia sẻ Bài này:
 

FacebookTwitterLinkedInPinterestViber

00:00
 
04:47
 
 
 

Bài Giảng Chúa Nhật 5 Thường Niên B

Video Player
 
00:00
 
14:33
 
 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
 
 

Chuyên Mục