20. Những Bài Về Đức Mẹ

NGÀY SINH CỦA MẸ MARIA LÀ SỨ ĐIỆP VUI MỪNG VÀ HY VỌNG CHO THẾ GIỚI

Các tác giả Tin Mừng không cho chúng ta biết nơi Mẹ Maria sinh ra. Chúng ta chỉ biết rằng Mẹ có họ hàng với bà Elizabeth sống ở miền Giuđêa. Do đó, không phải là không thể nghĩ rằng bản thân Mẹ là người gốc Giêrusalem, theo một truyền thống cổ xưa, có thể được tìm thấy trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê, cho chúng ta biết về cha mẹ của Đức Trinh nữ, là thánh Gioakim và thánh Anna. Và ở Giêrusalem, có một ngôi nhà rất cổ xưa được gọi là “Nhà của Thánh Anna.” Gần ngôi nhà này người ta đã dựng lên một nhà thờ mà lễ cung hiến diễn ra vào ngày 8 tháng 9. Lễ kỷ niệm việc cung hiến này được cử hành hằng năm. Ngày lễ này lan rộng đến Constantinôpôli vào thế kỷ thứ năm và sau đó đến phương Tây. Sau đó, ngày lễ Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được thêm vào 9 tháng trước đó, đó là ngày 8 tháng 12. Lễ Sinh Nhật Đức Maria là một trong những lễ lớn của năm phụng vụ Byzantine vì lễ đó khai mạc kế hoạch cứu độ và thực hiện Lời Chúa trong lịch sử con người.

Kể từ thế kỷ thứ 6, chúng tôi kính nhớ nơi Đức Trinh Nữ Maria được sinh ra, ở Giêrusalem, gần giếng Thánh Tẩy Bézatha, nơi đã chứng kiến sự ra đời của Mẹ Chúa Kitô, là “khởi đầu ơn cứu độ”. Chính tại Vương cung thánh đường Sinh Nhật của Mẹ Maria, Thánh Gioan Damascenô đã tuyên bố kỷ niệm ngày này một cách hân hoan.” [1]

Lễ Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria ngày 8 tháng 9 diễn ra đúng chín tháng sau lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 8 tháng 12. Chính vì sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ Maria khi còn trong lòng mẹ mà Giáo Hội tổ chức Lễ Sinh Nhật của Mẹ theo phụng vụ của Giáo Hội. Chỉ một Lễ Sinh Nhật khác của một vị thánh được cử hành theo nghi lễ Giáo Hội là Lễ Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả, là người đã được thánh hiến ngay khi còn trong bụng mẹ khi ngài nhảy mừng trước sự hiện diện của hài nhi Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria.

Đức Trinh Nữ Maria đã được gìn giữ khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ khi được tượng thai và vững bền trong suốt cuộc đời mà không phạm tội riêng nào. Dù mãi đến năm 1854 thì Đức Giáo hoàng Pius IX mới chính thức tuyên bố đây là một tín điều của Giáo hội, nhưng tín điều đó đã được cử hành từ thời Giáo Hội sơ khai.

Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê

Nếu Đức Maria đã thực sự thoát khỏi tội lỗi từ lúc tượng thai trong cung lòng mẹ của Ngài là thánh Anna và trong suốt cuộc đời của Mẹ, như những người Công giáo tin tưởng, thì chắc chắn Mẹ đã có một thời thơ ấu thánh thiện và trong trắng đặc biệt. Tài liệu đầu tiên cố gắng thuật lại thời thơ ấu của Mẹ Maria được viết vào nửa sau thế kỷ thứ hai. Mặc dù bị loại khỏi Kinh thánh quy điển, Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê vẫn khá phổ biến trong Giáo hội sơ khai, vì hơn 130 bản sao chép cổ xưa đã được phát hiện. Một số câu chuyện trong đó vẫn tồn tại trong truyền thống Công giáo.

Ngoài việc thuật lại những câu chuyện từ các Tin Mừng quy điển và các đoạn văn  trong Cựu ước, tài liệu này có thể còn lưu giữ một số câu chuyện được truyền khẩu trong Giáo hội sơ khai. Các Giáo phụ của Giáo hội dù không tán thành chính bản văn này, nhưng lại minh chứng rằng một số khái niệm cốt lõi về Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội và trọn đời đồng trinh được quyển Phúc Âm này củng cố thêm.

Bản thân tài liệu, còn được gọi là Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê hoặc Phúc âm về Thời Thơ Ấu theo Giacôbê, không phải là quy điển đối với người Công giáo. Một số câu chuyện của Tiền Phúc Âm này có vẻ kỳ quặc và Đức Thánh Giáo Hoàng Gelasius I vào cuối thế kỷ thứ năm đã liệt kê Tiền Phúc Âm này vào số những văn bản bị người Công giáo khước từ. Các học giả hiện đại nói chung không đặt nhiều tin cậy vào tính lịch sử của nó, lại càng ít tin tưởng hơn rằng tác giả của nó là Thánh Giacôbê.

Những thị kiến của Chân Phước Catherine Emmerich

Nhưng những thị kiến chi tiết hơn của Chân phước Catherine Emmerich – sinh ngày 8 tháng 9 năm 1774 và mất năm 1824 – kể về một chuỗi sự kiện thời gian đầu đời của Mẹ Maria rất giống với những sự kiện trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê. Những mặc khải tư này sau đó được viết ra bởi Clemens Brentano, là người ngồi bên giường của Vị Nữ Chân Phước, và dù Giáo hội không thấy nơi những mặc khải tư này điều gì trái với Đức tin, nhưng Giáo hội cũng không chính thức xác nhận chúng. Người ta cũng không biết Brentano, vốn cũng biết Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, đáng tin cậy như thế nào khi viết những lời đúng thực của Chân phước Catherine Emmerich.

Điểm chính của những câu chuyện lần đầu tiên được nêu ra trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê nhằm cho thấy rằng Mẹ Maria không chỉ là một trinh nữ khi thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn mãi là một trinh nữ, và hơn nữa, hoàn toàn trinh trong trước mặt Thiên Chúa. Người ta nhấn mạnh rằng không điều gì không tinh khiết mà lại được phép thấm nhập vào Mẹ và Mẹ đã được ban cho những tác động trinh trong nhất ngay khi còn là một em bé. Trinh khiết được cho là một phần căn tính của Mẹ Maria, và thánh Giuse, người sau này được chọn làm bạn trăm năm của Mẹ, cũng tôn trọng sự khiết trinh của Mẹ như vậy.

Một số điểm nổi bật của các câu chuyện như sau. Cha mẹ của Mẹ Maria, lần đầu tiên có tên trong văn bản này là Gioakim và Anna, là những người công chính nhưng không có con khi về già. Ông Gioakim giàu có và khi ông lên Đền thờ dâng cúng hào phóng cho Thiên Chúa, ông đã bị từ chối chỉ với lý do ông không có người nối dòng dù là người công chính trong Israel. Vì vậy, trong than khóc, ông đi ra sa mạc ăn chay cầu nguyện xin cho mình và vợ mình được sinh con. Tương tự như vậy, bà Anna, vợ của ông cảm thấy ô nhục về sự son sẻ của mình và bà than thở về tình trạng đau buồn của bà với Thiên Chúa — giống như Hannah, người mẹ hiếm muộn của tiên tri Samuel trong Cựu Ước (1 Samuel 1). Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của ông Gioakim và bà Anna và đã gửi các thiên sứ đến cả ông và bà để thông báo về sự ra đời của một đứa trẻ “sẽ được tất cả trần thế nói đến” và người “sẽ phụng sự Thiên Chúa trong những việc thánh suốt mọi ngày của đời nó. ” [2]

So sánh hai văn bản

Thánh Anna  khấn hứa sẽ dâng đứa trẻ phục vụ Thiên Chúa. Bà sinh ra một cô con gái, tên là Maria. Trong khi Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê trình thuật việc sinh ra đời thực sự của Mẹ Maria khá ngắn gọn, thì Chân phước Catherine Emmerich lại thoáng nhìn thấy ý nghĩa thánh thiêng của việc sinh hạ đó:

Trong khoảnh khắc đứa trẻ sơ sinh nằm trong vòng tay của người mẹ thánh Anna, đồng thời tôi thấy đứa trẻ được hiện diện trên thiên đàng trước Ba Ngôi Chí Thánh, và được tất cả thần thánh trên trời chào đón với niềm vui khôn tả. Sau đó tôi hiểu ra rằng em bé được biết đến, bằng một cách siêu nhiên nào đó, cùng với toàn bộ tương lai của em với tất cả những niềm vui và nỗi buồn của em. Maria đã được chỉ dạy về những mầu nhiệm vô hạn, dù vẫn là một đứa trẻ. Chúng ta không thể hiểu được sự hiểu biết này của em, bởi vì sự hiểu biết của chúng ta mọc trên cây thiện và ác. Còn em biết mọi thứ giống như một đứa trẻ biết vú của mẹ mình và biết rằng phải bú từ bầu sữa của mẹ mình.”

Cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria

Theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, khi bé Maria được sáu tháng tuổi, thánh Anna đã đặt bé xuống để xem bé có thể đứng được hay không. Khi bé Maria bước được bảy bước, thánh Anna bế bé lên và kêu lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa hằng sống của tôi, tôi sẽ không bước đi trên trái đất này cho đến khi tôi dâng con tôi vào đền thờ Chúa.” [3]

Bé Maria được coi là thánh thiện, và thánh Anna  đã làm một nơi tôn nghiêm trong buồng ngủ của bé khi cô bé mới được sáu tháng tuổi và không để bất cứ thứ gì uế tạp thấm nhập vào bé. Bé được các tư tế và người dân công nhận là dành riêng cho Thiên Chúa và được định sẵn để được đưa vào Đền thờ. Lần đầu tiên khi cha mẹ bé cân nhắc việc cho bé vào phục vụ Đền thờ năm lên hai tuổi, giống như tiên tri Samuel trong Cựu ước, họ quyết định đợi cho đến khi bé lên ba.

Vào thời điểm đó, cha mẹ đã giao bé Maria cho Đền thờ nuôi dưỡng như họ đã thề hứa:

Hãy mời những cô con gái Hipri trinh trắng, mỗi em hãy cầm lấy một ngọn đèn, và để các em đứng đó cầm ngọn đèn đang cháy, hầu cho em nhỏ không quay lại, và để tâm hồn em nhỏ được đền thờ của Thiên Chúa chiếm giữ. Và các thiếu nữ đã làm như vậy cho đến khi họ đi vào đền thờ của Thiên Chúa. Thầy tư tế đón bé gái Maria, hôn em và chúc phúc cho em, rằng: Thiên Chúa đã làm rạng danh em muôn thế hệ. Nơi em, vào những ngày cuối cùng, Thiên Chúa sẽ bày tỏ ơn cứu độ của Ngài cho dân Israel. Ông đặt em xuống bậc ba của bàn thờ, và Chúa là Thiên Chúa ban ân sủng cho em; và em nhẩy múa trên đội chân mình, và cả nhà Israel đều yêu mến em.” [4]

Một Trinh nữ của Đền thờ

Bé Maria, được đặt trên bậc thềm của Đền thờ, đã không quay chạy lại với cha mẹ như một đứa trẻ bình thường, vì vậy cha mẹ cô đã lấy làm lạ về điều này như một dấu hiệu cho thấy sự thánh thiện đặc biệt của cô. Chúng ta được kể rằng bé Maria đã cư ngụ trong Đền thờ cho đến khi được mười hai tuổi, và đã được nuôi dưỡng bởi bàn tay của một thiên thần.

Theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, khi Mẹ Maria được mười hai tuổi, các tư tế của Đền thờ quyết định rằng Mẹ nên được kết giao trong hôn nhân. Họ tập hợp những người đàn ông góa vợ thuộc dòng dõi Đavít và đưa cho mỗi người một cây gậy rút thăm. Một con chim bồ câu bay ra khỏi cây gậy của Giuse và đậu trên người ông, cho thấy Thiên Chúa lựa chọn Giuse làm chồng cho Đức Maria trọn đời đồng trinh. Giuse lớn hơn Mẹ Maria nhiều tuổi và có lòng kính sợ Thiên Chúa khi nhận bảo vệ “trinh nữ của Thiên Chúa”, nhưng các tư tế xác nhận rằng ông thực sự đã được chọn, và phải thực hiện trách nhiệm của mình cách nghiêm cẩn.

Trong khi đó, bảy trinh nữ của nhà Đavít, bao gồm cả Mẹ Maria, được chọn để bốc thăm để xem người nào sẽ đan các phần nào của bức màn trướng trong Đền thờ. Rất nhiều sợi chỉ màu tím và đỏ tươi rơi xuống chỗ Mẹ Maria đan, và trong khi Mẹ đang thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng này, Mẹ đã được thiên thần Gabriel đến thông báo với Mẹ rằng Mẹ sẽ là Mẹ của Chúa Giêsu. 

Những minh chứng hỗ trợ của lịch sử

Hầu hết các học giả ngày nay đều chỉ ra rằng thiếu bằng chứng lịch sử về việc các trinh nữ phục vụ nghi lễ trong Đền thờ Giêrusalem. Nhưng có một vài dấu hiệu trong ghi chép lịch sử có thể chỉ ra những gì được mô tả về Mẹ Maria và những người bạn đồng hành của Mẹ trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê. Sách Xuất Hành cho chúng ta biết những người phụ nữ lành nghề của Israel đan màn trướng cho Đền thờ: “Mọi phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã dệt đến: vải đỏ tía và vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn. Mọi phụ nữ có nhiệt tâm và khéo tay thì lấy lông dê mà kéo sợi” (Xuất Hành 35: 25-26). Mishnah, bộ sưu tập lớn đầu tiên các văn bản về các truyền thống truyền khẩu của người Do Thái, lúc đó chỉ ra rằng vai trò này được trao cho các trinh nữ và cũng ngụ ý rằng các trinh nữ này có một vai trò trong Đền thờ.

Ngoài ra, sách Dân số chương 6 đã thiết lập lời thề Nadia: “Thiên Chúa phán với ông Môsê rằng: “Ngươi hãy nói với con cái Israel và bảo chúng: Bất cứ ai, đàn ông hay đàn bà, đã khấn nadia, tức là khấn đặc biệt kiêng cữ để kính Thiên Chúa, thì nó phải kiêng rượu và men nồng: không được uống giấm chua từ chất rượu cũng như giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô. Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn đó, thì bất cứ thứ gì chiết xuất tự cây nho, từ hột nho cho đến vỏ nho, nó cũng không được ăn. Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để kính Thiên Chúa, thì nó sẽ là người được thánh hiến: nó phải để cho tóc trên đầu mọc tự nhiên. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính Thiên Chúa, nó không được tới gần xác chết. Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó cũng không được để cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn nadia kính Thiên Chúa. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được thánh hiến cho Thiên Chúa”.  Lời khấn hứa này đòi hỏi một lối sống thánh thiện dành cho trẻ nhỏ Maria như đã được mô tả trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê. Điều này cũng có thể được thực hiện bởi phụ nữ, và phổ biến trong thời kỳ Đền thờ thứ hai. [5].

Thêm chi tiết về thời thơ ấu của Mẹ Maria

Những thị kiến của Chân phước Catherine Emmerich được ghi lại trong Cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria cho chúng ta một bức chân dung sâu sắc về cuộc sống của một thiếu nữ không hề phạm tội thì như thế nào trong Đền thờ:

Tôi đã nhìn thấy Đức Trinh Nữ Maria trong Đền thờ, luôn luôn thăng tiến trong học tập, cầu nguyện và làm việc. Đôi khi tôi thấy Mẹ  ở trong phòng phụ nữ ở với những thiếu nữ khác, đôi khi một mình trong căn phòng nhỏ của Mẹ. Mẹ làm việc, dệt và đan những dải vải hẹp trên những thanh dài để phục vụ Đền thờ. Mẹ giặt giũ và lau xoong nồi. Tôi thường thấy Mẹ trong cầu nguyện và suy niệm. Tôi chưa bao giờ thấy Mẹ trừng phạt hay hành hạ cơ thể của mình – Mẹ không cần điều đó. Giống như tất cả những người rất thánh thiện, Mẹ chỉ ăn để sống, và không dùng thức ăn nào khác ngoại trừ những thứ mà Mẹ đã thề hứa. Bên cạnh những lời cầu nguyện được quy định trong Đền thờ, lòng sùng mộ của Đức Maria còn là một khao khát không ngừng được cứu độ, một tinh thần cầu nguyện luôn mãi trong nội tâm, được thực hiện cách lặng lẽ và dấu ẩn. Trong sự tĩnh lặng của đêm khuya, Mẹ trỗi dậy ra khỏi giường và cầu nguyện với Thiên Chúa. Tôi thường thấy Mẹ khóc trước những lời cầu nguyện của mình và được ánh hào quang bao phủ. Khi Mẹ lớn lên, tôi luôn thấy Mẹ mặc một chiếc váy màu xanh lam lấp lánh. Mẹ che kín mặt khi cầu nguyện, và cũng lấy mạng che mặt khi nói chuyện với các tư tế hoặc đi xuống một căn phòng bên Đền thờ để nhận việc hoặc giao lại những gì Mẹ đã làm. Có những căn phòng như thế này ở ba mặt của Đền thờ; đối với tôi, các phòng này luôn như những phòng thánh. Tất cả mọi thứ đều được cất giữ ở đó mà nhiệm vụ của các thiếu nữ trong Đền thờ là phải trông nom, sửa chữa và thay thế.”

Những câu chuyện này cho thấy cuộc đời của Mẹ Maria là rất thánh thiện và phẩm giá của Mẹ là rất đặc biệt, chúng cũng cho chúng ta thấy được nhân tính của Mẹ. Mặc dù vô nhiễm nguyên tội, Mẹ Maria đã và vẫn đang hoàn toàn là con người và chỉ là con người. Mẹ tỏ ra cho chúng ta thấy rằng vì kinh nghiệm chung của chúng ta về bản tính sa ngã của con người nên chúng ta mới nói rằng: “phạm tội chỉ là chuyện thường tình của con người.” Trong kế hoạch của Thiên Chúa, Mẹ Maria là mẫu mực cho những gì Thánh Irênê thành Lyon đã dạy:

“Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống tràn đầy.” [6]

 

Vài suy niệm

Mẹ Maria trả lại cho chúng ta hình ảnh của một con người hoàn hảo trong việc Mẹ được tượng thai vô nhiễm nguyên tội.

Ngày lễ này khiến chúng ta nghĩ về sự ra đời của Mẹ Maria trong trần thế như bình minh đi trước ánh sáng cứu độ, là Chúa Giêsu Kitô; giống như hoa nở trên trái đất, vốn tất cả đều bị bao phủ bởi vũng lầy tội lỗi, là bông hoa đẹp nhất từng được nhìn thấy trong vườn hoa bị tàn phá của nhân loại.

Ngày lễ này khiến chúng ta nghĩ đến sự ra đời của thụ tạo thanh khiết nhất, vô tội nhất, hoàn hảo nhất của nhân loại, xứng đáng nhất với ý định mà Thiên Chúa đã ban cho con người khi tạo ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa, giống với Thiên Chúa, là vẻ đẹp tối thượng, sâu thẳm, là vẻ đẹp tuyệt mỹ, vẻ đẹp lý tưởng trong bản tính và nơi hình hài của mình, chân thực trong biểu hiện sống động của thụ tạo đó, đến nỗi người ta có thể thoáng thấy rằng thụ tạo chưa từng có này, một mặt, được tiền định làm nữ hoàng trần thế, và mặt khác, là đối tượng của cuộc đối thoại và của tình yêu của Đấng Sáng Tạo ra mình bằng một sự đáp trả hoàn toàn buông bỏ chính mình, một sự đáp trả thi vị và tràn đầy niềm vui, như trong Kinh Magnificat của Mẹ Maria. 

Bằng một kế hoạch thương xót vô hạn, Thiên Chúa đã làm sống lại nơi Mẹ Maria những gì đã bị mất nơi bà Evà: “Chúa Cha rất nhân từ đã muốn sự ưng thuận của

Đấng đã được tiền định làm Mẹ phải có trước khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì cũng một người nữ hợp tác cho sự sống (Lumen Gentium 56. x. 61)” [7]. 

Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị Mẹ để Mẹ xứng đáng là cung lòng xứng đáng cho Con Mẹ. Và hôm nay, trong ngày dành riêng để tôn kính ân huệ này, tôn kính kiệt tác này của Thiên Chúa, chúng ta vui mừng nói: Mẹ Maria đã sinh ra, Mẹ là Mẹ của chúng ta, Mẹ khôi phục lại nơi chúng ta hình ảnh của nhân loại hoàn hảo trong việc tượng thai vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, đáp ứng một cách đáng ngưỡng mộ ý định của Thiên Chúa muốn có cuộc tượng thai nhiệm mầu của một thụ tạo sẽ là Nữ Hoàng của trần thế: “Suốt dọc chiều dài lịch sử, Hội Thánh đã nhận thức rằng Mẹ Maria, vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc” (Lc 1,28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Đó là nội dung tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội do Đức Piô IX công bố năm l854. Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ loài người (DS 2803)” [8].

Thánh Augustinô đã mô tả sự ra đời của Đức Trinh Nữ Maria là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử và vũ trụ, và là khúc dạo đầu thích hợp cho sự ra đời của Chúa Giêsu Kitô. Ngài nói: “Mẹ là bông hoa trong cánh đồng, từ đó đã nở ra một hoa huệ thung lũng quý giá”. 

Vị giám mục của thế kỷ thứ tư đó, mà thần học của ngài đã định hình một cách sâu sắc sự hiểu biết của Giáo hội phương Tây về tội lỗi và bản tính con người, khẳng định rằng “nhờ sự ra đời của Mẹ, bản tính nhân loại mà chúng ta thừa hưởng từ cặp cha mẹ đầu tiên đã được thay đổi”.

Thánh Gioan Đamátsô đã dâng lời ca tụng: “Hết thảy mọi người hãy đến, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh ra niềm vui sướng của cả thế giới! Hôm nay đây, từ một bản tính thế trần, một thiên đàng đã thành hình dưới thế. Hôm nay đây, việc cứu rỗi đã bắt đầu cho thế giới!” 

Trong ngày Đức Maria chào đời, Giáo Hội reo lên: “Ôi lạy Mẹ! Ngày sinh của Mẹ đã đem lại cho thế giới sứ điệp vui mừng và hy vọng. Vì Chúa Kitô Chúa chúng con là Mặt trời soi đường ngay nẻo chính đã từ cung lòng Mẹ sinh ra, Ngài là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ, đem lại muôn phúc lành, Đấng tiêu diệt thần chết và ban phúc trường sinh”. 

Vào chính Lễ Kính Sinh Nhật Đức Mẹ 8/9/2004, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã suy niệm về Mẹ như sau: “Phụng vụ hôm nay nhắc lại Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Lễ này, một lễ rất được dân chúng sùng mộ, khiến chúng ta phải ca ngợi ánh bình minh sáng ngời nhất của Ơn Cứu Độ nơi con trẻ Maria này. Chúng ta chiêm ngưỡng một con trẻ giống như tất cả mọi con trẻ khác, nhưng đồng thời lại độc nhất vô nhị, đó là “một người nữ có phúc hơn mọi người nữ” (Luca 1:42). Mẹ Maria là “nữ tử Sion” vô nhiễm được tiền định làm Mẹ Đấng Thiên Sai.

Và Mẹ Maria, vì niềm hân hoan và niềm vui của tâm hồn chúng ta, Mẹ không bao giờ ngăn cản ánh mắt của chúng ta hướng nhìn về Mẹ trừ khi để khích lệ chúng ta nhìn cao hơn, hướng tới nhiệm mầu của ánh sáng, của sự thánh thiện và sự sống mà Mẹ đã loan báo khi mới chào đời và Mẹ sẽ ban cho chúng ta: đó là Chúa Kitô, Chúa chúng ta, là Con của Mẹ, và là Con Thiên Chúa, mà chính Mẹ đã nhận được mọi sự từ Ngài. “Đó là mầu nhiệm ân sủng mà chúng ta gọi là Mầu Nhiệm Nhập thể và ngày nay, làm cho chúng ta thấy trước nơi Đức Maria ngọn đèn mang ánh sáng Thiên Chúa, thấy trước cánh cửa qua đó trời cao sẽ hướng về đất thấp, thấy trước Người Mẹ, Đấng sẽ ban sự sống con người cho Ngôi Lời của Thiên Chúa, thấy trước việc chúng ta đạt tới ơn cứu độ.” [9] 

Lạy Đức Nữ Vương, xin thương xót chúng con là kẻ có tội và xin đến cứu giúp chúng con. Việc ra đời hiển vinh của Mẹ trong dòng dõi Ábraham, chi tộc Giuđa, hoàng tộc Đavít, không đem lại niềm vui cho cả thế trần đó sao? Xin Mẹ làm cho niềm vui của chúng con được tràn đầy và cũng xin làm cho chúng con sạch mọi tội lỗi. Amen. [10]

 

Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ và biên tập.

 Chú thích:

[1] nominis.cef.fr. Tài liệu của giáo phận Tarbes và Lộ Đức, Pháp.

[2] Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê, chương 4.

[3] Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, chương 6.

[4] Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, chương 7.

[5] Megan Nutzman, “Mẹ Maria trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê.”

[6] media.ascensionpress.com.

[7] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 488.

[8] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 491.

[9] ĐGH Phaolô VI, Bài giảng ngày 8 tháng 9 năm 1964.

[10] Lời cầu nguyện khuyết danh thời Trung cổ.

 

NỮ VƯƠNG - NỮ TỲ

Lễ Đức Maria Nữ Vương

“Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Nữ hoàng Mary, Scotland, thường đi thăm dân chúng một mình. Chiều kia, trời đổ mưa, bà ghé một ngôi nhà, “Cô có thể cho tôi mượn chiếc ô, ngày mai tôi sẽ trả?”. Cô chủ trao cho người lạ chiếc ô định vứt đi. Hôm sau, có tiếng gõ cửa; một cận vệ hoàng gia xuất hiện, “Nữ hoàng nhờ tôi cảm ơn cô đã cho bà mượn cái này”. Cô chủ sững sờ; sau đó, bật khóc, “Ôi, tôi đã bỏ lỡ một cơ hội - không trao cho nữ hoàng cái tốt nhất!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không ít lần chúng ta bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất”, Nữ Hoàng ở đây chính là Mẹ Maria. Trong vinh quang hồn xác lên trời, Mẹ là ‘thành quả tối hậu’ của công trình cứu độ. Với triều thiên vinh hiển Chúa ban, Mẹ là ‘Nữ Vương’ thiên đàng nhưng cũng là ‘nữ tỳ’, là môn đệ và là ‘Ái Nữ’ của Đấng mà “Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Thánh Kinh trình bày Chúa Kitô như một vị Vua, nên mẹ Ngài là Hoàng Thái Hậu. Chúa Kitô là Vua với tư cách Thiên Chúa, nên Mẹ Ngài là ‘Nữ Vương’ bởi “huyết thống thần linh” trong tư cách Mẹ Đức Chúa Trời. Mẹ là ‘Nữ Vương’ bởi sự lựa chọn duy nhất của Chúa Cha. Nếu một người bình thường có thể trở thành vua hoặc nữ hoàng nhờ sự lựa chọn của dân chúng, thì sự lựa chọn của chính Chúa Cha còn vĩ đại hơn biết bao! “Phẩm giá vương giả của Maria phát xuất từ sự gắn bó độc nhất với Chúa Kitô, Con của Mẹ, Vị Vua thần linh!” - Bênêđictô XVI. Vương vị của Mẹ phát sinh từ vương vị của Con.

Đức Phanxicô trích dẫn Thánh Kinh ba lần để chứng tỏ Vương Quyền của Mẹ. Lời các ngôn sứ về Đấng Cứu Thế xem ra đều nói về một vị Vua, chẳng hạn, “Người sẽ mở rộng quyền bính, lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít” - bài đọc một. Trong cuộc Truyền Tin, dù chỉ là một ‘nữ tỳ’, Mẹ được sứ thần báo trước về ngai vàng của Đấng Mẹ cưu mang, “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người!”. Sau cùng, vương vị của Mẹ được tìm thấy trong Khải Huyền, “Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”; miêu tả Mẹ là ‘Nữ Vương mới’ chia sẻ quyền quản cai vũ trụ với Chúa Con. “Maria là Nữ Vương vì Mẹ là Mẹ của Vua các vua!” - Piô XII.

Anh Chị em,

“Triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”. Là Mẹ của Đấng vô cùng vô tận, nhưng Đức Maria cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. “Mẹ là người đầu tiên lãnh nhận trọn vẹn ân sủng, và là người luôn chuyển cầu cho chúng ta bằng trái tim của một người Mẹ!” - Lêô XIV.  “Hãy gõ cửa nhà Mẹ! Chúng ta không được tưởng tượng Đức Maria ‘như một bức tượng sáp bất động’, nhưng nơi Mẹ, chúng ta có thể nhìn thấy một ‘người chị’ với đôi dép mòn cùng biết bao mệt nhọc!” - Phanxicô. Riêng Fulton Sheen thì hài hước, “Chúa sẽ chào đón một người trên thiên đàng bằng những lời này: ‘Mẹ tôi nói rất tốt về bạn!’”. Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, ‘Nữ Vương’ uy phép nhưng cũng là ‘Nữ Tỳ’ khiêm hạ, đừng để con vất vưởng như con mồ côi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

LẦN DÒ

Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ 

“Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng!”.

“Trước một bộ óc vĩ đại, tôi cúi đầu; trước một trái tim vĩ đại, tôi quỳ gối!”. J. Wolfgang V. Goethe.

Kính thưa Anh Chị em,

Trọng kính Trái Tim Chúa Giêsu, Hội Thánh ‘quỳ gối’; kính nhớ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, Giáo Hội ‘cúi đầu!’. Trái Tim Chúa Con bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người; Trái Tim Mẹ Chúa tỏ bày tình yêu của con người dành cho Thiên Chúa – đó là một tình yêu vô điều kiện, dẫu trong đức tin, Mẹ phải ‘lần dò’ mọi thứ.

Trước kế hoạch ‘diệu dụng’ của Thiên Chúa, Maria đón nhận tất cả, dẫu không phải tất cả đều rõ ràng. Với Mẹ, sự ngạc nhiên không bao giờ nguôi ngoai cả trong những khoảnh khắc hốt hoảng như lạc mất con – Tin Mừng hôm nay. Đó là khả năng kinh ngạc trước sự biểu hiện dần dần của các mầu nhiệm. Kinh ngạc trái ngược với việc coi mọi thứ là đương nhiên; trái ngược với việc giải thích hiện thực chung quanh và các sự kiện theo tiêu chí nhân loại. “Thiên Chúa không luôn nói với chúng ta cách rõ ràng. Đôi khi, chúng ta chỉ có thể tiến bước bằng những ánh sáng nhỏ nhoi của niềm tin – như Mẹ Thiên Chúa đã làm – khi không hiểu hết những gì được báo trước!” – Thomas Merton.

Thật khó cho Maria để hiểu hết ý nghĩa từng biến cố xảy ra trong đời mình và cuộc đời của con mà chóp đỉnh là thập giá. Ở đó, Mẹ cảm nhận kế hoạch của Thiên Chúa và đã sẵn sàng cho tất cả những gì sẽ xảy đến; bởi lẽ, nó đã được chuẩn bị qua từng biến cố suốt cả cuộc sống mà Mẹ đã suy đi nghĩ lại trong lòng. Không cần hiểu nhiều nên Mẹ chẳng thắc mắc nhiều; trái lại, đón nhận, thuỷ chung và tìm mọi cách để hoàn thành. Mẹ chỉ biết, Mẹ có một vai trò trong đó, và chuẩn bị nó qua một đời sống nhiệm hiệp với con dưới sự chỉ dạy của Chúa Thánh Thần; thế thôi! “Thiên Chúa dẫn dắt linh hồn từng bước một. Như Mẹ Maria, chúng ta phải học để chờ đợi trong thinh lặng và bước đi theo ánh sáng mà chúng ta đang có!” – Edith Stein.

Anh Chị em,

“Hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng!”. Đó là cách ứng xử cao thượng trước các mầu nhiệm. “Maria không hỏi Chúa mọi câu trả lời ngay lập tức; Mẹ đồng hành với mầu nhiệm, bước đi từng bước với niềm tin rằng, Thiên Chúa sẽ chỉ đường!” – Carlo Maria Martini. Làm sao một phàm nhân có thể hiểu được kế hoạch của Thiên Chúa? Vậy mà vẫn có thể! Vì trong đức tin, Mẹ tìm hiểu và tín thác tuyệt đối; hơn nữa, trong trái tim Mẹ ‘không có chỗ cho cái tôi!’. “Điều kỳ diệu nơi Đức Maria không phải là việc Mẹ hiểu hết, nhưng là biết tin tưởng và trung thành với điều chưa được giải thích!” – Romano Guardini. Cũng thế, sẽ không bao giờ chúng ta hiểu hết các giá trị, mục đích và ý nghĩa đời mình trong kế hoạch của Chúa, trừ khi bạn và tôi có một đời sống cầu nguyện và chờ đợi như Mẹ; nghĩa là trung thành bước đi trên con đường Chúa vạch sẵn, dẫu nó là con đường phải ‘lần dò’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết kinh ngạc trước các biến cố, nhất là những khi con mù tịt. Dạy con không chỉ ‘cúi đầu’, nhưng còn biết ‘quỳ gối!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI: SỰ KHÁC BIỆT

Chủ đề của bài giảng hôm nay là sự khác biệt, sự khác nhau.

Bốn mươi ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu lên trời cả hồn lẫn xác. Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ của Người, đức Maria lên trời cả xác lẫn hồn. Tuy cùng một động tác lên trời cả hồn lẫn xác, nhưng có cái khác rất lớn giữa Mẹ và Con. Khác cái gì ? Ta sẽ trả lời.

Rồi khi ta kính một vị thánh, ta hát mừng vị thánh đó về trời, chứ không phải xuống đất. Hôm nay ta mừng thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, về trời. Cùng một động tác về trời, nhưng có cái khác biệt giữa các thánh kia với thánh Maria. Khác thế nào? Ta sẽ giải đáp.

  1. Khác biệt giữa thánh Maria lên trời

          và các thánh khác lên trời

Khác biệt nằm nơi chữ "xác". Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Các thánh khác chỉ về trời, nói nôm na dễ hiểu, phần "hồn" thôi. Còn xác thịt hư nát này phải chờ đợi đến ngày quang lâm vinh hiển mới được nhập lại với hồn mà cùng hưởng vinh quang Thiên quốc. Cho dẫu xác vị đó là xác của một vị đại thánh nào đi chăng nữa, cho dẫu xác vị thánh đó vẫn còn nguyên vẹn trải qua hơn 750 năm như xác thánh Clara, thì xác đó đều phải chờ. Xác thánh Maria không chờ. Mà lên ngay. Về ngay trên thiên quốc cả xác lẫn hồn.

Niềm tin này đã có từ xa xưa, chứ không cần đợi đến ngày lễ các thánh 1-11-1950, khi ĐGH Piô 12  tuyên bố tín điều ĐM Hồn xác về trời, người ta mới tin. Dân chúng đã tin từ lâu, nên đã dệt nên một giai thoại mà chúng ta chắc đã nghe đến mòn tai. Giai thoại về ông Toma tông đồ cứng tin :

Lúc Đức Mẹ lên 64 tuổi, Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày hội ngộ với Con trên Thiên đàng đã gần đến. Giáo dân bao quanh Mẹ vì sợ mất Mẹ, vì sợ giây phút chia ly. Các Tông đồ hay tin đã vội vã trở về, để được chiêm ngắm Mẹ lần cuối cùng.

Nhưng trong các Tông đồ có một vị chuyên môn lỡ hẹn là ông thánh Tôma. Lần này không phải lỗi ông, mà vì ông đi giảng xa quá về không kịp. Nghe nói xa nhất trong các tông đồ, tận miền Ấn Độ xa xôi. Khi về tới Ephêsô, nơi Đức Mẹ ở cùng Gioan trong những năm cuối đời, thì Đức Mẹ đã nằm xuống và được an táng trong một phần mộ khoét trong đá. Toma khóc lóc mong được thấy mặt Mẹ của Thầy mình lần cuối, nên để làm vừa lòng Tôma, các Tông đồ và giáo dân đã đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ Maria đâu cả.

Giai thoại thì thường không có thật, nhưng nó được xây dựng trên một niềm tin, trên một xác tín nào đó. Như giai thoại Âu Cơ lấy Lạc Long Quân đẻ ra bọc trứng 100 quả, nở thành 100 người con, nói lên niềm tin mọi người là "đồng bào", 'cùng một bọc' mà ra. Trong trường hợp giai thoại Toma này, xác tín đó là thánh Maria đã về trời cả hồn lẫn xác, khác với các vị thánh khác, chỉ mới về trời phần hồn, còn xác vẫn còn lưu lạc dưới đất. Mặc dầu thần học mới bây giờ không xem hồn xác tách biệt hoàn toàn sau khi chết, mà vẫn một cách nào đó liên kết với nhau, thì vẫn khác với xác thánh Maria, kết hợp hoàn toàn trọn vẹn với hồn và đang ở nơi Thiên Quốc. Đó là cái khác thứ nhất: thánh Maria khác với các thánh khác khi về trời. Khác nơi chứ "xác".

  1. Khác biệt giữa Mẹ về trời cả hồn lẫn xác

          với Con của Mẹ về trời cả xác lẫn hồn.

Điểm khác biệt ở đây, nằm nơi động tác. Mẹ được đưa về trời. Con của Mẹ tự mình lên trời. Nếu chúng ta gọi đơn giản cho nhanh, lễ Chúa lên trời, lễ Mẹ lên trời, thì ta chưa nói được cái khác. Ngôn ngữ chính thức bằng tiếng Latinh dùng hai chữ khác nhau cho Mẹ và Con. Cho Con, phụng vụ dùng chữ Ascentio, Ascension à (Assenseur thang máy). Cho Mẹ, phụng vụ dùng chữ khác hẳn: Assumptio(n) : sự đảm nhận, sự bảo lãnh. Ai bảo lãnh ai. Chúa bảo lãnh Mẹ. Dễ hiểu hơn : Con bảo lãnh Mẹ. Không có người con ở bên Mỹ bảo lãnh, làm sao mẹ qua được nước Hoa Kỳ. Có lẽ từ ngữ xưa, lễ Mông Triệu, nói được ý này hơn. Mẹ được triệu về nơi cao xa. Mông là cao xa: mông lung, mênh mông. Triệu là gọi về, gọi đến. Triệu tập.

Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính – Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ  hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu – Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành phủ lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ – Chúa chúng ta dẫn Mẹ Ngài lên ngai trên trời.

Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được bảo lãnh về trời cả hồn lẫn xác.

Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700.000 dân chúng dưới bầu trời tươi sáng, Đức Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm ngân vang khắp quảng trường Thánh Phêrô, vọng vang vào đền thờ chật ních hơn 80.000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm những lời trịnh trọng tuyên tín: "Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian này, đã được bảo lãnh hưởng phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự ý chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa."

Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội, ngay từ phút giây vào đời. Và đến giây phút lìa đời, Người Con này đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài bảo lãnh cho Mẹ được vào hưởng vinh quang thiên quốc cả xác lẫn hồn.

Chúa Giêsu Kitô cũng sẽ bảo lãnh cho chúng ta, những Kitô hữu đây được vào hưởng vinh quang cả xác lẫn hồn như Mẹ Maria, chỉ khác với Mẹ, một chút thôi, tức là Chúa sẽ nói với ta “xác hãy chờ một chút.” just a moment. Một chút của Chúa có thể là giây lát, có thể là mười năm, mà cũng có thể là thế hệ này đến thế hệ khác. Nhưng khi ta đã lìa đời này rồi, thì ta đã sống ngoài thời gian, nên khái niệm ngày giờ năm tháng không còn nữa, nên 'một chú't so với 'ngàn năm' cũng chỉ là một. Chờ một chút.

Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi lại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến, là được bảo lãnh về Trời cả hồn lẫn xác, riêng xác, 'hãy đợi đấy, chờ một chút'.

Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

MẪU TÂM VÔ NHIỄM – TRÁI TIM VẸN SẠCH

Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ

Ngày 13/05/1917, khi hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha, ĐỨC TRINH NỮ MARIA đã nói cho ba trẻ mục đồng biết, Ba Mệnh Lệnh là hãy : ” ĂN NĂN CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG – SIÊNG NĂNG LẦN CHUỖI MÂN CÔI – TÔN SÙNG TRÁI TIM VÔ NHIỄM MẸ.”

Vô Nhiễm là:” Không Vướng Tỳ Ố “. Không Vương Tỳ Ố : Không vướng mắc tất cả những gì thuộc về tự nhiên, trần thế. Vì, Mẹ được kêu mời làm Thân Mẫu Đấng Cứu Thế, là ĐẤNG GIẢI THOÁT. Thì, mặc nhiên, Đức Mẹ cũng phải được bảo vệ – gìn giữ – chở che không hề vương vấn trần gian.

Nhưng, Trái Tim, tức Tâm Hồn, Tấm Lòng thánh khiết nơi Mẹ mặc nhiên phải vẹn tuyền, nhưng đau khổ, gọi là TRÁI TIM TÂN KHỔ của Mẹ Maria. Đến độ, Cụ Simeon phải tiên ngôn về Mẹ, còn bà, “Tâm hồn bà sẽ như dao sắc thâu qua, ngõ hầu ý nghĩ từ thâm tâm của nhiều người phải lộ ra”. ( c 35)

Rõ ràng, Tâm Hồn tức Trái Tim Mẹ Maria sẽ làm cho tâm hồn của nhân thế phải lộ ra.

Như vậy, việc Tôn Sùng Trái Tim Vẹn Sạch của Đức Maria có ý nghĩa rất quan trọng, mang tầm “PHẢN CHIẾU” những điều “u ám “ của thế gian. Vì, sự TÂN KHỔ của Mẹ, như lưỡi gươm đâm thâu Tâm Hồn Mẹ, thì những gì của thế gian che khuất sẽ bị phơi bày. Như vậy, TRÁI TIM VẸN SẠCH – VÔ NHIỄM –TÂN KHỔ của Mẹ Maria thật là có ý nghĩa vậy.

Theo đó, ngoài việc siêng năng Lần Chuỗi Mân Côi, thì việc TÔN SÙNG TRÁI TIM VẸN SẠCH ĐỨC MẸ không kém phần quan trọng.

Nhà thờ Chính Tòa Phủ Cam, Huế có câu: “Hãy Tôn Sùng Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”. Tức là :” Hãy Tôn Sùng Mẫu Tâm .”

Mẫu Tâm là: TẤM LÒNG HIỀN MẪU, mà TẤM LÒNG HIỀN MẪU của MẸ CHÚA GIÊ-SU – MẸ THIÊN CHÚA. Ngày nay, Hội Thánh thêm vào một sứ mạng nữa cho Mẹ, đó là : MẸ NHÂN LOẠI – MẸ HỘI THÁNH.

Chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của Thiên Chức làm MẸ ĐẤNG CỨU THẾ của Đức Maria thật quan trọng dường nào. Vì thế, chúng ta luôn luôn chạy đến bên Mẹ để luôn luôn thực thi Ba Mệnh Lệnh Fatima nhé. Để xin Thiên Chúa CỨU chúng ta khỏi lửa hỏa ngục.

Thánh Tâm Chúa Giê-su, vì yêu thương nhân loại nên phải gánh tội trần gian, như vậy, Chúa phải đau khổ rất nhiều, đến độ vòng gai quấn quanh Trái Tim có ngọn Lửa hồng.

Vâng, Trái Tim Đức Mẹ cũng vậy : Trái Tim của một Người Con chịu đau khổ vì nhân thế, thì Trái Tim người Mẹ cũng đau như vậy. Bởi vì, mang lấy SỨ MẠNG TRÁI TIM VẸN SẠCH.

Trái Tim Vẹn Sạch vô cùng

Vì, thương nhân thế tận cùng nỗi đau !

Trái Tim Vô Nhiễm phải đau

Vì, Trái Tim ấy mong cho Hòa Bình

Trái Tim muốn cứu sinh linh

Trái Tim Tân Khổ vì thương loài người

Trái Tim Vẹn Sạch bồi hồi

Trái Tim Thánh Khiết Mẹ Người phải mang

Kinh nhớ Mẫu Tâm Thiên Đàng

Trái Tim Vẹn Sạch rõ ràng chẳng sai.

Trái Tim gươm sắt đâm thâu

Trái Tim vòng gai ghi dấu lòng Bà

Trái Tim Đức Mẹ thật là :

Trái Tim Thánh Khiết thật là: Thiêng Liêng

Trái Tim nơi giữa Tâm Hồn

Của Mẹ Thiên Chúa, thật là khổ đau

Trái Tim nơi Mẹ trung thành

Trái Tim trung tín thật là : Tổn thương

Trái Tim Tân Khổ đền bồi

Trái Tim Mẹ phải chịu nhiều đau thương

Trái Tim Thánh Mẫu chẳng vương

Trinh Trong Vẹn Sạch hơn gương mặt hồ

Đền bồi VÔ NHIỄM MẪU TÂM

Tấm lòng thảo kính dâng lên Đức Bà

Kính Mừng Maria,

xin Mẹ che chở gian tà, hiểm nguy

Trái Tim Vô Nhiễm sáng trong

Con đến bên Mẹ thong dong cuộc đời

Trái Tim Vẹn Sạch sáng ngời !

Tình thương của Mẹ đời đời trung trinh

Cầu xin Mẹ giữ gìn người hèn mọn

Người đau khổ phần xác – hồn

Xin Mẹ che chở ôn tồn

Để cho họ biết Mẹ là: MẪU TÂM

Muôn vạn vì sao sáng trong :

“TRÁI TIM VẸN SẠCH MẪU TÂM” đứng đầu./. Amen

 

Thứ Bảy, ngày 28/06/2025, Lễ kính nhớ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.

P.A TRẦN ĐÌNH PHAN TIẾN (Bước theo)