1. Hôn Nhân & Gia Đình

HẠNH PHÚ HÔN NHÂN - VỢ CHỒNG HÒA THUẬN

VỢ CHỒNG HÒA THUẬN: SỨC MẠNH LÀM NÊN GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC

 

Chúng ta đều biết rằng sự hòa thuận trong đời sống vợ chồng là điều quý giá và đáng mơ ước vô cùng. Nó là một điều kiện không thể thiếu được trong việc kiến tạo một đời sống hôn nhân hạnh phúc và một gia đình êm ấm.

 

 

Ông bà ta có câu, “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Điều đó có nghĩa là khi vợ chồng thuận hòa với nhau thì họ có thể làm được những việc lớn lao, phi thường, họ có thể vượt qua mọi khó khăn, có thể chịu đựng mọi vất vả để giúp nhau tận hưởng hạnh phúc hôn nhân gia đình.

 

Tuy nhiên, trên thực tế, việc duy trì được sự hòa thuận lâu dài giữa hai vợ chồng là điều rất khó khăn, có những trường hợp tưởng chừng như không thể được. Chúng ta nên biết rằng, trên đời này không có cuộc hôn nhân lý tưởng giữa hai vị thánh, mà chỉ có những cuộc hôn nhân giữa hai con người nam và nữ, giữa hai cá thể khác biệt, giữa hai tính cách có thể là rất tương khắc nhau…

 

Do đó, một cuộc hôn nhân thành công không phải là một cuộc hôn nhân không có sóng gió. Nghĩa là không có những căng thẳng và cãi vã giữa hai người. “Nên một” trong thể xác và tinh thần không có nghĩa là xóa bỏ những khác biệt giữa hai người. Mãi mãi người khác vẫn là người khác, có những nét cá biệt của họ. Mỗi người đều có những nhịp sống riêng của mình. Chàng có thói quen ăn nhanh, nàng thì trái lại ăn uống một cách từ tốn. Chàng thì điềm nhiên đến lạnh lùng. Nàng thì luôn luôn nhiệt tình đến nóng nảy. Nàng thích nghe nhạc, chàng lại thích thinh lặng để suy tư…

 

Một tâm lý gia nổi tiếng đã nêu ý kiến như sau: “Xét trên phương diện trí não, tinh thần và thể lý, thiên nhiên đã tạo nên một sự khác biệt to tát giữa người đàn ông và người đàn bà. Đến độ người đàn ông luôn nhìn thấy người đàn bà như đối thủ của mình và ngược lại. Đó chính là điều gây nên căng thẳng giữa hai phái. Nếu người đàn ông và người đàn bà bình đẳng với nhau thì có lẽ tất cả đều rơi vào trạng thái tĩnh và trái đất này sẽ trở nên khô cằn”. [1]

 

Quả thực, hôn nhân không phải là một dịch vụ sắp đặt hai con người cạnh nhau như hai pho tượng, mà không có một tương tác nào. Trái lại, hôn nhân là một chọn lựa của những con người có tự do và tình yêu, họ cam kết sống chung với nhau, chứ không chỉ là ngồi cạnh nhau. Họ đều theo đuổi mục đích đem lại sự nâng đỡ ủi an, chia sẻ vui buồn, cố gắng đem lại hạnh phúc cho nhau đồng thời hợp tác với nhau trong việc sinh sản, dưỡng nuôi và giáo dục con cái.

 

Tuy nhiên trong quá trình hợp tác với nhau, không phải lúc nào mối quan hệ vợ chồng cũng êm ả, xuôi chèo mát mái cả đâu, vì có mưa thì cũng có nắng, có lạnh thì cũng có nóng, có nụ cười thì cũng có nước mắt. Như một danh nhân đã nói: “Trong hôn nhân, nụ cười và nước mắt làm nên bản nhạc cuộc sống” (David Sarnoff). Những lúc căng thẳng, có khi mâu thuẫn cao độ, thì nguy cơ tan vỡ là điều có thực. Lúc đó nếu cái kiểu “ông nói gà bà nói vịt” hay “trống đánh xuôi kèn thổi ngược” cứ tiếp diễn đi tiếp diễn lại thì tình hình sẽ không ổn. Hai bên phải biết tự kiềm chế và dừng lại đúng lúc. Đó là thời điểm mà hai bên cùng nhường nhịn nhau, cùng nhượng bộ nhau. Một sự nhịn chín sự lành.

 

Thực vậy, sau nhiều năm nghiên cứu, các chuyên gia về gia đình đã tổng kết nên các nguyên tắc sau đây trong cuộc sống gia đình: Chấp Nhận – Chịu Đựng – Điều Chỉnh – Thích Ứng. Theo họ, nếu các cặp vợ chồng thực hiện đúng theo các nguyên tắc thì nhất định sẽ có một gia đình bền vững. [2]   

 

Chắc chắn những nguyên tắc “Sống chung” trên sẽ giúp các đôi vợ chồng hóa giải được những mâu thuẫn thường ngày, tránh khỏi những va chạm, đổ vỡ đáng tiếc và giúp họ kiến tạo một cuộc hôn nhân bền vững và một gia đình êm ấm. Đó được coi là những điều kiện tâm lý cần có để hai vợ có thể sống hòa thuận lâu dài.     

 

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA SỰ HÒA THUẬN VỢ CHỒNG

 

Chúng ta cũng lưu ý một điều là, hòa thuận không có nghĩa là hai người “hòa tan” vào nhau, đến nỗi không ai còn cá tính, cá vị riêng của mình nữa. Bởi vì, “Ta với mình tuy hai mà một / Mình với ta tuy một mà hai”. Trong “hòa thuận” vừa có hòa hợp, hòa đồng lại vừa có tự do, tự ý ưng thuận nữa.

 

Xét về mặt thực tiễn, hòa thuận có những đặc điểm sau:

 

* Cùng hợp tác song phương

 

Tục ngữ VN có câu: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấy”. Đang khi người đàn ông xây nhà mà người phụ nữ “ngồi chơi xơi nước”, thì đó là điều không chấp nhận được. Hôn nhân là hôn ước trong đó hai người cùng thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm với nhau, và đảm nhận bổn phận cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Có người đã nói, “Trong hôn nhân, gặp nhau là bước đầu, sống chung là bước kế tiếp, làm việc chung với nhau mới làm nên một gia đình êm ấm” (James Thurber).

 

Sự hợp tác song phương giữa đôi bạn trong cuộc sống lứa đôi là yếu tố cực kỳ quan trọng nhờ đó hạnh phúc gia đình được đảm bảo chắc chắn. Khi nhìn vào một gia đình nào mà thấy hai vợ chồng biết hòa hợp, gắn bó để chăm lo việc nhà việc cửa, việc trong việc ngoài, thì biết ngay gia đình ấy đang hạnh phúc. Bởi “Họ là hai tâm hồn nhưng một ý nghĩ, là hai quả tim nhưng một nhịp đập” (Maria Lowell).

 

* Cùng chung chí hướng

 

Một văn hào Pháp đã nói, “Yêu nhau không là ngồi đó nhìn nhau, mà cùng nhau hướng về một lý tưởng” (Antoine de St Exupéry). Vợ chồng phải ngồi lại với nhau, cùng nhau xây dựng một mục tiêu chung cho cuộc sống hôn nhân và cho gia đình mình. Một gia đình mà trong đó “Ông nói gà, bà nói vịt”, hay “Trống đánh xuôi kèn thổi ngược” thì đó là biểu hiện của sự phân hóa, chia rẽ, bất đồng.

 

Hai người phải dành thời gian để thảo luận, có thể là tranh luận, về những mục tiêu phải theo đuổi. Chẳng hạn, trong vấn đề giáo dục con cái, trong việc quản lý và sử dụng tài chánh, trong việc giải quyết những nhu cầu vật chất, tinh thần trong gia đình vv. Trong gia đình dường như lúc nào cũng có nhiều vấn đề phải giải quyết và đối phó, nếu hai bạn cùng hiệp lực, đồng tâm nhất trí nắm tay nhau thực hiện thì việc gì cũng xong. “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” hay “Một cây làm chẳng nên non / ba cây chụm lại thành hòn núi cao”.       

 

* Cùng quan tâm đến nhau và đến những nhu cầu của đời sống chung

 

“Hãy thường xuyên quan tâm đến nhau”, đó là mệnh lệnh của tình yêu.

 

Khi yêu, người ta có thể làm tất cả vì nhau và cho nhau. Việc quan tâm đến nhau phải được coi là một trong những “hạng mục ưu tiên” hàng đầu để giữ cho cuộc hôn nhân bền vững, hạnh phúc.

 

Quan tâm từ việc nhỏ đến việc lớn. Mỗi người coi nhau như đối tượng chăm sóc thường xuyên. Không phải chỉ có kiểu lãng mạn “nâng khăn sửa túi” lúc ban đầu, mà suốt cả cuộc hành trình đời sống lứa đôi, hai bạn phải chăm sóc, nâng đỡ, hỗ trợ nhau cách tận tình và chu đáo. Nhiều khi chỉ một việc nhỏ thôi cũng đủ hâm nóng tình yêu, vốn rất mong manh, nhờ đó hai bạn vững vàng yên tâm đi tới đích. Có một ý kiến thế này: “Sẽ bớt đi những vụ li dị nếu quý bà tân thời ngày nay chăm lo cho chồng con hơn là chăm sóc các món hàng hạ giá ở siêu thị”.

 

Bên cạnh đó, nhiều bà vợ than phiền rằng họ rất buồn tủi và cô đơn vì hầu như ông chồng chẳng tỏ ra quan tâm gì tới họ. Sau một ngày làm việc bên ngoài về nhà, chồng chỉ kịp ăn uống vội vàng rồi chui vào phòng xem TV hoặc chơi game. Nếu sự việc cứ tái diễn lâu dài như thế này, thì chắc chắn cuộc hôn nhân sẽ sớm rơi vào tình trạng tan vỡ… 

 

* Hợp sức giải quyết những khó khăn trong đời sống

 

Người ta đã ví hôn nhân như bãi chiến trường chứ không phải là luống hoa hồng. Và hôn nhân nhìn xa cứ ngỡ như hạt kim cương nhưng khi lại gần thì đó chỉ là giọt lệ. Điều đó cho thấy khi bước vào đời sống hôn nhân, người ta sẽ khám phá ra rằng không có cuộc hôn nhân nào hoàn hảo, êm ái cả.

 

Rất nhiều người khi mới kết hôn thì hồ hởi, vui sướng nhưng chỉ sau một thời gian ngắn chung sống, họ thất vọng. Có người than thở, “Hôn nhân là một pháo đài, kẻ ở bên trong thì muốn thoát ra, còn kẻ ở bên ngoài thì muốn chui vào ”. Đối với những người “bên trong” này, thì hôn nhân không còn thơ mộng như lâu đài cổ tích, hay đẹp như một túp-lều-tranh-hai-trái-tim-vàng nữa, nhưng là “ngục tù” chôn vùi tình yêu. Người ta nói, “Người phụ nữ khóc trước khi lấy chồng, còn người đàn ông khóc sau khi cưới vợ”. Cả hai cùng khóc, bởi cái viễn cảnh “hợp hợp tan tan” cứ ám ảnh họ. 

 

Tuy nhiên có nhiều cặp vợ chồng đã vượt qua được những khó khăn thử thách trong đời sống hôn nhân, vì họ đã biết từ bỏ tính ích kỷ để cùng hợp sức với nhau giải quyết những vấn đề của mình.

 

Người ta đã ví hôn nhân là một chiến trường, vợ chồng là chiến binh, họ phải chiến đấu không mệt mỏi. Có người đã nói, “Trận chiến dũng cảm nhất, tôi chưa từng thấy ở đâu trên bản đồ thế giới, mà tôi chỉ gặp giữa hai vợ chồng” (Joaquin Miller). Thực vậy, cuộc sống gia đình đầy những khó khăn, vất vả, cực nhọc. Khó khăn về kinh tế, vất vả trong công việc làm ăn, cực nhọc để giải quyết những vấn đề gia đình vv.

 

Từ thực tế khó khăn, phức tạp này, đã phát sinh biết bao hệ lụy. Có người bi quan đã nói, “Hôn nhân là một pháo đài, người ở trong muốn thoát ra, còn người ở ngoài lại muốn đi vào”. Gánh nặng của hôn nhân không chỉ là giải quyết vấn đề “cơm, áo, gạo, tiền”, mà còn bao gồm tất cả những rắc rối phức tạp trong đời sống vợ chồng. Chẳng hạn, chuyện xung đột nảy sinh do tính tình khác biệt, do sở thích không đồng bộ, do nền giáo dục hấp thu không tương xứng, do trục trặc trong sinh hoạt tình dục vợ chồng vv. Những bất đồng này xói mòn tình yêu đôi bạn, khiến họ không thể chịu đựng nhau được nữa, lúc đó phát sinh hậu quả ly hôn ly dị. Vì lý do đó mà có một danh nhân đã nói, “Hãy cầu nguyện một lần trước khi ra trận, hai lần trước khi ra khơi, nhưng ba lần trước khi kết hôn”.

 

* Thực hành nghệ thuật nhượng bộ nhau

 

Trong tương quan vợ chồng, sự hòa hợp để “nên một” luôn đòi hỏi người này nhường nhịn người kia và cả hai cùng chấp nhận sự “bỏ mình” vì bạn đời. Ngày nay người ta nói nhiều đến “Nghệ thuật nhượng bộ”. Chuyện kể có một đôi vợ chồng già đã ngoài tám mươi tuổi. Con cháu đầy đàn. Trong ngày lễ kỷ niệm năm mươi năm thành hôn, con cháu tụ họp chúc thọ và chúc mừng hai cụ. Dịp vui này, các con cháu đồng thanh hỏi thăm bí quyết nào hai ông bà giữ được hạnh phúc bền vững cho đến ngày nay? Các cụ trả lời ngay, không có bí quyết nào bí mật cả, mà đơn giản đó chỉ là sự nhượng bộ nhau.

 

Nhượng bộ là hy sinh một phần cái gì đó của mình vì ích lợi chung và vì lợi ích của người khác. Trong một cuộc cãi vã bất phân thắng bại, sự nhượng bộ tốt nhất chính là im lặng. Người ta nói, “Phân nửa những vấn đề trong hôn nhân được giải quyết bằng cách giữ im lặng”. Trong cuộc sống chung, hằng ngày có vô vàn những điều trái ý nhau, từ những chuyện nhỏ nhất như ăn uống, sinh hoạt, giải trí, giờ giấc...đến những vấn đề lớn như việc chi tiêu trong gia đình, việc dạy dỗ con cái, việc ứng xử với cha mẹ (chồng/ vợ), với họ hàng hai bên...nếu cả hai bạn chỉ biết bảo lưu ý kiến riêng của mình thì sớm muộn cũng sẽ xảy ra mâu thuẫn, xung đột. Thực ra, không nhất thiết hai người phải “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nhưng ít nhất họ cần bàn tính sao để cuối cùng có tiếng nói chung, vừa lòng cả đôi bên... 

 

Tóm lại, để có được sự hòa thuận lâu dài trong đời sống vợ chồng, chúng ta nên dõi theo và thực hành lời khuyên thiết thực sau đây của thánh Phao-lô: Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thông cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo...” (Cl 3,12-14)./.

 

Aug. Trần Cao Khải  

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH

Người môn đệ chân chính

   ĐẠO BINH ĐỨC MẸ

“Các ngươi hãy đi! Này Ta sai phái các ngươi như chiên vào giữa sói. Đừng mang ví tiền, bao bị, giày dép; cũng đừng chào hỏi dọc đường. Hễ vào nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này”. (Lc 10,3)

Đọc qua đoạn Kinh thánh trên đây không ít người cảm thấy dường như Lời Chúa chẳng dính dấp gì đến cuộc sống của mình. Những lời nhắn nhủ “đừng mang gì đi đường, không mang bánh mang bị, không mang tiền mang dép” có lẽ chỉ dành riêng cho các môn đệ Đức Kitô trước khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thế nên có thích hợp hay chăng chỉ là thích hợp cho các nhà thừa sai truyền giáo, chứ như dân thường thì e lệnh truyền trên đây không có một chút ý nghĩa nào!

Cũng có người thắc mắc: “Tại sao khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không nghĩ rằng nếu không được đón tiếp thì họ sẽ lấy của gì để ăn, lấy nhà đâu để ở? Thế nên cần phải có chút ít tiền để phòng thân chứ. Rồi nếu như phải ngủ bờ ngủ bụi, mà có chiếc áo che thân thì tốt biết mấy. Tại sao Đức Giêsu lại bảo đừng mang tiền, mang bị, hay mang bánh, mang áo? Tại sao Chúa không phòng xa để giải quyết những trường hợp bất ngờ?”

Nhưng đâu phải Chúa Giêsu không biết nghĩ xa. Ngài dư biết sẽ có thành đón tiếp và cũng có thành chối từ. Chính Ngài đã từng căn dặn thành nào không đón tiếp thì hãy rũ bụi chân lại để tố các chúng đã hẹp lòng và bất cập với Tin Mừng đấy chứ.

Chúa Giêsu biết sẽ có những người đóng cửa lòng, không đón nhận các môn đệ của Ngài. Nhưng ý tưởng chính toát lên từ lời căn dặn của Chúa Giêsu chính là sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời – sứ mạng đưa bình an đến cho các xóm làng – là một điều cấp bách. Đây là việc chung mà cộng đoàn các tông đồ phải khẩn trương thi hành chứ không được chậm trễ vì lỉnh kỉnh các vật dụng cá nhân.

Nói cách khác, ý của Chúa Giêsu là các môn đệ phải biết đặt sự nghiệp chung, lợi ích của Nước Trời trên bao bị, giầy dép, tiền bạc, áo xống. Việc rao giảng Tin mừng phải là công tác quan trọng, cần thiết và cấp bách hơn tất cả mọi lợi ích riêng tư.

Sống trong một tập thể hay cộng đoàn, nếu người ta chỉ biết đòi hỏi được đáp ứng các nhu cầu hay lợi ích cá nhân, tập thể hay cộng đoàn đó sẽ bị tổn thương nếu không muốn nói là có nguy cơ sụp đổ. Người hay đòi hỏi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tìm được niềm vui và hạnh phúc chân thật.

Kẻ gặp được niềm vui và hạnh phúc trong một cộng đoàn không phải là người được cộng đoàn dành cho nhiều ưu đãi, lợi lộc, hay địa vị, song là người biết sống dấn thân với cộng đoàn và cho cộng đoàn.

Người biết nghĩ đến ích chung, tha thiết với việc công sẽ là người đáng được tôn trọng và dễ dàng hoà hợp với tha nhân. Trái lại kẻ chỉ tìm ích riêng sẽ gây nên tình cảnh “khó sống” cho mọi người chung quanh. Họ không thể là môn đệ đích thật của Đức Kitô. Bởi vì người môn đệ đích thật sẽ không cứ lo tìm kiếm, bao bọc, chở che cho sự sống riêng mình, nhưng là dám đánh mất sự sống mình vì Nước Trời và vì tha nhân.

Người ta kể trong thời Chiến Quốc, khi quân nước Tề sang đánh nước Lỗ, lúc đến chỗ biên giới, bỗng thấy một người đàn bà, tay bồng một đứa bé, tay kia đang dắt đứa khác lớn hơn. Thấy quân giặc kéo tới, bà ta vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống và bồng đứa bé kia lên, rồi chạy trốn vào núi.

Viên tướng nước Tề thấy lạ bèn cho lính đuổi theo bắt lại và hỏi: “Tại sao bà lại ẳm thằng lớn mà bỏ thằng nhỏ?” Người đàn bà thưa: “Đức nhỏ là con tôi, còn đứa lớn là con anh tôi. Vì quân lính kéo tới nhanh quá, lượng sức không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại.”

Tướng nước Tề ngạc nhiên: “Con với mẹ là tình máu mủ ruột thịt rất gần. Nay bỏ con mình thì như cắt ruột mà cứu lấy con anh thì nghĩa là sao?” Người đàn bà trả lời: “Con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì biết tính làm sao. Tôi không thể nào sống mà chịu mang tiếng vô nghĩa giữa làng giữa xóm được.

Viên tướng nước Tề vội cho dừng quân lại và sai người về tâu với vua: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Vì quân ta vừa mới đến chỗ biên cương đã thấy con mụ đàn bà nơi xó rừng còn biết đặt tình riêng trên nghĩa công, thì huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Nên xin vua cho rút quân về.” Vua Tề cho là đúng và đồng ý lui quân.

Thế đó, một quốc gia, một cộng đoàn hay một gia đình sẽ rất vững chắc khi có những con người biết nghĩa đến kẻ khác, dám hy sinh quyền lợi riêng tư cho sứ mạnh và sự nghiệp chung. Không một sức mạnh nào của kẻ thù mà lại không chùn bước trước sức mạnh của đoàn kết yêu thương.

Hình ảnh của người mẹ bỏ rơi đứa con mang nặng đẻ đau của mình để cứu đứa con của người anh nhắc tôi về hình ảnh của một người Cha “bỏ rơi” người Con yêu dấu của mình để cứu vớt kẻ khác: Hình ảnh của một Thiên Cbúa đã dứt lòng hy sinh mạng Con, đến nỗi người Con đó phải thốt lên trong đau đớn tột cùng: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con,” một tiếng kêu xé lòng Cha. Nhưng chính nhờ sự hy sinh đó mà nhân loại đã được ơn giải thoát.

Thiên Chúa đã dâng hiến chính tình yêu giữa Cha và Con vì sự sống và hạnh phúc chung của toàn nhân loại. Thiết tưởng không có một tình yêu hay sự hy sinh nào lớn hơn tình yêu và hy sinh của Thiên Chúa.

Và tình yêu mời gọi đáp trả tình yêu. Thiên Chúa gọi mời bạn và tôi đáp trả tình yêu bằng cách sống như Ngài trong sự hiến dâng chính mình cho lợi ích của tha nhân và cộng đoàn.

Cách cụ thể, ta hãy cùng tự vấn: “Tôi có vì nghĩa công mà hy sinh ích riêng chưa? Tôi đã làm được gì cho giáo xứ? Tôi sẽ làm những gì cho cộng đoàn? Tôi đã dấn thân cho ích lợi của đất nước và dân tộc chưa?

Trả lời bằng những quyết tâm chân thành là ta đang trở nên những người môn đệ chân chính của Đức Kitô rồi đó.

Lm. Bùi Quang Tuấn

------------------------

Chia sẻ Bài này:
 

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - YÊU LÀ ĐAU KHỔ

HÔN NHÂN KI-TÔ HỮU:YÊU LÀ KÝ KẾT VỚI ĐAU KHỔ

 

Có thể nói, đau khổ là gia vị của tình yêu và nhờ nó mà tình yêu có một ý nghĩa đặc biệt. Đó là sự hy sinh vì người yêu, là sự dâng hiến cho người yêu và sự hòa hợp với người yêu.

 

 

Khi nghĩ và nói về tình yêu, thường ta liên tưởng tới sự rạng rỡ của mùa xuân, tới vẻ đẹp tươi mới của hoa lá, tới hương vị ngọt ngào của nụ hôn... Tuy nhiên, lại có câu “Biết yêu là khổ, nhưng không yêu thì chết”. Và một danh nhân đã nói: “Yêu là ký kết với đau khổ” (Mme Cohin). Dường như sự đau khổ đã gắn kết với tình yêu như bóng với hình. Cũng vì lý do đó mà có người đã nhận định: “Người ta hưởng được hạnh phúc của tình yêu trong những đau khổ  của nó gây ra hơn là những sung sướng nó đem lại” (Dulos).

 

Vậy thử hỏi có mối liên hệ nào giữa tình yêu và đau khổ không?

 

Chúng ta biết rằng, bản chất của tình yêu không phải đau khổ. Đau khổ không tác tạo nên tình yêu, nhưng nó là cách để duy trì, thể hiện và phát triển tình yêu. Ca dao VN có câu: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo / mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua” hay “Yêu nhau trăm sự chẳng nề / một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. Mặc dù biết yêu là khổ, nhưng thà rằng đau khổ mà có tình yêu còn hơn là mất tình yêu. Vì mất tình yêu là mất tất cả.

 

Có thể nói, đau khổ là gia vị của tình yêu và nhờ nó mà tình yêu có một ý nghĩa đặc biệt. Đó là sự hy sinh vì người yêu, là sự dâng hiến cho người yêu và sự hòa hợp với người yêu.

 

Hy sinh vì người yêu

Chúng ta biết, hy sinh có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là chết (ngừng mọi hoạt động của cơ thể), nghĩa thứ hai là chịu thiệt hại, mất mát quyền lợi về vật chất, tinh thần hoặc một bộ phận nào đó trên cơ thể nhằm một mục tiêu cao cả hoặc một lý tưởng tốt đẹp (Theo Wikipedia).

 

Sự hy sinh trong tình yêu luôn hàm chứa sự đau khổ, mất mát, thiệt thòi.

 

Tình yêu trong hôn nhân đòi hỏi đôi bạn phải hy sinh hết mình vì bạn đời của mình và vì hạnh phúc gia đình. Đó là cách chứng minh tình yêu cụ thể nhất. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Yêu là hy sinh, chưa hy sinh thì chưa gọi là yêu”. Hy sinh cũng là điều kiện để bảo tồn và gia tăng sự hiệp thông, hiệp nhất trong gia đình. Như khẳng định sau đây: “Chỉ có một tinh thần hi sinh cao cả mới giúp gìn giữ được và kiện toàn được sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, sự hiệp thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau và hòa giải với nhau”. [1]

 

Người ta thường nói ví von rằng hoa hồng nào mà chẳng có gai. Cuộc tình nào mà chẳng có nước mắt và đau khổ. Hôn nhân đích thực không phải là thiên đàng của những mộng mơ, viễn tưởng mà trái lại đó là một trường đào tạo, một cuộc chiến đấu cam go của những anh hùng. Như có người đã nói: “Hôn nhân không phải là luống hồng mà là bãi chiến trường” (Danh ngôn).

 

Thực vậy, khi bước vào đời sống hôn nhân gia đình là chúng ta chấp nhận đi vào con đường khổ giá, con đường mà Chúa Giêsu đã mời gọi mọi môn đệ cùng đi với Ngài. Tác giả D. Wahrheit đã chia sẻ: “Ngày thành hôn trước mặt Giáo hội, hai người nam nữ nên vợ nên chồng. Bí tích hôn phối đưa hai người lên đường, hé mở cho họ thấy sự thánh thiện mà tay trong tay họ cùng nhau đạt tới. Cuộc lễ long trọng trong nhà thờ mới chỉ là một khởi hành. Đức tin không là một cây đũa thần để họ làm phép lạ. Họ chỉ biết rằng, con đường mà trên đó họ cùng nắm tay tiến bước với Chúa Kitô là một con đường hẹp. Con đường ấy được trải đầy những thập giá mà họ phải vác lấy từng ngày…” [2]

 

Như vậy, nếu phải chiến đấu, phải nỗ lực để có được một tình yêu chân chính trong một cuộc hôn nhân bền vững, thì ta phải dõi theo những gì mà Chúa đã dạy. Ngài đã nói: “Không có tình thương lớn hơn tình thương của người hi sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Sự đau khổ và sự chết của Đức Ki-tô đã giải thích cho ta hiểu rằng vì yêu và vì hạnh phúc của chúng ta, Ngài đã hi sinh đến chết (x. Ga 10,17; Pl 2,8). Đó là một Tình Yêu đích thực, tình yêu có sức mạnh cứu chuộc, thăng hoa và biến đổi.

 

Tình yêu còn có một sức mạnh sâu xa nữa, đó là sự dâng hiến, trao ban, chia sẻ nữa.

 

Dâng hiến cho người yêu

Dâng hiến, nghĩa là cho đi những gì thuộc về mình, không phải chỉ là những thứ bình thường như của cải vật chất, của cải tinh thần, mà ngay cả sự sống và những gì liên quan tới nó cũng được trao ban. Trong hôn nhân, sự dâng hiến thật là cao cả, vĩ đại và không gì so sánh được.  

 

Tuy nhiên, sự dâng hiến của vợ chồng Ki-tô hữu không chỉ hiểu đơn giản là sự trao thân gửi phận, hay là sự trao tặng thân xác cho nhau, nhưng trên hết phải dõi theo sự tự hiến của Đức Ki-tô cho Hội thánh là hiền thê của Ngài.

 

Thực vậy, “Vấn đề chỉ được giải quyết khi chúng ta bắt đầu đề cập và phổ biến quan điểm dâng hiến theo Kitô giáo. Khi sự dâng hiến của Đức Kitô cho nhân loại được đưa lên thành mẫu mực, trở thành qui chuẩn thì mới có thể thay đổi hành vi của con người. Để đạt được mục tiêu đó, việc giáo dục giới tính theo lứa tuổi, việc dạy hôn nhân gia đình, dạy giáo lí phải kết hợp với giáo dục nhân bản Kitô giáo và tình dâng hiến trọn vẹn của Chúa Kitô cũng phải được đề cập một cách đồng thời.

 

“Dâng hiến sẽ không còn nặng tính toán ích kỉ. Dâng hiến không còn hệ lụy ở việc ‘trao thân cho nhau’ mới là dâng hiến đúng nghĩa. Dâng hiến phải bắt đầu từ trong tình yêu thực sự, đó là một tình yêu tất cả vì hạnh phúc của người mình yêu. Tình yêu đó khi hiến dâng là trao ban tất cả mà không cần nhận lại, là gìn giữ cho nhau và hướng đến một tương lai chung thủy hạnh phúc. Dâng hiến đúng nghĩa cũng mang trong nó đau thương của Thập Giá, đó là sự hi sinh những đòi hỏi của xác thịt nặng nề, sự kiềm chế những ước muốn dung tục và chiến đấu với những cạm bẫy quyến rũ của Satan…” [3]

 

Hòa hợp với người yêu

Có người nói, chết cho người yêu không khó bằng sống với họ. Điều đó có nghĩa là để hôn nhân bền vững lâu dài, thì ta phải chấp nhận sống hòa hợp với bạn đời. Không phải chỉ trong vài năm, mà là suốt cả đời. Đó là một yêu cầu cơ bản thiết yếu mà không ai có thể được miễn trừ.

 

Chúng ta đều biết rằng trong đời sống hôn nhân gia đình không gì quý hơn niềm hạnh phúc và sự hòa thuận bền vững lâu dài, bởi vì “Tất cả kho tàng trên trái đất này không thể sánh bằng hạnh phúc gia đình” (Caldéron). Chính vì hạnh phúc là điều quý giá như vậy mà người ta đã phải hi sinh, lao nhọc, khổ đau để có thể có được và nhất là để nuôi dưỡng và duy trì lâu dài.

 

Tuy nhiên trên thực tế, đã có khá nhiều người phải chấp nhận hạnh phúc vượt khỏi tầm tay mình. Đó là mảng tối của hôn nhân và là bi kịch của con người. Quả vậy, cuối cùng thì “người ta chỉ hiểu được giá trị của hạnh phúc khi đã mất nó “. Vì một lý do nào đó, người ta đã vô tình đánh mất thực tại tươi đẹp của cuộc hôn nhân mà chính họ đã vun đắp xây dựng. Cái thực tại đó là, “Đôi chim trong một tổ ấm; đôi con tim trong một lồng ngực; hai tâm hồn trong một liên minh bền vững làm bằng yêu thương và cầu nguyện, sẽ ngày càng bền chặt, ngày càng đầy phước” (Dora Greenwell).

 

Một liên minh bền vững ngày càng bền chặt sẽ là điều có thật nếu trong cuộc sống hôn nhân gia đình người ta biết sống hòa với nhau. Đó là dấu chỉ và biểu hiện của một tình yêu trung thực, trong sáng và sâu sắc nhất. Văn hào J.J Rousseau đã nói một câu ngắn gọn và đầy ý nghĩa như sau: “Định nghĩa tiếng YÊU thật giản dị, nó là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn trai và gái ”.

 

Chúng ta có thể liên tưởng đến năm chữ “Hòa” trong đời sống gia đình. Đó là hòa thuận, hòa hợp, hòa hoãn, hòa bình và hòa đồng. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc không xây dựng trên nền tảng tiền bạc hay điều kiện vật chất này nọ mà là trên mối tương quan êm ấm giữa hai vợ chồng. Mối tương quan ấy có được là do đôi bạn luôn biết tùng phục, yêu thương và kính trọng nhau, căn cứ lời khuyên nhủ của thánh Phaolô, như sau:

 

Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ…” (Cl 3,18-19).   

 

Quả vậy, tình yêu chân chính, lòng quảng đại, sự bao dung, tinh thần trách nhiệm, sự chung thủy...luôn là những điều kiện cần thiết bảo đảm cho một cuộc hôn nhân lâu bền, hạnh phúc.

Người Kitô hữu trưởng thành luôn biết bảo vệ và trân trọng cuộc hôn nhân của mình như một ơn huệ và ơn gọi đến từ Thiên Chúa. Họ vui mừng hãnh diện vì được cộng tác và chia sẻ công việc của Thiên Chúa. Họ được nên thánh, được góp phần xây dựng và phát triển những “Hội thánh tại gia” là những gia đình đạo đức, hạnh phúc đích thực, họ loan báo Tin Mừng cho thế giới bằng đời sống chứng tá sáng chói và nổi bật./.

 

Aug. Trần Cao Khải

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH -

SỬA LẠI MÀ DÙNG

Tâm lý ứng dụng trong Hôn Nhân

Trần Mỹ Duyệt

 

 

Bạn hỏi tôi: “Có nên ly dị không? Nếu không may lấy phải anh chồng hoặc cô vợ cà chớn thì sao?”Với kinh nghiệm cá nhân cùng với những hiểu biết trong lãnh vực chuyên môn, câu trả lời là “không nên”. Tại sao? Xã hội hôm nay đã mặc nhiên cho phép ly dị, và ly dị được coi như một cái quyền. Nếu tôi nói “nên” ly dị nữa thì cũng chẳng thêm bớt gì cho hiện tượng hôn nhân ngày nay mà còn bị gán cho tội “vẽ đường cho hươu chạy”. Do đó, nói không nên ly dị là một câu trả lời mà tôi cho là hợp tình, hợp lý nhất.

 

Trước khi đi vào những phân tích của vấn đề, tôi muốn nhắc lại một câu truyện mà tôi cho là nền tảng cho triết lý sống của tôi, triết lý “sửa lại mà dùng” trong hôn nhân. Câu truyện được bắt đầu:

 

Hôm đó, chúng tôi đang ngồi nói chuyện linh tinh với nhau về đề tài hôn nhân gia đình, giáo dục, xã hội, một chị trong số các bạn của tôi đã phát biểu: “Tại sao lại phải bỏ đi người mà mình đã lấy làm chồng. Đó chẳng phải là tự mình đã chọn sao? Bây giờ nó hư thì “sửa đi mà dùng” chứ.” Rồi chị giải thích thêm: “Cả một thời gian theo đuổi, tìm hiểu, nhớ thương, giận hờn. Cả năm năm, mười năm, hai mươi năm, có khi hơn nữa sống với nhau mình biết rõ người ta như thế nào, cá tính, tập quán, và cả những suy nghĩ nữa bỗng dưng vì vài bất đồng hay bất hòa mà bỏ thì có phải là một quyết định trưởng thành và khôn ngoan không? Ca dao Việt Nam chẳng nói sao: “Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”. 

 

Câu chuyện hôm đó đã đưa tôi đến một suy nghĩ thực tế mà theo tôi, nó cũng đúng trong ứng dụng tâm lý sống. Theo tâm lý đó, và cũng dựa vào khảo cứu, một người đã ly dị một lần thường có khuynh hướng ly dị những lần kế tiếp. Kết quả là cuộc sống người đó rất bất ổn, phần lớn dựa trên những phán đoán cảm tình, những suy nghĩ thiếu trưởng thành. Vui buồn lẫn lộn, sống đó mà cứ nuôi trong lòng ý tưởng, “hễ không hợp thì bỏ”. Nhưng thế nào mới hợp, thì chính người đó cũng không có câu trả lời. Tìm đâu ra được người lúc nào cũng phải hiểu, phải chiều, và phải như ý mình. Ngay bản thân của chúng ta rất nhiều lúc cũng tự cảm thấy không hài lòng với chính mình, như vậy đòi hỏi người chồng hoặc người vợ lúc nào cũng như ý mình là một đòi hỏi không thực tế và vô lý.

 

Trở lại lý thuyết “sửa để xài” ứng dụng trong đời sống hôn nhân nghe như khôi hài nhưng là một ý nghĩ thực tế và tích cực. Thí dụ, nếu chồng hoặc vợ có những hành động, lời nói, lối suy nghĩ không phù hợp với mình thì việc đầu tiên là chính ta phải đặt mình vào trường hợp vợ hoặc chồng mình để suy nghĩ, tìm hiểu trước khi kết luận hoặc phê phán. Làm như vậy sẽ giúp ta hiểu được vợ hoặc chồng, đồng thời không tự cho phép mình phán đoán, phê bình người phối ngẫu một cách vô tội vạ, vô căn cứ. Biết đâu hành động ấy, lời nói ấy chẳng phát xuất từ tấm lòng yêu thương mà người đó dành cho mình sao? Trong thực tế, chúng ta phải chấp nhận sự thật này là có quá nhiều lần mình trách móc, khó chịu hoặc giận dỗi vợ hay chồng, mà thực ra những việc không hài lòng ấy phát xuất từ chính ta chứ không vì những lỗi lầm của vợ hoặc chồng.    

 

Nhưng nếu người vợ hoặc chồng có khuyết điểm nào đó thì chúng ta phải làm gì? Cần phải biết phân biệt con người và cử chỉ hoặc thái độ của người ấy. Con người của chồng hay vợ là con người toàn diện mà mình đã chọn, đã lấy, chỉ có cử chỉ, thái độ là cái mà chúng ta cần phải phân biệt và chấp nhận. Thí dụ, chồng là người hướng nội, ưa trầm tĩnh và suy tư, nhưng nếu gần đây anh hay cáu gắt, khó chịu, thì cái cáu gắt và khó chịu ấy không phải là chồng mình, và đó là cái mà người vợ phải tìm hiểu. Biết đâu vì mình đã tạo nên lý do cáu gắt và khó chịu ấy, hoặc biết đâu chồng hay vợ có những chuyện buồn và khó lòng chia sẻ. Trong trường hợp ấy, và hầu như trong nhiều trường hợp tương tự, chúng ta phải sửa lại, phải tìm cách sửa sai để không rơi vào một kết luận rất mơ hồ và dễ gây đổ vỡ hạnh phúc, đó là: “Người hiền thì hay cộc!” Tâm tính hiền và cử chỉ cộc cằn không liên quan gì với nhau.  

 

Nhưng câu hỏi quan trọng có thể được nêu lên là nếu những khác biệt, những sai sót quá không thể thay thế được, không thể sửa sai được liệu có cần phải tiếp tục cuộc hôn nhân nữa hay không?

 

Không. Nhưng cái không đó phải có đủ những lý do chính đáng và khách quan. Nó không dựa vào những cảm xúc hoặc lỗi lầm chủ quan của cả hai người trong cuộc. Thánh Kinh đã ghi rõ: “Từ đầu đã không xẩy ra như vậy. Nhưng do sự cứng lòng mà Maisen đã cho phép làm tờ ly dị” (Mt 19:8).

 

Cái cứng lòng đó hiển nhiên là sự cứng lòng không muốn thay đổi quan niệm và lối sống. Sự cứng lòng này không liên quan gì đến tâm tính hướng nội, hướng ngoại của một người. Tâm lý gọi là “những khác biệt không thể hàn gắn” - irreconcilable differences.

 

Tiếp đến là những cứng lòng có chủ ý: Gồm gian dối khi bước vào hôn nhân, lường gạt thể xác, tinh thần, và tài chánh của nạn nhân, dấu giếm những khuyết điểm thể lý, tâm lý, tinh thần dẫn đến một hôn nhân què cụt, cưỡng bức, hoặc lầm lỡ cho nạn nhân là chồng hay vợ.

 

Trong đời sống hôn nhân, và qua những kinh nghiệm thường ngày con số những người bước vào hôn nhân với những thứ “cứng lòng” trên chắc không nhiều. Nhưng có thể là do cả hai cái tôi được thể hiện qua lối sống đã tạo nên những nguyên nhân đưa đến đổ vỡ. Hoặc do sự thiếu hiểu biết, thông cảm và chia sẻ. Trong những nguyên nhân ấy còn có tâm lý nhàm chán, tâm lý buông xuôi và bỏ cuộc, tâm lý “cỏ nhà hàng xóm xanh hơn cỏ nhà mình”. Những thứ này đều có thể sửa được vì nó không phải là con người của chồng hoặc vợ, nhưng là những thái độ sống, lối sống biểu hiện cần được chấp nhận, uốn nắn và sửa đổi.

 

Con người của mỗi người bao gồm toàn bộ thể lý, tâm lý, tâm linh, nhưng thái độ là những lối diễn tả của mỗi người. Nó có thể bị ảnh hưởng bởi gia đình, giáo dục, và hoàn cảnh xã hội. Nó có thể đôi khi không được như ý ta, không hài lòng ta. Vậy nên phải sửa để dùng.

 

Sửa đi mà dùng. Đồ dùng trong nhà, xe cộ, máy móc hư thì sửa để dùng, người chồng, người vợ nếu làm mất lòng ta thì sửa cho họ, sửa cả cho mình. Mua một chiết xe, mua một ngôi nhà còn khó huống hồ “mua” được người chồng hoặc người vợ mà mình đã sống với họ cả chục năm, hầu như cả đời ngu gì mà bỏ. 

 

 -------------------------------

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - TÌNH YÊU BA NGÔI

TÌNH YÊU BA NGÔI VÀ ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN

 

Khi trồng cây, ai cũng mong thu hoạch được hoa trái, nhất là được những mùa bội thu. Thiên Chúa sai mỗi người Kitô hữu đi vào đời, cách riêng là vào đời sống hôn nhân, chắc chắn Ngài cũng mong chúng ta phải đem về hoa trái.

Hoa trái của đời sống hôn nhân chính là  một “gia đình hạnh phúc”. Nền tảng tình yêu Ba Ngôi được diễn tả qua tình yêu hiệp thông, dâng hiến- đồng sáng tạo và bền vững- chung thủy. Đó cũng chính là những điều kiện để xây dựng một gia đình hạnh phúc.

 

 

1. Tình yêu hiệp thông

Gia đình là một trong những minh chứng và thể hiện rõ nhất về tình yêu hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của hiệp thông tình yêu, và gia đình là phản ảnh sống động của mầu nhiệm hiệp thông ấy” (ĐGH Phanxicô, Tông huấn Amoris Laetitia, số 11).  Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài (x. St 1, 26) và được mời gọi sống như Ngài. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “con người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa không chủ yếu tại yếu tố đơn độc cho bằng là ở tại sự hiệp thông” (Tiếp kiến chung ngày 14/11/1979).

 

Để đời sống gia đình có thể trở chứng nhân cho tình yêu Chúa thì trên hết và trước hết vợ chồng phải đặt tình yêu tình yêu hiệp thông Ba ngôi làm trung tâm điểm của đời sống hôn nhân và gia đình của mình. Sự hiệp nhất trong tình yêu Ba ngôi chính là nguồn gốc, cơ sở và gương mẫu cho sự kết hợp giữa người nam và người nữ trong hôn nhân. Vì vậy, vợ chồng được kêu gọi là hình ảnh và trở nên giống tình yêu trút bỏ mình hoàn toàn và trao thân trọn vẹn cho nhau như Ba ngôi Thiên Chúa. Ngoài ra, vợ chồng là hai cá thể khác nhau. Không có phép màu nào có thể biến hai con người thành một con người thống nhất về mọi phương diện. Ai cũng đều có những ưu khuyết. Vì vậy, vợ chồng cũng phải biết quên mình, nhận nhau trong những khác biệt để tôn trọng, làm phong phú cho nhau và vun đắp cho hạnh phúc bền chặt để “Đôi ta như lửa mới nhen/ Như trăng mới mọc như đèn mới khêu” hay “Trăng tròn chỉ có đêm rằm/ Tình ta tháng tháng năm năm vẫn tròn”.

Một khi làm được điều này  hôn nhân sẽ nên một họa ảnh và chứng nhân tuyệt vời cho “tình yêu Thiên Chúa” (ĐGH Phanxicô, Tông huấn Amoris Laetitia, số 121).

 

2. Tình yêu dâng hiến- đồng sáng tạo

Sự hiệp nhất trong tình yêu của người nam và người nữ trong đời sống gia đình chính là việc cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa. Quả thế, ý định của Thiên Chúa là để con người tham gia vào công trình sáng tạo tuyệt vời của Ngài. Điều này được thể hiện cách rõ ràng và cụ thể nhất qua đời sống gia đình. Bởi vì tình yêu giữa vợ chồng là một tình yêu hiệp thông nhưng tình yêu ấy không chỉ đóng khung trong phạm vi hai người mà phải là sự mở ra cho việc “đồng sáng tạo mới”. Đó chính là sinh sản con cái. Đây cũng chính là mục đích của hôn nhân. Thật vậy, qua việc sinh sản con cái, vợ chồng sẽ thông dự vào hành vi tạo dựng của Thiên Chúa. “Vợ chồng là một sự thông dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa” (ĐGH Phanxicô, Tông huấn Amoris Laetitia, số 31).

 

3. Tình yêu bền vững-chung thủy

Trong đời sống hôn nhân hai người nam và nữ ký kết với nhau một hôn ước. Hôn ước Công giáo có tính cách vĩnh viễn, không ai có thể pha hủy được vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”( Mt 19,6 ).  Vì hôn nhân Công giáo là một bí tích: bí tích hôn nhân do chính Đức Giêsu đã thiết lập.

 

Sự bất khả phân ly (x. Mt 19, 6; Mc 10, 9) giữa vợ chồng phản ánh sự hiệp nhất bất khả phân ly nơi Ba ngôi cũng như tình yêu chung thủy của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chính trong tương quan tình yêu Ba ngôi mà tình yêu nam nữ và gia đình mới thể hiện được trọn vẹn nhất sự bền vững và trung thành của mình. Thật thế, chính qua lời cam kết trung thành với nhau và tình yêu dành cho nhau mà người chồng-người vợ thể hiện tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên, không chỉ cam kết trung thành một lần trong ngày làm lễ hôn phối nhưng sự cam kết trung thành ấy phải được lập lại và làm mới mỗi ngày trong suốt cuộc đời. Bởi vì đó cũng chính là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Chính vì thế, đời sống gia đình phải thể hiện sự thương yêu, nâng đỡ và bổ túc cho nhau trong một đời sống thân mật duy nhất, cùng sinh sản và giáo dục con cái. Đó cũng chính là mục đích gắn kết không thể tách rời của hôn nhân và đó cũng là dấu chỉ và chứng nhân cho tình yêu Chúa Ba Ngôi với mọi người.

 

***

Trong bối cảnh xã hội hôm nay, để có thể đứng vững trước những thách đố và nên chứng nhân cho tình yêu Ba Ngôi. gia đình Kitô giáo cần được xây dựng trên nền tảng của tình yêu mầu nhiệm Ba Ngôi.

 Ý thức điều này sẽ giúp các đôi bạn luôn sống đời sống hôn nhân theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi: biết sống hiệp thông với nhau; biết dânghiến- đồng sáng tạo và bền vững- chung thủy với nhau. Nhờ đó các bạn sẽ có một gia đình hạnh phúc; hạnh phúc trong tình yêu với Thiên Chúa và với nhau.

 

                                                            Felicitas