1. Hôn Nhân & Gia Đình

SỐNG TỈNH THỨC

  •  
    Chi Tran chuyên

     
     

    TẬN CÙNG TRỌNG TÂM CHÚ Ý CỦA CHÚNG TA HƯỚNG VỀ GÌ?

     

    Chúng ta cảm thấy mình có tội mỗi khi Thiên Chúa không còn là số một trong đời chúng ta cách có ý thức và hiệu lực.

     

    Trong quyển tiểu thuyết Tình yêu giữa Hoang phế (Love Among the Ruins) xuất bản năm 1971 của Walker Percy, nhân vật chính của truyện là bác sĩ tâm lý Tom More. More là người công giáo la mã không còn giữ đạo nhưng ông vẫn tin. Ông mô tả tình trạng của mình như sau: “Tôi tin vào Thiên Chúa và toàn bộ đức tin, nhưng tôi yêu phụ nữ nhất, yêu âm nhạc và khoa học nhì, rượu whisky thứ ba, Thiên Chúa thứ tư, còn những người đồng loại thì chắc là khỏi… Nhưng mà, tôi vẫn tin”.

     

    Oái oăm thấy, một nhân vật như ông Tom More, một kẻ có tội nhưng vẫn giữ đức tin lại là những người được lôi cuốn đến gần Chúa Giêsu nhất trong các sách Tin mừng.

     

    Đọc danh sách những gì ông More yêu, tôi nhớ đến một hội nghị tôi từng tham dự về chủ đề Thế tục và Tin mừng. Một diễn giả chính, một nhà hoạt động xã hội lừng danh đã nhận định thế này: Tôi làm việc trên đường phố với người nghèo, và tôi làm thế vì tôi là tín hữu kitô. Nhưng tôi có thể làm việc trên đường phố nhiều năm mà không nhắc đến danh Chúa Kitô vì tôi nghĩ Chúa đủ trưởng thành để không đòi hỏi phải luôn là trọng tâm chú ý của chúng ta.

     

    Như độc giả có thể đoán được, lời của bà đã khơi lên một số tranh luận. Phải thế. Thiên Chúa có đòi hỏi luôn là trọng tâm chú ý trong nhận thức của chúng ta hay không? Chúng ta có thói quen tập trung đến chuyện khác thì có được không? Nếu chúng ta thật sự yêu nhiều người và yêu nhiều thứ hơn Chúa thì có phản bội đức tin không?

     

    Không có câu trả lời đơn giản nào cho những câu hỏi này, vì chúng cần có sự cân bằng tinh tế giữa những yêu cầu của Điều răn thứ nhất và một thần học tổng thể về Thiên Chúa. Như Điều răn thứ nhất dạy, Thiên Chúa là trên hết, luôn là thế. Chúng ta không bao giờ được làm ngơ điều này, nhưng chúng ta cũng biết Thiên Chúa khôn ngoan và khả tín. Do đó, chúng ta có thể yên tâm suy luận, Thiên Chúa không tạo nên chúng ta theo kiểu này rồi lại đòi hỏi chúng ta sống theo một kiểu hoàn toàn khác biệt, cụ thể, Thiên Chúa không tạo nên chúng ta với những khuỵnh hướng mạnh mẽ vốn theo bản năng và thường xuyên hướng chúng ta vào những chuyện ở đời này, rồi lại đòi hỏi chúng ta phải luôn đặt Ngài vào trọng tâm chú ý. Như thế Ngài là cha mẹ xấu rồi.

     

    Cha mẹ tốt thương con mình, cố dạy bảo con mình đầy đủ, rồi để con cái tự do tập trung vào cuộc đời của nó. Cha mẹ tốt không đòi hỏi họ là trọng tâm đời sống của con cái, họ chỉ xin con cái trung thành với đạo đức và các giá trị của gia đình, dù họ vẫn muốn con cái về thăm nhà đều đặn và không quên gia đình.

     

    Trong hôn nhân, động năng này còn phức tạp hơn. Các cặp vợ chồng với tình yêu chín chắn dành cho nhau không còn đòi hỏi mình là trọng tâm chú ý của người kia. Hầu như chuyện này không thành vấn đề. Vấn đề nảy sinh là lúc một người bạn đời không còn là trọng tâm thực sự của người kia, khi sự tập trung và lôi cuốn về tình cảm dành cho người khác, đã chiếm mất vị trí của người đó trong lòng người kia rồi. Chuyện này có thể đau đớn về mặt tình cảm, nhưng trong một tình yêu chín chắn, nó không đe dọa hôn nhân. Cảm xúc của chúng ta như con thú hoang, chồm lên khi nào nó muốn, nhưng chúng đâu phải là dấu chỉ thực sự của tình yêu và sự chung thủy. Tôi biết một nhà văn đã yêu thương chung thủy và chăm sóc vợ mình trong hơn 40 năm, ông thú nhận với tôi, một ngày ông cảm thấy mình phải lòng một người khác. Chuyện này đã không đe dọa hôn nhân của ông. Nhưng phải thừa nhận, nó có thể đe dọa mạnh mẽ cho đời sống tâm linh và luân lý.

     

    Nguyên tắc này cũng đúng với mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Trước hết, Thiên Chúa cho chúng ta một bản tính hoang dại và bừa bãi. Thiên Chúa kỳ vọng chúng ta có trách nhiệm về cách chúng ta hành động trong bản tính đó, nhưng căn cứ vào cách chúng ta được tạo thành, thì không diễn giải được Điều răn thứ nhất theo kiểu, chúng ta cảm thấy mình có tội mỗi khi Thiên Chúa không còn là số một trong đời chúng ta cách có ý thức và hiệu lực.

     

    Thứ hai, như một bậc cha mẹ tốt, Thiên Chúa không  đòi hỏi phải luôn là trọng tâm chú tâm có ý thức của chúng ta. Thiên Chúa không buồn khi chúng ta tập trung vào cuộc sống mình, miễn là chúng ta vẫn trung thành và không thờ ơ quá đáng, không chịu tập trung vào Thiên Chúa khi cần phải thế.

     

    Và Thiên Chúa còn như một người vợ người chồng tốt, biết rằng đôi lúc, do tính bừa bãi bẩm tại của chúng ta mà tình cảm chúng ta sẽ chạy theo một trọng tâm khác. Như một người vợ chồng tốt, điều Thiên Chúa muốn là sự chung thủy.

     

    Cuối cùng, sâu sắc hơn nữa, là câu hỏi chúng ta mê đắm và khao khát điều gì khi tập trung vào những chuyện khác không phải Thiên Chúa. Kể cả những lúc như thế, điều chúng ta đi tìm vẫn chính là Thiên Chúa.

     

    Có nhiều lúc, chúng ta được kêu gọi tập trung chú ý vào Thiên Chúa, nếu yêu và tin, thì phải thế. Tuy nhiên, sẽ có nhiều lúc, một cách chủ ý và thực sự, Thiên Chúa đứng vị trí thứ tư trong đời chúng ta, và Thiên Chúa đủ chín chắn và thông hiểu để không chấp nhặt chuyện đó.

     

    J.B. Thái Hòa dịch

    Ronald Rolheiser,

     
     

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - TRẦN MỸ DUYỆT

  •  
    DM Tran
    Thu, Oct 28 at 4:24 PM
     
     

    SỐNG MỘT MÌNH KHÔNG TỐT

    Trần Mỹ Duyệt

     

     

    “It was not good for the man to be alone.” [1]

    “Con người ở một mình thì không tốt.” [2]

    “Không tốt, nếu người chỉ có một mình.” [3]

     

    Đọc lại trình thuật sáng tạo, khi Thượng Đế tạo dựng muôn loài, Ngài đem đến cho Adam, ông đã đặt tên cho tất cả, chỉ trừ một tên gọi “đàn bà” là ông chưa đặt cho bất cứ tạo vật nào. Cũng vì thiếu tên này nên ông buồn. Và Thượng Đế đã cứu ông ra khỏi nỗi buồn cô đơn ấy khi dựng cho ông một tạo vật lấy từ chính xương thịt ông.[4] Ông đã reo vui khi đón nhận tạo vật này: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” (2:23)

     

    Điều đã làm cho Nguyên Tổ loài người vui thì cũng làm cho con người trải qua muôn thế hệ vui. Không chỉ là đàn ông hay đàn bà, ở một mình đều không tốt.

     

    Số đông bạn hữu của chúng tôi hoặc trong tình trạng độc thân hay góa bụa cũng phản ảnh tâm lý buồn chán, nỗi cô đơn, và sự lo lắng khi phải ở một mình. Nếu là người lớn tuổi, họ cảm thấy lẻ loi, và cô độc. Nếu là người trẻ tuổi, họ để lộ cảm giác trống trải, lo lắng và muốn tìm cho mình một bờ vai, một điểm tựa trên hành trình cuộc sống. Trong những buổi họp hành, xã giao, rất dễ nhận ra những điểm này phía sau những ồn ào, náo nhiệt, và vui vẻ mà họ như không muốn bỏ lỡ.  

     

     

    NHU CẦU YÊU VÀ ĐƯỢC YÊU

     

    Một em nhỏ sinh vào đời, việc đầu tiên em cần và kiếm tìm bầu sữa của người mẹ. Những dòng sữa trong lành hòa cùng tình yêu của người mẹ đã làm em cảm thấy hạnh phúc và lớn lên. Em không thể sống và phát triển nếu bị bỏ rơi một mình. Nhu cầu được yêu của em phát triển trước khi nhu cầu yêu - tình yêu mẹ con. Nhưng đối với người mẹ, nhu cầu yêu đã trở nên bản chất của tình mẫu tử. 

     

    Em nhỏ sống một mình không tốt. Trong khi em hạnh phúc đón nhận tình yêu của cha mẹ, đặc biệt là người mẹ, thì hạnh phúc của cha mẹ là trao ra, cho đi, và hy sinh hết mình vì con. Bà mẹ sẽ hạnh phúc biết bao khi con bà uống từng giọt sữa từ bầu sữa mẹ của bà. Những dòng sữa cũng là sức sống, sinh lực, tình thương mà bà chuyền cho con bà. Còn đứa nhỏ, với những dòng sữa mang đậm tình thương đã lớn lên theo tháng năm.

     

    Với tình yêu, em đã được nuôi dưỡng, trải qua những tháng năm của tuổi thơ, tuổi trẻ, tuổi thành niên, và tuổi trưởng thành. Cha mẹ nhìn con với niềm hạnh phúc khi thấy con khôn lớn, nên người, thành công và bước những bước chân vững chãi trên đường đời. Nhưng nếu cha mẹ hạnh phúc và hy sinh cho những đứa con ngoan, đứa con dễ bảo, dễ dậy bao nhiêu, thì ngược lại, cũng chính cha mẹ lại càng yêu thương, chăm sóc, và lo lắng cho những đứa con bệnh hoạn tinh thần cũng như thể xác bấy nhiêu. Có thể nói, tình thương và sự hy sinh cha mẹ dành cho những đứa con này còn nhiều hơn dành cho những đứa con bình thường.

     

    Tóm lại, đứa trẻ lớn lên và trưởng thành không chỉ nhờ vào cơm bánh, mà còn nhờ vào dòng sữa tình thương của mẹ và sự yêu thương của cả cha lẫn mẹ. Nó không thể tự mình có, tự mình lớn lên, và tự mình phát triển. Tâm lý học đã chứng minh rằng một đức trẻ lớn lên mà thiếu thốn tình thương, nó sẽ mang mãi trong mình mặc cảm bị bỏ rơi, bị quên lãng, một nỗi buồn không gì có thể bù đắp. Theo the National Runaway Switchboard, một cơ quan nhận những điện thoại và để giúp các em bỏ nhà hoặc có ý tưởng bỏ nhà đi hoang, thì 1 trong 7 em tuổi giữa 10 và 18 sẽ bỏ nhà vì một số lý do. Và có 1 tới 3 triệu bỏ nhà và trở thành vô gia cư ngoài đường phố tại Hoa Kỳ. Một trong những lý do đó là:

     

    -Bị hành hung (bạo hành trong gia đình.)

    -Cha mẹ ly hôn, ly dị hoặc phải sống với cha mẹ kế.

    -Cha mẹ nghiện hút hoặc rượu chè. [5]

     

    Rồi khi đứa trẻ đã đủ khôn lớn, nhu cầu tâm sinh lý và nhu cầu tình yêu triển nở, nó lại đi tìm cho mình một đối tượng để yêu và được yêu. Có thể nói, nhu cầu yêu và được yêu là căn bản của đời sống tự nhiên con người, và nó được phát triển do tình yêu đầu tiên của cha mẹ. Theo Form, tâm lý gia tình yêu, thì tình yêu trai gái, tình yêu hôn nhân là căn bản và cao cả nhất ngoài trừ tình yêu đối với Thượng Đế. Đơn giản vì con người sống một mình không tốt. 

     

     

    TÌM LẠI CON NGƯỜI THẬT  

     

    Nhờ những mối tương quan gia đình, bạn bè, xã hội, con người sẽ tìm ra những gì mình có và không có, những gì mình còn thiếu sót. Đặc biệt trong tình yêu hôn nhân chân chính, con người còn tìm được một nửa của mình, và với sự hiệp nhất giữa hai mảnh ghép ấy, con người mới thật sự tìm lại con người thật của chính mình.

     

    Văn chương Việt Nam có một từ diễn tả đầy đủ nhất, ý nghĩa nhất về sự kết hợp tình yêu trai gái đó là chữ “mình”. Vợ chồng gọi nhau là mình. Mình ơi! Đây là lối diễn tả chính xác nỗi thao thức của nguyên tổ khi thiếu một nửa của mình. Chính vì thế thay vì gọi Evà là mình, Adam đã gọi bằng một từ mang ý nghĩa vừa thể lý và tâm lý, “xương của xương tôi, thịt của thịt tôi”. Nhờ sự kết hợp xương, thịt, và tâm trí này, người đàn bà hay người đàn ông nào đó khi đã tự tìm được phần còn lại của mình, họ trở nên một, “tuy hai mà một”. Họ trở nên một mà không phải giống nhau.   

     

    Cũng vì là mình - là tôi, nên trong cuộc sống hôn nhân sự hòa hợp, kết hợp thân xác mới có ý nghĩa toàn vẹn và đầy đủ. Không chỉ là nên một trong thân xác mà còn nên một trong tâm hồn. Thánh Kinh mô tả về vẻ đẹp cao trọng của sự kết hợp thân xác, đó là “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau (Sáng Thế 2:25). Chỉ có trong cử chỉ trao đổi, hòa hợp ấy người ta mới không thấy hổ ngươi, mắc cở với chính thân xác mình, và với chính mình.

     

    Về mặt tâm lý, khi hai người nam và nữ hòa hợp với nhau, yêu thương nhau, họ tự nhận ra những khác biệt, tự nhận ra những thiếu sót, và khuyết điểm mà chỉ có tình yêu mới hóa giải được, mới tha thứ, và chấp nhận. Bởi vì khi yêu đúng nghĩa là yêu toàn bộ con người của nhau, yêu cả những ưu và khuyết điểm của nhau. Và ở một nghĩa nào đó, chính những khác biệt ấy lại làm phong phú cho tình yêu, và thăng hoa tình yêu.

     

    Ngoài ra, việc hai người nam và nữ trở nên vợ chồng, trở nên mình của nhau còn đem lại hoa trái của tình yêu đó là con cái. Vì con cái là hồng ân Thiên Chúa ban cho cha mẹ, và cũng là kết quả của tình yêu mà cha mẹ dành cho nhau. Tình dục trong hôn nhân không mang nghĩa của một nhu cầu thấp hèn và tự nhiên, nó mang một sứ mệnh cao cả là sinh sản và bảo tồn nòi giống. “Hãy sinh sản ra nhiều mặt đất, và hãy bá chủ trái đất.” (Sáng Thế 1:28), đó là lệnh truyền, là một đòi hỏi của hôn nhân. Vinh dự này, Thượng Đế ban cho con người qua hành động sáng tạo của họ.

     

     

    KHÔNG AI LÀ MỘT HÒN ĐẢO

     

    Việc con người sống một mình không tốt hiểu theo ý nghĩa xã hội, đó là “Không ai là một hòn đảo.” [6] Con người ai sinh ra cũng mang trong mình nhu cầu và tập tính đoàn thể, xã hội.

     

    Xã hội tính là một phần trong cuộc sống con người. Theo đó, một phần thời gian con người được dành cho những tương giao xã hội, những giao tiếp lành mạnh với những người khác. [7] Bàn về kết quả trước mắt đối với những giao tiếp bạn bè, ca dao tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Giầu vì bạn.” [8]

     

    Với cái nhìn tâm lý học, những người mang hội chứng Autism (Tự Kỷ) là những người mất xã hội tính, và chỉ sống trong thế giới riêng mình. Ở một mức độ cao, hội chứng Antisocial Personality Disorder (Chống đối xã hội) là những suy nghĩ, nhận thức và thái độ bất thường trong giao tiếp với người khác. Những người có lối sống và hành động này có những hành động làm tổn hại hoặc không quan tâm đến những người chung quanh. Anti Social cũng có thể được định nghĩa như một hình thức vi phạm những quyền lợi căn bản của người khác, và nó cũng được coi như việc làm phiền người khác trong xã hội. [9]   

     

    Sống trong tâm trạng “ốc đảo”, với tư tưởng không làm phiền ai, và do đó cũng không muốn ai phiền mình là một lối sống lệch lạc. Là con người thì làm sao tránh khỏi phiền người khác và có lúc bị người khác làm phiền? Làm sao không phải mang ơn người khác, và ở một nghĩa nào đó cũng là ân nhân của một số người?

     

    KẾT LUẬN

     

    Tóm lại do tình yêu con người được vào đời, và do tình yêu con người lớn lên, trưởng thành và bước đi trên hành trình cuộc sống. Nhưng con người không bước đi đơn lẻ. Từ khi sinh ra cho đến chết đã mang ơn Trời, ơn đời, và ơn những người đã sinh thành, dưỡng dục ra mình. Do đó, xã hội tính là một tính chất cần thiết để con người có thể sinh hoạt và chung sống với nhau.      

     

    Chúng ta không nói đến những quan niệm và lối sống vong thân của nền văn hóa sự chết ngày nay, bao gồm những suy nghĩ và lối sống đồng tính, hôn nhân đồng tính, chuyển giới, hoặc tệ nạn phá thai. Nhưng có ít nhất những giá trị của cuộc sống mà không ai có thể phủ nhận lời của Thiên Chúa, “con người sống một mình không tốt”. Đó là cuộc sống tình yêu trong hôn nhân chân chính, tình bằng hữu và những tương quan xã hội lành mạnh.

     

     

    _________

     

    Tài liệu tham khảo:

     

    1.Genesis 2:18. Saint Joseph Edition of The New American Bible. Catholic Book Publishing Co., New York. 

    2.Thánh Kinh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước. Tòa Tổng Giám Mục tp HCM thực hiện, 1998.

    3.Kinh Thánh. Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, Dòng Chúa Cứu Thế. Dòng Chúa Cứu Thế, 1976.

    4.x.Khởi Nguyên 2:18-22.

    5.https://kidshealth.org › kids › running-away.

    6. No Man Is an Island, a 1955 book by the Trappist monk Thomas Merton.

    7. “Social life.” Merriam-Webster.com.

    8.Ca Dao, Tục Ngữ. Ôn như Nguyễn Văn Ngọc.

    9. https://en.wikipedia.org › wiki › Anti-social_behaviour.

     

     

     

     

     

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

  •  
    Chi Tran chuyển

     


    ĐẶC TÍNH HÔN NHÂN KITÔ GIÁO

     

    Hôn nhân là nền tảng để làm nên gia đình, gia đình lại là nền tảng của xã hội; nên gia đình càng vững bền, hạnh phúc, xã hội càng phồn thịnh phát triển.

     

    Hôn nhân là một vấn đề quan trọng, không chỉ đối với bản thân hai người kết hôn, nhưng còn đối với gia đình, xã hội và Giáo Hội. Bởi thế, trước khi tiến đến hôn nhân, đôi bạn trẻ được mời gọi phải tìm hiểu nhau thật kỹ, phải có một thái độ trưởng thành về tình yêu, phải có một hiểu biết cặn kẽ và chắc chắn về hôn nhân để thực hiện một quyết định chung cuộc cho cuộc đời mình. Vì hôn nhân rất quan trọng và còn dính líu đến gia đình hai bên và con cái, nên không thể xem nó như trò đùa, thích thì cưới, không thích thì chia tay.

    Hôn nhân là nền tảng để làm nên gia đình, gia đình lại là nền tảng của xã hội; nên gia đình càng vững bền, hạnh phúc, xã hội càng phồn thịnh phát triển. Cũng tương tự như vậy trong tương quan giữa hôn nhân, gia đình và Giáo Hội. Xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa được mặc khải trong Kinh Thánh và qua tự nhiên, điều 1056 của bộ Giáo Luật 1983 có nói đến hai đặc tính của Hôn Nhân Kitô giáo là độc nhất và bất khả phân ly.

     

    Khi nói đến tính độc nhất, ta hiểu đó là kiểu hôn nhân một vợ một chồng. Trong lịch sử nhân loại cũng như trong nhiều nền văn hoá và tôn giáo, thậm chí thời nay, vẫn còn tồn tại kiểu hôn nhân đa thê, hoặc đa phu: một người có thể cùng một lúc có nhiều vợ hoặc nhiều chồng. Họ chấp nhận chung chia người bạn đời của mình với người khác. Có nhiều lý do khác nhau để giải thích hiện tượng này. Đó có là thể di tích còn sót lại của một tập tục cổ xưa, hoặc có khi là do tình trạng thiếu người nam hoặc thiếu người nữ, hoặc vẫn còn lối nghĩ trọng nam khinh nữ, trọng nữ khinh nam… Nhiều nơi vẫn chấp nhận kiểu hôn nhân này miễn là người chồng hoặc người trụ cột trong gia đình có thể chu cấp đầy đủ về vật chất cho người bạn đời và cho con cái.

     

    Giáo Hội Công Giáo không chấp nhận kiểu hôn nhân này. Tự bản chất, khi yêu ai, ta muốn mình chỉ thuộc trọn về người đó và người đó thuộc trọn về mình. Tình yêu là một sự trao hiến hoàn toàn, chứ không phải một phần. Nó loại trừ tất cả mọi sự san sẻ. Hôn nhân, vì đặt nền trên tình yêu trao hiến hoàn toàn ấy, nên chỉ có thể trở nên trọn vẹn khi không có người thứ ba nào can thiệp vào. Chính từ sự kết hợp hoàn hảo và trọn vẹn giữa hai người này mà làm nảy sinh một mầm sống mới, như hoa quả của nhành cây ân ái. Ngoài ra, hôn nhân là kết quả của tình yêu.

    Người ta kết hôn để mưu cầu hạnh phúc chứ không chỉ đơn thuần là sống chung hay để có cuộc sống sung túc về vật chất. Hơn nữa, xét về phẩm giá, người nam và người nữ tuy khác nhau nhưng ngang bằng nhau, tất cả đều là vô giá và hạnh phúc của mỗi người đều phải được trân quý như nhau. Một người nam tương xứng với một người nữ, làm nên một cuộc hôn nhân, rồi sinh ra con cái, đó là một tổ ấm hạnh phúc nhất. Có người từng nói, hôn nhân khác với bạn bè ở chỗ: bạn bè thì càng đông càng vui, còn hôn nhân thì ngược lại.

     

    Cứ sự thường, khi kết lập giao ước hôn phối, ai cũng mong muốn nó được kéo dài mãi, hai bên luôn mặn nồng chung thuỷ với nhau đến khi nắm tay xuống suối vàng. Tuy nhiên, cuộc sống luôn có những điều không hay xảy đến. Hôn nhân vốn dĩ được đặt nền trên tình yêu, nhưng tình yêu không phải lúc nào cũng màu hồng. Có thể xảy ra những xung đột, có khi tình yêu không còn, có khi hai bên không thể tiếp tục chung chia cuộc sống. Dân luật giải quyết trường hợp này bằng cách cho phép hai người ly dị, cắt đứt sợi dây hôn phối, hai bên không còn quyền và nghĩa vụ gì với nhau, họ được phép kết giao một hôn nhân với người khác.

     

    Khác với luật đời, luật Giáo Hội, chiếu theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, không cho phép hai người đã kết hôn thành sự và hoàn hợp ly dị. Nghĩa là, khi hai người trưởng thành, không có ngăn trở gì, tự do và ý thức xin Giáo Hội chuẩn nhận cho tình yêu của mình, sau đó, họ đã có hành vi vợ chồng với nhau (gọi là hoàn hợp) thì hôn nhân đó là bất khả phân ly. Khi xảy ra trường hợp tệ nhất, họ cũng chỉ có thể ly thân, nghĩa là tạm thời không sống chung một mái nhà, chứ không thể làm cho hôn nhân này mất hiệu lực, để rồi kết hôn với người khác. Khi đưa ra quy định này, Giáo Hội không có ý “làm khó” giáo dân, cũng không tự biến mình thành “kẻ độc đoán”, nhưng Giáo Hội chỉ tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa và được Đức Giêsu khẳng định: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,6-9).

     

    Thật ra, không chỉ đối với hôn nhân Kitô giáo, nghĩa là hôn nhân mang tính bí tích, ngay cả những hôn nhân tự nhiên của những người chưa được rửa tội, Giáo Hội cũng xác nhận tính “bất khả phân ly” của nó. Như thế, tính bất khả phân ly của hôn nhân không phải là một áp đặt của Giáo Hội, nhưng là cái xuất phát từ tự nhiên mà Giáo Hội công nhận. Khi người ta cam kết để tạo lập hôn nhân, đó là một cam kết vĩnh viễn và trọn đời, chứ không phải một phần hay tạm thời. Chỉ có cái chết mới có thể xoá đi được cam kết này. Vì thế, Giáo Hội cũng không cho phép con cái mình kết hôn với người đang bị ràng buộc bởi dây hôn phối với người khác, dù hôn phối ấy không mang tính bí tích.

     

    Đôi khi ta vẫn thấy có một số trường hợp hai người đã kết hôn, nhưng sau đó lại chia tay và kết lập giao ước mới. Đó không phải là vì Giáo Hội cho phép ly hôn, nhưng vì hôn nhân đó bị mắc những ngăn trở nào đó, khiến nó đã không thể thành sự ngay từ lúc đầu. Hoặc đôi khi, vì lợi ích đức tin của tín hữu, Giáo Hội chuẩn chước cho một số trường hợp ngoại lệ theo những điều kiện quy định để hưởng đặc ân Phaolô hoặc đặc ân Phêrô. Tuy nhiên, để cứu xét những trường hợp này, Giáo Hội phải rất cẩn trọng, để không đi ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu, mà vẫn có thể giúp cho các bên sống đức tin của mình cách tốt đẹp nhất.

     

    Trước khi đi đến hôn nhân, các bạn trẻ phải được dạy cho biết về hai đặc tính này, để khi đã tự nguyện cam kết rồi thì cố gắng vun đắp cho hôn nhân của mình, chứ không tìm cách thoái lui, tìm cách giải thoát để sống theo tự do của mình.

     

    Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TGP SAIGON

  •  TGM NGUYỄN NĂNG

    Thứ Năm tuần 29 Thường niên năm I - (Lc 12, 49-53): VÌ TIN MỪNG MỌI NGƯỜI TRONG GIA ĐÌNH CHỐNG ĐỐI NHAU

    Tin mừng: Lc 12, 49-53

    49 “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! 50 Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

    51 “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. 52 Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.

    53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”

     

    1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Con người có nghĩa vụ tôn thờ Chúa. Tôn thờ Chúa chính là yêu mến Chúa hết lòng, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Chúa đã thông ban tình yêu cho con và gọi con bước theo Chúa trên con đường yêu thương. Thoáng nghe Tin Mừng hôm nay, con chợt ngỡ ngàng: sao Chúa lại đến để gây chia rẽ. Con biết Chúa dạy con thương yêu mọi người, Chúa không muốn con hận thù chia rẽ. Chúa chỉ muốn con chọn Chúa trên hết mọi sự.

    Gia nhập vào hàng ngũ của Chúa, con phải chống lại tất cả những ai cản trở con theo theo Chúa, thưa “vâng” với Chúa chính là nói “không” với Xa-tan. Chọn lựa con đường về Trời, tức là con phải can đảm dứt bỏ những gì ở trần gian lôi cuốn con xa Chúa.

    Chúa dạy con phải yêu thương cha mẹ, thương anh chị, mến mọi người. Đồng thời, Chúa dạy con phải tôn thờ Chúa và yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Con nhớ Lời Chúa dạy: “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng với Ta. Ai cầm cày mà còn ngoái cổ đằng sau thì không xứng hợp với Nước Thiên Chúa”.

    Lạy Chúa, xin giúp con đừng vì tình cảm mà nhẫn tâm xúc phạm đến Chúa, đừng vì nể nang cha mẹ, họ hàng thân thích, mà làm ngơ trước những bất công; đừng vì ham chơi, ham công việc, mà bỏ bổn phận tôn thờ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, bỏ kinh nguyện sáng tối. Xin giúp con đừng vì ham tiền bạc vật chất mà lãng quên hoặc chối bỏ Chúa.

    Xin cho con luôn chọn Chúa trên hết mọi người và mọi sự, dù khi chọn Chúa con phải hy sinh từ bỏ cả những gì con yêu quý nhất. Amen.

    Ghi nhớ: Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.(C.51-52)
    Kính chuyển:
    Hồng
     
     
     

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI

  •  
    Chi Tran  chuyển

     
     

    HÃY CỨU GIÚP CÁC LINH HỒN, HỌ RẤT ÐAU KHỔ 

    Chúng ta không bao giờ hiểu rằng: mỗi việc bố thí, dù lớn hay nhỏ, một khi chúng

    ta làm cho người nghèo, là chúng ta làm cho Thiên Chúa.

    Người nhận lấy nó và Người

    sẽ báo đền khi chúng ta dâng cho Người. Như vậy, tất cả những gì chúng ta làm cho các

    linh hồn, Thiên Chúa sẽ chấp nhận như ta làm cho Người vậy. Ðó chẳng khác gì như

    chính chúng ta đã phóng thích Người ra khỏi chốn luyện ngục.

    Trên đời này, không có ai đói hơn, khát hơn, nghèo hơn, đau khổ hơn các linh hồn

    đang bị giam cầm trong lửa luyện tội, cũng không có sự đau đớn nào trên thế gian này,

    có thể so sánh được với sự đau đớn của họ. Bởi vậy, không có gì làm vui lòng Chúa hơn

    là sự bố thí bằng lời cầu nguyện, xin thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn khốn khó đó.

    Có thể những linh hồn đó là những linh hồn bà con, anh em của mình. Họ đang rên la

    khóc lóc, kêu van, năn nỉ sự giúp đỡ của ta, để họ sớm được giải thoát sự đau khổ khôn

    lường trong biển lửa.

    Cuộc sống này, có biết bao người không hề nghĩ tới những linh hồn đang bị triền

    miên thiêu đốt nung nấu trong lửa luyện tội. Năm tháng qua đi, họ chưa hề bố thí cho

    một thánh lễ nào. Thỉnh thoảng họ nhỏ giọt cho một vài lời cầu nguyện, và có khi, họ

    cũng chẳng tưởng nhớ tới các linh hồn ấy. Trong khi người thế gian yên vui với cuộc

    sống gia đình, chạy theo công ăn việc làm, thả lỏng theo thú vui của họ, thì các linh hồn

    đang bị đọa đày, hành hạ, rên la khóc lóc trong biển lửa.

    Họ chỉ mong chúng ta bớt chút

    thì giờ tưởng nhớ đến họ. Nhưng mọi người vẫn lơl à, bởi con người không biết luyện

    tội là gì, họ không biết được cái thống khổ chết chóc của người kia như thế nào, và họ

    không hề hay biết các linh hồn đó sẽ bị giam cầm bao lâu.

     Bản dịch từ sách của LM Paul O’Sullivan