8. Đời Sống Tâm Linh

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - HẠNH PHÚC QUANH TA

  •  
    Hung Dao
    Thu, Oct 6 at 9:03 PM
     
     
    Trong cuộc đời, ai rồi cũng sẽ gặp những lúc gió mưa bão bùng, ai rồi cũng có lúc thấy đời chênh vênh tăm tối. Khi ấy, đừng vội oán than trách hờn, chỉ mong bản thân đủ bản lĩnh đủ mạnh mẽ để vượt qua tất thảy.
    Có những chuyện dù muốn dù không cũng đã xảy ra, hãy chấp nhận và im lặng cố gắng để không gục ngã, bởi làm gì có nơi nào che chắn, có ai đâu ở phía sau làm điểm tựa?
    Chúng ta sống không thể làm hài lòng cho tất cả, nên hãy chọn cách sống mà bản thân cảm thấy hài lòng và vui vẻ là được. Được mất trên đời đều có sự an bài của số phận, dù có ra sao cũng bình thản đón nhận, dù là trời mưa hay nắng thì cuộc sống này vẫn diễn ra tốt đẹp.
    - Sưu tầm
    ------------------------------------------------

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - 100 VẤN NẠN ĐỨC TIN

  •  
    Chi Tran
     
     
     
    GIẢI ĐÁP 100 VẤN NẠN VỀ ĐỨC TIN
    (100 QUESTIONS SUR LA FOI – JEAN-MICHEL DI FALCOCenturion 1993)
    +++
    I. TIN
    1. Thưa Cha, tin là gì?
    Tin, đó là tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại, đã đến trần gian, nhận lấy thân phận làm người để mọi người được sống đời sống của Thiên Chúa.
    Chúa Giêsu hiến trọn đời mình như dấu chứng tình yêu đối với mọi người. Tin vào Thiên Chúa, chính làm tin vào tình yêu vô tận của Ngài. Đó là tìm nơi Ngài, trong cuộc sống hiện tại, bằng cách yêu Ngài như Ngài yêu, niềm hạnh phúc được sống vĩnh cửu sau khi đã chết.
    2. Được giáo dục trong một môi trường chống giáo sĩ gay gắt nhất, nhưng đến 36 tuổi thì con đã suy nghĩ nhiều và con ao ước nhận phép Thánh Tẩy. Con cảm thấy một sự thiếu sót kinh khủng trong căn tính của mình. Con đã bắt đầu tìm hiểu Kitô Giáo và lịch sử Đạo nầy. Thưa Cha, làm cách nào để vớt vát lại đây?
    Có lẽ chị đang cải hóa. Đó là một hạnh phúc lớn lao, mà cũng là một sự đảo lộn vĩ đại. Nhưng đây không phải là vấn đề vớt vát. Chị cần khám phá ra rằng đức tin vượt xa những kiến thức “về” Thiên Chúa để trở nên một cuộc gặp gỡ riêng tư: nhận biết Thiên Chúa.
    Không có gì đáng ngạc nhiên khi chị cảm thấy điều mà chị gọi là một sự “thiếu sót kinh khủng” trong căn tính của mình. Là một thụ tạo của Thiên Chúa, nên điều gì còn thiếu sót nơi chị, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban cho chị.
    Chị đừng nóng vội. Chị hãy tìm hiểu như chị đã làm, hãy gặp gỡ những người trải qua cùng một đoạn đường đời như chị, những người trong Giáo Hội sống bằng Thần Linh của Thiên Chúa. Giáo Hội đã từng dành một quãng đường dài cho người lớn tuổi trước khi họ nhận phép Thánh Tẩy: đó là thời kỳ dự tòng. Để nhận phép Thánh Tẩy, chị phải trải qua nhiều giai đoạn chuẩn bị, giúp chị trưởng thành trong hiểu biết của Thiên Chúa.
    3. Thiên Chúa, Đức tin, Chúa Kitô, Tin Mừng, con đều chấp nhận cả. Nhưng Giáo Hội hiện nay thì không. Cha nghĩ sao về thái độ này?
    Tại sao chúng ta tách rời Thiên Chúa, Chúa Kitô, Tin Mừng và Đức tin ra khỏi Giáo Hội? Chúng ta hãy trở về Giáo Hội sơ khai, vào lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã lãnh nhận Chúa Thánh Linh. Chúa Kitô đã chọn các Ngài để các Ngài loan báo Tin Mừng cứu rỗi trên khắp thế gian. Chúa Phục sinh giao cho nhóm người ít ỏi này một trách nhiệm huyền diệu: rao truyền Đức Tin. Phiêu lưu quá, nhưng hết sức tin tưởng! Ngày nay, sự mâu thuẩn lạ thường nầy vẫn y như vậy. Nhóm người ít ỏi đã trở nên một tập thể đông đúc. Bởi vì Giáo Hội được hình thành từ nhiều người nam, người nữ và chưa hẳn trọn lành, cho nên Giáo Hội có thể bị phiền trách về những nhược điểm như thường thấy ở bất cứ xã hội loài người nào. Nhưng bởi vì Chúa Kitô vẫn ở lại cùng Giáo Hội, ban cho Giáo Hội Thần khí của Ngài, cho nên Giáo Hội không ngừng nuôi dưỡng đức in của biết bao con người thông qua các phép Bí Tích. Không hấp tấp, không rụt rè, Giáo Hội xây dựng Nước Trời, dẫu có sơ suất, ngập ngừng, nhưng luôn được soi dẫn bởi một đức tin không ngừng tăng trưởng.
    Chớ gì những ai có thái độ như bạn nói, đừng nhìn Giáo Hội như khách bàng quang, mà hãy đóng góp phần mình như một viên đá xây dựng Giáo Hội.
    4. Thưa Cha, đến một lúc nào đó, chúng ta lại không nhàm chán Thiên Chúa ư?
    Nếu chúng ta tin vào Thiên Chúa và ao ước nhận biết Ngài thì chỉ có năng lực tiếp nhận của chúng ta mới có thể ngăn cản Thiên Chúa. Và cũng chính cách tiếp nhận độc nhất này, làm đẹp lòng Ngài. Lo sợ sự nhàm chán là điều rất thường tình trong bất cứ mối giao hảo tình tứ hay bằng hữu nào. Dẫu Đức Tin vững mạnh đến đâu, chúng ta không khỏi lỗi hẹn.
    Sự ao ước mộ mến Thiên Chúa, có thể biến mất. Điều đó, các nhà thần bí từng cảm nhận và gọi đó là “đêm tối”, là “sa mạc”. Lòng tràn ngập nghi ngờ, các Ngài có cảm giác như Thiên Chúa từ bỏ mình. Chỉ còn chút ánh sáng chập chờn của Đức Tin giúp các Ngài bền tâm đi tìm kiếm Thiên Chúa.
    Trong một cuộc sống càng ít hướng về Thiên Chúa, thói quen tìm Chúa càng bị đe dọa và sự ham thích cầu nguyện dần dà biến mất. Lúc ấy, chính Đức Tin giúp chúng ta nhẫn nại chờ đợi Thiên Chúa. Đức Tin mời gọi chúng ta khám phá Thiên Chúa, không phải mặt đối mặt như lúc diện kiến trong chiêm ngắm, mà phải nhờ qua một cuộc gặp gỡ, ngay giữa một hành động nào đó mà không ai ngờ trước được.
    Không, đừng nhàm chán Thiên Chúa. Hãy xem Chúa Giêsu làm các môn đệ bối rối như thế nào. Vậy nên tỉnh thức, sẵn sàng và cậy trông Thiên Chúa đánh động và vực dậy cuộc sống của chúng ta.
    5. Thưa cha, đang tuổi 18, con thấy để làm một cô gái ngoan đạo, không phải là điều dễ dàng gì, dù ngay trong trường học công giáo. Ví như trong lớp con, cả thảy 33 học sinh, mà chỉ có năm chúng con sống đạo! Làm sao mà không nản được?
    Mọi sự bắt đầu với Chúa Kitô, mười hai tông đồ và vài người phụ nữ: Và hiện bây giờ đây, có một tỉ năm trăm triệu Kitô-hữu trên khắp thế giới.
    Con số ít người sống đạo trong lớp cô, không được làm cô nản lòng. Đừng tự tách biệt mình khi sống đức tin. Cô hãy sống đạo, không những với bạn bè trong lớp của minh, mà còn với bạn bè bên ngoài, trong giáo xứ, trong đoàn thể hoặc trong phong trào giới trẻ.
    Cô hãy vun đáp tình thân với Chúa Kitô và giao phó cho Ngài niềm khát khao muốn nhìn thấy mọi người đón nhận tình yêu của Ngài.
    Mạnh dạn lên, Chúa Kitô và Giáo Hội đang cần nhờ đến cô đấy.
    6. Thưa Cha, thật khó mà sống đức tin tại nơi làm việc. Các bạn đồng nghiệp nói ra, nói vào về con. Con phải chọn thái độ nào cho thích hợp đây?
    Tình yêu Thiên Chúa được trao ban cho chúng ta không phải để chúng ta cất kỹ trong lòng, mà để chúng ta đem chia sẻ với mọi người anh em.
    Chúng ta được mời gọi trở nên nhân chứng của tình yêu Thiên Chúa, ngay tại khu phố, giữa bạn bè, trong câu lạc bộ thể dục, thể thao, hoặc ngay tại nơi chúng ta làm việc. Sứ mệnh này không phải là một cuộc mạo hiểm nhàn hạ và không cần hy sinh. Đó là một sứ mệnh đòi buộc chúng ta không ngừng suy tính cách thức phù hợp cho riêng mình để liều thân vì Chúa.
    Như bạn biết đấy, thật khó mà ứng xử trước sự chế giễu, trước những lời phê bình chể trích, hoặc sự thờ ơ của người đối thoại. Thái độ thích hợp nhất, là lòng chân thành. Không có kiểu cách định sẵn. Bạn nên sống Đức Tin của bạn một cách trung thực, trong khi vẫn tôn trọng những người không cùng niềm tin với bạn. Cũng nên đề phòng những cảm giác thất bại của mình. Thường thường thì chỉ cần đôi lời ngắn gọn, một vài cử chỉ kín đáo hằng ngày, chúng ta cũng có thể làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và cho sự khăng khít của niềm tin chúng ta.
    Thật ra, những phản ứng tiêu cực sẵn có của những người quen thuộc quanh ta không hẳn là một sự bác bỏ hoàn toàn, mà có thể biểu lộ một sự sợ sệt, lúng túng, một nỗi hoài nghi.
    Bạn hãy tiếp tục là một chứng nhân trung thực của Chúa Giêsu Kitô, không huênh hoang tự đắc, nhưng cũng đừng rụt rè, với sự vững tin vào tác động của Chúa Thánh Linh trên mọi giới hạn của chính bản than bạn.
    7. Khi còn nhỏ, con nhận được một nền giáo dục Kitô-giáo. Bây giờ, hai mươi tám tuổi, con không tin vào Thiên Chúa nữa. Làm cách nào để tìm lại đức tin?
    Ta không mất đức tin như mất địa chỉ của một người bạn. Còn hơn thế nữa, ta mất đức tin như mất đi một người bạn. Niềm tin vào Thiên Chúa không thâu tóm trong một mớ hiểu biết. Đức tin là một quan hệ cá nhân, giống như mọi liên hệ bằng hữu hay vợ chồng, cần được không ngừng nuôi dưỡng bởi những khoảng khắc gặp gỡ nhau. Đọc Sách Thánh, lãnh nhận các Bí Tích, cầu nguyện, đó chính là những cuộc gặp gỡ Thiên Chúa.
    Để vun đắp mối quan hệ này, người Kitô hữu không nên dựa vào sức riêng mình. Chính với cộng đoàn Kitô-giáo và nhờ qua các Bí Tích của Giáo Hội mà ta có thể sống một Đức Tin chân thật.
    Nếu bạn có thể gặp gỡ các tín hữu và đối thoại với họ, học sẽ cho bạn biết tầm quan trọng của sự chia sẻ, sự thông hiệp trong kinh nguyện và trong việc dấn thân hằng ngày. Họ cũng sẽ nói cho bạn về niềm vui mời gọi tham dự Thánh Thể, nơi gặp gỡ than mật với Thiên Chúa, nhờ qua Chúa Giêsu, Con Ngài. Bạn hỏi tôi ”Làm cách nào tìm lại đức tin?” Tôi xin thưa, bằng cách gặp gỡ Thiên Chúa. Nếu bạn mở rộng tâm hồn mình cho Tình yêu Thiên Chúa, bạn sẽ nhận được tình yêu Thiên Chúa, bạn sẽ nhận được tình yêu đó tràn trề.
    8 – Thưa cha, làm sao con có thể giải thích cho bạn con rằng, dù có Đức Tin mạnh, đôi khi con cũng nghi ngờ, và sự nghi ngờ này cho phép con vững tiến trong việc tìm kiếm Thiên Chúa không?
    Là Kitô hữu, không phải là yên vị trong mọi điều rõ ràng chắc chắn. Đó là liều thân cho tình yêu sung mãn mà Thiên Chúa dành cho mọi người. Vì vậy, chúng ta cần phải dám liều, dám chấp nhận để cho tình yêu Thiên Chúa biến hóa, chấp nhận mà không cần biết tình yêu ấy đưa ta đến đâu: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, người ta có thể lắng nghe thấy tiếng, nhưng chẳng biết nó từ đâu đến, cũng chẳng rõ nó sẽ đi về đâu” (Tin mừng Gioan, chương 3, câu ��.
    Tôi thấy chị suy nghĩ đúng về những nghi ngờ hiện hữu trong đức tin của chúng ta. Đúng vậy, những nghi ngờ đó cho phép chúng ta tiến tới, thúc đẩy chúng ta tiến lên trước để tìm được những lý lẽ cho đức tin. Chúng mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu Thiên Chúa bằng lòng tin. Chị có thể nói điều đó với bạn mình. Nên nhắc lại cho anh ấy nhớ rằng chính Chúa Kitô, là người như mọi người chúng ta, Chúa đã biết một cách tường tận nhất, tình yêu của Chúa Cha, đã phải van xin trên thập giá: “Cha ơi, sao Cha bỏ con?” Nhưng mà những lời cuối cùng của Ngài lại là những lời đầy tin tưởng: “Con giao phó linh hồn con trong tay Cha”.
    9 – Thưa Cha, đứa con gái mười lăm tuổi của chúng con nêu cả ngàn câu hỏi. Cháu đang tìm kiếm một tôn giáo. Con là người công giáo, nhưng không giữ đạo, còn chồng con thì vô thần. Chúng con muốn để cháu chọn lựa. Vì cháu chẳng có được nền giáo dục đào tạo, nên chúng con hướng cháu vào các hoạt động nhân đạo, nhằm giúp cháu bù lấp khoảng trống vắng và tạo cho đời cháu một ý nghĩa, nhưng cháu vẫn thấy lạc lõng làm sao ấy.
    Có rất nhiều phụ huynh ở vào hoàn cảnh như chị. Trong khi thực lòng tưởng mình tôn trọng sự tự do của con cái, nhiều vị kiêng dè không nói với chúng về Thiên Chúa, mà lại truyền đạt cho chúng những giá trị nhân bản như tình liên đới chẳng hạn. Có phải chị cũng suy nghĩ như vậy không, bởi vì chị cũng gợi ý cho cháu hướng về những hoạt động nhân đạo nhằm tạo cho cuộc đời cháu một ý nghĩa?
    Trước hết, chị hãy vui mừng vì cháu biết tìm hiểu. Cháu đang tập sống tự do đấy. Chị có thể trợ giúp cháu, hướng cháu đến Văn phòng tuyên úy của trường học, hoặc đến một cộng đoàn giới trẻ đang sống đức tin và đang tìm kiếm Thiên Chúa. Chắc chắn cháu sẽ gặp nhiều thanh thiếu niên đang khao khát cuộc sống thiêng liêng. Cha tuyên úy sẽ có những từ ngữ thích hợp để trao đổi, động viên cháu tìm tòi suy nghĩ.
    Phần chị, xin chị đừng tránh khéo những câu hỏi của cháu. Biết đâu đó không là một cơ may để khơi dậy đức tin của chị. Chị nên trao đổi với quý phụ huynh khác, xem họ xử trí cách nào và tham vấn các nhà sư phạm Kitô-giáo mà chị có thể gặp. Lứa tuổi thanh thiếu niên là một thời điểm tế nhị, không những cho phụ huynh, mà cho bản thân các bạn trẻ nữa. Chị nên sống qua thời kỳ này của con chị một cách bình tĩnh như một thực nghiệm suy tư của bản thân.
    10 – Thưa Cha, đức tin của người Kitô hữu và đức tin của người theo Chính Thống giáo. khác nhau ở chỗ nào?
    Sau Công Đồng Chalcédoine (năm 451) và sau những vạ tuyệt thông (năm 1054), thống nhất của của Giáo Hội bị tan vỡ, một bên là các Kitô hữu liên kết với các thượng phụ thành Constantinople (nay là Istanbul) và một bên là các Kitô-hữu liên kết với Đức Giám mục Roma, cũng là vị kế nhiệm Thánh Phêrô: Đức Giáo Hoàng.
    Những trở ngại từng gây ra sự đoạn tuyệt nầy đã được khắc phục đến độ ngày 07 tháng 12 năm 1965, vào lúc bế mạc Công Đồng Vatican II, Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athénagoras đã long trọng tuyên bố, cùng lúc tại Roma và tại Istabul, “hối tiếc và xóa bỏ khỏi trí nhớ và khỏi Giáo Hội những vạ tuyệt thông thủa nào và đưa chúng vào quên lãng”.
    Một ủy ban hỗn hợp Chính Thống và Công Giáo được hình thành sau Công Đồng. Ủy ban đã công bố ba văn kiện về đức tin được nêu trong cùng một kinh Tin Kính của Công Đồng Nicée – Constantinople.
    Theo dòng lịch sử, những vấn đề gây chia sẽ là:
    - Việc các nghị phụ Latinh thêm từ ngữ FILIOQUE (Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha VÀ CHÚA CON mà ra) vào Kinh Tin Kính của Công Đồng Constantinople hồi thế kỷ IV,
    - Việc xác nhận có luyện ngục vào thời Trung Cổ,
    - Việc Đức Thánh Cha xác định tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, năm 1854, và tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, năm 1950.
    - Việc Công Đồng Vatican I (năm 1870) minh định quyền tối thượng và bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng. Ngày nay, điềm sau cùng vẫn còn là mục tiêu của nhiều cuộc nghiên cứu và đố thoại đại kết.
    - Điều hiện nay còn làm cho cả đôi bên ngăn cách nhau, tùy thuộc nhiều vào các yếu tố văn hóa, chứ không phải là thần học, hoặc các yếu tố có liên quan đến những biến cố xã hội chính trị. Bất chấp những biến động mới đây ở Nga, ở Ukraine, ở Roumanie hay ở Nam Tư, tất cả mọi Kitô- hữu trên thế giới đều quyết tâm cùng nhau mưu tìm sự thống nhất hữu hình của Giáo Hội như chính Chúa Giêsu mong muốn.
    11 – Thưa Cha, người ta có thể là người công giáo sống đạo mà vẫn tin vào số tử vi không?
    Theo đức tin công giáo, tin vào Thiên Chúa, đó là nhận thấy mở ra trước mắt mình cánh đồng bao la của sự tự do. Chúa Giêsu Kitô, là người và là Thiên Chúa, đã đến khai mào một nhân loại mới, có khả năng tự chọn con đường mình đi.
    Chúa Giêsu bảo người bất toại: “Con hãy vác chõng mà đi”. Các sách Tin Mừng đều nói đến sự giải thoát này, kẻ bất toại được đi lại bình thường bởi anh tin việc Thiên Chúa làm cho anh.
    Mỗi một tín hữu được mời gọi nắm lấy đời mình, nhận trách nhiệm về mọi hành vì của mình và chọn lựa điều hay, lẽ phải. Mỗi một tín hữu tự vấn lương tâm, tham khảo ý kiến và cầu xin Thiên Chúa tự trong thâm sâu linh hồn mình. Không có gì được định sẵn cho con người: dòng đời từ từ hình thành, tùy theo ước muốn của chính mình, tùy theo các biến cố, dưới tầm nhìn chăm chú trân trọng của Thiên Chúa.
    Tin vào số tử vi, đó là tin vào sao chiếu mệnh tốt của mình, đó là vô tình hay hữu ý, nghĩ rằng mọi sự đã được định sẵn trên trời và vô số thể lực siêu vượt tác động trên chúng ta. Thuật chiêm tinh nhận biết, đôi khi cũng đúng, mỗi tương quan giữa con người và vụ trụ, nhưng chưa có trường hợp nào thuật chiêm tinh có thể tự hào biết được một tương lai định trước.
    Tất cả điều gì khả dĩ tạo thành một trở ngại hay một bức ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người, thì không thể dung hòa được với tình thân mật giữa Thiên Chúa và con người.
    Tin vào số tử vi thì không thể đi đôi với cuộc sống mà ta ao ước nối gót theo chân Chúa Giêsu.
    (còn tiếp)
    (Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang trình bày và giới thiệu)
     
    -----------------------------------------
     

     
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - SỨ MẠNH CỦA ĐỨC TIN

  •  
    Chi Tran
     
     
     
     


    SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN

     

    Đức tin giúp con người có thể đứng vững trước cơn gian nan thử thách. Thử thách thì thời nào cũng có. Thử thách có thể đến từ bên trong và đến từ bên ngoài. 

     

    Các bạn thân mến!

    Có một câu chuyện kể rằng: Ở làng quê nọ, trời đã hạn hán trong khoảng thời gian rất lâu. Các cánh đồng đều khô hạn, cỏ cây héo úa cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn. Hàng tháng đã trôi qua và mọi người dường như đã mất hết kiên nhẫn. Nhiều gia đình đã rời khỏi làng, còn những gia đình khác chỉ còn biết chờ đợi trong tuyệt vọng. Cuối cùng ông trưởng làng quyết định tổ chức một buổi cầu nguyện tập thể trên ngọn đồi cao nhất vùng. Ông thuyết phục tất cả mọi người trong làng đến dự và mỗi người phải mang theo một vật thể hiện lòng tin của mình.

     

    Chiều thứ Bảy, những người dân làng với vẻ mặt mệt mỏi tập trung trên ngọn đồi và đều không quên mang theo những đồ vật thể hiện lòng tin. Có người mang theo một cái móng ngựa may mắn, có người mang theo chiếc mũ bảo vật của gia đình… Mặc dù chẳng ai tin chúng có thể thay đổi điều gì nhưng họ cũng đã mang theo rất nhiều thứ quý giá. Tất cả những người tham dự bắt đầu cầu nguyện và giơ cao những vật tượng trưng cho niềm tin. Như thể có phép màu, mây đen kéo tới và trời đổ mưa – những giọt mưa đầu tiên sau bao tháng trời khô hạn. Mọi người đều hân hoan vui sướng và ngay lập tức nổ ra một cuộc tranh cãi xem đồ vật nào đã mang lại may mắn cho ngôi làng. Ai cũng cho rằng đồ vật của mình là linh thiêng nhất. Bỗng người ta nghe thấy tiếng một em bé gái reo lên:

    – Con đã biết thế nào trời cũng đổ mưa mà. Mẹ thấy không, con mang theo chiếc ô này, bây giờ thì mẹ con mình về nhà mà không bị ướt!

     

    Em bé giơ cao chiếc ô và cùng mẹ đi về nhà trong niềm hân hoan. Những người còn lại nhìn theo và hiểu rằng chính em bé mới là người có niềm tin lớn nhất. Niềm tin ấy đã mang mưa đến.

     

    Như thế, Niềm tin là động lực quan trọng giúp chúng ta thành công trong cuộc sống: Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng, là sức mạnh mang mưa về tưới mát cho những vùng đất đang mùa khô hạn. [1] Niềm tin nối kết những lục địa xa xăm, những bến bờ xa cách, những tâm hồn xa lạ, những trái tim băng giá. Niềm tin xét trên bình diện tự nhiên đã thế huống hồ trên bình diện siêu nhiên. Đức tin giúp con người có khả năng làm những điều phi thường.  

      

    Đức tin giúp con người có thể đứng vững trước cơn gian nan thử thách

    Thử thách thì thời nào cũng có. Thử thách có thể đến từ bên trong và đến từ bên ngoài. Tuy nhiên dù là thử thách bên trong hay bên ngoài thì nó cũng tác động đến cách mà các bạn sống tương quan với Chúa. Nhất là khi con người đối diện với sự dữ thì thử thách này càng gian nan hơn. Tiên tri Khabacúc cảm thấy Thiên Chúa vắng mặt trước sự dữ hoành hành. Thiên Chúa làm ngơ trước nỗi bất công của con người phải gánh chịu. “Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.”

     

    Người không có niềm tin khi gặp thử thách sẽ bị ngã gục, người có niềm tin sẽ đứng vững. Chính niềm tin sẽ giúp người công chính đứng vững trước cơn thử thách. Dù có công lý nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng, đó là một sự vô lý nhưng sự vô lý đó có thể được lý giải nếu có đức tin.   

     

    Đức tin giúp khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa

     Đặc sủng đó giúp người môn đệ trở nên can đảm, sống bác ái, tiết độ để gìn giữ kho tàng tốt đẹp và dấn thân vì Tin Mừng. “Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.” Thánh Phaolô trong thư gửi cho anh Timôthê quả quyết, chúng ta không được ban cho thần khí làm cho chúng ta trở nên nhát sợ nhưng là thần khí can đảm. Điều này chỉ có được khi bạn và tôi xác tín vào giá trị Tin Mừng mà bạn đang theo đuổi.

     

    Bạn và tôi hay than phiền về công việc truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam trong hơn 50 năm qua tỉ lệ phân trăm người Công giáo không thay đổi. Tuy nhiên nếu đặt mình trong tâm tình của thánh Phaolô thì bạn và tôi có thể thấy được phần nào nguyên nhân của việc này. Đó chính là “sự hổ thẹn” làm chứng cho Chúa và thiếu bầu khí thánh thiêng. Thánh Phaolô khuyên Timôthê: “con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.” Là thành phần nhỏ bé so với tỉ lệ dân số của cả nước, cho nên Kitô hữu vẫn làn thành phần thiểu số. Phần vì tôn giáo là đạo tại tâm.” Cộng với tâm lý bị cái nhìn chi phối thành ra người Kitô hữu cũng ngại bày tỏ đức tin của mình nơi công cộng.

     

    Cũng có thể là vì sau Công Đồng Vaticanô II phong trào đối thoại liên tôn được nhấn mạnh, cộng với sự tự do cá nhân và ý thức về quyền nâng cao cho nên việc dấn thân quyết liệt cho công cuộc truyền giáo và mời người khác gia nhập đạo Kitô giáo cũng có vẻ không được nhấn mạnh và mang tính quyết liệt như thời thánh Phao-lô và thánh Phan-xi-cô Xavie. Có thể vào thời đó, những quan niệm thần học có khác như không rửa tội thì sa hoảng ngục. Điểm tích cực ở thời này là “lửa” nhiệt thành cho công cuộc truyền giáo, còn ở thời đại mới này mặt tích cực đó là sự tôn trọng lương tâm và tự do cá nhân. Tuy nhiên nó cũng có thể tạo ra lối suy nghĩ về “tính tương đối” của chân lý Kitô giáo. Chân lý Kitô giáo là một trong những chân lý bên cạnh những chân lý khác và việc thiếu “lửa” và tính quyết liệt dấn thân cho việc truyền giáo. Nói như cách nói của thánh Phao-lô, những điều trên tạo nên sự hổ thẹn của người môn đệ khi làm chứng cho Chúa. Sự hổ thẹn vì không xác tín vào chân lý mình đang tin nhận. Chính vì thế chỉ có niềm tin mới mang lại sức mạnh phi thường.

     

    Đức tin giúp người môn đệ thực hiện những việc phi thường

    Sức mạnh phi thường như Chúa Giêsu nói đó là có thể bứng cả cây dâu ra biển hay có thể dời núi, lấp bể. Sức mạnh phi thường của niềm tin không chỉ trừ được sự dữ nhưng còn giúp cho người môn đệ nhận ra bản chất thật của mình, từ bỏ chính con người của mình và trung thành tin tưởng phó thác vào Chúa. Niềm tin đảo lộn tương quan chủ tớ của Thiên Chúa và con người. Và giúp con người ý thức hơn về thân phận của chính mình.

     

    Sự trung thành với mệnh lệnh của chủ làm đảo lộn tương quan giữa chủ tớ. Ông chủ trở thành người phục vụ và ban phần thường cho người đầy tớ trung tín. “Mau lên, Hãy vào bàn dùng bữa.” Sự trung tín với ông chủ và sự trung thành với sứ mạng được giao là điều phải làm đối với người đầy tớ vô dụng.” “Khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm’” Người đầy tớ trung thành không làm vì được trả công nhưng làm vì tin rằng mình chỉ là người đầy tớ vô dụng làm những gì cần phải làm với sự tin tưởng của người chủ.

     

    Sức mạnh của niềm tin thay đổi cách bạn và tôi nhìn về thực tại, nhìn về chính mình và chính Chúa. Bạn và tôi chỉ là những người đầy tớ vô dụng chỉ làm những gì phải làm cho vinh quang Nước Trời. Thiên Chúa công bằng sẽ trả công xứng đáng cho người đầy tớ trung tín còn nhiệm vụ của người đầy tớ trung tín là cần làm những gì phải làm. 
    Gioan Phạm Duy Anh SJ
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - CHUYỆN XẢY RA KHI CHÚA...

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     
     


     

    Chuyện xảy ra khi Chúa Giêsu chỉ cho thánh nữ Têrêsa Avila cách cứu một linh hồn khỏi luyện ngục

     
    Thánh nữ Têrêsa Avila, Tiến sỹ Hội thánh là một vị thánh huyền thoại, có vô số tích truyện về lòng đạo và đức tin của ngài. Đây là một trong số những tích truyện đó!

    Truyện kể rằng, Bernardino de Mendoza, là một chàng trai trẻ người Tây Ban Nha, đang phục vụ trong hải quân, đã dâng cho thánh Têrêsa một mảnh đất, để ngài xây dựng một đan viện dòng Cát Minh trên đó.

    Đáng tiếc, chàng trai trẻ Bernardino đã qua đời vì những vết thương trong Trận Saint Quentin năm 1557, trước khi được nhìn thấy đan viện hoàn tất.

    Sau cái chết của Bernardino, thánh nữ Têrêsa Avila được gặp Chúa Kitô trong một thị kiến. Và Chúa cho thánh nữ biết, linh hồn của Bernardino sẽ còn bị giam trong luyện ngục, cho đến khi đan viện được hoàn thành!

    Thánh nhân đã hớt hải chạy ra công trường và bảo các công nhân xây dựng ở đó, hãy mau chóng cho dựng lên các bức tường đan viện, thế nhưng như vậy cũng khá mất thời gian. Thế là thay vào đó, thánh nữ xin và được phép của giám mục sở tại, ngài đã cho dựng lên một ngôi nhà nguyện tạm bợ.

    Khi Thánh lễ được cử hành trong ngôi nhà nguyện tạm bợ đó, khi rước lễ, thánh Têrêsa có một thị kiến, ngài thấy Bernardino hiện ra để cám ơn thánh nữ, trước khi bước vào Thiên Quốc.

    Một bức tranh thờ khổ lớn, được vẽ khoảng từ năm 1630-33, cho Thánh đường của các Nữ tu Cát Minh Khổ hạnh tại Antwerp (Đức quốc), mô tả lại cảnh thánh nữ Têrêsa chuyển cầu, khẩn nài cùng Chúa cho Bernardino. Bernardino được vẽ ở phần bên dưới, góc trái của bức tranh.

    Quả là một câu chuyện thú vị!
    yeuchua. 
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - CĂM HẬN ĐẾN THA THỨ

  •  
    Chi Tran

     
     
     


    Danh Ngôn Các Thánh
    CĂM HẬN đến THỨ THA
     
    Cách đây không lâu, toàn thế giới đã ngỡ ngàng trước sự kiện Đức Gioan Phaolô II đến xà lim nhà tù để thăm gặp và tha thứ cho Agca, kẻ đã giết hụt ngài. Nếu là người khác, có lẽ họ đã tỏ thái độ căm hận đối với tên sát nhân muốn sát hại mình vì những ý đồ chính trị, còn Đức Gioan Phaolô II, ngài đã vào tận Thánh Tâm Chúa Kitô để tìm được lòng cảm thương đối với kẻ sát nhân. Ngài không hề nuôi lòng cay đắng hoặc căm hờn.
    Chúa Giêsu đã phán dạy: “Các con hãy tha thứ bảy mươi lần bảy lần” (Mt 18:22). Đối với một số tín hữu, đây là điều khó thực hiện nhất trong tất cả những giáo huấn của Chúa Giêsu, bởi vì họ tích giữ sự căm hờn như một kho báu bằng vàng! Nhiều nhà tâm lý tôn giáo học hiện đại xác nhận tình trạng thiếu khoan dung là nguyên nhân chính sinh ra rất nhiều bệnh tật thể lý và thần kinh. Các thánh cũng như Đức Gioan Phaolô II đã không nuôi lòng căm hận, nhưng luôn mau mắn tha thứ.
    * Sự lăng mạ bị giữ lại hoặc được bỏ qua không phải bởi tâm hồn của những kẻ lăng mạ, nhưng là tâm hồn của các nạn nhân. (Thánh Gioan Kim khẩu)
    * Không ai có thể tự chữa lành cho bản thân bằng cách đả thương người khác. (Thánh Ambrose)
    * Anh em hãy gớm ghét tội lỗi, nhưng hãy yêu thương tội nhân. (Thánh Augustine)
    * Những gì anh em làm để báo thù kẻ đã gây bất công với anh em sẽ làm khốn khổ anh em trong giờ cầu nguyện. (Thánh Nilus Sinai)
    * Anh em ôn lại các lỗi phạm của người khác trong khi lại quên mất những lỗi phạm của chính mình.
    Khi có người xúc phạm đến anh em:
    Anh em đừng chiều theo lòng căm hận kẻo nông nổi gây hại điều gì, nhất là cho người đã bị rối trí vì những ý tưởng do quỉ hờn ghen xui xiểm…. Họ đáng được thương hại và cảm thông hơn là đáng bị tức giận và báo thù…. Vậy chúng ta hãy khoan dung với người chung quanh trong cơn suy sụp thể lý và tinh thần của họ…. Với trọn vẹn tâm hồn, anh em hãy cầu nguyện và yêu thương họ trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. (Thánh Barsanuphius)
    * Trong tình yêu Chúa Kitô, anh em hãy cầu nguyện cho kẻ thù; hãy làm hòa với đối thủ trước khi mặt trời lặn. (Thánh Benedict)
    * Về một phụ nữ căm ghét thánh nữ:
    Lạy Chúa, phải chăng vì mục đích này mà cái tôi khốn cùng của con đã được hiện hữu trong thế gian: để rồi vì con mà những linh hồn đã được tạo dựng theo hình ảnh Chúa phải bị đọa phạt trong lửa muôn đời? Lẽ nào thánh ý Chúa lại để con, một người có trách nhiệm phải giúp đỡ người chị em của con được cứu rỗi đời đời, thì lại trở nên căn cớ khiến chị ấy bị đọa phạt muôn kiếp?… Con sẽ không bao giờ ngơi nghỉ kêu van lòng nhân lành vô biên của Chúa cho đến khi… người chị em ấy của con được cứu thoát khỏi lửa muôn đời. (Thánh Catherine Siena)
    * Người nào biết mở lòng để yêu thương và cầu nguyện cho những ai xúc phạm, xỉ nhục và làm hại mình, người ấy sẽ đạt được những thành tựu rất to lớn chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. (Thánh Simeon thần học gia mới)
    * Bạn hữu của chúng ta là tất cả những ai làm cho chúng ta phải khốn khổ vì những gian truân, thử thách, nhục nhã, oan ức, buồn phiền, cay cực, tử đạo và chết một cách bất công; chúng ta phải hết lòng yêu thương họ, bởi vì nhờ họ mà tất cả chúng ta đạt được cuộc sống muôn đời. (Thánh Francis Assisi)
    * Tình yêu Chúa Kitô dành cho chúng ta không bị chấm dứt vì tội lỗi của chúng ta thế nào, thì Chúa Kitô muốn tình yêu chúng ta dành cho bản thân và dành cho anh chị em đồng đạo của chúng ta cũng không bị chấm dứt như vậy. Đúng hơn, Chúa muốn chúng ta gớm ghét tội lỗi và không ngừng yêu thương linh hồn như Thiên Chúa đã yêu thương vậy. (Chân phúc Julian Norwich)
    * Anh em vẫn chưa hoàn toàn chết hẳn cho bản thân cũng như chưa thể ngủ ngon giấc cho đến khi nào anh em tìm đến với người gây khổ cho anh em để xoa dịu con tim nóng giận của họ bằng những lời lẽ và những thái độ hết sức ngọt ngào; bởi vì nhờ sự khiêm tốn hiền lành như thế, anh em sẽ tước hết gươm đao của họ, làm cho họ trở nên bất lực trong ý chí bệnh hoạn của họ. (Chân phúc Henry Suso)
    * Anh em hãy tha thứ cho nhau để sau này không còn nhớ đến sự tổn thương nữa. Việc khơi lại một tổn thương như thế tự nó là một điều sai trái. Nó làm tăng thêm cơn giận, dung dưỡng tội lỗi và ghét bỏ những điều tốt lành. Nó là một mũi tên rỉ sét và làm độc cho linh hồn. Nó xua đuổi tất cả nhân đức. (Thánh Francis de Paola)
    * Chúng ta hãy yêu mến và cảm thương những người chống đối chúng ta, bởi vì họ tự làm hại bản thân nhưng lại thi ân cho chúng ta, đội lên đầu chúng ta những triều thiên vinh quang muôn đời. (Thánh Anthony Zaccaria)
    * Anh càng mau tha thứ, con anh càng sớm bình phục. Anh là người đem lại cho con anh sức khỏe tâm hồn và thân xác. Anh hãy nói chuyện lại với người con của anh đi. (Thánh Catherine dei Ricci)
    * Nếu Thiên Chúa muốn, tôi sẽ cam chịu mười lần hơn nữa những gì ông đã mặc sức làm khốn khổ tôi. Tôi tha thứ cho ông và cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho ông, cũng như tôi sẽ được Người tha thứ vậy. (Chân phúc Thomas Woodhouse)
    * Bị những người tốt lành, các bạn hữu và thân quyến chỉ trích, lên án và khinh bỉ là một cuộc thử thách rất khắc nghiệt. Tôi thán phục đức nhẫn nhục của thánh Charles Borromeo khi ngài chấp nhận những lời công khai chỉ trích từ một vị giảng giả thời danh và nhân đức nhiệm nhặt hơn là sự nhẫn nhục của ngài trước tất cả các cuộc tấn công từ những người khác. (Thánh Francis de Sales)
    * Quả thật các binh lính có bảo vệ và hộ tống các nhà truyền giáo; nhưng dù vậy đi nữa, trong trường hợp các thổ dân da đỏ giết hại một nhà truyền giáo, thì chúng tôi sẽ được gì nếu mở một chiến dịch quân sự để báo thù? Phía quân đội trả lời cho tôi rằng: “Chúng tôi sẽ giáng cho chúng một hình phạt đích đáng để chúng không dám giết hại các vị khác nữa.” Tôi trả lời rằng: “Xin cứ để cho kẻ sát nhân sống để anh ta có thể được cứu độ.” Đó là mục đích của chúng tôi ở đây…. Sau một hình phạt khoan dung nào đó, nên cho kẻ sát nhân biết rằng anh ta được tha thứ; và như vậy, chúng ta sẽ làm trọn luật Kitô Giáo truyền chúng ta phải bỏ qua sự tổn thương, cầu xin ơn cứu độ muôn đời cho kẻ sát nhân chứ không phải muốn anh ta phải chết. (Chân phúc Junipero Serra)
    * Các thánh không hề ghen ghét, chẳng hề đắng cay. Các ngài tha thứ tất cả. (Thánh Gioan Vianney)
    * Về người thanh niên muốn cưỡng hiếp và đã đâm thánh nữ mười bốn nhát khi thánh nữ kiên quyết không chiều theo ý xấu của anh ta:
    Tôi tha thứ cho Alessandero. Tận đáy lòng, tôi tha thứ cho anh ấy và muốn anh ấy được cùng ở với tôi trên thiên đàng. (Thánh Maria Goretti)
    Chuyển ngữ: Matthias M. Ngọc Đính, CMC dongten