13. Tìm Gặp Chúa Thật Nhanh

TÌM GẶP CHÚA THẬT NHANH - BỊ ĐAU KHỔ

  •  
    Chi Tran

    Bài gẫm 53 : ĐAU KHỔ VÌ NHỮNG HÀNH -ĐỘNG QUÁ THẤP HÈN

    Thánh Thô-ma nói rằng, nguồn đau khổ chính của kẻ dữ, là thấy mình bị sa hỏa-ngục, vì những hành-động quá thấp hèn, đáng lẽ họ có thể được hưởng cảnh hoan-lạc trên thiên-đàng cách dể dàng. Thứ đến, lương tâm họ cắn rứt, vì họ biết rằng họ đáng được cứu-rỗi, nếu họ chỉ cần cố gắng phần nào mà thôi.

    Một linh hồn trong hỏa-ngục đã hiện ra với Thánh Humbert và thú nhận rằng: “Nếu trước kia tôi không chạy theo chức-quyền danh-vọng trần gian, thì bây giờ tôi không phải hư mất đời đời. Nếu khi còn sống ở trần gian, tôi chịu đi xưng tội, đọc sách thiêng-liêng, biết phó dâng cho Chúa, cho Mẹ, tôi đã không sa ngã phạm tội. Trước kia đã bao phen tôi quyết-chí sửa mình lại, nhưng tôi lại thối chí không thi hành; có khi tôi thi hành một vài lần, nhưng sau đó lại biếng nhác bỏ đi, nên tôi phải trầm-luân như bây giờ.”

    Họ bị dày vò thêm khi nghĩ đến các gương lành của bạn bè, lời khuyên bảo của những thân nhân, những nén bạc Chúa cho để làm sinh lợi, nào là sức khỏe, tiền của, tài-năng, mà họ chẳng những không dùng để thờ-phượng Chúa, giúp ích cho anh chị em, trái lại đã dùng những tài năng đó phản nghịch với Chúa. Kẻ dữ thất vọng chán chường vì biết rằng giờ thứ tha đã qua, đời đời không bao giờ có nữa, nên họ kêu van trong thất vọng:

    “Mùa gặt đã qua, mùa hè đã vãn, nhưng chúng tôi chẳng được cứu-thoá. (Giê-rê-mi-a 8 : 20)

    Họ tự than trách: “Nếu chúng tôi đã dùng thì giờ để làm việc lành thay vì các việc tội lỗi thì chúng tôi đã trở thành các vị Thánh!” 

    Bây giờ không còn gì nữa, ngoài những dày-vò, đau-khổ đời đời! Than ôi, những ý nghĩ đó dày-vò làm khốn các tội-nhân hơn là các hình khổ trong hỏa-ngục.

    LỜI NGUYỆN CẬY TRÔNG

    Lạy Chúa Giêsu, sao Chúa lại chịu đựng con lâu đến thế? Con hằng quay lưng lại cho Chúa, nhưng Chúa vẫn không ngừng tìm kiếm con. Con hằng xúc-phạm đến Chúa và Chúa hằng tha thứ cho con!

     Xin Chúa cho con cảm-nhận được phần nào nỗi lo buồn của Chúa trong vườn Giệt vì tội lỗi con, Chúa lo buồn đến nỗi mồ hôi máu thoát ra!

    Lạy Chúa, con thống-hối ăn-năn vì các tội-lỗi con đã phạm. Ôi các thú vui đê-hèn đáng nguyền-rủa biết bao, vì chúng là căn-nguyên làm mất hồng-ân của Chúa.

    Lạy Chúa Giêsu đáng mến vô cùng, con thà chết trăm ngàn lần chẳng thà phạm một tội trọng. Trên thánh-giá Chúa đã yêu con vô vàn, nên đã dâng hiến mạng sống Chúa để cứu-chuộc con.

    Xin Chúa chiếu ánh sáng Chúa trên con và ban cho con sức mạnh để con chống trả với các chước cám-dỗ.

    Lạy Mẹ Maria, Mẹ là nguồn cậy trông của con, Mẹ rất quyền thế trước Toà Chúa, xin Mẹ bầu-cử với Chúa cho con đức nhẫn-nại, và ban cho con các ơn lành, để con đừng bao giờ xa rời tình yêu của Chúa!

     (Thánh An-Phong Ligouri do Phêrô Bùi Đắc Hữu chuyển ngữ)
     
    -------------------------------------------

TÌM GẶP CHÚA THẬT NHANH - NÚI LỬA PHUN TRÀO

  •  
    Hoc Pham CHUYỂN

    Điều gì xảy ra nếu núi lửa Yellowstone phun trào?

    Hương Thảo | DKN 11/04/2022 520 lượt xem
     
    Tại sao có núi lửa trên Trái Đất? Trong lịch sử có những vụ phun trào núi lửa phun trào suýt xóa sổ loài người? Loại dị động nào mà siêu núi lửa Yellowstone cảnh báo trong những năm gần đây? Kỷ băng hà mới còn cách bao xa? (Được cung cấp bởi Bí ẩn chưa được giải đáp)
     

    Một lượng khổng lồ các khí dung keo sulfur sẽ bao phủ thế giới trong vòng hai tuần, khiến nhiệt độ trung bình toàn cầu giảm 12 ─15 ℃, sự tích tụ tuyết liên tục trong 2-3 năm phụ cận đường xích đạo. Hầu hết con người, động thực vật đều chết vì lạnh và đói…

    Xin chào quý vị, chào mừng quý vị đến với Bí ẩn chưa được giải đáp cùng chúng tôi!

    Vận động địa chất của Trái Đất đã trở nên khá mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt, ngày 15/1/2022, vụ phun trào của một ngọn núi lửa ngầm ở Tonga, một quốc đảo ở Nam Thái Bình Dương đã khiến cả thế giới phải chứng kiến ​​uy lực siêu cường của núi lửa phun trào. NASA cho biết nó có sức công phá tương đương 650 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima. Núi lửa Tonga không chỉ tạo ra đám mây hình nấm khổng lồ trên bầu trời mà còn gây ra sóng thần ở Thái Bình Dương.

     

    Trên thực tế, trong những năm gần đây, các phương tiện truyền thông đã đưa tin rằng núi lửa Phú Sĩ ở Nhật Bản và siêu núi lửa Yellowstone ở Hoa Kỳ đã xuất hiện tình huống dị động, chúng tựa hồ như đang ấp ủ một vụ phun trào đáng sợ. Liệu những ngọn núi lửa này có phun trào? Hậu quả sẽ là gì? Hôm nay, chúng ta sẽ cùng các bạn thảo luận về chủ đề núi lửa.

    Dưới bề mặt vỏ Trái Đất có gì?

    Trước khi nói về nguồn gốc của núi lửa, chúng ta cần lý giải kết cấu của Địa Cầu. Chiểu theo nhận thức của khoa học hiện đại, Địa Cầu chủ yếu được chia thành nhiều tầng, ngoài cùng là lớp vỏ, phần lục địa và đại dương mà chúng ta biết đều nằm trên đó. Lớp vỏ đó không phải là một lớp da hoàn chỉnh liền mạch, mà do rất nhiều bản khối tạo thành, chẳng hạn như: bản khối Á-Âu, bản khối Bắc Mỹ, bản khối Thái Bình Dương v.v. và các bản khối lớn khác, còn có nhiều bản khối nhỏ và siêu nhỏ. Giữa những bản khối này luôn phát sinh vận động, tiếp cận lẫn nhau hoặc dịch chuyển ra xa nhau.

    Các lớp vỏ Trái Đất, trong một bản vẽ. (Ảnh: Wiki)

    Lớp bên dưới lớp vỏ được gọi là tầng địa mạn. Tầng địa mạn phần trên thì chủ yếu là đá, xuống dưới một chút, thì có một tầng nhuyễn lưu, trong đó có dung nham nóng chảy, do càng gần địa tâm thì nhiệt độ càng cao, đá bị nóng chảy hóa thành trạng thái dịch nhuyễn. Mà dưới tầng nhuyễn lưu lại có đá rắn, vì dù nhiệt độ càng gần tâm Trái Đất càng cao, nhưng do áp lực cũng càng ngày càng lớn, khiến đá liền hóa rắn.

    Xa hơn nữa chính là lõi Trái Đất (địa hạch). Nhân loại thông qua quá trình truyền tống sóng địa chấn, suy trắc rằng lõi bên ngoài là trạng thái nóng chảy, và thành phần chính là sắt, niken và các kim loại khác, nó khiến Địa Cầu có từ trường bảo vệ sinh vật trên bề mặt. Lõi bên trong được suy trắc rất có thể là sắt ở trạng thái đặc.

    Nhận thức này về Địa Cầu đến từ vật lý học, địa chấn học và một số bằng chứng do thiên thạch cung cấp, cũng như suy luận dựa trên những cơ sở này, kết cấu chân thực của Địa Cầu chưa từng ai nhìn thấy, vì nhân loại hiện chưa có hành động khoan thám Địa Cầu, ngay cả lớp vỏ đều chưa khoan thấu. Cũng có người nói Địa Cầu kỳ thực là rỗng tâm, đây là một truyền thuyết hay là chân tướng uẩn tàng? Chúng ta sẽ tìm cơ hội để nói về chủ đề này với quý vị trong tương lai.

     

    Núi lửa hình thành như thế nào?

    Vậy hệ thống khoa học hiện tại giải thích cách núi lửa hình thành như thế nào? Các nhà khoa học cho biết, nguyên nhân dẫn đến việc hình thành núi lửa có nhiều loại.

    Mặt cắt một núi lửa dạng tầng (không theo tỉ lệ): 1-Lò magma; 2-Móng; 3-Ống dẫn; 4-Chân núi; 5-Mạch trần (tiếng Anh: sill); 6- Mạch tường (tiếng Anh: dyke); 7-Lớp tro; 8-Sườn núi; 9-Lớp dung nham; 10-Họng núi lửa; 11-Nón “ký sinh”; 12-Dòng dung nham; 13-Lỗ thoát; 14-Miệng núi lửa; 15-Đám mây tro.

    Loại nguyên nhân thứ nhất, là các bản khối di chuyển ra xa nhau, phần vỏ biến mỏng dần, và dung nham phun ra từ phần yếu mỏng này mà hình thành núi lửa, ví dụ điển hình là những núi lửa hình thành dưới lòng đại dương, được gọi là “trung dương tích” (khe nứt trong đại dương). Iceland, một trong năm quốc gia Bắc Âu, kỳ thực là một hòn đảo núi lửa được hình thành do sự tích tụ của vật chất trên lớp vỏ tràn ra từ khe nứt giữa Đại Tây Dương. Vẫn còn rất nhiều núi lửa đang hoạt động trên bề mặt Iceland, và chúng thỉnh thoảng lại phun trào theo thời gian để mang lại cảm giác về sự tồn tại. Ngoài ra, tài nguyên địa nhiệt của Iceland cũng vô cùng phong phú, suối nước nóng cũng khá nổi tiếng, nếu có cơ hội mọi người có thể trải nghiệm.

    Nguyên nhân hình thành núi lửa thứ hai là do sự vận động ngược chiều giữa bản khối đại dương và bản khối lục địa. Nói chung, bản khối đại dương có địa thế thấp hơn bản khối lục địa, vì vậy bản khối đại dương bị đâm chìm vào bản khối lục địa. Đá trong bản khối đại dương bị dung nham bên dưới bản khối lục địa nấu chảy, sản sinh ra hơi cao áp, do đó áp suất dung nham trở nên càng ngày càng lớn, và khi một đột phá khẩu được tìm thấy trên bản khối lục địa, sẽ hình thành nên đảo núi lửa. Núi Phú Sĩ ở Nhật Bản chính là thuộc loại này.

    Loại nguyên nhân thứ ba được gọi là núi lửa điểm nhiệt, có nghĩa là có một số núi lửa không nằm ở vị trí giao tiếp của các bản khối, chẳng hạn như núi lửa Yellowstone ở Hoa Kỳ, còn có quần đảo Hawaii. Các nhà núi lửa học gọi những ngọn núi lửa này là nằm trên “điểm nhiệt”. Cơ chế tác dụng của “điểm nhiệt” hiện vẫn chưa rõ ràng, nhưng các nhà khoa học phổ biến cho rằng “điểm nhiệt” là do một “trụ nhiệt” nhô lên từ đáy tầng địa mạn tạo thành. Khi các bản khối di động theo phương ngang tại “điểm nhiệt”, do bản khối động, nhưng “điểm nhiệt” bất động, dẫn đến hình thành một chuỗi núi lửa. Sau khi loại tác dụng này liên tục phát sinh, đã tạo thành một dãy quần đảo núi lửa, mà núi lửa càng xa điểm nhiệt thì niên đại sinh thành càng già.

    Hậu quả của sự phun trào núi lửa

    Cũng giống như các trận động đất có cường độ khác nhau, các vụ phun trào núi lửa cũng có một chỉ số để đo lường mức độ nghiêm trọng của chúng, được gọi là VEI (Volcanic Explosivity Index). Nó chủ yếu dùng hệ thống vật chất phun trào núi lửa làm tiêu chuẩn đo lường. Chỉ số VEI tăng 1 cấp biểu thị uy lực phun trào mạnh hơn gấp 10 lần. 

     

    Các cấp độ từ 0 đến 4 được coi là cấp độ nhẹ. Từ cấp độ 5 trở đi, tính phá hoại tăng dần. Ví dụ, ở cấp độ 5, vật chất phun trào có thể tích 1 km khối, chính là một khối lượng lớn vật chất có chiều dài, chiều rộng và chiều cao là 1000 mét. Trong chuyên mục trước đây, chúng tôi đã giới thiệu câu chuyện về cổ thành Pompeii với các bạn. Pompeii được xây dựng vào năm 600 trước Công nguyên trên bờ sông Sano ở Ý. Vào năm 79 sau Công nguyên, núi lửa Vesuvius phun trào, và dung nham của nó đã nhấn chìm Pompeii chỉ qua một đêm. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng lớp tro chôn vùi Pompeii có độ sâu gần 7 mét. Vụ phun trào Vesuvius có cấp độ VEI là 5.

    Trong thời hiện đại, cũng có trải nghiệm một vụ phun trào núi lửa cấp độ 5. Vào ngày 18 tháng 5 năm 1980, núi lửa St. Helens ở hạt Scamenia, Washington, Hoa Kỳ đã bất ngờ phun trào. Sạt lở đất quy mô lớn do vụ phun trào gây ra đã làm giảm độ cao của ngọn núi từ 2950 mét trước khi phun trào xuống chỉ còn 2550 mét, và tạo thành một miệng núi lửa hình móng ngựa rộng 1,5 km và sâu 125 mét. Lần phun trào này trở thành vụ phun trào núi lửa có tổn thất kinh tế lớn nhất và số người tử vong thảm trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

    Những vụ phun trào núi lửa có chỉ số VEI là 6 có lượng vật chất phun trào lên tới 10 km khối. Mang tính biểu tượng nhất là vụ phun trào của núi lửa Huaina Putina ở Peru vào năm 1600. Đây là vụ phun trào núi lửa lớn nhất từng được ghi nhận ở Nam Mỹ, kéo dài liên tục hơn mười ngày và tạo thành ảnh hưởng trọng đại trên toàn cầu. Nó là gì? Căn cứ kiểm định vòng cây, lần bùng phát này tạo thành khí hậu lạnh dị thường trên toàn cầu trong năm 1601. Nước Nga phát sinh nạn đói nghiêm trọng nhất từ ​​năm 1601 đến năm 1603, ước tính khoảng một phần ba dân số chết đói. Ngày thu hoạch rượu bồ đào của Pháp bị trì hoãn và các ngành sản xuất rượu bồ đào của Đức và Peru sụp đổ. Ghi chép trong sử liệu Trung Quốc, cũng đề cập đến xuất hiện hiện tượng hoa đào nở muộn.

    Vậy tại sao những vụ phun trào núi lửa lớn lại khiến khí hậu biến lạnh? Vì khi núi lửa phun trào, nó phun ra rất nhiều khí thể núi lửa, trong đó bao gồm cả sulfur dioxide.

    Nếu sulfur dioxide đi vào tầng đối lưu của khí quyển, nó có thể tạo thành mưa axit trong không khí và cuối cùng rơi trở lại mặt đất, gây hại cho con người. Nhưng điều nguy hại hơn là sự xâm nhập của sulfur dioxide vào tầng bình lưu. Các nhà khoa học tin rằng các sulfur tạo thành khí dung keo trong tầng bình lưu và lưu ở đó từ 1-3 năm. Khí dung keo này phản xạ rất nhiều ánh sáng mặt trời, từ đó khiến cho nhiệt độ toàn cầu giảm xuống. Trước đây chúng tôi đã thực hiện một chuyên mục về Sao Kim, trong đó đề cập lý do tại sao Sao Kim trông sáng như vậy, là do các đám mây axit sunfuric của Sao Kim phản xạ 70% ánh sáng mặt trời.

     

    Chỉ số VEI càng cao thì uy lực núi lửa càng lớn, vật chất phun trào càng nhiều, các khí dung keo hình thành ở tầng bình lưu càng dày, và đối ứng với nó, sự sụt giảm nhiệt độ toàn cầu càng rõ ràng. Ví dụ, vào năm 1815, núi Tambora ở Indonesia đã xảy ra vụ phun trào núi lửa lớn nhất trong lịch sử nhân loại, giải phóng hơn 100 tỷ mét khối vật chất, có chỉ số VEI là 7. Vụ phun trào đã tạo thành những dị thường khí hậu toàn cầu, ảnh hưởng thâm trọng cả đến các vùng khí hậu xa xôi như Bắc Mỹ và Châu Âu, khiến năm 1816 trở thành “năm không có mùa hè”. Cây trồng ở Bắc bán cầu không thu hoạch được, gia súc chết, dẫn đến nạn đói tồi tệ nhất trong thế kỷ 19. Trong số đó, có một nạn đói nghiêm trọng ở Vân Nam vào thời nhà Thanh, Trung Quốc, được biết đến trong lịch sử là “nạn đói lớn” ở Gia Khánh Vân Nam.

    Và nếu một vụ phun trào núi lửa VEI 8 xảy ra, rất có thể Trái Đất sẽ bước vào kỷ băng hà, và toàn thể nhân loại đứng trước bờ vực tuyệt chủng. Một số chuyên gia phỏng đoán rằng vào năm 75.000 trước Công nguyên, núi lửa Toba ở Indonesia đã có một vụ phun trào VEI 8, khiến nhân loại trên thế giới suy giảm đại quy mô, chỉ còn lưu lại khoảng một vạn người.

    Trên thực tế, các vụ phun trào núi lửa không chỉ gây ra hiện tượng nguội lạnh toàn cầu mà còn có thể gây ra hiện tượng ấm lên toàn cầu. Vì khi núi lửa phun trào, một lượng lớn magma sẽ thải ra nhiều khí carbonic, nếu khí carbonic không thể hấp thụ hoặc bài phóng xuất ra sẽ tạo thành hiệu ứng nhà kính nghiêm trọng. Cũng trong chuyên mục về Sao Kim, chúng tôi đã giới thiệu rằng các nhà khoa học suy trắc rằng bề mặt Sao Kim nóng như địa ngục, nguyên nhân là do sự phun trào quy mô lớn của núi lửa Sao Kim tạo thành.

    Điều gì sẽ xảy ra nếu núi lửa Yellowstone phun trào?

    Yellowstone hiện được coi là núi lửa siêu cấp hoạt động duy nhất trên toàn cầu. Núi lửa siêu cấp là gì? Chính là chỉ một ngọn núi lửa có thể dẫn phát một vụ phun trào quy mô cực đại.

    Yellowstone đã ba lần phun trào trong lịch sử. Vị trí của Vườn quốc gia Yellowstone ở Hoa Kỳ được hình thành bởi ba vụ phun trào núi lửa quy mô lớn. Lần phun trào cuối cùng của núi lửa Yellowstone là 640.000 năm trước, với chỉ số VEI là 8, tạo thành miệng núi lửa Yellowstone tại nơi mà ngày nay là Công viên Yellowstone, và tro núi lửa của nó đã rơi thẳng xuống Vịnh Mexico.

    Trong những năm gần đây, những biến động địa chất bất thường ở khu vực này diễn ra thường xuyên, bao gồm động đất, sự nâng cao địa biểu, mực nước tăng giảm bất thường… đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học. Các chuyên gia dự đoán rằng nếu Yellowstone phun trào một lần nữa, nó sẽ mạnh hơn 2.500 lần so với vụ phun trào năm 1980 của Núi St. Helens mà chúng ta đã đề cập trước đó. Hậu quả là gì? Cộng đồng khoa học đã đưa ra những suy diễn dựa trên sự lạnh đi của nhiệt độ toàn cầu.

    Trước hết, tro núi lửa sẽ bao phủ 3/4 diện tích của Hoa Kỳ. Tro núi lửa sẽ gây ra nhiều trận mưa bão, lở đất và tràn ngập nhà cửa. Tro núi lửa sẽ khiến các thiết bị điện tử bị hỏng hóc, và thông tin liên lạc và giao thông vận tải bị tê liệt hoàn toàn. Hầu hết mọi người sẽ chết vì hít phải khói độc hoặc ăn phải nước hoặc thực phẩm bị ô nhiễm. Thứ hai, một lượng khổng lồ các khí dung keo sulfur sẽ bao phủ thế giới trong vòng hai tuần, khiến nhiệt độ trung bình toàn cầu giảm 12 ─15 ℃, sự tích tụ tuyết liên tục trong 2-3 năm phụ cận đường xích đạo. Hầu hết con người, động thực vật đều chết vì lạnh và đói.

    Mặc dù giới khoa học cho rằng, không có dấu hiệu nào cho thấy núi lửa Yellowstone sẽ phun trào trong vài năm tới để mọi người an tâm một chút, nhưng các nhà khoa học cũng cho rằng, nhân loại hiện tại không có khả năng dự đoán khi nào núi lửa Yellowstone sẽ phun trào, và hiện tại chưa có công nghệ kỹ thuật nào có thể ngăn chặn Yellowstone phun trào. 

    Thật sự cảm khái khi nói đến đây. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhân tâm cũng ngày càng bành trướng, rất nhiều người đối đãi vạn sự vạn vật với tâm lý ngạo mạn rằng “nhân định thắng Thiên” – cho rằng nhân loại là chủ nhân của vũ trụ, thậm chí còn ảo tưởng mình đóng vai trò của Tạo Hóa Chủ. Tuy nhiên, Thượng Thiên chỉ cần châm ngòi nổ cho núi lửa Yellowstone là có thể xóa sổ loài người khỏi lịch sử một cách dễ dàng.

    Cũng giống như thành cổ Pompeii mà chúng ta đã đề cập trước đó, thành phố này đương thời vô cùng phồn hoa, và người dân Pompeii tin rằng con người chỉ là một khối vật chất không có linh hồn, và họ phải tận hưởng lạc thú. Kết quả là, con người nơi đó sinh hoạt cực kỳ dâm dật và tàn ác. Ví dụ, họ tàn sát nô lệ để cho lươn ăn vì cho rằng lươn ăn thịt người rất ngon. Thành phố đầy rẫy những bức tranh tường dâm loạn sắc tình ở khắp mọi nơi. Người dân Pompeii cũng xem những ​​trận huyết chiến giữa người tay không và thú trong đấu trường La Mã mà hoàn toàn vô cảm. Họ có thể nghĩ rằng cuộc sống sẽ cứ tiếp tục như thế, nhưng một vụ phun trào núi lửa VEI 5 đã kết thúc mọi thứ…

    Nhìn lại những thời khắc mang tính hủy diệt đó trong lịch sử loài người, không khó để phát hiện rằng con người trước tự nhiên là hoàn toàn vô lực. Kỳ thực, mỗi một ngày trong sinh mệnh của chúng ta đều là một món quà mà Thượng Thiên ban tặng cho chúng ta, ai biết quý tiếc mới có thể tiến bước xa hơn.

    Theo Epoch Times

     
     
     

    Hương Thảo biên dịch

     

     

TÌM GẶP CHÚ THẬT NHANH - TRONG GIỜ CHẾT

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     
     


    SỰ BÌNH AN TÂM HỒN CỦA NGƯỜI CÔNG CHÍNH TRONG GIỜ CHẾT

    “Linh hồn những người công-chính ở trong tay Chúa và các khổ hình không đụng tới họ. Trước mặt những phường gian-ác, dường như họ đã chết…nhưng kỳ thực họ ở trong an-bình.” (Khôn-ngoan 3:1-3 )

    CHẾT VỚI NIỀM CẬY TRÔNG

    I. Tin tưởng vào ơn phù trợ

    “Linh hồn người công-chính ở trong tay Thiên-Chúa.”

    Chúa đã bồng ẳm người công-chính trong tay, ai có thể cất họ ra khỏi tay Chúa? Đành rằng cả hỏa ngục đều dấy lên cám-dỗ những người lành thánh trong giờ chết, nhưng Chúa không ngừng hổ-trợ họ, như lời Thánh Ambrôsiô nói: “Ở đâu nguy-hiểm càng nhiều thì ơn phù-trợ càng tăng; Vì Chúa là Đấng trợ-phù trong những lúc cần thiết.”

    Người thuộc hạ của ông Ê-li-sê-ô run lẩy-bẩy khi thấy quân địch bao vây thành, Thánh nhân trấn-an người đó và bảo: “Đừng sợ, thế lực hỗ-trợ chúng ta vượt hẳn trên chúng.”

    Vừa nói Thánh-nhân vừa chỉ cho thấy một đội binh Thiên-thần được Chúa sai đến để phòng giữ thành. Cũng vậy, thần dữ đến cám dỗ kẻ liệt, thì Thiên-thần Bản-mệnh cũng đến khuyến khích, bảo-vệ kẻ liệt; Các Thánh cũng đến bênh-đỡ. Đức Tổng-lãnh-Thiên-Thần Micae được Chúa sai đến chiến-đấu với các thần dữ bênh đỡ kẻ liệt.

    Mẹ Maria sẽ đến đánh đuổi các thần dữ và bao bọc kẻ liệt dưới cánh tay Người. Nhưng quan trọng hơn cả là chính Chúa Giêsu sẽ đến bênh đỡ chống lại với các chước cám-dỗ cho con chiên, mà Chúa đã hy-sinh mạng sống để chuộc lại. Chúa sẽ đổ xuống đầy đủ sức mạnh để bệnh-nhân thắng lướt kẻ thù: “Chúa là Đấng bảo vệ tôi.” (Thánh Vịnh 29: 10 )

    “Chúa là ánh sáng và là ơn cứu-độ tôi, tôi còn sợ chi ai?” (Thánh Vịnh 26:1 )

    Thánh Ô-ri-rên nói rằng Chúa yêu chúng ta hơn là các quỷ dữ ghét chúng ta:“Quyền-lực của Chúa để dẫn dắt chúng ta đến ơn cứu-rỗi còn to tát hơn là sức mạnh hỏa ngục.”

    Chúa không bao giờ để ta phải cám-dỗ quá sức đâu, như lời thánh Phaolồ:“Chúa không để anh chị em bị cám dỗ quá sức. Ngài còn giúp anh chị em chịu-đựng và chống trả khi bị cám-dỗ.” (1/Cô-rin-tô 10 - 13).

    Có thể bạn nói: “Nhiều đấng Thánh đã nơm nớp lo sợ mất ơn cứu-rỗi trong giờ chết!”

    Tôi xin trả lời rằng kinh-nghiệm cho thấy ít người lành thánh đã chết với sự sợ-hãi như thế.

    Ben-lu-xen-xit (Belluacensis) đã nói: “Đôi khi những người lành thánh được thanh-tẩy ở trần gian bằng những cuộc chiến-đấu gay go trước giờ lâm-chung.”

    Nhưng hầu hết những người lành thánh đã từ-giả cõi trần nụ cười vẫn tươi nở trên môi. Cuộc phán xét của Chúa làm cho mọi người đều phải sợ; nhưng những kẻ tội-lỗi đi từ trạng-thái kinh-sợ đến thất-vọng, còn người lành thánh lại từ trạng-thái lo sợ đến niềm cậy trông.

    II. Tin tưởng, cậy trông

    Thánh Antoninus kể rằng: Thánh Bênađô bị đau nặng, kinh sợ khi thần dữ cám-dỗ Ngài mất niềm cậy trông. Sực nhớ đến công-nghiệp của Chúa Kitô, Ngài liền xua đuổi ngay nỗi kinh-sợ và kêu lên: “Các thương-tích của Chúa là niềm cậy-trông của tôi.”

    Đang run rẩy lo sợ, Thánh Hilariông bỗng hớn-hở reo lên: “Hồn tôi ơi! Mày lo sợ gì? Gần 70 năm qua, mày làm tôi thờ phượng Chúa, và bây giờ mày sợ chết sao?”

    Rồi Thánh nhân tự trả lời: “Hồn tôi ơi! mày lo sợ nỗi gì? Thiên-Chúa là Đấng trung-tín. Bao năm qua mày đã phục-vụ Ngài. Ngài quên mày sao?”

    Có người hỏi cha Giuse Ca-ma-ca rằng Ngài có đặt tin-tưởng nơi Chúa vào giờ chết không? Ngài trả lời: “Cha phục-vụ Chúa, nên làm sao cha có thể nghi ngờ lòng nhân-hậu Chúa và Chúa không cứu cha sao?”

    Trước giờ chết, có thể chúng ta lo âu về một quãng thời gian nào đó trong đời ta đã phạm tội mất lòng Chúa, chúng ta hãy yên tâm, vì Chúa đã tuyên-bố Người sẽ quên hết các tội-lỗi kẻ thật lòng thống-hối: “Nếu kẻ tội lỗi ăn-năn hối-cải,Ta sẽ quên hết các tội-lỗi của chúng.(Ê-dê-ki-en 18: 21).

    Nhưng có thể chúng ta tự hỏi làm sao chắc chắn được rằng Chúa đã thứ tha hết mọi tội-lỗi chúng ta? Thánh Basiliô đã hỏi những câu tương tự và Ngài tự trả lời:“Tôi có thể tin chắc chắn rằng tôi đã gớm-ghét tội-lỗi, và các lỗi lầm của tôi đã được tha thứ tất cả.”

    Làm sao biết được như thế? Này đây câu trả lời: Quả tim con người không thể không yêu: Hoặc yêu tội-lỗi hoặc yêu Chúa. Đã yêu Chúa thì không yêu tội-lỗi được nữa. Yêu Thiên-Chúa bằng cách tuân-giữ giới răn Ngài: “Ai yêu Ta thì tuân-giữ các giới răn của Ta.” (Gioan 14,21).

    Ai chết lúc đang giữ giới răn Chúa, tức là chết khi đang yêu Chúa.

    LỜI NGUYỆN CẬY TRÔNG

    Lạy Chúa Giêsu, khi nào đến ngày, mà con có thể thưa với Chúa:

    “Lạy Chúa, không bao giờ con mất Chúa nữa. Ngày đó, diện đối diện, con chắc chắn muôn đời được yêu-mến Chúa với tất cả tâm hồn con. Lạy Chúa là nguồn tình-yêu độc nhất của con, bao lâu con còn sống ở dưới thế, con luôn lo sợ phản nghịch lại Chúa và làm mất tình-yêu và hồng-ân của Chúa. Thời gian sống xa Chúa là thời gian sống trong đen tối. Nhưng nay con hối lỗi và Chúa đã thứ tha cho con.”

    Lạy Chúa Cha hằng có đời đời, vì công nghiệp Chúa Giêsu, xin đừng bỏ rơi con trong cõi diệt-vong. Lạy Chúa Giêsu, xin cầu thay cho con trước toà Đức Chúa Cha.

    Lạy Mẹ Maria, Mẹ của con, xin Mẹ ký-thác con nơi Chúa Giêsu, Con Mẹ. Xin giúp con giữ được ơn nghĩa thiết với Con Mẹ, để Ngài làm nơi con những gì đẹp lòng Ngài.

     (Thánh An-Phong Ligouri do Phêrô Bùi Đắc Hữu chuyển ngữ)  
     

TÌM GẶP CHÚA THẬT NHANH - BẢN KẾT ÁN CHÚA GIÊ-SU

  •  
    Lac Viet
     

    Bản tường thuật

    Phiên tòa kết án tử hình Đức Giêsu

     

     

     

    Ngày Thứ Sáu trước lễ Vượt Qua của Do Thái năm 33AD

    Quan toà: Philato, Quan Tổng Trấn xứ Giudea – Israel

    Công tố: Giáo Quyền Do Thái

      

    Tường thuật: Sử gia Gioan, Người mà trong bản tường thuật tự gọi mình là môn đệ Chúa yêu; Người có quen biết vị Thượng Tế; Người đã đứng dưới chân Thánh Giá và được Đức Giêsu trao di ngôn săn sóc mẹ Maria; Người được sống rất thọ và là môn đệ duy nhất không chịu tử vì đạo; Người đã sống lâu bên Mẹ Maria để có thì giờ viết cuốn sử “Phúc Âm theo thánh Gioan” mang nặng tính Thần Học và Triết học , Người đã có nhiều thời gian suy niệm để viết cuốn “Khải Huyền” mà những đặc tính tiên tri và thời sự vẫn âm hưởng cho đến tận hôm nay.

     

    (Bé Lâm Hân diễn đọc)

     

    Khi ấy Chúa Giê-su cùng các môn đệ sang bên kia suối Cé-ron, ở đấy có một khu vườn, Người vào đó với các môn đệ. Giu-đa tên phản bội đã biết rõ nơi ấy, vì Chúa Giê-su thường đưa các môn đệ tới đó hội họp. Vậy Giu-đa dẫn đội binh và lính gác do các thượng tế và biệt phái cấp cho, chúng đến đấy mang theo đèn đuốc và võ khí. Chúa Giê-su đã biết trước mọi việc sẽ xảy đến. Người tiến ra và hỏi chúng rằng: Các ngươi đi tìm ai?

    Chúng thưa rằng: Tìm Giê-su Na-za-reth.

    Người bảo chúng rằng: Chính là Ta đây.

    Giu-đa, tên phản bội cũng đứng đấy với chúng. Người vừa nói: Chính là Ta đây, thì chúng lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng một lần nữa rằng:  Các ngươi tìm ai?

    Chúng thưa rằng: Tìm Giê-su Na-za-reth.

    Người liền đáp lại rằng: Ta đã bảo các ngươi rằng: Chính là Ta đây. Vậy nếu các ngươi tìm Ta, thì hãy để những người này đi.

    Như thế là trọn lời đã nói: trong những kẻ Cha đã ủy cho Con, Con không làm mất người nào. Bấy giờ Si-mon Phê-rô sẵn thanh gươm liền rút ra đánh tên đầy tớ vị Thượng tế, và chém đứt một bên tai phải. Đầy tớ ấy tên là Man-cô.

    Nhưng Chúa Giê-su bảo Phê-rô rằng: Hãy xỏ gươm vào vỏ Ta không muốn chén Cha Ta đã ban cho Ta sao?

    Bấy giờ đội binh, viên quan chức và lính gác của người Do Thái bắt trói Người. Và trước hết điệu Người đến nhà An-na, vì ông này là nhạc phụ ông Cai-pha, làm Thượng tế năm ấy. Chính Cai-pha đã giúp ý kiến này cho người Do Thái: Một người chết cho cả dân được nhờ. Nhưng Si-mon Phê-rô và môn đệ khác vẫn theo Chúa Giê-su, môn đệ này quen biết vị Thượng tế nên cùng với Chúa Giê-su vào trong sân vị Thượng tế, còn Phê-rô thì ở lại gần cửa. Môn đệ khác vì quen biết vị Thượng tế nên ra nói với đứa giữ cửa, và dẫn Phê-rô vào.

    Đứa tớ gái giữ cửa liền bảo Phê-rô rằng: Chính ông, ông có phải là môn đệ người này không? 

    Phê-rô đáp rằng: Không phải đâu. 

    Bọn đầy tớ và lính gác đã nhóm một đống lửa, họ đứng đấy mà sưởi, vì trời lạnh. Phê-rô cũng ở đấy sưởi với họ.

    Vị Thượng tế hỏi Chúa Giê-su về các môn đệ và giáo lý của Người.

    Người đáp lại rằng: Tôi đã giảng công khai cho mọi người, Tôi đã luôn luôn giảng trong các hội quán và đền thờ, nơi mọi người Do Thái họp nhau. Tôi không nói gì bí mật cả sao lại hỏi tôi? Hãy hỏi những kẻ nghe tôi nói, họ biết tôi nói những gì. 

    Nghe nói thế, một tên lính gác đứng ở đó vả Người một cái, nói rằng: Ngươi dám trả lời vị Thượng tế như vậy sao? 

    Người liền đáp lại rằng: Nếu tôi nói sai thì hãy tỏ ra sai ở chỗ nào, nếu tôi nói phải, thì sao lại đánh tôi?

    Bấy giờ An-na để Người bị trói mà dẫn tới Thượng tế Cai-pha. Phê-rô vẫn ở đấy sưởi.

    Có người hỏi Phê-rô rằng: Cả ông nữa có phải ông cũng là môn đệ Giê-su? 

    Phê-rô chối rằng: Không phải đâu. 

    Một tên đầy tớ vị Thượng tế, có họ với người đầy tớ bị Phê-rô chém đứt tai, bảo Phê-rô rằng: Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn với ông ấy sao? 

    Một lần nữa Phê-rô lại chối, và tức thì gà liền gáy. Bấy giờ họ điệu Người từ nhà Cai-pha đến công đường. Trời đã sáng, người Do Thái không vào công đường vì sợ nhơ bẩn, và không thể ăn mừng lễ Vượt Qua được.

    Vậy Phi-la-tô phải ra ngoài đón họ và hỏi rằng: Các ngươi tố cáo người này về tội chi?

    Chúng đáp lại rằng: Nếu nó chẳng phải là tên gian phi, thì chúng tôi chẳng nộp cho Ngài. 

    Phi-la-tô bảo chúng rằng: Các ngươi hãy đem đi mà xử theo hiến pháp của các ngươi. 

    Dân Do Thái đáp lại rằng: Chúng tôi không có phép lên án xử tử ai. 

    Như thế là ứng nghiệm lời Chúa Giê-su đã nói, Người sẽ phải chết cách nào. Phi-la-tô liền vào trong công đường, gọi Chúa Giê-su và hỏi Người rằng: Ông có phải là Vua dân Do Thái không? 

    Chúa Giê-su đáp rằng: Tự ý quan nói điều ấy hay là quan đã nghe ai nói về tôi. 

    Phi-la-tô trả lời rằng: Tôi có phải là người Do Thái đâu. Nhưng người trong nước ông và các vị Thượng tế đã nộp ông cho tôi, ông đã làm chi? 

    Chúa Giê-su đáp rằng: Nước tôi chẳng thuộc về thế gian này, giá như Nước Tôi thuộc về thế gian này, thì quân đội của tôi đã chiến đấu để tôi thoát khỏi tay người Do Thái. Nhưng không, Nước Tôi không thuộc về thế gian này. 

    Bấy giờ Phi-la-tô hỏi Người rằng: Ông là Vua sao? 

    Chúa Giê-su đáp lại rằng: Phải, Tôi là Vua, vì thế Tôi đã sinh ra, và đã xuống thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì nghe Tôi. 

    Phi-la-tô lại hỏi rằng: Sự thật là chi? 

    Nói thế rồi, Phi-la-tô lại ra bảo dân Do Thái rằng: Ta không thấy người này có điều gì đáng lên án, nhưng trong dịp lễ Vượt Qua, vẫn có lệ tha một người. Vậy các ngươi có muốn ta tha Vua dân Do Thái cho các ngươi không? 

    Bấy giờ chúng kêu lên rằng: Không, nhưng xin tha Ba-ra-ba. 

    Ba-ra-ba là một tên trộm cướp. Phi-la-tô lại truyền điệu Chúa Giê-su đến và cho hành hạ Người. Bọn lính bện một vòng gai đặt trên đầu Người, và khoác cho Người một áo đỏ. Chúng đến gần Người nói rằng: Tâu Vua Do Thái. Rồi chúng vả mặt Người.

    Phi-la-tô trở lại và bảo dân rằng: Các ngươi hãy coi, ta dẫn người này ra ngoài để các ngươi biết: ta không thấy nơi người này một lý do nào để lên án. 

    Vậy Chúa Giê-su đi ra đầu còn đội vòng gai và mình còn khoác áo đỏ.

    Phi-la-tô bảo rằng: Này là người. 

    Các Thượng tế và lính gác thấy Người liền kêu lên rằng: Hãy đóng đinh vào thập giá, hãy đóng đinh vào thập giá. 

    Phi-la-tô bảo chúng rằng: Các ngươi đem đi mà đóng đinh. Còn ta, ta không thấy người này có tội gì mà lên án. 

    Dân Do Thái trả lời rằng: Chúng tôi có luật, và cứ theo luật ấy thì nó phải chết, vì nó đã tự xưng là Con Thiên Chúa.

    Nghe vậy, Phi-la-tô càng thêm sợ hãi. Ông lại vào công đường hỏi Chúa Giê-su rằng: Quê ông ở đâu? 

    Nhưng Chúa Giê-su không đáp lại lời nào.

    Bấy giờ Phi-la-tô bảo Người rằng: Ông không trả lời cho tôi hay sao? Ông không biết tôi có quyền tha, và cũng có quyền đóng đinh ông trên thập giá. 

    Chúa Giê-su đáp rằng: Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền gì đối với Tôi, vì thế kẻ nộp Tôi cho ông thì nặng tội hơn ông. 

    Từ đó Phi-la-tô tìm cách để tha Chúa Giê-su, nhưng dân Do Thái lại kêu lên rằng: Nếu ông tha nó thì ông không phải là kẻ nghĩa thiết của Hoàng đế. Ai tự xưng là vua, tức là kẻ thù của vua. 

    Nghe lời ấy, Phi-la-tô truyền đưa Chúa Giê-su ra ngoài, ông ngồi trên toà cao gọi là Li-thos-tro-tos, tiếng Do Thái gọi là Gab-ba-ta. Hôm đó là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa, Phi-la-tô bảo dân Do Thái rằng: Đây là vua các ngươi. 

    Chúng đáp lại rằng: Đem đi, đem đi, đóng đinh nó vào thập giá. 

    Phi-la-tô trả lời rằng: Giết vua các người sao? 

    Các Thượng tế đáp lại rằng: Chúng tôi chỉ có một hoàng đế là Cê-sa-rê. 

    Rồi Phi-la-tô trao Người cho chúng đem đi đóng đinh. Chúng điệu Người đi. Người phải vác lấy thập giá tiến về một nơi gọi là Núi Sọ, tiếng Do Thái gọi là Gol-go-tha. Ở đó, chúng đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác, mỗi người một bên, Chúa Giê-su ở giữa. Phi-la-tô thảo một bản án, và truyền đóng trên thập giá, bản án ấy ghi rằng: Giê-su Na-za-reth, Vua dân Do Thái.

    Có nhiều người Do Thái đọc bản án ấy, vì nơi Chúa Giê-su bị đóng đinh ở gần thành, bản án ấy lại được viết bằng tiếng Hy-bá, tiếng La-tinh, và tiếng Hy-lạp.

    Vậy các Thượng tế Do Thái đến thưa Phi-la-tô rằng: Xin đừng viết: Vua dân Do Thái, nhưng nên viết: người này đã xưng mình là Vua Do Thái. 

    Phi-la-tô đáp lại rằng: Điều ta đã viết là viết. 

    Đóng đinh Chúa Giê-su rồi chúng lấy áo Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần. Chúng lấy cả áo lót nhưng áo lót không có đường may, và là tấm nguyên từ trên xuống dưới. Chúng liền bảo nhau rằng: Đừng xé ra, nhưng đem rút thăm xem ai được. Như thế là trọn lời Kinh Thánh rằng: "Chúng đã chia nhau áo và rút thăm áo lót." Và quân lính đã làm như vậy.

    Đứng gần thập giá Chúa Giê-su, thì có Mẹ Người, bà Ma-ri-a Clê-ô-pha là chị em với Mẹ Người, và Ma-ri-a Ma-đa-lê-na. Thấy Mẹ Người, và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giê-su thưa Mẹ rằng: Thưa bà, này là con bà. Rồi Người bảo môn đệ rằng: Đây là Mẹ con. Và từ lúc đó, môn đệ đưa Mẹ Người về nhà mình.

    Chúa Giê-su biết từ nay mọi sự đã hoàn tất, và để trọn lời Sách Thánh Người nói rằng: Ta khát. 

    Ở đấy có một bình đầy giấm. Người ta liền lấy miếng bọt bể thấm giấm chua, rồi buộc vào mũi đòng mà đưa lên cho Người. Nếm một chút giấm đoạn Chúa Giê-su nói rằng: Mọi sự đã hoàn tất. Rồi Người gục đầu xuống tắt thở…

    Là ngày áp lễ và không muốn để xác trên thập giá ngày Sa-bát, vì là ngày đại lễ, người Do Thái xin Phi-la-tô cho đánh dập ống chân những người bị tử hình, và tháo xác xuống. Bọn lính liền đến đánh dập ống chân người thứ nhất, rồi người thứ hai, cả hai bị đóng đinh với Người.

    Đến gần Chúa Giê-su thấy Người đã chết chúng không đánh dập ống chân Người nữa, nhưng có một tên lính lấy ngọn mác mà đâm vào cạnh sườn, tức thì nước và máu chảy ra. Kẻ đã xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người thì thật, và người ấy biết rằng mình đã nói thật để anh em cùng tin.

    Mọi việc đó xảy ra để trọn lời Kinh Thánh rằng: Người ta chẳng đánh dập cái xương nào của Người, và lời này rằng: chúng nhìn xem Người chúng đã đâm.

    Kế đó, Giu-se A-ri-ma-thi-a, một môn đệ của Chúa Giê-su nhưng là môn đệ trong bóng tối vì sợ người Do Thái, đến xin Phi-la-tô cho tháo xác Chúa Giê-su xuống. Phi-la-tô cho phép, ông liền đến và cất xác Người. Ni-cô-đê-mô cũng đến, ông này trước kia đã đến gặp Chúa Giê-su ban đêm. Ông mang một bình trộn dầu và thuốc thơm độ trăm cân. Họ hạ xác Chúa Giê-su xuống, xức thuốc thơm và liệm trong khăn theo cách thức người Do Thái thường làm.

    Ở chỗ Chúa Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn ấy có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất người nào. Vì là ngày dọn lễ của người Do Thái, và vì ngôi mộ ấy rất gần, nên họ an táng Người ở đó…

     

    --

     

TÌM GẶP CHÚA THẬT NHANH - TĨNH CAO - UKRAINE NGÀY THỨ 42



  • Tinh Cao
     

    Trọng kính Cộng đồng Dân Chúa,
     
    Với tất cả lòng tin tưởng vào LTXC và bác ái yêu thương cầu nguyện cho cả kẻ lành và người dữ,
    chúng ta cùng nhau theo dõi chiến sự ở Ukraine đã qua ngày thứ 42, không biết tới bao giờ mới kết thúc.
     
    Rất tiếc từ hôm nay, Thứ Tư mùng 6/4 tới hết Thứ Hai 11/4/2022, bé tĩnh phải rời California sang Florida phục vụ Khóa LTXC 2022, 
    không thể thực hiện từng cặp mp3 được nữa, cho những ai chỉ có giờ nghe hơn là đọc. Xin thông cảm và dâng hy sinh cầu cho hòa bình ở Ukraine nhé.
     
    bé tĩnh
     
     
    “Những tin tức gần đây về cuộc chiến ở Ucraina, thay vì mang lại sự nhẹ nhõm và hy vọng, 
    thì lại là bằng chứng cho những hành động tàn bạo mới, ví dụ như vụ thảm sát ở Bucha.”
     
    Ngày càng có nhiều sự tàn ác khủng khiếp hơn [đang xảy ra], ngay cả đối với dân thường, phụ nữ và trẻ em không phương thế tự vệ. 
    Họ là những nạn nhân mà dòng máu vô tội của họ kêu lên tới trời và van xin.
     
     “Hãy dừng cuộc chiến này lại! Hãy ngừng tiếng vũ khí! Hãy ngừng gieo rắc cái chết và sự hủy diệt!” 
     
    Tiếp đến, Đức Thánh Cha nói rằng hôm thứ Ba, ngài đã nhận được một lá cờ Ucraina từ thị trấn Bucha. 
    Và ngài đã mở lá cờ bạc màu và nhuốm màu chiến tranh ra và giơ nó lên cho tất cả mọi người cùng xem, 
    và nói rằng lá cờ “đến từ chiến tranh, từ thành phố Bucha tử đạo.”
     
    Sau đó Đức Thánh Cha nói rằng hiện diện trong buổi tiếp kiến chung cũng có một số trẻ em Ucraina hiện đang tị nạn ở Ý và ngài mời các em đến bên cạnh ngài. 
    Ngài tặng cho các em những quả trứng phục sinh bằng sô-cô-la và nói: 
    Những trẻ em này phải di tản và đến một miền đất lạ: đây là một trong những hậu quả của chiến tranh. 
    Chúng ta đừng quên các em và đừng quên dân tộc Ucraina... 
    Thật là khó khăn khi bị nhổ rễ khỏi quê hương của mình vì chiến tranh...”
     
     

    TT Ukraine: Một số lãnh đạo phương Tây sợ tổn thất kinh tế hơn tội ác chiến tranh