1. Hôn Nhân & Gia Đình

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 8: Nó nói : “Em tin sơ biết em rất yếu bệnh”

Con ma nói:

“Xin lỗi bà… a, em xin lỗi Soeur.”

Rồi nói tiếp:

“Em không biết Soeur có thể chỉ giùm em làm thế nào để chỗ bức tượng Nữ Thần Tự Do được không?

“Em đã quá giang suốt từ Texas đến đây để xem bức tượng….

“Và em muốn nhìn thấy bức tượng trước khi… trước khi em chết.”

Tôi nhìn vào hai con mắt sâu hoắm, nhưng vẫn sinh động và đầy kiên cường của Fred. Tôi đứng đó, nhìn thẳng vào khuôn mặt ngây thơ của Fred. Tôi cảm thấy như đang nghe một chiếc đồng hồ trong thân thể của Fred, quằn quại và lạ lùng kêu tích tắc, đếm xem còn bao nhiêu tuần, bao nhiêu ngày và bao nhiêu giờ còn lại trước khi chết hẳn.

Tuy vẫn chưa chết, nhưng Fred đã biết giờ ấy đang đến. Tôi cũng biết, và Thiên Chúa cũng biết. Tiếng nhịp tích tắc… tích tắc… tích tắc dường như dội vào rõ hơn trong đầu óc của tôi.

Tôi nói:

“Soeur muốn đích thân dẫn em đến đó vào cuối tuần này. Bức tượng đẹp lắm, giống như em đã tưởng tượng vậy.”

Tôi muốn đích thân cầm tay dẫn Fred đến đó, nhưng vì tôi còn vướng cả triệu công việc với các trẻ khác nữa. Tôi hy vọng và cầu mong Fred sẽ thông cảm cho tôi. (Không biết chúng tôi sẽ tiếp đón bao nhiêu trẻ em đường phố trong mùa Chay này. Tôi nghĩ Thiên Chúa đang làm việc cật lực để gửi các trẻ đến với chúng tôi!)

Fred đáp:

“Vậy cũng được. Em rất thích như vậy. Nhưng em nghĩ em sẽ đi ngay hôm nay.”

Ngưng một lúc, Fred nói tiếp:

“Em đã hứa với bạn gái của em ở Texas sẽ gửi cho cô ấy một bức hình.

“Em muốn gửi ngay cho bạn em. Em không muốn làm cô ấy phải thất vọng.”

Tôi mỉm cười, nói:

“Dường như cô bạn ấy rất có ý nghĩa đối với em phải không?”

Fred mở miệng định nói, nhưng rồi lại thôi, như thể muốn xác nhận, nhưng lời xác định có lẽ vẫn chưa đầy đủ.

Với đôi mắt rươm rướm, Fred nói:

“Em thực sự yêu thương cô ấy, Soeur ạ…

“Em chỉ còn một mình cô ấy mà thôi.”

Và Fred vội vã nói thêm, một cách lịch sự:

“Ngoài ra, còn có Soeur, và nơi này nữa.”

Tôi nhìn Fred và như cảm thấy một chiếc dao rạch qua trái tim mình, bởi vì tôi biết Fred nói thật lòng….

Fred đã đến với chúng tôi cách đây một tuần. Đó là một “ông cụ” 16 tuổi, đói lả, hoảng hốt, cô đơn, rã rượi, hầu như không nhấc nổi đôi chân để lê bước.

Trong những ngày đầu tiên tại đây, Fred hầu như không nói một lời nào. Có quá nhiều điều để nói. Fred chỉ nói từng chặp một, từng chút từng chút một. Và rất thương tâm.

Trước tiên, Fred đã kể cho chúng tôi biết:

“Em là một đứa lang thang từ Texas…

“Em không có cha có mẹ…

“Em chưa bao giờ biết mặt cha em, và má em thì đã biệt tăm âm tín từ khi em 14 tuổi, tức là hai năm nay rồi…

“Kể từ đó tới giờ, em sống trên các đường phố…

“Em tin là Soeur biết em rất yếu bệnh.”

Fred nói như xin lỗi về thân hình quá gầy guộc, chỉ còn da với xương và đôi mắt lõm sâu của nó.

Fred nói tiếp, với giọng tha thiết:

“Em đã mắc bệnh AIDS.

“Em đoán… em đoán… em bị lây từ bạn gái của em…

“Em đã quan hệ tình dục quá sớm.”

Thật là một điều lạ và bất ổn, nhưng lại rất chân thành, khi nghe thấy những lời thế này từ một thiếu niên như Fred:

“Em ước gì… em ước gì, ước gì em đã hiểu biết rõ hơn.”

Đôi mắt của Fred như nói với tôi:

“Em muốn mọi đứa trẻ đều biết sự thật ấy.”

Rồi lẩm nhẩm:

“Nhưng không phải là do lỗi cô ấy… Cô ấy là một người bạn gái rất tốt.

“Vì thế em mới đến New York. Lúc nào em cũng mơ ước được chiêm ngưỡng bức tượng Nữ Thần Tự Do. Người ta cho em biết… người ta cho em biết Soeur sẽ cho em trọ ở đây một thời gian.”

Những lời của Fred lúc nào cũng nhỏ nhẹ và lịch thiệp, không chút giả tạo hay cường điệu. Fred đã báo cho tôi biết nó sắp sửa chết bằng những cách nói mà một đứa trẻ vẫn thường nói với các bạn những câu đại loại như:

“Con xin ra ngoài một chút.

“Con muốn xem tối nay truyền hình có gì.”

Mãi cho đến lúc Fred nói với tôi, “Người ta cho em biết rằng Soeur sẽ cho em trọ ở đây một thời gian,” thì giọng nói của nó vỡ ra. Fred đã nói điều đó với vẻ sợ hãi thực sự, dường như lo lắng chúng tôi sẽ không cho nó trọ ở đây.

Tôi trấn an:

“Dĩ nhiên là em được ở lại đây chứ.

“Em cứ tự nhiên ở lại đây mãi cũng được.”

Tôi nói mà không biết thời gian ấy kéo dài bao lâu.

Đó là lần thứ hai tôi nói cho Fred biết cứ tự nhiên ở lại đây – và từ lần thứ hai ấy, Fred nhận ra chúng tôi quan tâm đến nó, trân trọng nó và muốn nó lưu lại đây với chúng tôi – thì một sự biến đổi đã xảy ra trong nó.

Đó không phải là chuyện Fred được chữa khỏi bệnh AIDS một cách kỳ diệu. Chúng tôi biết điều đó không bao giờ xảy ra.

Chúng tôi đưa Fred đến gặp bác sĩ, và ông ta xác nhận Fred thực sự đã mắc bệnh AIDS đến giai đoạn cuối cùng, và tình hình sức khỏe của nó không có gì khả quan. Nhưng trong khi không biết Fred còn sống được bao lâu trên cõi đời này, thì chúng tôi lại biết rất rõ Fred sẽ ở lại đây với chúng tôi vì nó cảm nghiệm được tình yêu thương và hy vọng. Đó là điều mọi đứa trẻ đều cần thiết. Tuy nhiên, việc Fred sẽ chết vẫn không có gì thay đổi được.

Nhưng tôi có thể nhìn thấy rõ ràng bên trong trái tim và tâm hồn của Fred một sự biến đổi đang xảy ra, biểu lộ qua ánh mắt của nó.

Bên trong con người của Fred… một điều kỳ diệu đã xảy ra.

Tâm hồn ấy đã chịu đựng quá nhiều đau đớn và quá nhiều vết sẹo – những vết sẹo do bị khước từ, bị bỏ rơi, cảm thấy không được ai yêu thương và bất xứng – giờ đây lại nghe được một thông điệp mới mẻ, hoàn toàn khác biệt.

Bằng cách cho Fred biết chúng tôi ở đây là vì nó, chúng tôi quan tâm, chúng tôi tin Fred là người tốt và xứng đáng được chúng tôi yêu thương…

… bằng cách cho Fred những món quà đơn sơ, chúng tôi đã thắp lên một tia hy vọng từ lâu đã tắt ngúm trong tâm hồn của nó.

Tôi không hề phóng đại – những lời phát xuất từ lòng yêu thương và nâng đỡ của chúng tôi – mang rất nhiều ý nghĩa đối với Fred.

Nói một cách đơn giản là chúng tôi đã cộng tác đem lại cho Fred một lý do để tiếp tục cuộc sống.

Các bạn đã cho Fred một lý do để ước mơ.

Tôi đã nói với Fred lúc em ra đi:
“Soeur hy vọng em sẽ thỏa mãn với chuyến tham quan bức tượng Nữ Thần Tự Do.

“Soeur biết em sẽ thích bức tượng ấy.”

Tôi nói nhưng vẫn lo cho thằng bé sắp đến cửa tử này sẽ phải kéo lê cái thân xác của nó những 1.500 dặm nữa để được chiêm ngưỡng biểu tượng của hy vọng và tự do của một quốc gia.

Fred trả lời:

“Lúc nào em cũng mơ ước được nhìn thấy bức tượng ấy.

“Em vui mừng vì sắp hoàn thành được giấc mơ của mình. Em không thể chờ đợi thêm được nữa, em muốn nói với Soeur về điều đó.

“Sau này, em sẽ nói chuyện nhiều hơn với Soeur.

“Và xin cảm ơn Soeur thật nhiều.

“Em thật lòng cảm ơn Soeur.”

Nói xong lời ấy, Fred quay người và ra đi.

Đó là lần đầu tiên tôi đã nhìn thấy nụ cười tươi nở trên gương mặt của Fred. Tôi nghĩ rằng tôi còn có thể nghe được cả sự tán thưởng của Thiên Chúa nữa.

Tôi tin rằng tôi biết vì sao Fred đã đến với chúng tôi. Fred chính là món quà Phục Sinh Thiên Chúa đã gửi đến cho các bạn và cho tôi.

Tôi muốn nói rằng, những đứa trẻ như Fred đã hiểu thế nào là nỗi đau thương và bị bội phản của ngày thứ Sáu tuần Thánh cũng như niềm vui và sự sống lại của Chúa Nhật Phục Sinh, sâu xa hơn các bạn và tôi.

Những đứa trẻ như Fred hiểu rõ hơn các bạn và tôi thế nào là bị ruồng bỏ, thế nào là bị khước từ, bị phản bội, bị lạc loài và lẻ loi, bơ vơ. Và chết trong lòng. Đối với chúng, toàn bộ cuộc sống của chúng là một chuỗi bất tận những ngày thứ Sáu tuần Thánh.

Vậy khi nào cuộc phục sinh riêng của chúng sẽ đến? Trên thế giới này, tuyệt đối chẳng có gì đẹp hơn là được nhìn thấy một đứa trẻ như Fred thực sự phục sinh trước mắt của bạn.

Đôi khi sự phục sinh chúng ta nhìn thấy đó là sự phục sinh hoàn toàn và tuyệt đối.

Một đứa trẻ bơ vơ và lạc lõng trên đường phố sẽ đến với chúng ta, và chúng ta sẽ có thể từng bước xây dựng lại cuộc đời cho chúng. Chúng ta sẽ tìm cho đứa trẻ ấy là một mái ấm. Chúng ta sẽ tìm cho đứa trẻ ấy một công việc. Chúng ta sẽ từng bước góp phần tái tạo lại từng phần trong cuộc đời của một đứa trẻ.

Nhưng trong trường hợp của Fred thì sao?

Đối với Fred, sự phục sinh của nó là một cuộc phục sinh bên trong, thuộc về tâm hồn. Thân xác của Fred có sống được hay không, và sống được bao lâu nữa không phải là điều tôi muốn đề cập đến ở đây. Tôi chỉ biết rõ một điều sâu thẳm bên trong: nhu cầu cần được yêu thương và cảm nghiệm được yêu thương là nhu cầu tuyệt đối mà mọi đứa trẻ đều cần thiết, đều xứng đáng, đều đáng được tôn trọng và đáng được quan tâm – và đó là điều đã phục sinh bên trong con người của Fred.

Và tất cả điều đó là nhờ các bạn.

Tôi có ý nói, tôi hy vọng các bạn nhận ra Fred là món quà Phục Sinh Thiên Chúa gửi đến cho các bạn. Những đứa trẻ như Fred không thể một mình trỗi dậy ra khỏi vũng bùn nhơ đường phố. Chúng tuyệt đối cần có một ai đó kéo chúng ra. Trong tuần này, chính bàn tay các bạn đã cứu thoát Fred.

TÌNH YÊU CỦA CHÚNG TA

Đôi khi tôi tự hỏi không biết người ta

Đánh giá về tình yêu của chúng ta như thế nào,

Dường như họ chẳng bao giờ thèm để ý

Tình yêu ấy xuất phát từ trời cao,

Nhưng nếu như tình yêu của chúng ta mãnh liệt, chân thật

Và có giá trị đối với tâm hồn,

Thì chúng ta không cần

Phải nghe họ làm gì.

Tình yêu của chúng ta sẽ nên kiên cường.

Tình yêu chúng ta sẽ chiếu sáng

Vượt qua giông tố,

Cho dù thời gian có phũ phàng đến đâu đi nữa.

Mãi mãi và mãi mãi,

Chúng ta sẽ giống như mặt trời.

Phải, nó sẽ chiếu sáng.

Do một trẻ ở Nhà Giao Ước viết ra

 

Sr. Mary Rose McGeady

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 7: Đứa trẻ nói: “Con vốn là đứa lang thang, Nhưng em sẽ không đi lang thang nữa đâu”

Đứa bé gái nói:

“Em nghe nói Soeur có thể giúp em.

“Soeur chỉ cần cho em một chiếc bánh sandwich, và rồi chẳng cần tưởng nghĩ gì đến em nữa.

“Em không muốn làm phiền Soeur.”

Nhìn vào đôi mắt u buồn, không được ai yêu thương của đứa bé gái, tôi cảm thấy trái tim mình bị nhói đau xuyên thấu.

Em gái này khoảng 14 hoặc 15 hoặc 16 tuổi, mặc một chiếc quần jeans màu xanh và một chiếc áo thun mà lẽ ra nên vứt vào sọt rác cách đây nhiều tháng trước rồi. Em gái này là một trong số những đứa trẻ bụi đời chúng tôi vẫn thường gặp thấy, một loại trẻ lang thang không nhà không cửa, cà bơ cà bất, đầu đường xó chợ, thế rồi bỗng đâu xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà chúng tôi, mặt mũi đầy những cáu ghét, bẩn thỉu.

Tôi phải khó khăn lắm nhưng vẫn không sao đoán được tuổi chính xác của đứa bé gái, bởi vì trên gương mặt của nó nhem nhuốc những bụi bặm và đượm một vẻ đau đớn.

Nhưng không thể lầm vào đâu được cái vẻ dịu dàng và sự tốt lành của nó. Dưới ánh sáng lờ mờ của buổi chiều tối vào một ngày đầu xuân, từ xa cả cây số, chúng ta vẫn có thể nhận ra những đặc điểm ấy nơi đứa bé gái này. Các bạn nhất định sẽ cảm thương đứa bé này nếu như các bạn lại gặp thấy nó …

Đứa bé gái nói:

“Xin cho em một chút gì để uống? Có phiền Soeur lắm không?”

Tôi đáp:

“Ô, mời em vào nhà trước đã. Chúng tôi có rất nhiều thực phẩm. Mời em, chúng tôi rất vui mừng vì em đã đến đây.”

Đứa bé gái cố mỉm cười đáp lễ, nhưng tôi biết chắc từ lâu lắm rồi, nó đã không cười. Nó gật đầu nhè nhẹ và mau mắn đi vào bên trong.

Tôi giới thiệu:

“Ở dưới nhà, còn có một phòng ăn tự chọn nữa kìa…

“Tại sao mình không rửa tay cho mát mẻ, rồi thay đồ thay đạc cái đã. Sau đó Soeur sẽ đưa em đến đó. Tên Soeur là Mary Rose – thế tên em là gì nào?”

Đứa trẻ đáp:

“Dana.”

Tôi hỏi thêm:

“Thế em từ đâu đến đây?”

Dana đáp:

“Chẳng từ đâu cả.”

Tôi thắc mắc:

“Thế nghĩa là gì?”

Dana trả lời:

“A… Em có ý nói rằng em vốn là đứa lang thang, nhưng em sẽ không đi lang thang nữa đâu.”

Rồi Dana hỏi lại tôi:

“Phải đây là lối xuống phòng ăn tự chọn phải không, thưa Soeur?”

Tôi cầm tay Dana, dẫn đến một chiếc bồn rửa, đưa một cục xà bông, để nó có thể tự rửa ráy sạch sẽ những lớp bụi ghét đầy hai bàn tay và cánh tay của nó. Thực ra, không phải là rửa ráy sơ sơ đâu – phải mất một lúc tôi mới có thể nhìn ra được nước da hồng hào, nhưng nhiều sứt sẹo, của đứa bé gái. Sau khi tay Dana đã khô, tôi vội vã dẫn nó xuống phòng ăn tự chọn, nơi đã có sẵn món súp nóng và bánh mì sandwich được sắp xếp ngay ngắn trên các quầy.

Dana múc lấy ba hay bốn món, vội vã nhưng lịch sự đi đến chiếc bàn trống thứ nhất và ngồi vào đó. Dana phải mất đến năm phút đồng hồ mới ăn hết chiếc khay ấy.

Dana nói:

“Cám ơn Soeur. Thật là tốt quá. Em có thể trở lại đây được không?”

Dana nói như nửa hỏi, nửa thông báo, và hy vọng tôi sẽ đáp ứng tích cực.

Tôi đáp:

“Ngay bây giờ em có thể ở lại đây cũng được đấy chứ. Chúng tôi có rất nhiều giường chiếu sạch sẽ. (Nói rất nhiều là hơi phóng đại, bởi vì nhà chúng tôi lúc ấy có rất đông các trẻ, nhưng tôi cố gắng thuyết phục Dana hãy ở lại với chúng tôi). Em cứ việc tự nhiên.

Dana cứ búng nhẹ vào chiếc khăn bàn, không biết phải nói gì. Tôi tin rằng nó đã bắt đầu cảm thấy thích thú….

Tôi đề nghị:

“Em hãy nói một chút về bản thân đi. Năm nay em bao nhiêu tuổi?”

Dana đáp:

“Mười sáu.”

Tôi lại hỏi:

“Soeur có cần phải gọi điện thoại cho ai để thông báo em đang ở đây hay không?”

Dana trả lời:

“Trước kia thì có; bây giờ thì không.”

Tôi lấy làm lạ:

“Em nói như vậy là sao? Soeur rất muốn giúp em mà.”

Dana nhìn tôi một lúc rất lâu, vân vê chiếc khăn bàn, cố gắng quyết định cả trăm vấn đề một lúc:

“Tôi có nên nói ra hay không?

“Tôi có nên đi hay không?

“Tôi có thể tin người đàn bà trước mặt đây không?

“Chỗ này là chỗ nào?

“Tại sao tôi lại ở đây?

“Đầu đuôi chuyện này xảy ra thế nào?

“Đây có phải là người tôi có thể tin tưởng được không?

“Nếu không ngủ ở đây, tối nay, tôi sẽ đi ngủ ở đâu?

“Tôi phải làm gì bây giờ?”

Cả trăm câu hỏi… tất cả đều quan trọng, đều thương tâm, đều khẩn cấp, khiến một đứa trẻ mười sáu tuổi phải lo lắng.

Sau cùng, dòng nước mắt ứa tràn trên đôi mắt của Dana, và em đã quyết định một cơ hội. Dana quyết định tin tưởng nơi chúng tôi.

Dana chậm rãi nói:

“Trước kia em sống trong một mái nhà thực sự. Em có một người mẹ, một người cha, và năm đứa em trai.

“Nhưng chuyện ấy đã lâu lắm rồi.

“Thế rồi, năm ngoái, cha em bỏ đi. Vào một hôm, ông ấy bỗng nhiên bỏ đi… Ông ấy không nói cho em biết ông ấy đi đâu cả… Ông ấy cứ bỏ đi mà thôi.

“Mẹ em… Mẹ em không thể chịu nổi như vậy. Bà ấy phải đi tìm một công việc làm… nhưng công việc quá vất vả.

“Khoảng chừng hai tháng sau đó, mẹ em đến và nói với em rằng em phải ra đi. Mẹ em nói: ‘Dana à, con đã mười sáu tuổi đầu, con lớn nhất trong nhà… Mẹ không thể lo liệu được cho tất cả các con nữa rồi… con sẽ phải ra đi thôi.’

“Thưa Soeur, em trố nhìn mẹ em và tưởng bà ấy nói đùa. Thưa Soeur, em muốn nói là bỏ đi để làm gì. Em mới mười sáu tuổi… Em biết nơi nào mà đi.

“Nhưng mẹ em cứ bắt em phải ra đi. Bà ấy nói, ‘Dana, con phải tự lập. Con đã mạnh khỏe. Hãy sắp xếp đồ đạc. Mẹ buồn lắm, nhưng con phải ra đi thôi.’”

Dana vừa kể, vừa khóc, hai hàng nước mắt từ trên đôi má của em lã chã rơi xuống. Những hàng nước mắt oán than, đau đớn, tức tưởi của một đứa bé gái mới mười sáu tuổi đầu đã phải phiêu bạc giữa đường phố.

Tôi cầm tay Dana và nói lại rằng chúng tôi rất vui mừng vì em đã đến với chúng tôi.

Dana khóc một lúc nữa, và cố gắng nói tiếp:

“Lúc đầu… lúc đầu, em vẫn nghĩ mình có thể tự lập được. Ngày đầu tiên, em gặp được một thằng bạn ở đường phố. Em nghĩ mình có thể sống chung với nó.

“Nhưng … nhưng, không được… nhưng không được.”

Tôi lại hỏi:

“Thế từ hồi đó đến giờ, em sống ở đâu?”

Dana trả lời:

“Em đi lang thang.

“Soeur biết đó, những đứa trẻ đường phố tìm đến các hẻm nhỏ, đường xe điện ngầm, những ghế đá công viên và bất cứ nơi nào có thể tìm được một chỗ để ngủ qua đêm.”

Tôi nói:

“Chúng tôi rất muốn em ở lại đây với chúng tôi. Chúng tôi còn nhiều chỗ cho em.”

Dana đáp:

“Em cũng thích như vậy.”

Nói đến đó, nó nấc lên, thổn thức. Phải mất một lúc rất lâu, Dana mới nín được.

Tối hôm ấy, tôi nhờ ban điều hành trung tâm chăm sóc đặc biệt cho Dana. Chúng tôi đem đến cho em một bộ đồ ngủ còn mới nguyên, và sắp cho em một phòng gần một người cố vấn, để em có thể hỏi han gì cũng được vào lúc đêm hôm.

Tôi không biết đêm hôm ấy Dana có được yên giấc được hay không.

Tôi muốn nói là Dana đã mệt nhoài. Có lẽ em không có được một giây phút nào bình an suốt từ ngày rời xa gia đình. Bao nhiêu vấn đề cứ hiện lên, chập chờn qua lại trong đầu óc của em… Tôi biết chúng đã làm cho Dana không sao ngon giấc được.

Có lẽ tâm trí Dana sẽ hiện lên nhiều câu hỏi:

“Nếu tôi ở luôn lại đây thì sao?

“Tôi đã làm điều gì sai trái?

“Rồi tôi vẫn phải cô đơn mãi mãi hay sao?

“Có lúc nào tôi sẽ được yên thân hay không?

“Tôi có thể tin tưởng vào những con người ở đây hay không?

“Tại sao mẹ tôi lại không yêu thương tôi?
“Tại sao chẳng có ai thương yêu tôi?

“Liệu có ai thương yêu tôi hay không?”

Phần tôi, tôi chỉ biết có một điều. Chúng tôi sẽ làm mọi sự có thể để giúp đỡ Dana xây dựng lại cuộc đời của em (như chúng tôi đang làm hết sức, tôi sẽ cầu nguyện thật nhiều để xin Thiên Chúa ban ơn trợ giúp).

Tôi có ý nói rằng, với tất cả những câu hỏi đáng sợ và đau lòng mà Dana đã phải đối diện tối hôm ấy, có một câu hỏi em không bao giờ cần phải hỏi, đó là:

“Liệu tôi có tìm thấy hy vọng ở đây không?

 

Tôi không coi mình là một tín đồ, nhưng chỉ là một tâm hồn trơ trụi bơ vơ giữa một thành phố man rợ, một con người bước đi trên con đường bạc bẽo trong cuộc đời.

Brian, sau sáu tháng lang thang trên các đường phố

Sr. Mary Rose McGeady

Lạy Chúa xin cứu con – Chương 5

Sr. Mary Rose McGeady

Đứa bé gái khẽ đáp: “Đó là những vết bỏng do má em lấy thuốc lá đang cháy đâm vào”
“Hai cánh tay của em sẽ không bao giờ quên được, thưa Soeur. Không bao giờ.”

Đứa bé gái vừa nói, vừa xoa xoa hai cánh tay, từ cùi chỏ cho đến bàn tay. Rồi để cho cơn giận lắng xuống, sau đó, nó chìa hai cánh tay ra trước mặt tôi.

Hai cánh tay của nó gầy guộc, chỉ còn da bọc xương, đầy những vết sẹo nho nhỏ khoanh tròn. Một số đã lâu và mờ. Một số khác rất mới, còn đỏ nguyên.

Đứa bé gái xoa nhè nhẹ phần cánh tay gần chỗ nách trái đầy những vết bỏng còn đỏ nguyên và nói:
“Chỗ này đau nhất. Bây giờ em vẫn cảm thấy nhức.”

Tôi hỏi:
“Em bị sao vậy?”

Thực ra tôi đã biết vì sao lại có những vết sẹo ấy. Tôi đã biết các vết sẹo ấy vì sao mà có. Tôi đã nhìn thấy những vết sẹo như thế rất nhiều lần trong đời. Nhưng tôi muốn cho Linda một cơ hội để nói ra, vì thế tôi hỏi:
“Em có muốn kể cho Soeur nghe được không?”

Từ những giọt nước mắt còn ngấn đọng trên mắt của Linda, tôi có thể biết được nó muốn kể cho tôi nghe.

Đứa bé gái nhìn xuống sàn nhà rồi trả lời khẽ khẽ:
“Đó là những vết bỏng thuốc lá do má em gây ra.”

Giọng của đứa bé bị lạc hẳn đi, nghe như tiếng thầm thì, đượm vẻ ai oán và có vẻ ngượng ngùng. (Đó là một phản ứng thông thường và đau đớn của các trẻ em bị hà hiếp nặng nề. Chúng chịu bầm dập đến độ đâm ra hoài nghi và ghét chính bản thân, chúng cảm thấy xấu hổ nên không muốn chia sẻ nhiều về nỗi đớn đau của mình nữa. Như thể những vết sẹo và sự lạm dụng kia là do lỗi của chúng mà ra).

Đứa bé gái lại thì thầm:
“Em rất hay bị châm như vậy, mỗi khi má em nổi điên, bà ấy thường đốt cánh tay của em.
“Sau cùng, em sợ quá. Em đành bỏ nhà ra đi và khai với người ta rằng em là người vô gia cư. Em muốn chạy cho xa khỏi má em, nhưng không muốn má em bị rắc rối.
“Vì vậy, em xin trọ ở một nhà kia. Chuyện đó đã năm năm rồi. Khi đó em mười một tuổi.”

Tôi hỏi:
“Thế rồi điều gì xảy ra sau đó?”

“Tình cờ cách đây mấy tháng, em gặp phải má em ngoài đường.”

Nói đến đó, nước mắt Linda bắt đầu ứa ra.
“Dường như má em rất vui mừng khi gặp lại em. Má em đến ôm chằm lấy em và nói bà rất yêu thương em. Má em nói bà đã lo lắng đi tìm và muốn em trở về. Thế là em lại trở về với má em.”

Linda ngừng lại một lúc khá lâu, nghẹn ngào. Tôi có thể đoán được triệu triệu ký ức, những ý tưởng, những ân hận và những ước mơ, tất cả đều hiện ra trên đôi mắt ướt đẫm của Linda. Rõ ràng, một nỗi đau đớn hằn lên khuôn mặt của em, về những gì đã xảy ra tiếp sau đó….

Linda kể tiếp:
“Trong khoảng hai tuần sau đó, mọi sự đều tốt đẹp.
“Nhưng rồi… Má em lại nổi điên. Bà ấy lại đốt em như thế này đây….”

Vừa nói, Linda vừa chỉ vào hai vết bỏng còn đỏ nguyên trên cánh tay.

Rồi em ngậm ngùi:
“Em sẽ không bao giờ quên nổi những đau đớn má em đã gây ra cho em.”
Giọng Linda trở nên cứng rắn. Sau một lúc im lặng, Linda bắt đầu thổn thức.

Lần này, em không khóc nhỏ, nhưng òa lên, giận dữ, uất ức và đầy cảm xúc.
Tôi bước đến và ôm choàng lấy đứa bé gái, nước mắt của em càng dàn dụa hơn. Em khóc càng to, khiến hàng chục đứa trẻ và ban điều hành trong nhà kéo đến phòng khách. (Trung tâm của chúng tôi rất bận rộn, tấp nập, ồn ào và náo nhiệt. Rất khó khăn mới làm mọi người đứng lại, nhưng cùng lắm chỉ một giây đồng hồ mà thôi. Sáng nay, Linda khóc và làm mọi người phải để ý).

Tôi phải mất đến mươi phút để làm cho Linda dịu lại được. Trong thời gian ấy, cả triệu câu hỏi cứ hiện lên trong đầu tôi. Tôi muốn hỏi về cha em, vì hoài nghi cha và mẹ của Linda đã chia tay nhau từ lâu (sau đó, tôi được biết đúng như vậy). Tôi cũng muốn hỏi cho biết còn một thân nhân nào khác – có thể là một bà dì, một người bà con, một ông hoặc bà nội ngoại nào đó – có thể nhận Linda về nuôi được không (sau đó, tôi được biết chẳng còn một ai). Và tôi muốn biết Linda trước đó đã gọi điện thoại và báo cáo về mẹ em không (về sau, tôi được biết em đã làm như vậy).

Nhưng vào lúc đó, tôi cứ để cho đôi dòng nước mắt của Linda nói thay tất cả. Tôi nghĩ đó có thể là lần đầu tiên trong nhiều năm – cũng có thể là lần đầu tiên trong cả cuộc đời – Linda đã thực sự tìm được một người quan tâm đến mình.
Tôi không biết câu chuyện rồi sẽ ra sao. Tôi ước gì mình có thể kể cho các bạn một điều gì khác, nhưng không thể được.
Những vết bỏng trên cánh tay của Linda thật dễ sợ. Phải mất một thời gian dài mới có thể lành được. Có thể các vết sẹo ấy sẽ không bao giờ hết. Tôi không biết.
Nhưng các vết sẹo thực sự, những vết sẹo không bao giờ có thể lành lặn được, là những vết sẹo bên trong. Những vết sẹo trong tâm hồn của Linda.

Tâm hồn của Linda đã ra khô cứng vì bị tổn thương và bị khước từ. Sau đó, em tin tưởng trở lại, nhưng rồi lại bị tổn thương trở lại. Tâm hồn ấy mang những vết thương đau đớn. Thực sự là những vết sẹo rất lớn.
Tôi còn nhớ một câu chuyện ngụ ngôn mà tôi đã có lần đã nghe được.

Có một người kia được yêu cầu hàn lại một chiếc nhẫn đã bị gẫy. Ông ta nói vết gẫy không thể nào sửa lại được nữa. Vì thế, ông đã cẩn một viên kim cương ngang qua vết gẫy và làm cho chiếc nhẫn trở nên xinh đẹp hơn trước.
Đó là cách thức chữa lành khi tôi nghĩ về trường hợp của Linda. Các bạn và tôi không thể nào chữa lành được vết thương trong tâm hồn Linda. Nhưng chúng ta có thể cẩn một viên kim cương yêu thương và làm cho tâm hồn ấy xinh đẹp trở lại. Với sự phù trợ của Thiên Chúa, chúng ta có thể làm cho Linda tin rằng vẫn có những người thực sự yêu thương em, vẫn có những người em thực sự có thể tin tưởng được.

Cảm ơn các bạn đã ở đây vì Linda. Hằng ngày, tôi đều cảm tạ Thiên Chúa vì các bạn đã tìm thấy chúng tôi.

Lạy Thiên Chúa khả ái,
Con cần một ai đó yêu thương con, một ai đó nói chuyện với con khi con cần nói, một ai đó cũng khóc khi con cần khóc. Nhưng trên hết, con cần một ai đó yêu thương con và muốn đồng hành bên con cho đến hết cuộc đời của con. Amen.

Lời kinh của một đứa trẻ viết tại nguyện đường Nhà Giao Ước của chúng tôi

 

Lạy Chúa xin cứu con – Chương 6: Ông ấy nói với em: “Mày chịu hay là chết”

Sáng nay, thằng bé gầy đét ấy đã nói với tôi:

“Ông ấy cố nhét 500 đô la vào túi áo của em…

“Thưa Soeur, đó là điều khó khăn nhất đối với em. Em rất muốn lấy số tiền ấy, nhưng em không thể. Em biết mình không thể.”

Thằng bé lắc đầu chầm chầm và kể tiếp:

“Thực ra, em có thể đã được món tiền ấy. Em rất cần, rất cần.”

Paul nhìn vào tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, lo lắng, sợ hãi và không biết tôi sẽ phản ứng như thế nào.

Cách đây một tháng, Paul cũng đã đến với chúng tôi. Đó là một đứa trẻ đã cùng đường, tìm đến cơ hội cuối cùng để sống còn.

Những gì Paul cảm thấy trong lòng rõ ràng là đau đớn, não nề và thê thảm hơn so với hầu hết những đứa trẻ chúng tôi vẫn thường gặp ở đây mỗi ngày.

Từ dáng điệu đi đứng của Paul, chúng tôi biết ngay đó là một đứa trẻ phải chiến đấu; một chiến sĩ dãi dầu, kiệt sức, cùng đường, không còn lối thoát từ những mặt trận trên các đường phố của nước Mỹ.

Từ ánh mắt của Paul, chúng tôi biết cuộc chiến để sống còn của nó rất dai dẳng, nhọc nhằn và kiệt quệ.

Khi đến với chúng tôi, Paul là một đứa trẻ tuy vẫn còn sống, nhưng đã thoi thóp. Những gì Paul đeo sau lưng là tất cả gia tài của nó. Nghị lực và tinh thần còn lại của nó là vai áo của nó.

May mắn cho chúng tôi và cho cả Paul, trên vai áo của nó vẫn còn đó một niềm tự hào và dũng khí. Tôi tin chắc đó là điều đã giúp Paul tiếp tục sống.

Sáng nay, tôi nói với Paul:

“Chắc hẳn rất khó khăn cho em khi khước từ món tiền đó!”

Paul đáp:

“Phải nói là cơn cám dỗ ấy cực kỳ khủng khiếp.”

Tôi lại hỏi:

“Khi chuyện đó xảy ra, em đã nghĩ gì?”

Paul nhìn tôi và cố gắng chặn dòng nước mắt đang tràn ướt trên mắt. Nó cứ chớp mắt, nhưng không sao cầm được nước mắt. Hai hàng nước mắt lại tiếp tục chảy xuống.

Paul nói:

“Lúc đó là lần đầu tiên trong đời em nghĩ đến điều ấy, em nghĩ mình đang có một cơ hội để tìm lại một cuộc sống đích thực.

“Giả như em cầm số tiền và làm theo điều ông ấy muốn em làm, thì em đã vứt bỏ cơ hội cuối cùng để làm lại cuộc đời của em.”

Tôi đáp:

“Soeur hiểu.”

Và tôi nói với Paul:

“Soeur rất tự hào về em, Paul ạ!

“Soeur biết em phải chiến đấu rất cam go.”

Và khi đứng ở đó, tôi nhớ lại lần đầu tiên tôi đã gặp Paul trước đó một tháng. Cuộc hành trình đến giây phút này của Paul chắc hẳn là khó khăn và cam go hơn hầu hết các trẻ em khác. Thật là một phép lạ khi Paul đã hoàn tất được cuộc hành trình ấy….

Ngay hôm đầu tiên đến sống tại trung tâm của chúng tôi, Paul kể:

“Từ đó, em cứ sống trên các đường phố…

“Cha dượng của em đã bắt đầu lạm dụng tình dục đối với em kể từ khi em là một đứa trẻ.

“Em không thể chịu đựng thêm một ngày nào nữa…

“Em phải bỏ đi mà thôi.

“Em không muốn bỏ nhà, nhưng chẳng còn một lựa chọn nào khác.”

Khi gặp Paul lần đầu tiên, tôi đã hỏi:

“Thế hồi đó em bao nhiêu tuổi, hở Paul? Mười lăm hay mười sáu?”

Paul đáp:

“Hồi đó em mới mười một tuổi.”

Tôi ngạc nhiên:

“Mới mười một tuổi à?”

Rất nhiều lần tôi đã kể cho người ta biết trên đường phố có rất nhiều đứa trẻ mới ở vào độ tuổi ấy, nhưng nhiều người đã không tin tôi. Paul là chứng nhân mới nhất cho lời của tôi.

Mười một tuổi đầu! Một thân một mình, bơ vơ vất vưởng giữa những đường phố của một thành phố lớn. Các bạn có thể tưởng tượng được không? Điều đó đã làm tôi ứa nước mắt.

Paul đã sống sót… nhưng là một lối sống khốn khổ nhất. Hoảng hốt, lạc lõng, không tiền bạc, không bạn bè, Paul đã phải phấn đấu hết mình để sống còn.

Paul kể cho tôi:

“Ông ấy đã nói với em, ‘Mày chịu hay là chết…

“Em muốn sống. Vì thế, em đã làm điều đó… trong năm năm trời.”

Paul thừa nhận:

“Em không thích điều đó… điều đó thật kinh tởm.

“Nhưng vì em muốn sống.”

Paul năn nỉ để tôi cảm thông:

“Em không còn một lựa chọn nào khác…

“Em định tự tử. Em không thể chịu nổi như vậy nữa.”

Quay sang nhìn tôi, Paul nói tiếp:

“Nhưng rồi có người đã nói với em về Nhà Giao Ước.”

Từ khi tìm được Nhà Giao Ước cách đây một tháng, Paul quả thật như được sinh lại một lần nữa vào cuộc đời. Bất chấp những đớn đau quá khứ, bất chấp những trở ngại phải đương đầu để xây dựng một tương lai, Paul vẫn từng bước xây dựng một cuộc sống cho bản thân.

Và hôm nay, sáng nay, Paul đã vượt qua được chướng ngại vật lớn nhất.

Sáng nay, tôi đã hỏi Paul:

“Vậy, em đã nói gì khi người đàn ông ấy trao tiền cho em?”

Paul đáp:

“Em bảo ông ấy hãy giữ lấy.

“Em bảo ông ấy rằng, thứ ấy chẳng là gì đối với em nữa.

Vừa nói, Paul vừa mỉm cười:

“Em bảo ông ấy, em đang cố gắng tìm một công việc bình thường, và ông ấy nên đi chỗ khác thì hơn.”

Paul mới mười bảy tuổi, một đứa trẻ tốt lành vừa mới trải qua một cuộc chiến mà không ai trong chúng ta thực sự có thể hiểu nổi.

Và hôm nay, sau cùng, Paul đã quay lưng lại với quá khứ để hướng cuộc đời sang một trang khác.

Paul nói:

“Em bảo ông ấy rằng, thứ ấy chẳng là gì đối với em nữa.”

Cảm ơn các bạn đã ở đó vì Paul. Cảm ơn các bạn đã ở đấy vào tháng trước, khi Paul bước vào ngưỡng cửa nhà chúng tôi, mong tìm một người biết quan tâm đến em. Và cảm ơn các bạn vì đã ở đấy, trong tâm hồn của Paul sáng nay, tại góc phố ấy, khi em cương quyết nhìn lại quá khứ và nói:

“Không… đủ rồi.. thứ ấy chẳng là gì đối với tôi nữa… tôi sẽ xây dựng một cuộc đời tốt đẹp hơn.”

Tháng trước, các bạn đã giúp đỡ một đứa trẻ. Thực vậy, các bạn đã cộng tác để cứu vớt rất nhiều. Cảm ơn các bạn rất nhiều vì tất cả những gì các bạn đang làm và đã làm.

Tôi thành tâm cảm tạ Thiên Chúa từng giây phút vì các bạn đã tìm gặp chúng tôi!

XIN GIÚP CON

Xin giúp con, lạy Chúa,
Khi con đến cùng Chúa.
Có rất nhiều nẻo đường quanh co
Sẽ làm con chệch hướng
Xa rời Chúa
Xin giúp con khi con đi trên nẻo đường
Yêu mến cha mẹ mà Chúa đã ban cho con.
Xin giúp con biết gắng sức trong mọi gian nan
Dù thành công hay thất bại.
Xin giúp con đừng bao giờ chán nản
Cho dù sẽ có nhiều lúc rất khó khăn.
Xin giúp con chọn được những người bạn tốt.
Xin giúp con chọn được người bạn đời lý tưởng,
Để mai sau con có một cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Xin giúp con, dù con có thể thất bại,
Biết tiếp tục dấn bước trên con đường đến cùng Chúa.
Xin giúp con, lạy Chúa.
Con rất muốn được sống với Chúa. Amen.

Lời kinh do một trẻ viết tại Nhà Giao Ước

Sr. Mary Rose McGeady

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 4: Em nói: “Em sống bên dưới thành phố, trong những ống cống”

Sr. Mary Rose McGeady

Đứa trẻ ngồi sát bên tôi, thu lu trên chiếc ghế, một tay cầm cây bút chì, tay kia cầm một tập giấy đã cũ rích.

Đó là một trong những đứa trẻ lạ kỳ, những đứa trẻ đã đến với chúng tôi trong ánh mắt u hoài và tuyệt vọng, với một nỗi đau giấu kín bên trong, nhưng lại gây xúc động dữ dội, đến nỗi các bạn có thể nhìn thấy nỗi đau ấy xuyên qua thân xác của chúng.

“Xin chào” đó là tất cả những gì thằng bé đã lẩm nhẩm trong miệng khi chúng tôi mở cổng trung tâm đón nó vào sáng hôm nay.

Thằng bé hỏi:

“Em xin ở lại đây ít lâu được không?”

Sau khi đón nhận thằng bé vào trung tâm Nhà Giao Ước tại thành phố New York và cho biết chúng tôi rất quan tâm và sẽ giúp đỡ nó, chúng tôi đã dìu các xác đã rệu rạo mỏi mệt của nó đặt xuống chiếc trường kỷ, để cho nó nghỉ ngơi một lúc.

Thằng bé ngồi tại chỗ đó suốt hai giờ đồng hồ, mắt nhắm nghiền, một cái ba lô cũ rích, tả tơi đặt dưới chân, một cây bút chì và một tập giấy đặt trong lòng nó.

Tôi có hàng triệu công việc cần làm, hàng ngàn điều này việc nọ trong đầu, và hàng trăm đứa trẻ tôi cần phải trao đổi, nhưng tôi quyết định ở lại bên chiếc trường kỷ, bên cạnh thằng nhỏ để chờ đợi.

Tôi không thể nào để nhỡ mất cơ hội, vì chúng tôi có thể đánh mất thằng bé.

Sau cùng, sau một thời gian dài dẵng như vô tận, thằng bé đã mở mắt ra. Hai con mắt hoăm hoắm, lạc lõng nhất mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy.

Tôi cố gắng bắt chuyện:

“Có lẽ em mệt lắm nhỉ.”

Ánh mắt của nó nháy nháy, chậm rãi đồng ý.

Tôi hỏi tiếp:

“Soeur rất vui mừng vì em đã gặp được chúng tôi. Thế tên em là gì?”

Câu hỏi dường như làm cho thằng bé thảng thốt, hình như xưa nay chưa từng có ai tỏ vẻ quan tâm đến độ hỏi tên tuổi danh tánh của nó.

Thằng bé đáp lí nhí trong miệng:

“Em tên Michael.”

Tôi hỏi:

“Thế em ở đâu?”

Michael nhắm mắt lại một lúc nữa, đắn đo không biết có nên trả lời hay không, rồi có vẻ ngại ngùng nói:

“Có lẽ Soeur không tin em.”

Tôi đáp lại:

“Cố lên. Soeur rất muốn giúp đỡ em. Chúng tôi tất cả đều muốn như vậy.”

Thằng bé lại nhìn thẳng vào tôi, với ánh mắt hoài nghi “không-biết-có-nên-nói-hay-không” mà thỉnh thoảng đám trẻ vẫn trầm ngâm khi đứng trên tấm ván nhảy cầu lần đầu tiên, không biết đã đến lúc tung cú nhảy hay chưa. Tôi mỉm cười nhăn nhó, cố gắng thúc giục thằng nhé cứ nhảy đại. Sau một quãng thời gian lâu la vô tận, cuối cùng thằng bé cũng ấp úng nho nhỏ:

“Em sống dưới thành phố này. Trong những đường cống.”

Nó nói lớn hơn:

“Em sống ở ngay tại đây.”

Vừa nói, nó vừa trao tập giấy cho tôi.

Trên tập giấy được vẽ rất tỉ mỉ, từ trang này sang trang khác là những cảnh tăm tối nhưng sinh động về cái thế giới của Michael, một nơi mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ.

Chỉ vào hình vẽ một gian phòng tối thui, đầy những thùng, những hộp, và một cái gì giống như chiếc ghế, tôi hỏi:

“Phải em sống ở đây không?”

Thằng bé gật đầu:

“Vâng.”

Tôi chỉ vào hình vẽ một phụ nữ, gương mặt lem luốc, tay bồng một thằng bé, có lẽ chính là Michael, và hỏi:

“Phải mẹ em đây không?’

Michael gật đầu:

“Dạ phải.”

Tôi hỏi tiếp:

“Cha em cũng ở đây luôn phải không?”

Michael khựng lại một chút, rụt cổ, rồi nhắm nghiền đôi mắt.

Tôi hỏi:

“Em không muốn đề cập đến chuyện đó phải không?”

Michael gật đầu, nói lẩm nhẩm vừa đủ nghe:

“Em không có cha.”

Tôi đặt tay lên vai của Michael, và an ủi một lúc. Có thể nói là Michael đã kể cho tôi nghe rất nhiều. Nói và nhớ lại như thế đã là một điều đòi hỏi em quá nhiều.

Tôi vỗ về:

“Chúng tôi thực lòng mong muốn em sẽ ở lại đây.”

Rồi tôi nhấn mạnh:

“Soeur rất muốn em ở lại đây. Em có muốn ăn uống gì không, và rồi ngủ lại đây nhé?”

Đôi môi của Michael khẽ nở một nụ cười, và mắt của nó nhắm nghiền lại, rồi khẽ nói:

“Vâng. Xin cảm ơn, Soeur.”

Tôi vẫy Jim lại.

Jim là một cố vấn tuyệt vời của chúng tôi (với tất cả sự khách quan, tôi phải nhận là mọi người trong ban điều hành Nhà Giao Ước đều rất tuyệt vời!) và nhờ Jim giúp đỡ cho Michael. Tôi nói:

“Em chịu khó chăm sóc đặc biệt cho Michael nhé!”

Rồi tôi nhấn giọng lớn hơn một chút để Michael có thể nghe thấy rõ ràng:

“Michael là một đứa trẻ tuyệt vời.”

Đang đi dọc theo hành lang, nghe thấy lời của tôi, Michael mỉm cười, rồi ngoảnh lại, gật đầu một cái cảm ơn.

Cho đến lúc này, đã mười giờ đồng hồ trôi qua, tôi vẫn cứ miên man suy nghĩ về đứa trẻ này.

Tôi muốn nói Michael là một đứa trẻ chính thức mà lại không chính thức của chúng tôi, đứa trẻ của Mùa Chay năm nay. (Tôi tin mỗi năm Thiên Chúa gửi đến cho tôi một đứa trẻ đặc biệt để nhắc nhở về ý nghĩa đầy đủ của mùa Chay).

Tôi nghĩ mùa Chay là mùa chúng ta phải xét mình, phải kiểm điểm bản thân, phải tự vấn, phải nhìn mình trong tấm gương để xem chúng ta đích thực như thế nào.

(Tôi chẳng phải là một người thích mùa Chay nhất thế giới. Thực ra, tôi chẳng thích mùa Chay chút nào…. Mùa Chay, theo chỗ tôi đoán, chẳng phải là một cái gì buộc chúng ta phải thích).

Mùa Chay là thời gian để suy xét chúng ta đã sử dụng những của cải trần gian và xử đối với tha nhân như thế nào. Đó là một thời gian để xem xét chúng ta có thực sự đang sống một cuộc sống đầy yêu thương hay không, một thời gian để lặng lẽ nhìn lại linh hồn mình hầu biết chắc mọi sự đang diễn tiến tốt đẹp, xuôi thuận và để xác định các khiếm khuyết đang nằm ở đâu.

Mùa Chay là mùa để đưa ra các quyết định cải đổi cuộc sống, bắt đầu bằng việc thực hiện các điều quyết định ấy….

Có dễ dàng không? Không dễ dàng chút nào, và không ai nghĩ là dễ dàng. Mùa Chay không phải là dùng thời gian 40 ngày để nhìn chằm chằm vào tấm gương linh hồn của chúng ta để tỉ mỉ xem xét, kiểm kê, đánh giá một cách dễ dãi. Chẳng dễ dàng chút nào khi chúng ta tự hỏi chúng ta có thực sự tốt lành, có thực sự nhân đức, có thực sự trung thành, và có thực sự cảm thông như chúng ta muốn hay không. Tôi cho rằng mùa Chay là một thời gian thuận tiện. Mùa Chay là thời gian chúng ta được yêu cầu hãy sống thân mật với Thiên Chúa hơn nữa.

Thế còn Michael thì sao? Còn những đứa trẻ như Michael thì sao? Tôi cho rằng tất cả các chúng đều hiểu mùa Chay và những ý muốn của Thiên Chúa về mùa Chay tốt hơn bất kỳ ai trong chúng ta rất nhiều. Những đứa trẻ ấy sống trong một mùa Chay triền miên… một cuộc sống triền miên phải tự vấn, phải tự nhìn lại, phải tự đánh giá về những mất mát.

Những đứa trẻ ấy vẫn tự hỏi, hỏi đi hỏi lại:

“Tôi đã làm gì sai trái? Tại sao tôi phải sống như thế này… Tại sao không có ai yêu thương tôi… Tôi khổ sở vì tôi không xứng đáng với một điều nào tốt đẹp hơn sao?”

Đôi khi, như trong trường hợp của Michael, hành vi suy tư và tự vấn rất mãnh liệt và đau đớn, chúng chỉ có thể chia sẻ điều ấy qua việc vẽ nghệch ngoạc lên một tập giấy. Nói thành lời, và nghe những lời ấy… rất đau đớn.

Mùa Chay thực sự ở trong tâm hồn của các trẻ ấy từng giây phút trong suốt cuộc sống của chúng.

Dĩ nhiên, nhìn thấy Thiên Chúa trong ánh mắt u hoài và khuôn mặt hốc hác của các trẻ ấy không phải là một điều dễ dàng. Tôi biết, tôi biết rõ, ở đó, các bạn sẽ nhìn thấy Chúa.

Tôi xin được yêu cầu các bạn hai điều cho các trẻ em của chúng ta trong mùa Chay này. Trước nhất, ước chi các bạn hãy đọc cho các trẻ em của chúng tôi mỗi ngày một lời kinh. Xin cầu nguyện cho 1.400 trẻ em, những đứa trẻ may mắn đã tìm được sự giúp đỡ trong các trung tâm của chúng tôi, và cho cả những đứa trẻ khác đang đi tìm, đang sống dưới những đường xe điện ngầm, vẫn đang thoi thóp trong một mùa Chay căng thẳng triền miên, lúc nào cũng tự hỏi, mà dường như không bao giờ chấm dứt. Những lời cầu nguyện của các bạn có ý nghĩa rất nhiều đối với các trẻ này, và cả đối với tôi nữa. Xin cảm ơn các bạn về điều ấy.

Và hôm nay, các bạn có thể giúp các trẻ em của chúng tôi một món quà mùa Chay được không? Nhu cầu của chúng tôi hiện nay rất lớn. Nhờ lòng tốt tuyệt vời cũng như lời cầu nguyện và sự nâng đỡ của các bạn, mà chúng tôi đã có thể giúp đỡ hơn 48.000 trẻ em trong năm nay. Tất cả các em ấy đang tìm kiếm. Tất cả các em ấy đang hy vọng. Tất cả các em ấy đang tự hỏi không biết có một thế giới nào tốt đẹp hơn cho chúng hay không.

Đức bác ái của các bạn sẽ làm cho tất cả các em ra khác. Các bạn thực sự làm được điều ấy. Chúng tôi không thể ở lại đây được với các trẻ nếu thiếu các bạn. Các bạn hãy giúp đỡ ngay bây giờ được không?

Cảm ơn các bạn vì đã đọc những dòng này và cầu nguyện cho các trẻ của chúng tôi. Chúng tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ ngưng cảm tạ Thiên Chúa vì các bạn đã gặp được chúng tôi. Không bao giờ! Đặc biệt là trong mùa Chay này….

“Tôi nhìn thấy trên đường phố một đứa bé gái đang co ro lạnh lẽo, với chỉ một chiếc áo mỏng manh, thèm thuồng một bữa ăn ngon lành. Tôi đâm ra uất ức và thưa với Thiên Chúa: ‘Sao Chúa lại nỡ để xảy ra như thế này? Sao Chúa không làm một điều gì đi chứ?’ Thế mà Thiên Chúa vẫn làm thinh. Tối hôm ấy, Thiên Chúa bỗng nhiên đã trả lời nhỏ nhẹ: ‘Cha đã làm rồi đấy chứ. Cha đã tạo dựng con.’"