1. Hôn Nhân & Gia Đình

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 4: Em nói: “Em sống bên dưới thành phố, trong những ống cống”

Sr. Mary Rose McGeady

Đứa trẻ ngồi sát bên tôi, thu lu trên chiếc ghế, một tay cầm cây bút chì, tay kia cầm một tập giấy đã cũ rích.

Đó là một trong những đứa trẻ lạ kỳ, những đứa trẻ đã đến với chúng tôi trong ánh mắt u hoài và tuyệt vọng, với một nỗi đau giấu kín bên trong, nhưng lại gây xúc động dữ dội, đến nỗi các bạn có thể nhìn thấy nỗi đau ấy xuyên qua thân xác của chúng.

“Xin chào” đó là tất cả những gì thằng bé đã lẩm nhẩm trong miệng khi chúng tôi mở cổng trung tâm đón nó vào sáng hôm nay.

Thằng bé hỏi:

“Em xin ở lại đây ít lâu được không?”

Sau khi đón nhận thằng bé vào trung tâm Nhà Giao Ước tại thành phố New York và cho biết chúng tôi rất quan tâm và sẽ giúp đỡ nó, chúng tôi đã dìu các xác đã rệu rạo mỏi mệt của nó đặt xuống chiếc trường kỷ, để cho nó nghỉ ngơi một lúc.

Thằng bé ngồi tại chỗ đó suốt hai giờ đồng hồ, mắt nhắm nghiền, một cái ba lô cũ rích, tả tơi đặt dưới chân, một cây bút chì và một tập giấy đặt trong lòng nó.

Tôi có hàng triệu công việc cần làm, hàng ngàn điều này việc nọ trong đầu, và hàng trăm đứa trẻ tôi cần phải trao đổi, nhưng tôi quyết định ở lại bên chiếc trường kỷ, bên cạnh thằng nhỏ để chờ đợi.

Tôi không thể nào để nhỡ mất cơ hội, vì chúng tôi có thể đánh mất thằng bé.

Sau cùng, sau một thời gian dài dẵng như vô tận, thằng bé đã mở mắt ra. Hai con mắt hoăm hoắm, lạc lõng nhất mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy.

Tôi cố gắng bắt chuyện:

“Có lẽ em mệt lắm nhỉ.”

Ánh mắt của nó nháy nháy, chậm rãi đồng ý.

Tôi hỏi tiếp:

“Soeur rất vui mừng vì em đã gặp được chúng tôi. Thế tên em là gì?”

Câu hỏi dường như làm cho thằng bé thảng thốt, hình như xưa nay chưa từng có ai tỏ vẻ quan tâm đến độ hỏi tên tuổi danh tánh của nó.

Thằng bé đáp lí nhí trong miệng:

“Em tên Michael.”

Tôi hỏi:

“Thế em ở đâu?”

Michael nhắm mắt lại một lúc nữa, đắn đo không biết có nên trả lời hay không, rồi có vẻ ngại ngùng nói:

“Có lẽ Soeur không tin em.”

Tôi đáp lại:

“Cố lên. Soeur rất muốn giúp đỡ em. Chúng tôi tất cả đều muốn như vậy.”

Thằng bé lại nhìn thẳng vào tôi, với ánh mắt hoài nghi “không-biết-có-nên-nói-hay-không” mà thỉnh thoảng đám trẻ vẫn trầm ngâm khi đứng trên tấm ván nhảy cầu lần đầu tiên, không biết đã đến lúc tung cú nhảy hay chưa. Tôi mỉm cười nhăn nhó, cố gắng thúc giục thằng nhé cứ nhảy đại. Sau một quãng thời gian lâu la vô tận, cuối cùng thằng bé cũng ấp úng nho nhỏ:

“Em sống dưới thành phố này. Trong những đường cống.”

Nó nói lớn hơn:

“Em sống ở ngay tại đây.”

Vừa nói, nó vừa trao tập giấy cho tôi.

Trên tập giấy được vẽ rất tỉ mỉ, từ trang này sang trang khác là những cảnh tăm tối nhưng sinh động về cái thế giới của Michael, một nơi mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ.

Chỉ vào hình vẽ một gian phòng tối thui, đầy những thùng, những hộp, và một cái gì giống như chiếc ghế, tôi hỏi:

“Phải em sống ở đây không?”

Thằng bé gật đầu:

“Vâng.”

Tôi chỉ vào hình vẽ một phụ nữ, gương mặt lem luốc, tay bồng một thằng bé, có lẽ chính là Michael, và hỏi:

“Phải mẹ em đây không?’

Michael gật đầu:

“Dạ phải.”

Tôi hỏi tiếp:

“Cha em cũng ở đây luôn phải không?”

Michael khựng lại một chút, rụt cổ, rồi nhắm nghiền đôi mắt.

Tôi hỏi:

“Em không muốn đề cập đến chuyện đó phải không?”

Michael gật đầu, nói lẩm nhẩm vừa đủ nghe:

“Em không có cha.”

Tôi đặt tay lên vai của Michael, và an ủi một lúc. Có thể nói là Michael đã kể cho tôi nghe rất nhiều. Nói và nhớ lại như thế đã là một điều đòi hỏi em quá nhiều.

Tôi vỗ về:

“Chúng tôi thực lòng mong muốn em sẽ ở lại đây.”

Rồi tôi nhấn mạnh:

“Soeur rất muốn em ở lại đây. Em có muốn ăn uống gì không, và rồi ngủ lại đây nhé?”

Đôi môi của Michael khẽ nở một nụ cười, và mắt của nó nhắm nghiền lại, rồi khẽ nói:

“Vâng. Xin cảm ơn, Soeur.”

Tôi vẫy Jim lại.

Jim là một cố vấn tuyệt vời của chúng tôi (với tất cả sự khách quan, tôi phải nhận là mọi người trong ban điều hành Nhà Giao Ước đều rất tuyệt vời!) và nhờ Jim giúp đỡ cho Michael. Tôi nói:

“Em chịu khó chăm sóc đặc biệt cho Michael nhé!”

Rồi tôi nhấn giọng lớn hơn một chút để Michael có thể nghe thấy rõ ràng:

“Michael là một đứa trẻ tuyệt vời.”

Đang đi dọc theo hành lang, nghe thấy lời của tôi, Michael mỉm cười, rồi ngoảnh lại, gật đầu một cái cảm ơn.

Cho đến lúc này, đã mười giờ đồng hồ trôi qua, tôi vẫn cứ miên man suy nghĩ về đứa trẻ này.

Tôi muốn nói Michael là một đứa trẻ chính thức mà lại không chính thức của chúng tôi, đứa trẻ của Mùa Chay năm nay. (Tôi tin mỗi năm Thiên Chúa gửi đến cho tôi một đứa trẻ đặc biệt để nhắc nhở về ý nghĩa đầy đủ của mùa Chay).

Tôi nghĩ mùa Chay là mùa chúng ta phải xét mình, phải kiểm điểm bản thân, phải tự vấn, phải nhìn mình trong tấm gương để xem chúng ta đích thực như thế nào.

(Tôi chẳng phải là một người thích mùa Chay nhất thế giới. Thực ra, tôi chẳng thích mùa Chay chút nào…. Mùa Chay, theo chỗ tôi đoán, chẳng phải là một cái gì buộc chúng ta phải thích).

Mùa Chay là thời gian để suy xét chúng ta đã sử dụng những của cải trần gian và xử đối với tha nhân như thế nào. Đó là một thời gian để xem xét chúng ta có thực sự đang sống một cuộc sống đầy yêu thương hay không, một thời gian để lặng lẽ nhìn lại linh hồn mình hầu biết chắc mọi sự đang diễn tiến tốt đẹp, xuôi thuận và để xác định các khiếm khuyết đang nằm ở đâu.

Mùa Chay là mùa để đưa ra các quyết định cải đổi cuộc sống, bắt đầu bằng việc thực hiện các điều quyết định ấy….

Có dễ dàng không? Không dễ dàng chút nào, và không ai nghĩ là dễ dàng. Mùa Chay không phải là dùng thời gian 40 ngày để nhìn chằm chằm vào tấm gương linh hồn của chúng ta để tỉ mỉ xem xét, kiểm kê, đánh giá một cách dễ dãi. Chẳng dễ dàng chút nào khi chúng ta tự hỏi chúng ta có thực sự tốt lành, có thực sự nhân đức, có thực sự trung thành, và có thực sự cảm thông như chúng ta muốn hay không. Tôi cho rằng mùa Chay là một thời gian thuận tiện. Mùa Chay là thời gian chúng ta được yêu cầu hãy sống thân mật với Thiên Chúa hơn nữa.

Thế còn Michael thì sao? Còn những đứa trẻ như Michael thì sao? Tôi cho rằng tất cả các chúng đều hiểu mùa Chay và những ý muốn của Thiên Chúa về mùa Chay tốt hơn bất kỳ ai trong chúng ta rất nhiều. Những đứa trẻ ấy sống trong một mùa Chay triền miên… một cuộc sống triền miên phải tự vấn, phải tự nhìn lại, phải tự đánh giá về những mất mát.

Những đứa trẻ ấy vẫn tự hỏi, hỏi đi hỏi lại:

“Tôi đã làm gì sai trái? Tại sao tôi phải sống như thế này… Tại sao không có ai yêu thương tôi… Tôi khổ sở vì tôi không xứng đáng với một điều nào tốt đẹp hơn sao?”

Đôi khi, như trong trường hợp của Michael, hành vi suy tư và tự vấn rất mãnh liệt và đau đớn, chúng chỉ có thể chia sẻ điều ấy qua việc vẽ nghệch ngoạc lên một tập giấy. Nói thành lời, và nghe những lời ấy… rất đau đớn.

Mùa Chay thực sự ở trong tâm hồn của các trẻ ấy từng giây phút trong suốt cuộc sống của chúng.

Dĩ nhiên, nhìn thấy Thiên Chúa trong ánh mắt u hoài và khuôn mặt hốc hác của các trẻ ấy không phải là một điều dễ dàng. Tôi biết, tôi biết rõ, ở đó, các bạn sẽ nhìn thấy Chúa.

Tôi xin được yêu cầu các bạn hai điều cho các trẻ em của chúng ta trong mùa Chay này. Trước nhất, ước chi các bạn hãy đọc cho các trẻ em của chúng tôi mỗi ngày một lời kinh. Xin cầu nguyện cho 1.400 trẻ em, những đứa trẻ may mắn đã tìm được sự giúp đỡ trong các trung tâm của chúng tôi, và cho cả những đứa trẻ khác đang đi tìm, đang sống dưới những đường xe điện ngầm, vẫn đang thoi thóp trong một mùa Chay căng thẳng triền miên, lúc nào cũng tự hỏi, mà dường như không bao giờ chấm dứt. Những lời cầu nguyện của các bạn có ý nghĩa rất nhiều đối với các trẻ này, và cả đối với tôi nữa. Xin cảm ơn các bạn về điều ấy.

Và hôm nay, các bạn có thể giúp các trẻ em của chúng tôi một món quà mùa Chay được không? Nhu cầu của chúng tôi hiện nay rất lớn. Nhờ lòng tốt tuyệt vời cũng như lời cầu nguyện và sự nâng đỡ của các bạn, mà chúng tôi đã có thể giúp đỡ hơn 48.000 trẻ em trong năm nay. Tất cả các em ấy đang tìm kiếm. Tất cả các em ấy đang hy vọng. Tất cả các em ấy đang tự hỏi không biết có một thế giới nào tốt đẹp hơn cho chúng hay không.

Đức bác ái của các bạn sẽ làm cho tất cả các em ra khác. Các bạn thực sự làm được điều ấy. Chúng tôi không thể ở lại đây được với các trẻ nếu thiếu các bạn. Các bạn hãy giúp đỡ ngay bây giờ được không?

Cảm ơn các bạn vì đã đọc những dòng này và cầu nguyện cho các trẻ của chúng tôi. Chúng tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ ngưng cảm tạ Thiên Chúa vì các bạn đã gặp được chúng tôi. Không bao giờ! Đặc biệt là trong mùa Chay này….

“Tôi nhìn thấy trên đường phố một đứa bé gái đang co ro lạnh lẽo, với chỉ một chiếc áo mỏng manh, thèm thuồng một bữa ăn ngon lành. Tôi đâm ra uất ức và thưa với Thiên Chúa: ‘Sao Chúa lại nỡ để xảy ra như thế này? Sao Chúa không làm một điều gì đi chứ?’ Thế mà Thiên Chúa vẫn làm thinh. Tối hôm ấy, Thiên Chúa bỗng nhiên đã trả lời nhỏ nhẹ: ‘Cha đã làm rồi đấy chứ. Cha đã tạo dựng con.’"

 

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 3: Em ở ngoài đường phố từ hồi 13 tuổi

Sr. Mary Rose McGeady

“Em phải xa lánh Satan, vì thế em đã bỏ nhà ra đi.”

Cơn mưa lạnh cóng hắt vào đôi mắt của tôi khi tôi đứng bên bậc thềm trung tâm Nhà Giao Ước mới được thành lập tại thành phố Vancouver.

Tôi không dám quyết đoán đứa trẻ gái ngồi trên bậc thềm bên dưới tôi đây đang nói đùa hay nói thật, mặc dù tôi đoán mình thực sự đã biết đâu là câu trả lời. Đầu óc tôi biết những gì em nói với tôi là sự thật, nhưng trái tim của tôi lại không muốn chấp nhận điều đó.

Tôi hỏi lại:

“Thế em muốn nói gì?”

Julie nhìn vào tôi bằng ánh mắt buồn bã và rã rời, như thể chính em cũng không tin vào những điều em vừa nói với tôi.

Julie đáp:

“Soeur biết đó. Uhmmm… cha mẹ của em là những người theo đạo Satan…”

Julie nói tiếp, giọng của em lạc hẳn đi:

“Họ là những người yêu mến Satan.”

Hầu như tôi có thể cảm nhận được sự kinh tởm và thống khổ trong giọng nói của em….

Julie lại tiếp:

“Em hầu như không thể tin được những gì cha mẹ em đã làm. Em muốn nói là từ khi em lên tám tuổi, cha mẹ em đã quyết định gia nhập giáo phái thờ Satan..”

Julie nói mà ánh mắt của em đầy ứ nỗi kinh hãi:

“Có những con người ghê sợ như thế ở khắp nơi.”

Rồi Julie kể tiếp:

“Em hy vọng một ngày nào đó, cha mẹ em sẽ chừa cải. Em vẫn nghĩ đó thật là một cơn ác mộng, và đến một ngày nào đó, nó sẽ chấm dứt. Nhưng cha mẹ của em lại bắt đầu thực hiện những điều kinh sợ mà các người đứng đầu giáo phái đang làm.”

Rồi dàn dụa nước mắt, Julie nói:

“Em… kể ra những điều đó cho Soeur, em cũng không dám. Sáng nào thức dậy, em cũng hoảng sợ, ngày nào em cũng sống trong hoảng sợ, và tối nào em cũng đi ngủ cũng trong hoảng sợ.

“Khi lớn lên, em đã cố gắng để thưa với cha mẹ em rằng em gớm ghét chuyện đó. Và em nói em rất hoảng sợ. Em nói rằng em không thể nào chịu hơn được nữa.

“Nhưng cha mẹ em bắt em phải im miệng… phải làm những gì các người đứng đầu giáo phái truyền phải làm… đó là phải chấp nhận Satan.”

Julie ngưng lại một chút để nhìn vào tôi. Tôi cho rằng em muốn ướm xem tôi có thực sự lắng nghe, có tin và có quan tâm đến những điều em đang kể lại hay không.

Đôi mắt Julie như thét lên với tôi:

“Xin đừng nghĩ rằng em điên, Soeur nhé! Em biết chuyện này có vẻ đáng sợ thật, nhưng em không phải là người đáng sợ. Em cần có một người tin vào em.”

Đó không phải là ánh mắt giận dữ, mà là một ánh mắt buồn bã và cay đắng. Tôi biết chắc là Julie tin vào những lời thốt ra từ môi miệng của em.

Julie hắng giọng, rồi bắt đầu kể tiếp. Kể rất ôn tồn. Tôi lắng nghe không bỏ sót một lời nào.

“Em cố gắng ở lại với cha mẹ, nhưng em không thể chịu nổi…

“Em muốn nói là em sợ chết…

“Em không biết phải làm gì nữa. Em nghĩ, nếu cứ ở lại đó, chắc em sẽ chết mất.

“Vì thế, em đành bỏ trốn khỏi gia đình. Em đành phải ra đi.”

Cặp mắt của Julie lại nhìn vào tôi. Lúc này, tôi thấy em rươm rướm nước mắt, trên khuôn mặt đã ướt đẫm của em. Tôi muốn lao đến và ôm chằm lấy đứa trẻ, nhưng tôi biết vẫn chưa đến lúc.

Tôi nói:

“Chắc là kinh khủng lắm.”

Ánh mắt của Julie lại nháy lên, xác nhận, và yêu cầu tôi tiếp tục.

Tôi hỏi tiếp:

“Cuộc sống đường phố chắc cũng rất gian khổ. Em cảm thấy bơ vơ lắm phải không?”

Ánh mắt của Julie nháy lên, một lần nữa lại xác nhận.

Tôi hỏi thêm:

“Thế em bao nhiêu tuổi, chắc là 16 hay 17 phải không?”

Đứng từ dưới bậc thềm, Julie mấp máy trong miệng:

“Dạ, em 17 tuổi.”

Em lại lí nhí trong miệng:

“Em sống trên đường phố từ hồi em 13 tuổi.”

Rồi em trầm ngâm:

“Phải nói là rất hãi hùng…

“Em muốn nói là Soeur không thể tưởng tượng được cuộc sống đó khủng khiếp như thế nào đâu. Em chẳng biết phải đi đâu, chẳng biết ăn uống gì…

“Em đi vất vưởng ngoài đường, cố gắng giữ độ ấm trong người và hy vọng khỏi chết là may.”

Tôi mở miệng, định nói những lời cảm thông, cho Julie biết tôi rất đau lòng vì em đã phải chịu quá nhiều, nhưng em đã kịp ngăn khi tôi chưa nói thành lời.

Julie dường như có một điều gì muốn cho tôi hiểu.

Vâng, nếu tôi có sống đến một trăm tuổi đi nữa, tôi sẽ không bao giờ quên được điều đó.

Em nói:

“Nhưng Soeur biết không, thật khiếp khủng. Tuy nhiên, bỏ trốn khỏi gia đình lại là điều tốt nhất mà em đã làm được…

“Điều… tốt nhất… mà em đã… làm được.” Julie lặp đi lặp lại chậm rãi, nghiêm trang, rồi òa lên khóc.

Tôi đặt tay lên tấm vai nhấp nhô của em, vỗ về nhè nhẹ.

Tôi nói nhỏ:

“Soeur hiểu, Soeur hiểu. Rất mừng vì em đã đến đây với chúng tôi. Chúng tôi sẽ chăm sóc cho em.”

Rồi tôi thầm thĩ cùng Thiên Chúa:

“Em nghĩ điều tốt nhất đứa trẻ này đã từng làm được là đã đến đây. Em hứa từ nay sẽ làm cho em cảm thấy hạnh phúc.”

Tôi vẫn gặp ít nhiều khó khăn khi tin toàn bộ câu chuyện này. Tôi biết mình đã dùng quá nhiều lời để kể cho các bạn nghe biết về cuộc sống đường phố khủng khiếp như thế nào đối với các trẻ em… và đúng thật là như vậy. Rất nhiều em đang chết dần chết mòn ở đó… và đúng thật là như vậy. Ngay giây phút này, có hàng ngàn, hàng ngàn trẻ em cần một ai đó để cứu giúp mình… và đúng thật là như vậy.

Nói thì nghe khó tin, nhưng đôi khi việc trốn khỏi gia đình lại là một điều tốt hơn đối với một đứa trẻ. Mặc dù khó hiểu, nhưng ngay tại đây, hàng ngàn đứa trẻ như Julie đang sống trong tuyệt vọng, trong những môi trường khủng khiếp, và con đường duy nhất để tìm được sự trợ giúp và hy vọng lại là rời bỏ gia đình.

Các bạn có thể tưởng tượng nổi cuộc sống ấy như thế nào không? Sống trong một thế giới quá kinh hãi, thế mà các đường phố (tối tăm, rùng rợn, bơ vơ và ghê sợ) lại trở nên một lựa chọn tốt hơn. Trái tim tôi nhói lên vì cảm thương những đứa trẻ ấy. Tôi biết Thiên Chúa dành cho các em một chỗ đặc biệt trong trái tim của Người. Nỗi đớn đau, nhọc nhằn, cùng quẫn của các em hầu như vượt quá trí hiểu.

Trong khi trời vẫn mưa mưa vào một buổi sáng lạnh lẽ ở Vancouver, lúc tôi đứng đó, tôi không thể nào không nghĩ rằng chúng tôi đã đến đó đúng lúc vì Julie. Nhờ những người như các bạn, chúng tôi mới mở được một trung tâm tại Vancouver. Nhưng trước khi chúng tôi chính thức mở cửa trung tâm, thì những đứa trẻ như Julie vẫn đang ngủ trên những bậc thềm, chờ đợi để được bước vào.

Julie nói với tôi:

“Từ ngày bỏ nhà ra đi, em đã phải sống trên các đường phố. Kinh khủng thật, nhưng vẫn còn hơn ở gia đình.

“Em kiếm tiền để sống qua ngày bằng cách đọc thơ. Em chặn những người bộ hành trên các vỉa hè và đọc cho họ nghe một bài thơ, rồi xin họ một đô-la. Xét ra cũng được… Nhưng đôi khi, em không kiếm được đồng nào, không tìm được một chỗ để ngủ.”

Cảm ơn các bạn đã đến đây. Chúng tôi sẽ giúp Julie tìm được một mái nhà thực sự. Và trong lúc chờ đợi, em vẫn có cái để ăn, có cái để mặc, và một nơi ấm áp, an toàn để ngủ. Rất khó giải thích điều đó mang một ý nghĩa như thế nào đối với một đứa trẻ đã sống sót trên các đường phố.

 

“Nhà Giao Ước giống như một gia đình, với tất cả những thăng trầm của một gia đình. Nhưng điều đặc biệt là ở đây, tôi không còn cảm thấy cô đơn. Lúc nào cũng có những con người ở đây, bất cứ lúc nào, để cảm thông. Đó là một điều rất có ý nghĩa khi các bạn đang cố gắng xây dựng một cuộc sống cho bản thân.”

James, 18 tuổi, một thành viên sống tại Nhà Giao Ước

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 1

Con Ma Nói: “Con Chỉ Muốn Được Thêm Một Cơ Hội Mà Thôi.”

Hôm đó, con ma ấy đã xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà chúng tôi vào khoảng 8 giờ tối. Nó chỉ còn da bọc xương, trắng ởn, và run lẩy bẩy bên dưới mớ giẻ rách bươm.

Dưới ánh sáng mập mờ, thật khó mà đoán được tuổi tác của con ma này. Tôi lần tìm đôi mắt của nó để đoán thử, nhưng đôi mắt của nó thật vô hồn, không nói lên một điều gì. Đôi mắt lúp sụp bên trong hai cái hốc sâu hoắm, ánh sáng soi không thấu.

Từ dáng vẻ cái xác rã rượi ấy lò dò đi tới, tôi đoán tinh thần của nó đã chết, đang vật vờ, chờ đến khi thân xác quị ngã là xong. Nó không phải chờ đợi gì lâu. Giả sử tôi đã từng gặp qua một đứa trẻ “đã-quá-muộn-không-còn-giúp-gì-được-nữa,” thì đó chính là con ma này đây.

Tôi ôm chằm con ma vào lòng, và kéo vội vào phòng cấp cứu của chúng tôi, trong lúc lòng tôi cầu nguyện thật tha thiết.

Suốt ba ngày, con ma ấy vẫn chờn vờn hấp hối. Nó thổ mửa. Nó không thể ngủ. Nó co giật. Rồi nước mắt. Rất nhiều nước mắt.

Và cuối cùng, trong một lúc dịu lại rất ngắn ngủi sau những cơn co giật, con ma (tôi tưởng như vậy) đã lên tiếng. Tiếng của nó khò khè ồ ề. Nghe phát điếng cả hồn vía.

Nó nói:

“Mẹ em bị ung thư hồi em lên 10 tuổi.

“Em chưa bao giờ sống với cha em. Em nghĩ là ông ấy thực sự không muốn có em – nhưng ông ấy rất yêu thương mẹ em.

“Sau khi mẹ em qua đời, ông ấy bị xúc động quá mức. Ông ấy đấm đá em lăn lộn, bảo em là đồ phế thải, đáng ra em, chứ không phải mẹ em, phải chết.”

Con ma dừng lại, nhắm nghiền đôi mắt.

“Thế rồi, em đi lang thang khắp các góc phố để lánh mặt cha em, và em đã sa vào ma túy năm em học lớp sáu.

“Thế rồi ông ấy đuổi em ra khỏi nhà. Chuyện đó xảy ra đã năm năm rồi. Kể từ đó, em phiêu bạt trên các đường phố.

“Bây giờ em chỉ muốn thế giới này để cho em được yên thân. Em chỉ muốn chết quách cho rồi.”

Con ma lăn lộn trên giường, rồi quay mặt vào tường.

Tôi đến gần, vỗ về nhè nhẹ đôi vai của con ma, vì sợ sức nặng bàn tay của tôi có thể làm thân xác đã nhừ tử của nó phải buốt nhức thêm.

Dù sao, chúng tôi cũng phải giúp con ma này cắt cơn nghiện trước đã, dụ cho nó ăn uống, rồi dắt đến gặp các chuyên viên tư vấn. Nó đã sống như một cái xác ướp: thụ động, câm nín, vô cảm.

Tôi vẫn còn nhớ lúc ấy tôi đã nghĩ trong đầu:

“Mình làm hết khả năng, nhưng chẳng được gì cả. Thằng bé này có lẽ đã quá muộn rồi….”

Thế rồi, vào chiều tối của một ngày thứ Ba, một điều đã xảy ra mà tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ có thể quên được.

Lần đầu tiên, con ma nhìn thẳng vào mắt tôi, rồi nói:

“Em đã quyết định một điều.”

Nó nhấn giọng:

“Em đã quyết định phải sống,”

Rồi nhấn mạnh thêm một lần nữa:

“Em thực sự phải sống.”

Đó không phải là một con đường dễ dàng trơn tru. Suốt nhiều ngày, nhiều tuần và nhiều tháng, Michael (tên của con ma) đã phải chiến đấu chống lại những cơn nghiện vật vã gào thét trong người của nó. Đã từng có một thời, heroin là câu trả lời duy nhất, là lối thoát nhanh nhất và chắc chắn nhất giúp đứa trẻ xa tránh một cuộc sống mà không ai cần thiết hoặc đếm xỉa đến nó. Giờ đây, heroin đã trở nên đồ bị Michael nguyền rủa. Suốt nhiều đêm, chúng tôi nắm chặt tay đứa trẻ khi nó vật vã lăn lộn và la thét trên giường, chiến đấu để duy trì mạng sống và ước mơ muốn tiếp tục sống của nó.

Thời gian vẫn trôi qua, Michael bắt đầu kêu lên:

“Lạy Chúa, xin giúp con. Con hối hận về những gì con đã làm…

“Con chỉ muốn được thêm một cơ hội mà thôi.”

Sau cùng, vào một ngày kia, hy vọng đã đến và chứng nghiện đã hoàn toàn dứt hẳn. Việc ấy giống như mặt trời bỗng nhiên tái xuất hiện trong cuộc đời của Michael – 18 tuổi, quá muộn, nhưng cuối cùng, đã đến. Michael tràn ngập niềm vui, nó ngồi đó, ngay trên những bậc thềm nhà chúng tôi và thổn thức, với những dòng nước mắt lặng lẽ, âm thầm, và thanh thản.

Sau đó, bệnh tình của Michael hồi phục rất nhanh. Nó là một đứa trẻ sáng dạ. Chúng tôi đã giúp nó hoàn tất chương trình trung học phổ thông và nộp đơn xin học bổng để vào đại học.

Đó là chuyện của năm ngoái.

Hôm nay, Michael ghé đến chào thăm chúng tôi. Ký ức của tôi lại thoáng hiện lên hình ảnh của con ma ngày nào.

Michael cho tôi biết hiện giờ em vừa làm việc như một nhân viên thú y tập sự, vừa theo đuổi chương trình đại học chính qui toàn thời gian – và được toàn những điểm tối đa!

Michael nói:

“Cám ơn, Soeur!”

Gặp ai, Michael cũng cứ lặp đi lặp lại:

“Cám ơn, em muốn thực lòng cám ơn.”

Tôi cũng nói với Michae:

“Soeur cũng cám ơn em. Nhưng không biết giữa Soeur và em, ai hạnh phúc hơn ai đấy nhé.”

Tôi ước mong các bạn cũng ở đó. Vào đêm đầu tiên ấy, và cả hôm nay nữa.

Tôi muốn nói, tôi quá biết thực tế không phải lúc nào cũng dễ dàng như đọc những dòng chữ này. Thật thương tâm khi nghe những đứa trẻ bị bỏ rơi, bị đánh đập và tuyệt vọng, và có thể chúng sẽ chẳng bao giờ biết một điều gì khác ngoài chuyện bị bỏ rơi, bị đánh đập, để rồi rơi vào tuyệt vọng.

Thiên Chúa biết các bạn cũng có những quan tâm, những âu lo và ưu tư riêng của các bạn. Tuy nhiên, hôm nay, tôi đã gặp một con người mà chính các bạn đã đem lại cho nó một cuộc sống mới. Không hơn không kém. Michael đã được tái sinh, và sự sống của nó chính là món nợ đối với những con người tốt lành như các bạn.

Tôi chẳng biết phải nói thế nào, ngoài những lời như thế. Trong cái thế giới quá tốc độ, quá phức tạp, quá vật chất và quá tất bật này – các bạn đã băng mình và đã thực hiện được một điều rất cao cả và có lẽ là điều duy nhất thực sự quan trọng: đó là các bạn đã đem lại cho tha nhân cuộc sống của họ.

Tôi không thể nào cảm ơn các bạn cho đủ về những gì các bạn đã mang lại cho Michael và cho hàng trăm, hàng trăm những đứa trẻ khác nữa tối nay sẽ xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà chúng tôi. Có lẽ cũng đã đủ – tôi hy vọng như vậy – khi các bạn biết tất cả chúng tôi đều mang ơn và ghi ơn các bạn, và chúng tôi không bao giờ ngừng cảm tạ Thiên Chúa vì các bạn đã gặp thấy chúng tôi.

Không bao giờ.

Một lần nữa, xin cảm ơn các bạn. Rất nhiều. Và xin hãy nhớ, các bạn luôn luôn ở trong lời cầu nguyện của tôi….

 

NẾU NHƯ

Mọi đôi môi đều nói lên sự thật,

Mọi kiêu hãnh đều bị dẹp bỏ,

Thói tham lam bị kiềm chế và hãm dẹp,

Và tính ganh tị chịu khuất phục.

Nếu như tình yêu thương thống trị vũ trụ,

Lòng nhân ái được gieo vãi nơi mọi chủng tộc,

Khi ấy người ta có thể nhìn vào tấm gương

Và thấy được Thiên Chúa với thánh nhan của Người….

Bài thơ của một bé gái đường phố, 16 tuổi

 

Sr. Mary Rose McGeady

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 2

Nó thưa : “Em không biết mình sinh ra ở đâu nữa”

Tôi hỏi: “Em ở đâu?”

Nó đáp: “Em không biết.”

Tôi hỏi tiếp: “Thế mẹ em đâu?”

Nó đáp: “Chết rồi.”

Tôi lại hỏi: “Mẹ em làm sao mà chết?”

Nó đáp: “Em không biết.”

Tôi lần hỏi thêm: “Thế còn cha em đâu?”

Con bé lại mở miệng trả lời, vẫn với giọng nói yếu ớt khẽ khàng, nhưng lần này thì không phát ra thành lời được nữa. Nó đứng đó, thân hình nhỏ bé, tiều tụy và rất cô đơn, nhìn cắm xuống đôi giày dưới chân, nuốt vội những giọt nước trào ra từ khóe mắt.

Con bé rất đặc biệt. Tôi có thể nói ngay như vậy. Trong cái thế giới đầy những trẻ em bị lạc loài, bơ vơ và bầm dập của chúng ta, đứa bé gái này tức khắc nổi bật như đứa trẻ lạc lõng nhất, tê tái nhất – một đứa trẻ hoàn toàn và tuyệt đối chẳng quen thân với một ai hay một nơi chốn nào. Một đứa trẻ vô tội hoàn toàn không có căn cước hay gốc gác gì cả. Một đứa trẻ bị buộc phải trải qua một kiếp sống mà không biết bản thân mình là ai, không biết mình từ đâu mà đến, cũng chẳng hiểu vì sao mình lại vào đời.

Tôi nén hơi một lúc thật sâu, rồi đặt tay lên bờ vai của con bé và cố không để lộ ra rằng tôi đang xúc động và lo lắng trong lòng như thế nào.

Tôi chỉ vào một chiếc bàn trong nhà chúng tôi và nói:

“Đây, chúng ta ngồi xuống đây nhé.”

Tôi nghĩ mình sẽ nói chuyện với đứa bé này một lúc, cho em biết chúng tôi rất vui mừng vì em đã tìm đến với chúng tôi, và chúng tôi rất muốn giúp đỡ em. Thế nhưng, em đã làm tôi vô cùng ngạc nhiên. Thật khó khăn lắm em mới kể ra câu chuyện cuộc đời em cho tôi nghe, mặc dù em rất muốn.

Tôi cho rằng em đã phải….

Đứa bé gái nói:

“Em… em thực ra cũng có một ông bố.”

Em lại tiếp:

“Ông ấy ở ngay tại New York này. Vì thế, em mới đến đây.”

Tôi hỏi cắt ngang:

“Thế trước đó, nhà em ở đâu?”

“Ở Chicago. Em… muốn, em thực ra không có nhà. Em sinh ra ở đâu em cũng chẳng biết. Em đã sống tại các cô nhi viện từ hồi em lên bốn tuổi. Nhưng ở đó tệ hại quá, Soeur à. Em không thể chịu nổi…

“Thế là đành phải bỏ đi…

“Trong hai năm nay gần đây, em sống tại một khu nhà bỏ hoang ở Chicago với một đám bạn cùng độ tuổi.” (Tôi đoán cô bé vào khoảng 17 tuổi).

Nghĩ đến cuộc sống lạnh lẽo, lẻ loi và khủng khiếp như thế của một đứa trẻ, tôi lẩm bẩm:

“Chắc hẳn rất khó khăn cho em.”

Đứa trẻ đáp:

“Đúng vậy. Nhưng ít ra ở đó, em cũng cảm thấy an toàn. Ít nhất em cũng gặp được một số bạn bè để làm nên một gia đình.”

Tôi lại rùng mình một lần nữa.

Đứa trẻ kể tiếp:

“Cách đây hai tuần, em có cơ hội tìm ra được chỗ cha em đang sống. Trước đó, em không hề biết. Em chưa gặp cha em kể từ khi em lên bốn tuổi…

“Thế là em viết một lá thư gửi cho ông ấy, và xin phép được đến thăm. Ông ấy đã đồng ý…

“Thế là em đi đến New York. Dọc đường, em xin đi quá giang. Mất hết một tuần lễ.”

Jenny với tay ra đàng sau và cởi chiếc ba lô đang mang sau lưng, rồi nhẹ nhàng vuốt qua vuốt lại mấy lần cho phẳng phiu.

Dòng nước mắt bắt đầu lã chã tuôn xuống nhanh hơn một chút trên đôi má của nó.

Tôi hỏi dồn:

“Thế rồi chuyện gì đã xảy ra?”

Jenny đáp:

“Thật khủng khiếp. Cha em không hề muốn gặp em, Soeur ạ. Ông ấy chỉ muốn tiền bạc của em mà thôi. Ông ấy là một người nghiện.”

Nói đến đó, Jenny gục xuống và khóc to.

Tôi cảm thấy trái tim mình cũng tan nát.

Tôi thực ra không biết sau đó chuyện gì sẽ xảy ra với Jenny. Jenny bị đặt vào giai đoạn giữa tuổi thơ ấu và tuổi trưởng thành như thế đó. Em không có một căn bản nào để bước từ độ tuổi này sang độ tuổi kia.

Em không có một ký ức đẹp nào trong đầu. Không một bức hình gia đình. Không giấy khai sinh. Không nơi sinh.

Cha em là một người nghiện ma túy. Mẹ em đã qua đời.

Mọi sự Jenny có tất cả chỉ gồm trong một chiếc bao ngủ. Và đó là chiếc ba lô được xếp gọn gàng nhất mà tôi đã từng nhìn thấy.

Thực sự rất ngạc nhiên, khi đưa đứa trẻ vào phòng và chúc ngủ ngon, chúng tôi mới nhìn thấy em giở ba lô ra. Mặc dù vô gia cư, nhưng mọi thứ trong chiếc ba lô của em được xếp rất ngăn nắp và sạch sẽ. Em còn có bốn hoặc năm tuýp kẹo chewing gum trong mỗi ngăn. Em giải thích với tôi:

“Vì không biết bao giờ mới có dịp đánh răng, nên em phải chuẩn bị như vậy.”

Quả thật, Jenny là một đứa trẻ rất đặc biệt….

Tôi không hiểu vì sao Jenny lại có một khả năng rất đặc biệt như vậy trong việc ứng phó với các hoàn cảnh, và cũng không biết đó có phải là một tình trạng hết sức đau khổ được che kín bên dưới cái vẻ ngăn nắp và sạch sẽ bề ngoài như vậy hay không.

Tôi không biết chúng tôi sẽ ở đây, giờ này, là vì đứa trẻ ấy, để trở nên một gia đình cho đứa trẻ ấy, một gia đình mà nó thực sự chưa bao giờ có được, để cung cấp cho đứa trẻ ấy một chiếc neo dựa mà nó chưa bao giờ biết đến.

Có lẽ phải mất một thời gian nữa. Nhưng vào một ngày không xa, tôi hy vọng, sau khi đã dành cho đứa trẻ ấy tình yêu thương, những lời chỉ dẫn và sự nâng đỡ mà nó vô cùng cần thiết (điều cốt yếu là sau khi chúng tôi đã giúp Jenny tìm lại được cuộc sống của nó), chúng tôi sẽ giúp Jenny làm lại cuộc đời qua chương trình Thăng Tiến của chúng tôi.

Với chương trình này, chúng tôi sẽ giúp Jenny những thứ cần thiết để em có thể thăng tiến từ tuổi thơ ấu cho đến tuổi trưởng thành, những điều mà em rất xứng đáng được hưởng, nhưng lại bị tước mất – đó là được đi học, được đào tạo hướng nghiệp và các kỹ năng để sống tự lập – với một cố vấn từng trải tận tình hướng dẫn và khích lệ em vượt qua từng bước đường.

Đó là một hành trình dài, rất dài, trước mắt Jenny. Nhưng tôi biết em là một đứa trẻ nhất định sẽ làm được điều đó. Tôi biết chắc như vậy.

Cũng như mọi khi, tôi xin thay mặt Jenny và 1.399 đứa trẻ khác mà chúng tôi sẽ gặp vào tối nay để cảm ơn các bạn. Tôi biết các bạn có những ưu tư, có những hóa đơn sẽ phải tính và có một gia đình để lo lắng. Tôi biết rằng việc làm cha mẹ yêu thương và hướng dẫn cho 1.400 đứa trẻ mà chúng tôi gặp gỡ hằng đêm không phải lúc nào cũng là một việc dễ dàng.

Nhưng xin các bạn biết cho, trong từng giây từng phút, điều đó mang một ý nghĩa đối với chúng tôi và đối với những đứa trẻ này. Trong một thế giới có những đứa trẻ xinh đẹp và vô tội như Jenny, nhưng lại thường bị vứt bỏ và bị lãng quên, thì chính bàn tay và trái tim của các bạn sẽ đem lại cho chúng niềm vui. Chính tình yêu các bạn sẽ làm cho vấn đề nên khác. Tôi không thể nói điều này cho đủ được. Những lời cầu nguyện và sự nâng đỡ của các bạn nói lên tất cả đối với các trẻ. Và đối với cả tôi nữa.

Xin cảm ơn, xin cảm ơn, xin cảm ơn các bạn đã lưu tâm đến chúng hết khả năng các bạn. Tôi không bao giờ ngưng cảm tạ Thiên Chúa vì các bạn đã tìm thấy chúng tôi.

Lạy Cha thân yêu của chúng con trên trời,

Xin Cha thương ban cho con sức mạnh để tiếp tục sống trong thời gian con ngụ tại Nhà Giao Ước. Xin ban cho con sự khôn ngoan và hiểu biết để làm điều gì phải, và đừng làm điều gì trái. Xin Cha ban cho con sức mạnh để thực hiện những điều dốc lòng đúng đắn về những gì đang xảy ra. Con biết mình đã chọn nhiều điều không đúng, những con muốn sửa cải điều đó. Cuộc sống trong thời buổi này vốn không dễ dàng đối với con, nhưng con biết Chúa sẽ ban cho con sức mạnh để tiếp tục sống bởi vì con tin vào Chúa và tất cả những gì Chúa đã phán và Chúa đã thực hiện. Amen.

Một lời kinh do một trẻ đã viết tại nguyện đường Nhà Giao Ước

Sr. Mary Rose McGeady

Lạy Chúa, Xin Cứu Con – Dẫn Nhập

SƠ LƯỢC VỀ TÁC GIẢ

Là giám đốc Nhà Giao Ước, tổ chức lớn nhất chuyên cung cấp nơi tạm cư cho các trẻ em vô gia cư và sống lang thang tại Hoa Kỳ, nữ tu Mary Rose McGeady nổi tiếng là một chuyên gia hàng đầu về trẻ em đường phố tại đất nước này. Với khả năng ấy, nữ tu Mary Rose McGeady thường xuất hiện trước các ủy ban ở thủ đô Washington, D.C., trên truyền hình và đọc diễn văn khắp đất nước Hoa Kỳ vì quyền lợi “các đứa trẻ.”

Trước khi gia nhập tổ chức Nhà Giao Ước, nữ tu Mary Rose McGeady đã làm việc hơn 40 năm với các trẻ em, với các chức vụ như: Giám đốc điều hành trung tâm Nazareth chăm sóc các trẻ em vô gia cư và gặp vấn đề tại thành phố Boston, Massachusetts; Giám đốc điều hành Nhà Astor dành cho trẻ em tại Rhinebeck, thành phố New York; Giám đốc điều hành Trung tâm huấn luyện dành cho các trẻ em ngoại thường và Trung tâm Kennedy nghiên cứu về trẻ em, cả hai đều đặt trụ sở tại thành phố New York; Phụ tá giám đốc điều hành hội Bác Ái Công Giáo của giáo phận Brooklyn.

Nữ tu Mary Rose McGeady là nữ tu dòng Nữ Tử Bác Ái của thánh Vincent de Paul từ hơn 50 năm nay.

LỜI NGỎ

Tôi đang cầu nguyện để các bạn đọc quyển sách này.

Những đứa trẻ ở đây thật ngây thơ và dễ thương, giống như nhiều đứa trẻ khác mà các bạn có thể đã từng biết. Tôi biết, nếu như các bạn gặp chúng, các bạn nhất định cũng sẽ yêu thương chúng!

Cảm ơn các bạn đã đọc quyển sách này, và nếu có thể, xin nhớ đến nó trong lời cầu nguyện của các bạn.

Nữ tu Mary Rose McGeady

TB: Sau khi đọc xong quyển sách này, xin các bạn hãy chuyền cho một người bạn, hoặc một đứa trẻ nào đó mà các bạn quen biết.

DẪN NHẬP

Nếu như Thiên Chúa không thính tai, thì có lẽ tối nay, Nhà Giao Ước của chúng tôi đã trống vắng.

Các bạn hãy xem, tối nay, trên khắp đất nước Hoa Kỳ, có những đứa trẻ đang bơ vơ, rã rời và hoảng hốt. Giữa bóng đêm chập chùng, chúng kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con. Ôi lạy Chúa.”

Nếu như những đứa trẻ ấy đến đứng tại một góc phố và thét lên lời van xin ấy… nếu như chúng làm các dấu hiệu… nếu như chúng nêu thông điệp ấy trên những trang quảng cáo, những người như các bạn và tôi có lẽ sẽ đáp lại tiếng chúng.

Lẽ nào chúng ta lại nỡ lòng làm thinh?

Tuy nhiên, những đứa trẻ đã không làm như vậy. Chúng không tin thế giới này sẽ đáp ứng như vậy. Chúng không tin thế giới người lớn này sẽ đáp lại lời chúng.

Vì thế, chúng mới kêu van: “Lạy Chúa, xin cứu con.” … và một mình Thiên Chúa đã nghe lời rên rỉ ấy. Và khi đã nghe rồi, Thiên Chúa liền gửi chúng đến cho tôi.

Tôi là nữ tu Mary Rose McGeady. Suốt tám năm qua, tôi là giám đốc Nhà Giao Ước, hệ thống lớn nhất chuyên cung cấp nơi tạm cư khẩn cấp và là nguồn chu cấp cơ hội thứ hai cho các trẻ vô gia cư tại Hoa Kỳ. Mỗi đêm, chúng tôi phục vụ khoảng 1.400 trẻ em – thuộc mọi hoàn cảnh cuộc sống và từ mọi nẻo đường của đất nước.

Tôi tin rằng tuyệt đại đa số các em đến đây là vì cuộc sống của chúng, vào một giai đoạn nào đó, đã trở nên quá khủng khiếp đến độ chúng phải đã nài xin Thiên Chúa cứu vớt… và Người đã nhậm lời.

Quả thật, Thiên Chúa rất thính tai.

Ngay cả sau khi đã đến đây, các trẻ ấy còn phải mất thêm một thời gian nữa mới nói đủ lớn cho chúng tôi nghe được. Và cuối cùng, khi đã bắt đầu nói, chúng sẽ kể ra những câu chuyện trong cuộc sống của chúng do cha mẹ, do cha dượng, dì ghẻ, hoặc những người lớn đã gây ra cho chúng như lạm dụng tình dục, đánh đập tàn nhẫn và xúc phạm tình cảm của chúng.

Các trẻ cũng kể cho chúng tôi nghe những điều đã xảy ra sau khi chúng đã trốn khỏi gia đình và trôi dạt trên các đường phố. Những câu chuyện ấy thật kinh hãi, khiến chúng tôi tự hỏi không biết các trẻ này bằng cách nào lại sống nổi mấy tuần lễ trong miền đất của các tay ma cô, bọn buôn lậu ma túy và đám đầu nậu khiêu dâm.

Một số trẻ em đã không sống nổi.

Quyển sách này là cố gắng của tôi, kể lại những câu chuyện của một số trẻ em của chúng tôi. Tôi hy vọng các bạn sẽ đọc nó.

Dù sao, tôi cũng xin lưu ý trước, những câu chuyện này không nhất thiết là những câu chuyện hấp dẫn. Tôi đã tiếp xúc với nhiều đứa trẻ và đã nghe rất nhiều câu chuyện. Lần nào tôi cũng tưởng mình đã nghe được câu chuyện thê thảm nhất, và từ đó về sau, sẽ là những câu chuyện đỡ phần thương tâm hơn.

Nhưng bao giờ tôi cũng lầm.

Sau tám năm trời, tôi vẫn còn bị “xốc” vì những điều các trẻ em phải chịu dưới bàn tay của cha mẹ chúng – những người được Thiên Chúa giao phó con cái của Người. Và các câu chuyện về những gì đã xảy ra với các trẻ em đường phố đã khiến tôi phải tự hỏi, không biết thế giới này có căm ghét trẻ con hay không.

Tuy các câu chuyện sau đây có thể không có gì hấp dẫn, nhưng lại là những câu chuyện rất xúc động. Nếu các bạn đọc những câu chuyện này, các bạn sẽ gặp một số trẻ em rất trong trắng, dễ thương và đầy triển vọng. Các bạn sẽ gặp những đứa trẻ thật quả cảm, rất chịu đựng và đầy sức mạnh khiến ta phải kinh ngạc.

Các bạn sẽ gặp những đứa trẻ đã từng vượt qua một địa ngục mà các bạn và tôi hầu như không thể tưởng tượng được… thế mà chúng vẫn tin vào thiên đàng.

Các bạn sẽ gặp một số trong những con người đáng yêu nhất của tôi trên thế giới này.

Năm nay, Nhà Giao Ước (Covenant House) sẽ phục vụ 48.000 trẻ em bị lạm dụng và bị bỏ rơi tại các thành phố trên khắp đất nước Hoa Kỳ – tại New York, Los Angeles, Ft. Lauderdale, New Orleans, Anchorage, Newark, Washington, D.C., Orlando, Atlantic, Houston, và trung tâm mới nhất của chúng tôi tại Detroit.

Khi các bạn đang đọc những dòng chữ này, thì chúng tôi đang cứu giúp các trẻ em tại những trung tâm ở khắp Trung Mỹ, cũng như tại Toronto, Vancouver và Mexico City (và sắp tới là St. Louis và Oakland).

Chi phí của Nhà Giao Ước còn nhiều hơn cả ngân sách của chính phủ liên bang dành để giúp đỡ các trẻ em vô gia cư. Chúng tôi cung cấp cho các trẻ chỗ ở, thức ăn nóng và y phục. Nếu cần, chúng tôi cũng liệu cho các em được chăm sóc y tế. Chúng tôi giúp chữa lành các vết thương của chúng. Chúng tôi giúp các trẻ em quay lại trường học, trở về với công việc, hoặc một nơi thường trú nào đó.

Tôi hy vọng sau khi đã đọc những câu chuyện về những con người tuyệt vời của tôi, các bạn sẽ muốn trợ giúp chúng tôi. Tôi xin thưa một cách rất chân thành, phần lớn công việc của tôi là quyên góp tiền bạc để duy trì hoạt động của các trung tâm Nhà Giao Ước. Vì các trẻ em, tôi phải ngửa tay đi xin… đi xin… và cứ phải đi xin ủng hộ cho trung tâm cư trú dành cho các trẻ em đường phố.

Tôi phải đi xin vì tôi biết đêm nay Thiên Chúa đang nghe thấy ở một nơi nào đó có một tiếng rên rỉ. Người đang cố gắng để hiểu thấu lời than van ấy qua những tiếng nấc thổn thức.

Và khi nghe thấy lời van nài, “Lạy Chúa, xin cứu con,” thì Thiên Chúa sẽ gửi đứa trẻ ấy đến cho tôi.

Nữ tu Mary Rose McGeady
Ngày 9 tháng 6 năm 1998

Đối với tôi, thần chết nào có gì xa lạ,
Ông ấy sống bên tôi mỗi ngày.
Ông ấy dụ tôi xuống huyệt sâu,
Và giấu đi cái giá tôi sẽ phải trả.

Bài thơ của một trẻ em đường phố

 

“Tình yêu của Thiên Chúa có sức sáng tạo vô biên”

Thánh Vincent de Paul