Thứ Hai
BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 1-11
"Lòng tin của anh em được thử thách, rèn luyện đức kiên nhẫn, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn".
Khởi đầu bức thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Giacôbê, đầy tớ của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, kính chào mười hai chi tộc sống phân tán khắp nơi. Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì.
Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa.
Người anh em khó hèn, hãy hiên ngang vì được suy tôn; còn người giàu mà trở nên khó hèn, thì cũng vậy, vì chưng ai nấy cũng sẽ qua đi như hoa cỏ. Mặt trời mọc lên nóng bức, làm cho cỏ héo hoa tàn, và vẻ đẹp của nó cũng tiêu tan; người giàu có cũng vậy, bôn ba đến mấy, cũng sẽ suy tàn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 67. 68. 71. 72. 75. 76.
Ðáp: Nguyện Chúa xót thương cho con được sống (c. 77a).
Xướng: 1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.
5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.
6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 11-13
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
Ðó là lời Chúa.

Suy nghiệm Lời Chúa
ĐỨC KITÔ - ĐIỀM LẠ
Hôm nay là Thứ Hai trong Tuần VI Thường Niên Năm Chẵn, Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết về một cuộc đụng độ gây ra bởi thành phần vẫn theo dõi Chúa Giêsu để bắt bẻ Người và tìm cách tố cáo Người, một đối thủ không đội trời chung của họ trên đấu trường dân Do Thái, thành phần dân chúng không thông luật bằng họ, không giữ luật như họ, thậm chí còn được họ dạy luật cho, bấy giờ lại chẳng những tỏ lòng kính phục và tôn sùng nhân vật xuất hiện từ một nơi chẳng có danh tiếng gì, được gọi là Nazarét (chứ không phải ở gần giáo đô Giêrusalem như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả), xứ Galilêa (chứ không phải xứ Giuđêa là nơi thuộc vương quốc Đavít), mà còn kéo nhau đổ xô tuốn đến với nhân vật này.
Thánh Marco đã trình thuật lại cuộc đụng độ này như sau: "Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: 'Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào'. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia".
Dầu sao chúng ta cũng thấy rằng, về phía thành phần biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, bất chấp thành kiến và ác cảm của mình, họ vẫn cứ tiếp tục nhẫn nại theo đuổi nhân vật Giêsu Nazarét, vì họ muốn biết nhân vật này thực sự là ai, từ đâu đến. Bởi thế, họ mới "xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người", để xem Người uy quyền đến đâu theo kiểu trần gian của họ. Thế nhưng, cho dù Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu là "điềm lạ" trong dân và cho dân chính mắt họ đã thấy, như việc Người chữa lành đủ mọi bệnh nạn tật nguyền của dân, hay khu trừ ma quỉ cho dân, thế mà họ vẫn chưa cho là "điềm lạ", vẫn cứ muốn "một điềm lạ" theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn chủ quan của họ.
Bởi thế mà họ chẳng thế nào và chẳng bao giờ thấy được "một điềm lạ" nào như ý riêng của họ ở nơi Chúa Giêsu, như chính Người cũng đã khẳng định cho họ biết trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Hành động tiếp ngay sau của Chúa Giêsu như được Phúc Âm thuật lại đó là: "Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia". Nghĩa là họ ở bờ bên này, và Người ở bờ bên kia, không thể gặp nhau, đúng hơn họ không thể gặp Người khi Người ở với họ, trái lại càng làm họ xa Người hơn, đúng như Người sau này quả quyết về họ và báo trước cho họ biết rằng nơi Người đi họ chẳng những không thể nào tới được, mà còn chết trong tội lỗi của họ ngay chính lúc họ đi tìm Người, nghĩa là muốn tìm biết Người nữa (xem Gioan 7:34, 8:21), và quả thực mọi sự đã xẩy ra đúng y như vậy, khi Thượng Tế Caipha sau này nhân danh Thiên Chúa để hỏi thẳng Người có phải là Đấng Thiên Sai hay không, và sau khi Người nói về mình thì bị Hội Đồng Đầu Mục Do Thái hầu như đồng thanh lên án tử cho Người (xem Mathêu 26:63-66).
Thật ra chính bản thân của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là "một điềm lạ" đối với chung dân Do Thái và riêng thành phần trí thức trong dân cũng như thành phần lãnh đạo của dân. Ở chỗ, Người chỉ là một con người tầm thường chẳng ai biết tới, xuất thân từ một sinh quán vô danh tiểu tốt trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, mà lại tự nhiên trở thành một nhân vật phi thường, có thẩm quyền về giảng dạy trước mặt dân chúng, cùng với quyền lực chữa lành cùng trừ quỉ cho dân, nhờ đó đã lôi kéo được cả dân của mình mà còn cả dân ngoại ở các vùng phụ cận nữa. Nhưng có lẽ Người là "một điềm lạ" nhất của họ là khi Người cứu được người khác mà không cứu được mình, không thể xuống khỏi thập tự giá (xem Mathêu 27:42). Đó mới là "một điềm lạ" thực sự cứu độ con người khỏi tội lỗi và sự chết mà "ai chấp nhận Người (nơi "điềm lạ" này) thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).
Đúng thế, đối với thành phần trí thức trong dân Do Thái và thành phần lãnh đạo của dân do Thái thì nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét quả là một thử thách cả thể đối với họ, chẳng những trong về nguồn gốc bí ẩn của nhân vật này, mà còn về hành vi cử chỉ "dị chúng nhân" đầy vẻ bất bình thường thậm chí quái đản của nhân vật ấy nữa. Tuy nhiên, "cái khó nó bó cái khôn" mà nếu họ chân thành tìm kiếm chân lý khách quan hơn là chủ quan, ở chỗ khiêm tốn hạ mình xuống, thì mọi sự nơi nhân vậy này và về nhân vật này sẽ trở nên hoàn toàn khác hẳn. Đó là lý do Thánh Giacôbê Tông Đồ, vị tông đồ đặc biệt của dân Do Thái, như Tông Đồ Phaolô của Dân Ngoại, trong Bài Đọc I hôm nay đã khuyên nhủ họ sống khôn ngoan như sau:
"Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì. Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa".
Quả thực là như thế, thành phần trí thức trong dân Do Thái cũng như thành phần lãnh đạo của dân Do Thái sở dĩ muốn biết về nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, muốn tìm kiếm chân lý mà lại quay ra sát hại chân lý, bởi vì, đúng như Thánh Giacôbê đã nhận định trong Bài Đọc I hôm nay: "ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa".
Bởi thế, thành phần "xin Người một điềm lạ trên trời" mà không được cần phải có một tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân.
2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài.
3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài.
4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.
5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ.
6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa.
Thu.2.VI-TN.mp3
THÁNH MÊTHÔĐÔ, GIÁM MỤC (KHOẢNG 815-885)
Toàn cầu: Lễ Kính – Ở Âu châu: Lễ Buộc
14/2

- Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ
Ngày lễ Kính thánh Cyrillô và Mêthôđô, được kính như các Tông đồ dân Slavơ và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố năm 1980, như thánh Quan thầy Âu châu, cùng tước hiệu với thánh Bênêđictô, trùng với ngày qua đời của thánh Cyrillô, khi đến Rôma vào ngày 14.02.869.
Trong thế kỷ IX, Hội Thánh đã trải rộng khắp miền Đông Âu châu và trong vùng vịnh Địa Trung Hải, và bây giờ lại bành trướng sang những chân trời mới. Các dân tộc Slavơ tiếp nhận Tin Mừng được hai nhà đại truyền giáo đem đến: Là thánh Cyrillô và Mêtôđô. Các ngài sinh tại Thêxalônica (Đông Bắc Hy Lạp), được Hội Thánh chính thống Byzantium (Đế quốc La Mã phương Đông) sai đi rao giảng Tin Mừng Moravia (Vùng đất phía Đông của Cộng hòa Séc ngày nay) và đã gặt hái được những thành công.
Trước khi đi truyền giáo vùng Moravia, Méthôđô là Tổng trấn một tỉnh người Slavơ và Cyrillô, nhỏ tuổi hơn, nhưng lại sáng chói hơn, đã chu toàn những sứ vụ tôn giáo và ngoại giao quan trọng. Cả hai nói lưu loát tiếng Slavơ.
Sứ vụ làm cho hai vị nổi tiếng là sứ vụ do Thượng phụ Photios sai đi từ năm 862-963 với mục đích dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slavơ ở Moravia trong ngôn ngữ của họ. Vì thế Cyrillô và Mêthôđô bắt đầu dạy ngữ vựng đầu tiên, được gọi là “Cyrillique” và họ cũng đã dịch các văn bản tôn giáo ra tiếng Slavơ: Thánh vịnh, các Phúc Âm, các thư Tông đồ, kinh nguyện…
Để ghi chép tiếng của các dân tộc này và viết lại Kinh Thánh bằng tiếng nói của họ, hai anh em ruột đi truyền giáo này đã hoàn thành bảng mẫu tự mới. Trong ngôn ngữ Slavơ, các ngài không những đã cử hành phụng vụ, mà còn thiết lập một nền tảng cho nền văn hóa Kitô hữu mới. Những khó khăm nghiêm trọng, nhất là cuộc chiến tranh giữa những người Đức và những người Slavơ, đã gây cản trở cho việc Tông đồ của các ngài. Đàng khác Giáo hội Byzantin không nâng dỡ đủ mức cho công cuộc truyền giáo nên các ngài đã kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ từ Giáo Hội Rô-ma. Đức Thánh Cha Ađrianô II đã chấp thuận công cuộc truyền giáo và phương pháp mục vụ của các ngài. Thánh Cy-ril-lô qua đời tại Rôma năm 869; thánh Mêtôđô sau khi được tấn phong Giám mục tại Rôma, đã trở lại rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng chịu đựng biết bao mệt nhọc ghê gớm ở cả một miền truyền giáo mênh mông gồm Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slovác, và hầu như toàn bộ vùng Nam Tư cũ như Slovenia và Croatia.
Truyền thuyết nói rằng, trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Mêthôđiô đã chuyển dịch toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Slavơ chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi Thánh Mêthôđiô qua đời năm 885 tại Veherad thuộc Tiệp Khắc, sự chống đối vẫn chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam Ba Lan.
Sau cái chết của người em, Méthôđô được gọi làm Giám mục ở Pannonie và Sứ thần Toà Thánh cho dân Slavơ; ngài gặp nhiều khó khăn do sự chống đối của hàng giáo sĩ Đức; nhưng điều này không ngăn cản được công trình Phúc Âm hoá và hội nhập văn hóa mà ngài đã theo đuổi cho đến chết (885).
Các môn đệ ngài đã rao giảng Tin Mừng miền Bohême, ông hoàng Bozyvojd được rửa tội theo nghi thức Slavơ, sau đó là dân Serbie và Lusace (vùng Croatia), tiếp đến là Ba Lan, Bulgarie, Roumanie và vùng Kiev.
Với công trình như thế, chúng ta mới thấy được công khó của hai thánh Cyrillô và Mêthôđô trong việc thiếp lập các cộng đoàn Kitô giáo trong nhiều vùng Đông Âu. Việc này đã tạo một bước tiến để thành lập Âu châu, không những về mặt tôn giáo, nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.
Mỹ thuật trình bày thánh Cyrillô với bản ngữ vựng, và thánh Mêthôđô với một quyển Phúc Âm mở ra, được ghi bằng tiếng Slavơ.
- Thông điệp và tính thời sự
Thánh Cyrillô ngã bệnh và biết trước giây phút cuối cùng của mình, vẫn nhận ra ơn gọi cao cả: “Xưa tôi chưa hiện hữu, bây giờ tôi đã hiện hữu và tôi sẽ hiện hữu mãi mãi.” Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin gìn giữ đàn chiên trung thành này… Xin triển khai Giáo hội với số lượng cao và qui tụ mọi thành phần vào trong sự hiệp nhất. Xin thu tóm tất cả thành một dân được tuyển chọn, kết hiệp mọi người trong đức tin và giáo lý chính thống…” (Phụng vụ giờ Kinh).
Được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô, Cyrillô và Mêthôđô đã giảng dạy “Đức tin chân thật và giáo lý chính thống”, nhưng hai ngài còn hoàn tất công tác Phúc Âm hóa khi hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào trong văn hóa các dân Slavơ. Nhờ thế, khi công trình của hai vị được hoàn tất, đã cho phép ngôn ngữ Slavơ xứng đáng trở thành văn tự phổ biến. Nhờ việc đề cao ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc Slavơ đã có thể chống cự lại thứ chính trị thống trị và đồng hóa của người Đức và người Hy Lạp.
Công trình của Cyrillô và Mêthôđô vô cùng to lớn, đánh dấu bằng sự can đảm trí thức và sự khiêm tốn, vì trong thời gian mà người ta chỉ được cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa bằng tiếng Do Thái, Hy Lạp hay Latinh, hai vị thánh Tông đồ của dân Slavơ đã đáp trả bằng tiếng Slavơ, và qua đó cho thấy mọi người có thể đến gần với Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của mình.
Bên cạnh các tác phẩm tôn giáo, cả hai đã dịch và suy diễn “Bộ luật Justinien”, được xem như bộ luật cổ nhất của Slavơ (Zakon Sudnyj). Người ta cũng cho rằng thánh Mêthôđô đã dịch quyển Nomokanon [Luật của Giáo hội], thu tập các luật Giáo hội và luật dân sự Byzantin.
Phúc Âm được chọn cho Thánh lễ này là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,1-20). Các khó khăn mà vị Tông đồ đã phải gánh chịu (Mêthôđô cũng đã phải vào tù) không ngăn cản được hạt giống rơi vào đất tốt và mang lại nhiều hoa trái.
Công trình Phúc Âm hóa vẫn chưa kết thúc. Chính vì thế Hội Thánh, trong ngày lễ kính hai vị thánh Tông đồ này, đã hát trong Thánh lễ Thánh vịnh 95: Từ ngày này sang ngày khác, hãy công bố ơn cứu độ của Người / hãy thuật lại cho muôn dân vinh quang của Người / cho muôn dân kỳ công của Người. Chúng ta có thể nhắc lại những lời cuối cùng của Cyrillô nói với anh mình là Mêthôđô: “Anh ơi, chúng ta đã chia sẻ cùng một số phận, cùng dắt một cái cày trên cùng một luống. Em biết anh vẫn thích Núi thánh của anh (sự cô tịch), nhưng đừng bỏ trách nhiệm giảng dạy để trở về với núi đó. Thật vậy, anh tìm được nơi nào để hoàn tất ơn cứu độ của anh?”
Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-14-thang-2-thanh-cyrillo-va-thanh-methodio/
LeThanhCyrilo-Methodio.mp3 / ThanhCyrilo-ThanhMethodio.mp3
https://youtu.be/g_HlHQhPSUU (14/2)
Có thể bạn đã từng nghe câu chuyện này, nhưng chắc rằng không phải tất cả mọi người đều biết hết về câu chuyện của thánh Valentine, nếu các bạn muốn nghe câu chuyện này thì hãy để trí tưởng tượng của bạn bay bổng theo câu chuyện do chính thánh Valentine kể cho các bạn về điều gì đã xảy ra với ngài và tại sao trên khắp thế giới người ta lại kỷ niệm ngày lễ của Tình Yêu.
Tôi xin được tự giới thiu về mình. Tên của tôi là Valentine, là Giám mục sống ở Rome vào thế kỷ thứ 3. Vào thời đó, Rome nằm dưới sự cai trị của Hoàng đế Claudius. Tôi không thích Hoàng đế Claudius và mọi người dân thành Rome cũng không thích ông hoàng Claudius.
Vào thời đó, Hoàng đế Claudius muốn xây dựng một đội quân hùng mạnh. Ông muốn tất cả đàn ông phải tham gia vào đội quân. Nhưng đa số người dân không muốn chiến tranh, họ không muốn phải chém giết lẫn nhau và phải rời xa gia đình mình. Và như các bạn có thể đoán, rất nhiều người đã không nhập ngũ. Điều này làm Hoàng đế Claudius rất giận dữ. Ông ta cho rằng nếu những người đàn ông không lấy vợ thì họ sẽ không phản đối việc tham gia vào quân đội.
Thế là, ông Hoàng Claudius quyết định không cho phép bất cứ một người đàn ông nào được kết hôn. Những thanh niên trai tráng rất tức giận với cái luật mới này của ông ta. Tôi cũng không ủng hộ luật này. Bởi vì, các bạn có biết không, tôi là một linh mục và công việc yêu thích nhất của tôi là se duyên cho các cặp tình nhân đấy. Vậy là, sau khi Hoàng đế Claudius ban hành điều luật của ông ta thì tôi vẫn tiếp tục đứng ra tổ chức các đám cưới và tất nhiên là một cách bí mật. Mà điều này lại dường như là rất thú vị. Các bạn hãy tưởng tượng xem trong một không gian nhỏ với một cây nến chỉ có cô dâu, chú rể và tôi. Tôi thì thầm đọc những lời nguyện cho đám cưới trong những tiếng bước chân rình rập của những tên lính.
Và một đêm khi đang làm đám cưới cho một đôi tình nhân tôi nghe thấy tiếng bước chân. Thật là kinh hoàng. Nhờ ơn Chúa, đôi tình nhân đã kịp trốn thoát, nhưng tôi đã bị bắt (có lẽ tại bước chân của tôi đã không còn nhanh nhẹn như trước đây). Tôi bị đưa ra toà và bị kết án tử hình. Những ngày còn lại trong tù chờ án tử hình tôi cố gắng sống một cách vui vẻ. Các bạn có biết điều gì xảy ra với tôi không? Mọi việc thật là tuyệt vời. Rất nhiều thanh niên đã đến nhà tù để thăm tôi. Họ ném hoa và những lá thư qua cửa sổ cho tôi. Họ muốn tôi biết rằng họ sẽ luôn luôn tin vào tình yêu. Một cô gái em của người cai tù được anh trai cho phép cô vào nhà tù thăm tôi. Chúng tôi đã ngồi và nói chuyện với nhau hàng giờ liền. Cô gái đã giúp tôi luôn giữ vững tinh thần. Vào ngày tôi phải lên đoạn đầu đài, tôi đã chuyển một lá thư cảm ơn đến cô gái vì tình bạn và lòng trung thành mà cô gái đã dành cho tôi, và tôi ký dưới bức thư dòng chữ: “Tình yêu của Valentine dành cho con.” Tôi tin rằng lời nhắn ấy đã dẫn đến phong tục trao đổi những bức thông điệp tình yêu vào ngày Valentine.
Bức thông điệp của tôi được viết vào ngày 14 tháng 2 năm 269 sau Công nguyên. Giờ đây, hàng năm vào ngày này mọi người lại tưởng nhớ tôi, nhưng tôi cho rằng điều quan trọng nhất là mọi người luôn nghĩ về tình yêu và tình bạn vào ngày này. Và mọi người nghĩ đến Hoàng đế Claudius, người đã cố sức ngăn cản tình yêu nhưng tình yêu đã luôn luôn chiến thắng. Khoảng hai thế kỷ sau đó, vào năm 496 sau Công nguyên, Giáo Hoàng Gelaius đã quyết định lấy ngày 14-2 là ngày lễ cho các cặp tình nhân gặp gỡ và tìm bạn trăm năm và ông đã chọn một Thánh để đại diện cho những người yêu nhau. Giám mục Valentine đã được chọn là Thánh quan thầy của Lễ hội này. Bây giờ bạn đã biết được câu chuyện về ngày Thánh Valentine. Và nếu bạn không biết làm gì vào ngày này, thì có lẽ bạn có thể kể câu chuyện về Thánh Valentine cho bạn bè của bạn, gia đình hoặc một người nào đó bạn muốn gây ấn tượng.
Hải Âu
http://suyniemhangngay.net/2020/02/21/cau-chuyen-cua-thanh-valentine/
https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=2955
Truyền thuyết Thánh Valentine – vị thần bảo trợ tình yêu Và cùng tìm hiểu về ngày lễ tình nhân lãng mạn...
Ngày Valentine 14/2 là ngày lễ đặc biệt dành cho các đôi tình nhân trên toàn thế giới. Đây là dịp đôi lứa dành cho nhau các món quà lãng mạn như hoa hồng, chocolate, trao cho nhau những nụ hôn "tình củm". Cùng chúng tớ tìm hiểu về vị thánh trong truyền thuyết và ngày lễ đặc biệt này nhé!
Có lẽ châu Âu là nơi có nhiều dị bản nhất xung quanh vị thánh này. Trong đó, truyền thuyết phổ biến nhất kể về Thánh Valentine là một người xuất thân từ trần gian thời La Mã cổ đại. Dưới thời kì trị vì của hoàng đế Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia vào rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu. Nhà vua rất khó khăn trong việc tuyển mộ quân lính. Claudius bạo chúa nghĩ rằng đó là do đàn ông còn bận tâm về gia đình vợ con nên mất hết ý chí; thay vào đó, những người đàn ông trẻ độc thân thì chiến đấu sẽ tốt hơn. Kết quả là một đạo luật hà khắc ra đời: ông đã cấm tất cả đàn ông được kết hôn. Đạo luật đi trái với ý Chúa và dân tình nên gây ra nhiều phẫn nộ.
Trước tình cảnh đó, một vị linh mục nhân ái tên Valentine đã bí mật tổ chức hôn lễ cho nhiều cặp tình nhân trong nhà thờ. Sự việc bại lộ, vị linh mục tốt bụng bị bắt giam trong ngục trước khi bị xử tử bởi hình phạt dã man là chém đầu, kéo lê xác khắp thành. Điều kì diệu là thời gian sống trong ngục tối, linh mục đã giúp chữa khỏi mắt cho con gái quản ngục vốn mù lòa bẩm sinh tên Julia. Trước khi ra pháp trường ngày 14/2 khoảng năm 270 TCN, ông đã gửi cho Julia một tấm thiệp kí tên “dal vostro Valentino” - “from your Valentine”. Cảm động trước lòng tốt của vị linh mục tốt bụng này, ngày lễ Valentine ra đời với ý nghĩa tưởng nhớ những công lao của ông trong việc bảo trợ tình yêu con người.
Một dị bản khác về xuất xứ của ngày Valentine đó là từ các lễ hội Công giáo. Cụ thể ở đây là xuất phát từ lễ hội Lupercalia chỉ có tại Rome cổ đại được tổ chức vào khoảng ngày 13-15/2 hàng năm nhằm tưởng nhớ nữ thần La Mã Juno. Trong ngày này, các cặp đôi sẽ được se duyên thông qua hình thức rút thăm tựa như một hệ thống quay số tình yêu. Những cặp đôi được se duyên sẽ làm quen và nếu thực sự có tình cảm với nhau sẽ trở thành tình nhân. Sau đó, ngày này được các mục sư chuyển thành ngày tình nhân Valentine 14/2.
Một điều thú vị không kém khi tìm hiểu về lễ tình nhân ở các nước châu Âu đó là quan niệm của họ về tình yêu. Với người phương Tây, họ cho rằng vào giữa tháng 2, chim chóc bắt đầu bước vào mùa tìm bạn tình nên khoảng thời gian này là đẹp nhất trong năm cho các đôi lứa tìm hiểu và yêu nhau, dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất. Ý niệm về một ngày lễ tình yêu giữa tháng 2 có lẽ xuất phát từ đây.
Ở các nước châu Mĩ, ngày lễ tình nhân còn có những cái tên khác. Ở Brazil, Valentine không diễn ra vào 14/2 như các nước khác. Nó diễn ra vào ngày 12/6 hàng năm và mang tên “Dia dos namorados” có nghĩa là "Ngày của tình yêu". Còn ở Colombia, Valentine được tổ chức vào ngày thứ 7 tuần thứ ba của tháng 9 với cái tên “Dia del amor y amistad” (Ngày tình yêu và tình bạn).
Thánh Valentine Và Lịch Sử Ngày Tình Yêu 14/2

Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ вỏ đức tin, ngài được тử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài тử đạo.
Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị тử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị вắт và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét χử. Sau khi dụ ∂ỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra ℓệин cho lính dùng gậy đáин đập ngài, sau đó đưa đi ᑕᕼéᗰ đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.
Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần ᗪâᗰ ᗪụᑕ là Februata Juno.
Các tu sĩ thời ấy muốn ᗪẹᑭ ᗷỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị ᑕᕼéᗰ đầᑌ.
Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi tìm chim mái .” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư тử trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine.
https://conggiaovn.com/thanh-valentine-va-lich-su-ngay-tinh-yeu-14-2-21/
ThanhValentine.mp3
https://youtu.be/qCFBml-YlWw / https://youtu.be/TVIRa5Zh4XA