4. Bánh Sự Sống

BÁNH SỰ SỐNG LC - ĐTC - GIÁO LÝ VỀ THƯ GALAT

  •  
    Tinh Cao
    Tue, Feb 15 at 6:52 PM
     
     
    Trọng kính Cộng đồng Dân Chúa,
     
    ĐTC Phanxicô đã cống hiến cho Cộng đồng Dân Chúa nói chung một loạt 14 bài Giáo Lý về Thư Galata, thứ tự như sau:
     

    3/11- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 14 - Đi theo Thần Linh

     27/10- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 13- Hoa Trái của Thần Linh

     

    20/10- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 12- Tự do được hiện thực nơi yêu thương

     

     13/10- ĐTC Phanxicô Giáo Lý về Thư Galata - Bài 11: Tự do Kitô giáo, thứ men giải phóng hoàn cầu

     

     6/10- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata - Bài 10: Chúa Kitô đã giải phóng chúng ta

     

     30/9- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata - Bài 9 về Đời Sống Đức Tin

     

     9/9- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata - Bài 8: Chúng ta là con cái của Thiên Chúa

     

     1/9- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 7 - Những Người Galata Khờ Dại

     

     25/8- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 6 Cái nguy hiểm của Lề Luật

     

     18/8- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 5 Lề Luật như Giám Hộ Viên 

     

     11/8- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 4 Luật Moisen

     

     4/8- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata Bài 3 Chỉ có một Phúc Âm duy nhất

     

     30/6 - ĐTC Phanxicô - Giáo Lý về Thư Galata: Bài 2- Thánh Phaolô Vị Tông Đồ Đích Thực

     

     23/6- ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Thư Galata - bài 1 Dẫn nhập Tổng quan


    Lý do tại sao trong các Thư của Thánh Phaolô chỉ có Thư Galata này được ĐTC Phanxicô đặc biệt chú ý và hướng dẫn cộng đồng dân Chúa chúng ta hiện nay?
    Xin nghe chính ngài trả lời ở đầu bài giáo lý thứ 1 như sau:

     

    "Hôm nay tôi muốn chia sẻ về một số đề tài được Tông Đồ Phaolô nêu lên trong Thư ngài gửi cho Kitô hữu Galata. Đây là một Bức Thư quan trọng, tôi dám nói là quyết liệt nữa, chẳng những để biết rõ hơn về Vị Tông Đồ này, nhất là về một số đề tài ngài sâu xa nói đến cho thấy vẻ đẹp của Phúc Âm. Trong Thư này, Thánh Phaolô nói đến những chi tiết về tiểu sử của ngài, nhờ đó chúng ta có thể hiểu được việc hoán cải của ngài và việc ngài quyết định dấn thân phục vụ Chúa Giêsu Kitô. Ngài cũng bàn đến một số đề tài quan trọng về đức tin, như quyền tự do, ân sủng và lối sống của Kitô hữu, những gì hết sức thời sự vì chúng đụng chạm tới nhiều khía cạnh của đời sống Giáo Hội ngày nay. Bức thư này rất thời sự. Nó dường như được viết cho thời đại của chúng ta đây."

      

    Thật vậy, vì những vấn đề chính yếu của bức Thư Galata này, liên quan đến Lề Luật, đến Ân Sủng, đến Thánh Linh, đến Tự Do của thành phần con cái Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương cứu chuộc họ nơi Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài v.v.

    mà những vấn đề chính yếu ấy mới trở thành những gì, như ngài nói "chúng đụng chạm tới nhiều khía cạnh của đời sống Giáo Hội ngày nay". Tại sao thế? 

     
    Tại vì, theo ngài, Giáo Hội, qua thành phần lãnh đạo phục vụ dân Chúa, không thể nào cứng ngắc, không uyển chuyển, cứ bám víu lấy luật lệ, cứ duy truyền thống, căn cứ vào chân lý / công lý để lên án và trừng phạt hơn là để giải phóng và chữa lành phạm nhân.
    Chính vì thế mà chúng ta mới thấy vị giáo hoàng thương xót Phanxicô đương kim của chúng ta mới nhận định và khẳng định "Bức thư này rất thời sự. Nó dường như được viết cho thời đại của chúng ta đây"
     
    Chúng ta có thể thấy lời nhận định và khẳng định trên đây của ĐTC Phanxicô về tinh thần đức tin hơn là luật lệ và đường hướng ân sủng theo tác động của Thánh Linh hơn là bảo thủ của Thư Galata ở đoạn 49 trong Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm của ngài sau đây:
     
    "Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, đớn đau và lem luốc vì xuống đường vào đời hơn là một Giáo Hội thiếu lành mạnh bởi bị giam hãm và dính chặt với cái an toàn của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội chỉ quan tâm tới vấn đề trở thành tâm điểm để rồi đi đến chỗ bị rơi vào một mạng lưới đầy những thứ ám ảnh và phương thức. Nếu một điều gì đó có lý quấy rầy chúng ta và khiến cho lương tâm của chúng ta cảm thấy áy náy, thì đó là sự kiện là có rất nhiều anh chị em của chúng ta đang sống không có sức mạnh, ánh sáng và niềm ủi an là những gì xuất phát từ tình thân hữu với Chúa Giêsu Kitô, không có một cộng đồng đức tin để nâng đỡ họ, không có ý nghĩa và mục đích trong đời. Niềm hy vọng của tôi đó là chúng ta sẽ được tác động bởi nỗi lo sợ, hơn cái sợ bị lầm đường lạc lối, trong việc cứ khép kín trong các thứ cơ cấu cống hiến cho chúng ta một cảm giác sai lầm về sự an toàn, trong các thứ luật lệ khiến chúng ta có những phán đoán thô l, trong những thứ thói quen khiến cho chúng ta cảm thấy an toàn, trong khi đó thì ở ngay cửa nhà của mình, dân chúng đang chết đói và Chúa Giêsu vẫn không ngừng nói với chúng ta rằng: 'Các con hãy cho họ ăn gì đi' (Mk 6:37)".  
     
    Chính vì "những gì hết sức thời sự" của Thư Galata này mà chúng ta cần phải đặc biệt nghiền gẫm hay ôn lại chẳng những 9 bài giáo lý của ĐTC Phanxicô mà còn cả những gì được nhắc lại bởi Phụng vụ Giớ Kinh Sách Tuần V Thường Niên (Nhóm PDCGKPV) nữa.
     

     

    Dẫn vào thư Ga-lát

     

    Đồng thời với hai thư gửi tín hữu Cô-rin-tô (56-57), thư gửi các tín hữu Ga-lát chắc hẳn là bức thư thống thiết nhất và cũng là bức thư có giọng điệu bút chiến hơn cả trong số các thư của thánh Phao-lô. Vừa hay tin anh em Ga-lát, những người mà thánh nhân đã sinh ra trong đức tin (4,19), đang đặt vấn đề không phải chỉ về quyền tông đồ của người, mà cả Tin Mừng người đã loan báo cho họ, thánh Phao-lô đã đọc cho thư ký viết thư này vào lúc cuộc khủng hoảng đang diễn ra.

    Chuyện gì đã xảy ra ở Ga-lát ? Do một số Ki-tô hữu gốc Do-thái lôi kéo, các tín hữu Ga-lát đã du nhập vào Hội Thánh việc giữ, nếu không phải là toàn thể Luật Mô-sê, thì ít là một số điều khoản Luật truyền phải làm, đặc biệt là phép cắt bì, có thể vì các tín hữu cho rằng đó cũng là một bảo đảm phụ trội để được ơn cứu độ. Nhưng đối với thánh Phao-lô, như thế là làm cho thập giá của Đức Ki-tô ra vô ích, và huỷ diệt sự tự do của người Ki-tô hữu. Vì thế, người kịch liệt chống lại. Bức thư của người là một bản biện hộ đầy xúc động về ơn cứu độ do Thiên Chúa ban không, về ơn cứu chuộc do Đức Ki-tô thực hiện đã đầy đủ trọn vẹn, về tính cách hoàn toàn mới của cuộc sống Ki-tô hữu được Thánh Thần tác động. Theo thánh Phao-lô, không phải cứ thực hiện một số việc hợp với Lề Luật là con người tội lỗi sẽ được Thiên Chúa thương, như người Pha-ri-sêu vốn nghĩ. Con người tội lỗi hoàn toàn bất lực, không thể tìm được ơn cứu độ. Họ phải đón nhận ơn cứu độ nơi Thiên Chúa không phải như một món nợ Thiên Chúa phải trả, nhưng là như một ân huệ thuần tuý, chỉ nhờ lòng tin vào Chúa Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh mà thôi. Chủ trương của người Pha-ri-sêu và của Ki-tô giáo hoàn toàn tương phản nhau. Không có lối thứ ba.

    Trong bức thư nóng bỏng này, tư tưởng dồn dập, xô đẩy nhau, những tiếng than thở xen vào giữa các lập luận. Văn phong cũng vậy, mang nặng tính bút chiến. Vì thế có những công thức gãy gọn có lúc cô đọng đến khó hiểu, đôi khi thậm chí có thể gây hiểu lầm. Khó có thể lập một bố cục thật lớp lang cho thư này, nhưng những chỗ quan trọng trong cách lập luận đủ rõ để có thể nhận ra.

    Bức thư này đặc biệt quan trọng đối với ai muốn tìm hiểu lịch sử cứu độ. Thư này còn cho thấy cuộc khủng hoảng trầm trọng đã làm cho Hội Thánh ở giai đoạn đầu phải chao đảo, và cuối cùng khiến Hội Thánh phải đoạn tuyệt với Do-thái giáo. Hoàn cảnh hiện tại cũng không làm cho bức thư này giảm tính đặc biệt thời sự : ngày nay cũng như ngày xưa, cám dỗ duy luật pháp vẫn đe doạ các Hội Thánh Ki-tô giáo, và mỗi người cần phải ý tứ để đừng lầm tưởng rằng có thể tìm được một sự an toàn hay một đảm bảo sẽ được cứu độ ngoài đức tin.

     

     

    Chúng ta hãy tìm hiểu ân huệ của Thiên Chúa

     

    Trích bài diễn giải của thánh Âu-tinh, giám mục, về thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát.

     

    Thánh Phao-lô tông đồ viết thư cho tín hữu Ga-lát, là để giúp họ hiểu biết rằng ân sủng làm cho họ không còn phải lệ thuộc vào Luật Mô-sê nữa. Quả vậy, trong khi Tin Mừng đã được rao giảng cho người Ga-lát, thì có một số người xuất thân từ giới cắt bì, tuy mệnh danh là Ki-tô hữu, nhưng lại chưa hiểu được hiệu quả tốt lành của ân sủng đã lãnh nhận, nên vẫn cứ muốn ở lại dưới gánh nặng của Lề Luật. Lề Luật ấy, Thiên Chúa, Chúa chúng ta, đã đặt ra không phải cho những người phục vụ sự công chính, nhưng cho những kẻ làm tôi tớ tội lỗi ; điều đó có nghĩa là Thiên Chúa ban một Lề Luật công chính cho những người bất chính nhằm tố giác tội lỗi của họ, chứ không phải để xoá tội lỗi đó đi. Quả vậy, tội lỗi chẳng được xoá đi nếu không nhờ ơn đức tin, một đức tin hành động nhờ đức ái. Trong khi người Ga-lát đã được đặt dưới chế độ ân sủng rồi, thì những người kia lại muốn áp đặt trên họ gánh nặng của Lề Luật, khi khẳng định rằng Tin Mừng chẳng ích lợi gì cho họ, nếu họ không được cắt bì và không chịu tuân giữ những nghi thức khác theo truyền thống của Do-thái giáo.

    Vì thế, người Ga-lát bắt đầu nghi ngờ thánh Phao-lô tông đồ, đấng đã rao giảng Tin Mừng cho họ, là người không chịu đi theo đường lối của các Tông Đồ khác ; các vị này đã buộc dân ngoại phải theo luật Do-thái. Thật vậy, thánh Phê-rô tông đồ cũng đã nhượng bộ trước sự chống đối của những người đó, đến nỗi người làm như thể chính mình cũng nghĩ rằng Tin Mừng chẳng ích lợi gì cho dân ngoại, nếu họ không chịu mang gánh nặng của Lề Luật. Thánh Phao-lô tông đồ đã làm cho thánh Phê-rô bỏ cách làm giả bộ đó, như chúng ta đọc thấy trong chính bức thư này. Vấn đề trên đây cũng được đề cập đến trong thư gửi tín hữu Rô-ma. Tuy nhiên, hình như trong thời gian giữa hai bức thư này đã có một điều gì đó xảy ra, giúp chấm dứt cuộc tranh luận và dàn xếp vụ tranh tụng giữa các tín hữu gốc Do-thái với các tín hữu gốc dân ngoại.

    Bức thư này, thánh Phao-lô viết cho tín hữu Ga-lát là những người bị lung lạc vì thế giá của những người tín hữu gốc Do-thái đang ép họ tuân giữ Lề Luật. Quả thật, người Ga-lát đã bắt đầu tin những người ấy, như thể thánh Phao-lô tông đồ đã không rao giảng sự thật vì không muốn cho họ chịu cắt bì. Vì vậy, người đã mở đầu bức thư như thế này : Tôi lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi anh em lãnh nhận vinh quang của Đức Ki-tô, để theo một Tin Mừng khác.

    Với lời mở đầu đó, người vắn tắt nêu lên vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, ngay trong lời chào thăm, khi tự giới thiệu mình là Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào -điều không thấy người nói ở một bức thư nào khác- thánh Phao-lô cho thấy rõ những người thuyết phục người ta như thế không phải là những người được Thiên Chúa sai đến, nhưng là do loài người ; người cũng cho thấy người không thể bị coi là thua kém các Tông Đồ khác, xét về uy quyền trong việc làm chứng cho Tin Mừng, bởi lẽ người biết mình là Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào khác, nhưng nhờ Đức Giê-su Ki-tô và nhờ Thiên Chúa là Cha.

     

    ThuGalata-PhungVuGioKinhSachTuanVThuongNien.mp3  

     

    --

     

BÁNH SỰ LỜI CHÚA - LM DŨNG - THỨ THƯ CN6TN-C


  •  
    Lan Chi   CHUYỂN
     

    Thứ Tư Tuần VI - Mùa Thường Niên

     

     
     
    Ca nhập lễ
    Tv 30,3-4

    Lạy Chúa,

    xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn,

    như thành trì để cứu độ con.

    Núi đá và thành trì bảo vệ con,

    chính là Chúa,

    vì uy danh Ngài,

    xin dẫn đường chỉ lối cho con.

    Bài đọc 1
    Gc 1,19-27

     

    Anh em hãy đem Lời ra thực hiện, chứ đừng nghe suông.

    Bài trích thư của thánh Gia-cô-bê tông đồ.

    19 Anh em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng : mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, 20 vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa. 21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn ; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em ; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em.

    22 Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. 23 Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. 24 Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. 25 Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo -luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm.

    26 Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. 27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.

    Đáp ca
    Tv 14,2-3a.3bc-4ab.5 (Đ. c.1b)

    Đ.Lạy Chúa, ai được ở trên núi thánh của Ngài ?

    2Kẻ nào sống vẹn toàn,
    luôn làm điều ngay thẳng,
    bụng nghĩ sao nói vậy,
    3amiệng lưỡi chẳng vu oan.

    Đ.Lạy Chúa, ai được ở trên núi thánh của Ngài ?

    3bcKhông làm hại người nào,
    chẳng làm ai nhục nhã.
    4abCoi khinh phường gian ác,
    trọng ai kính Chúa Trời.

    Đ.Lạy Chúa, ai được ở trên núi thánh của Ngài ?

    5Cho vay không đặt lãi,
    chẳng nhận quà hối lộ
    mà hại đến người ngay.
    Phàm ai làm những điều này
    không hề nao núng chuyển lay bao giờ.

    Đ.Lạy Chúa, ai được ở trên núi thánh của Ngài ?

    Tung hô Tin Mừng
    x. Ep 1,17-18

    Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Xin Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ, đâu là niềm hy vọng, mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta. Ha-lê-lui-a.

    Tin Mừng
    Mc 8,22-26

     

    Anh mù khỏi hẳn và thấy tỏ tường mọi sự.

    Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

    22 Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đến Bết-xai-đa. Người ta dẫn một người mù đến, và nài xin Đức Giê-su sờ vào anh ta. 23 Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi : “Anh có thấy gì không ?” 24 Anh ngước mắt lên và thưa : “Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối, họ đi đi lại lại.” 25 Rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn ; anh thấy tỏ tường mọi sự. 26 Người cho anh về nhà và dặn : “Anh đừng có vào làng.”

    Ca hiệp lễ
    Tv 77,29-30 

    Họ được ăn, ăn thật no nê,

    thèm thứ gì, Chúa đãi cho thứ đó,

    ước ao chi, họ chẳng hề thất vọng.

    --
     Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô (Ep 4,30-32).

    30 Ne contristez pas l'Esprit Saint de Dieu, qui vous a marqués de son sceau pour le jour de la rédemption. 31 Aigreur, emportement, colère, clameurs, outrages, tout cela doit être extirpé de chez vous, avec la malice sous toutes ses formes32 Montrez-vous au contraire bons et compatissants les uns pour les autres, vous pardonnant mutuellement, comme Dieu vous a pardonné dans le Christ.

    Hoa quả của Thần Khí làbác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Galata 5,22-23)

    22 - Mais le fruit de l'Esprit est charité, joie, paix, longanimité, serviabilité, bonté, confiance dans les autres, 23 douceur, maîtrise de soi.

    https://youtu.be/fsEXl_htu-8

    https://youtu.be/Wjm8VmyrkAA

    -------------------------------------------

     

    •  

BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ HAI

  •  
    Tinh Cao

    Thứ Hai

     

    BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA

     

    Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 1-11

    "Lòng tin của anh em được thử thách, rèn luyện đức kiên nhẫn, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn".

    Khởi đầu bức thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.

    Giacôbê, đầy tớ của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, kính chào mười hai chi tộc sống phân tán khắp nơi. Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì.

    Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa.

    Người anh em khó hèn, hãy hiên ngang vì được suy tôn; còn người giàu mà trở nên khó hèn, thì cũng vậy, vì chưng ai nấy cũng sẽ qua đi như hoa cỏ. Mặt trời mọc lên nóng bức, làm cho cỏ héo hoa tàn, và vẻ đẹp của nó cũng tiêu tan; người giàu có cũng vậy, bôn ba đến mấy, cũng sẽ suy tàn.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 118, 67. 68. 71. 72. 75. 76.

    Ðáp: Nguyện Chúa xót thương cho con được sống (c. 77a).

    Xướng: 1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân. - Ðáp.

    2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

    3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

    4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.

    5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.

    6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.

     

    Alleluia: Ga 15, 15b

    Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mc 8, 11-13

    "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?"

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.

    Ðó là lời Chúa.


        Image result for Mark 8, 11-13

     

    Suy nghiệm Lời Chúa

     

     

    ĐỨC KITÔ - ĐIỀM LẠ

     

     

    Hôm nay là Thứ Hai trong Tuần VI Thường Niên Năm Chẵn, Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết về một cuộc đụng độ gây ra bởi thành phần vẫn theo dõi Chúa Giêsu để bắt bẻ Người và tìm cách tố cáo Người, một đối thủ không đội trời chung của họ trên đấu trường dân Do Thái, thành phần dân chúng không thông luật bằng họ, không giữ luật như họ, thậm chí còn được họ dạy luật cho, bấy giờ lại chẳng những tỏ lòng kính phục và tôn sùng nhân vật xuất hiện từ một nơi chẳng có danh tiếng gì, được gọi là Nazarét (chứ không phải ở gần giáo đô Giêrusalem như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả), xứ Galilêa (chứ không phải xứ Giuđêa là nơi thuộc vương quốc Đavít), mà còn kéo nhau đổ xô tuốn đến với nhân vật này.

     

     Thánh Marco đã trình thuật lại cuộc đụng độ này như sau: "Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: 'Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào'. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia".

     

    Dầu sao chúng ta cũng thấy rằng, về phía thành phần biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, bất chấp thành kiến và ác cảm của mình, họ vẫn cứ tiếp tục nhẫn nại theo đuổi nhân vật Giêsu Nazarét, vì họ muốn biết nhân vật này thực sự là ai, từ đâu đến. Bởi thế, họ mới "xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người", để xem Người uy quyền đến đâu theo kiểu trần gian của họ. Thế nhưng, cho dù Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu là "điềm lạ" trong dân và cho dân chính mắt họ đã thấy, như việc Người chữa lành đủ mọi bệnh nạn tật nguyền của dân, hay khu trừ ma quỉ cho dân, thế mà họ vẫn chưa cho là "điềm lạ", vẫn cứ muốn "một điềm lạ" theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn chủ quan của họ.

     

    Bởi thế mà họ chẳng thế nào và chẳng bao giờ thấy được "một điềm lạ" nào như ý riêng của họ ở nơi Chúa Giêsu, như chính Người cũng đã khẳng định cho họ biết trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Hành động tiếp ngay sau của Chúa Giêsu như được Phúc Âm thuật lại đó là: "Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia". Nghĩa là họ ở bờ bên này, và Người ở bờ bên kia, không thể gặp nhau, đúng hơn họ không thể gặp Người khi Người ở với họ, trái lại càng làm họ xa Người hơn, đúng như Người sau này quả quyết về họ và báo trước cho họ biết rằng nơi Người đi họ chẳng những không thể nào tới được, mà còn chết trong tội lỗi của họ ngay chính lúc họ đi tìm Người, nghĩa là muốn tìm biết Người nữa (xem Gioan 7:34, 8:21), và quả thực mọi sự đã xẩy ra đúng y như vậy, khi Thượng Tế Caipha sau này nhân danh Thiên Chúa để hỏi thẳng Người có phải là Đấng Thiên Sai hay không, và sau khi Người nói về mình thì bị Hội Đồng Đầu Mục Do Thái hầu như đồng thanh lên án tử cho Người (xem Mathêu 26:63-66).

     

    Thật ra chính bản thân của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là "một điềm lạ" đối với chung dân Do Thái và riêng thành phần trí thức trong dân cũng như thành phần lãnh đạo của dân. Ở chỗ, Người chỉ là một con người tầm thường chẳng ai biết tới, xuất thân từ một sinh quán vô danh tiểu tốt trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, mà lại tự nhiên trở thành một nhân vật phi thường, có thẩm quyền về giảng dạy trước mặt dân chúng, cùng với quyền lực chữa lành cùng trừ quỉ cho dân, nhờ đó đã lôi kéo được cả dân của mình mà còn cả dân ngoại ở các vùng phụ cận nữa. Nhưng có lẽ Người là "một điềm lạ" nhất của họ là khi Người cứu được người khác mà không cứu được mình, không thể xuống khỏi thập tự giá (xem Mathêu 27:42). Đó mới là "một điềm lạ" thực sự cứu độ con người khỏi tội lỗi và sự chết mà "ai chấp nhận Người (nơi "điềm lạ" này) thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).

     

    Đúng thế, đối với thành phần trí thức trong dân Do Thái và thành phần lãnh đạo của dân do Thái thì nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét quả là một thử thách cả thể đối với họ, chẳng những trong về nguồn gốc bí ẩn của nhân vật này, mà còn về hành vi cử chỉ "dị chúng nhân" đầy vẻ bất bình thường thậm chí quái đản của nhân vật ấy nữa. Tuy nhiên, "cái khó nó bó cái khôn" mà nếu họ chân thành tìm kiếm chân lý khách quan hơn là chủ quan, ở chỗ khiêm tốn hạ mình xuống, thì mọi sự nơi nhân vậy này và về nhân vật này sẽ trở nên hoàn toàn khác hẳn. Đó là lý do Thánh Giacôbê Tông Đồ, vị tông đồ đặc biệt của dân Do Thái, như Tông Đồ Phaolô của Dân Ngoại, trong Bài Đọc I hôm nay đã khuyên nhủ họ sống khôn ngoan như sau: 

    "Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì. Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa". 

    Quả thực là như thế, thành phần trí thức trong dân Do Thái cũng như thành phần lãnh đạo của dân Do Thái sở dĩ muốn biết về nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, muốn tìm kiếm chân lý mà lại quay ra sát hại chân lý, bởi vì, đúng như Thánh Giacôbê đã nhận định trong Bài Đọc I hôm nay: "ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa". 

    Bởi thế, thành phần "xin Người một điềm lạ trên trời" mà không được cần phải có một tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay: 

    1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân.

    2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài.

    3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài.

    4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.

    5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ.

    6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    Thu.2.VI-TN.mp3

     

    THÁNH MÊTHÔĐÔ, GIÁM MỤC (KHOẢNG 815-885)

    Toàn cầu: Lễ Kính – Ở Âu châu: Lễ Buộc

    14/2

    Ngày 14 tháng 2  THÁNH SY-RI-LÔ ĐAN-SĨ  THÁNH MÊ-TÔ-ĐI-Ô GIÁM MỤC

    1. Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ

    Ngày lễ Kính thánh Cyrillô và Mêthôđô, được kính như các Tông đồ dân Slavơ và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố năm 1980, như thánh Quan thầy Âu châu, cùng tước hiệu với thánh Bênêđictô, trùng với ngày qua đời của thánh Cyrillô, khi đến Rôma vào ngày 14.02.869.

    Trong thế kỷ IX, Hội Thánh đã trải rộng khắp miền Đông Âu châu và trong vùng vịnh Địa Trung Hải, và bây giờ lại bành trướng sang những chân trời mới. Các dân tộc Slavơ tiếp nhận Tin Mừng được hai nhà đại truyền giáo đem đến: Là thánh Cyrillô và Mêtôđô. Các ngài sinh tại Thêxalônica (Đông Bắc Hy Lạp), được Hội Thánh chính thống Byzantium (Đế quốc La Mã phương Đông) sai đi rao giảng Tin Mừng Moravia (Vùng đất phía Đông của Cộng hòa Séc ngày nay) và đã gặt hái được những thành công.

    Trước khi đi truyền giáo vùng Moravia, Méthôđô là Tổng trấn một tỉnh người Slavơ và Cyrillô, nhỏ tuổi hơn, nhưng lại sáng chói hơn, đã chu toàn những sứ vụ tôn giáo và ngoại giao quan trọng. Cả hai nói lưu loát tiếng Slavơ.

    Sứ vụ làm cho hai vị nổi tiếng là sứ vụ do Thượng phụ Photios sai đi từ năm 862-963 với mục đích dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slavơ ở Moravia trong ngôn ngữ của họ. Vì thế Cyrillô và Mêthôđô bắt đầu dạy ngữ vựng đầu tiên, được gọi là “Cyrillique” và họ cũng đã dịch các văn bản tôn giáo ra tiếng Slavơ: Thánh vịnh, các Phúc Âm, các thư Tông đồ, kinh nguyện…

    Để ghi chép tiếng của các dân tộc này và viết lại Kinh Thánh bằng tiếng nói của họ, hai anh em ruột đi truyền giáo này đã hoàn thành bảng mẫu tự mới. Trong ngôn ngữ Slavơ, các ngài không những đã cử hành phụng vụ, mà còn thiết lập một nền tảng cho nền văn hóa Kitô hữu mới. Những khó khăm nghiêm trọng, nhất là cuộc chiến tranh giữa những người Đức và những người Slavơ, đã gây cản trở cho việc Tông đồ của các ngài. Đàng khác Giáo hội Byzantin không nâng dỡ đủ mức cho công cuộc truyền giáo nên các ngài đã kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ từ Giáo Hội Rô-ma. Đức Thánh Cha Ađrianô II đã chấp thuận công cuộc truyền giáo và phương pháp mục vụ của các ngài. Thánh Cy-ril-lô qua đời tại Rôma năm 869; thánh Mêtôđô sau khi được tấn phong Giám mục tại Rôma, đã trở lại rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng chịu đựng biết bao mệt nhọc ghê gớm ở cả một miền truyền giáo mênh mông gồm Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slovác, và hầu như toàn bộ vùng Nam Tư cũ như Slovenia và Croatia.

    Truyền thuyết nói rằng, trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Mêthôđiô đã chuyển dịch toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Slavơ chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi Thánh Mêthôđiô qua đời năm 885 tại Veherad thuộc Tiệp Khắc, sự chống đối vẫn chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam Ba Lan.

    Sau cái chết của người em, Méthôđô được gọi làm Giám mục ở Pannonie và Sứ thần Toà Thánh cho dân Slavơ; ngài gặp nhiều khó khăn do sự chống đối của hàng giáo sĩ Đức; nhưng điều này không ngăn cản được công trình Phúc Âm hoá và hội nhập văn hóa mà ngài đã theo đuổi cho đến chết (885).

    Các môn đệ ngài đã rao giảng Tin Mừng miền Bohême, ông hoàng Bozyvojd được rửa tội theo nghi thức Slavơ, sau đó là dân Serbie và Lusace (vùng Croatia), tiếp đến là Ba Lan, Bulgarie, Roumanie và vùng Kiev.

    Với công trình như thế, chúng ta mới thấy được công khó của hai thánh Cyrillô và Mêthôđô trong việc thiếp lập các cộng đoàn Kitô giáo trong nhiều vùng Đông Âu. Việc này đã tạo một bước tiến để thành lập Âu châu, không những về mặt tôn giáo, nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.

    Mỹ thuật trình bày thánh Cyrillô với bản ngữ vựng, và thánh Mêthôđô với một quyển Phúc Âm mở ra, được ghi bằng tiếng Slavơ.

    1. Thông điệp và tính thời sự

    Thánh Cyrillô ngã bệnh và biết trước giây phút cuối cùng của mình, vẫn nhận ra ơn gọi cao cả: “Xưa tôi chưa hiện hữu, bây giờ tôi đã hiện hữu và tôi sẽ hiện hữu mãi mãi.” Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin gìn giữ đàn chiên trung thành này… Xin triển khai Giáo hội với số lượng cao và qui tụ mọi thành phần vào trong sự hiệp nhất. Xin thu tóm tất cả thành một dân được tuyển chọn, kết hiệp mọi người trong đức tin và giáo lý chính thống…” (Phụng vụ giờ Kinh).

    Được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô, Cyrillô và Mêthôđô đã giảng dạy “Đức tin chân thật và giáo lý chính thống”, nhưng hai ngài còn hoàn tất công tác Phúc Âm hóa khi hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào trong văn hóa các dân Slavơ. Nhờ thế, khi công trình của hai vị được hoàn tất, đã cho phép ngôn ngữ Slavơ xứng đáng trở thành văn tự phổ biến. Nhờ việc đề cao ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc Slavơ đã có thể chống cự lại thứ chính trị thống trị và đồng hóa của người Đức và người Hy Lạp.

    Công trình của Cyrillô và Mêthôđô vô cùng to lớn, đánh dấu bằng sự can đảm trí thức và sự khiêm tốn, vì trong thời gian mà người ta chỉ được cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa bằng tiếng Do Thái, Hy Lạp hay Latinh, hai vị thánh Tông đồ của dân Slavơ đã đáp trả bằng tiếng Slavơ, và qua đó cho thấy mọi người có thể đến gần với Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của mình.

    Bên cạnh các tác phẩm tôn giáo, cả hai đã dịch và suy diễn “Bộ luật Justinien”, được xem như bộ luật cổ nhất của Slavơ (Zakon Sudnyj). Người ta cũng cho rằng thánh Mêthôđô đã dịch quyển Nomokanon [Luật của Giáo hội], thu tập các luật Giáo hội và luật dân sự Byzantin.

    Phúc Âm được chọn cho Thánh lễ này là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,1-20). Các khó khăn mà vị Tông đồ đã phải gánh chịu (Mêthôđô cũng đã phải vào tù) không ngăn cản được hạt giống rơi vào đất tốt và mang lại nhiều hoa trái.

    Công trình Phúc Âm hóa vẫn chưa kết thúc. Chính vì thế Hội Thánh, trong ngày lễ kính hai vị thánh Tông đồ này, đã hát trong Thánh lễ Thánh vịnh 95: Từ ngày này sang ngày khác, hãy công bố ơn cứu độ của Người / hãy thuật lại cho muôn dân vinh quang của Người / cho muôn dân kỳ công của Người. Chúng ta có thể nhắc lại những lời cuối cùng của Cyrillô nói với anh mình là Mêthôđô: “Anh ơi, chúng ta đã chia sẻ cùng một số phận, cùng dắt một cái cày trên cùng một luống. Em biết anh vẫn thích Núi thánh của anh (sự cô tịch), nhưng đừng bỏ trách nhiệm giảng dạy để trở về với núi đó. Thật vậy, anh tìm được nơi nào để hoàn tất ơn cứu độ của anh?”

     

    Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

    http://loichua.donboscoviet.org/ngay-14-thang-2-thanh-cyrillo-va-thanh-methodio/

     

    LeThanhCyrilo-Methodio.mp3 / ThanhCyrilo-ThanhMethodio.mp3 

     https://youtu.be/g_HlHQhPSUU (14/2)  

     

    CÂU CHUYỆN CỦA THÁNH VALENTINE

    Có thể bạn đã từng nghe câu chuyện này, nhưng chắc rằng không phải tất cả mọi người đều biết hết về câu chuyện của thánh Valentine, nếu các bạn muốn nghe câu chuyện này thì hãy để trí tưởng tượng của bạn bay bổng theo câu chuyện do chính thánh Valentine kể cho các bạn về điều gì đã xảy ra với ngài và tại sao trên khắp thế giới người ta lại kỷ niệm ngày lễ của Tình Yêu.

    Tôi xin được tự giới thiu về mình.  Tên của tôi là Valentine, là Giám mục sống ở Rome vào thế kỷ thứ 3.  Vào thời đó, Rome nằm dưới sự cai trị của Hoàng đế Claudius.  Tôi không thích Hoàng đế Claudius và mọi người dân thành Rome cũng không thích ông hoàng Claudius.

    Vào thời đó, Hoàng đế Claudius muốn xây dựng một đội quân hùng mạnh.  Ông muốn tất cả đàn ông phải tham gia vào đội quân.  Nhưng đa số người dân không muốn chiến tranh, họ không muốn phải chém giết lẫn nhau và phải rời xa gia đình mình.  Và như các bạn có thể đoán, rất nhiều người đã không nhập ngũ.  Điều này làm Hoàng đế Claudius rất giận dữ.  Ông ta cho rằng nếu những người đàn ông không lấy vợ thì họ sẽ không phản đối việc tham gia vào quân đội.

    Thế là, ông Hoàng Claudius quyết định không cho phép bất cứ một người đàn ông nào được kết hôn.  Những thanh niên trai tráng rất tức giận với cái luật mới này của ông ta.  Tôi cũng không ủng hộ luật này.  Bởi vì, các bạn có biết không, tôi là một linh mục và công việc yêu thích nhất của tôi là se duyên cho các cặp tình nhân đấy.  Vậy là, sau khi Hoàng đế Claudius ban hành điều luật của ông ta thì tôi vẫn tiếp tục đứng ra tổ chức các đám cưới và tất nhiên là một cách bí mật.  Mà điều này lại dường như là rất thú vị. Các bạn hãy tưởng tượng xem trong một không gian nhỏ với một cây nến chỉ có cô dâu, chú rể và tôi.  Tôi thì thầm đọc những lời nguyện cho đám cưới trong những tiếng bước chân rình rập của những tên lính.

    Và một đêm khi đang làm đám cưới cho một đôi tình nhân tôi nghe thấy tiếng bước chân.  Thật là kinh hoàng.  Nhờ ơn Chúa, đôi tình nhân đã kịp trốn thoát, nhưng tôi đã bị bắt (có lẽ tại bước chân của tôi đã không còn nhanh nhẹn như trước đây).  Tôi bị đưa ra toà và bị kết án tử hình.  Những ngày còn lại trong tù chờ án tử hình tôi cố gắng sống một cách vui vẻ.  Các bạn có biết điều gì xảy ra với tôi không? Mọi việc thật là tuyệt vời.  Rất nhiều thanh niên đã đến nhà tù để thăm tôi.  Họ ném hoa và những lá thư qua cửa sổ cho tôi.  Họ muốn tôi biết rằng họ sẽ luôn luôn tin vào tình yêu.  Một cô gái em của người cai tù được anh trai cho phép cô vào nhà tù thăm tôi.  Chúng tôi đã ngồi và nói chuyện với nhau hàng giờ liền.  Cô gái đã giúp tôi luôn giữ vững tinh thần.  Vào ngày tôi phải lên đoạn đầu đài, tôi đã chuyển một lá thư cảm ơn đến cô gái vì tình bạn và lòng trung thành mà cô gái đã dành cho tôi, và tôi ký dưới bức thư dòng chữ: “Tình yêu của Valentine dành cho con.”  Tôi tin rằng lời nhắn ấy đã dẫn đến phong tục trao đổi những bức thông điệp tình yêu vào ngày Valentine.

    Bức thông điệp của tôi được viết vào ngày 14 tháng 2 năm 269 sau Công nguyên.  Giờ đây, hàng năm vào ngày này mọi người lại tưởng nhớ tôi, nhưng tôi cho rằng điều quan trọng nhất là mọi người luôn nghĩ về tình yêu và tình bạn vào ngày này.  Và mọi người nghĩ đến Hoàng đế Claudius, người đã cố sức ngăn cản tình yêu nhưng tình yêu đã luôn luôn chiến thắng.  Khoảng hai thế kỷ sau đó, vào năm 496 sau Công nguyên, Giáo Hoàng Gelaius đã quyết định lấy ngày 14-2 là ngày lễ cho các cặp tình nhân gặp gỡ và tìm bạn trăm năm và ông đã chọn một Thánh để đại diện cho những người yêu nhau.  Giám mục Valentine đã được chọn là Thánh quan thầy của Lễ hội này.  Bây giờ bạn đã biết được câu chuyện về ngày Thánh Valentine.  Và nếu bạn không biết làm gì vào ngày này, thì có lẽ bạn có thể kể câu chuyện về Thánh Valentine cho bạn bè của bạn, gia đình hoặc một người nào đó bạn muốn gây ấn tượng.

    Hải Âu

    http://suyniemhangngay.net/2020/02/21/cau-chuyen-cua-thanh-valentine/

    https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=2955

    Truyền thuyết Thánh Valentine – vị thần bảo trợ tình yêu Và cùng tìm hiểu về ngày lễ tình nhân lãng mạn...

     

    Ngày Valentine 14/2 là ngày lễ đặc biệt dành cho các đôi tình nhân trên toàn thế giới. Đây là dịp đôi lứa dành cho nhau các món quà lãng mạn như hoa hồng, chocolate, trao cho nhau những nụ hôn "tình củm". Cùng chúng tớ tìm hiểu về vị thánh trong truyền thuyết và ngày lễ đặc biệt này nhé!

    Có lẽ châu Âu là nơi có nhiều dị bản nhất xung quanh vị thánh này. Trong đó, truyền thuyết phổ biến nhất kể về Thánh Valentine là một người xuất thân từ trần gian thời La Mã cổ đại. Dưới thời kì trị vì của hoàng đế Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia vào rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu. Nhà vua rất khó khăn trong việc tuyển mộ quân lính. Claudius bạo chúa nghĩ rằng đó là do đàn ông còn bận tâm về gia đình vợ con nên mất hết ý chí; thay vào đó, những người đàn ông trẻ độc thân thì chiến đấu sẽ tốt hơn. Kết quả là một đạo luật hà khắc ra đời: ông đã cấm tất cả đàn ông được kết hôn. Đạo luật đi trái với ý Chúa và dân tình nên gây ra nhiều phẫn nộ.

    Trước tình cảnh đó, một vị linh mục nhân ái tên Valentine đã bí mật tổ chức hôn lễ cho nhiều cặp tình nhân trong nhà thờ. Sự việc bại lộ, vị linh mục tốt bụng bị bắt giam trong ngục trước khi bị xử tử bởi hình phạt dã man là chém đầu, kéo lê xác khắp thành. Điều kì diệu là thời gian sống trong ngục tối, linh mục đã giúp chữa khỏi mắt cho con gái quản ngục vốn mù lòa bẩm sinh tên Julia. Trước khi ra pháp trường ngày 14/2 khoảng năm 270 TCN, ông đã gửi cho Julia một tấm thiệp kí tên “dal vostro Valentino” - “from your Valentine”. Cảm động trước lòng tốt của vị linh mục tốt bụng này, ngày lễ Valentine ra đời với ý nghĩa tưởng nhớ những công lao của ông trong việc bảo trợ tình yêu con người.

    Một dị bản khác về xuất xứ của ngày Valentine đó là từ các lễ hội Công giáo. Cụ thể ở đây là xuất phát từ lễ hội Lupercalia chỉ có tại Rome cổ đại được tổ chức vào khoảng ngày 13-15/2 hàng năm nhằm tưởng nhớ nữ thần La Mã Juno. Trong ngày này, các cặp đôi sẽ được se duyên thông qua hình thức rút thăm tựa như một hệ thống quay số tình yêu. Những cặp đôi được se duyên sẽ làm quen và nếu thực sự có tình cảm với nhau sẽ trở thành tình nhân. Sau đó, ngày này được các mục sư chuyển thành ngày tình nhân Valentine 14/2.

    Một điều thú vị không kém khi tìm hiểu về lễ tình nhân ở các nước châu Âu đó là quan niệm của họ về tình yêu. Với người phương Tây, họ cho rằng vào giữa tháng 2, chim chóc bắt đầu bước vào mùa tìm bạn tình nên khoảng thời gian này là đẹp nhất trong năm cho các đôi lứa tìm hiểu và yêu nhau, dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất. Ý niệm về một ngày lễ tình yêu giữa tháng 2 có lẽ xuất phát từ đây.

    Ở các nước châu Mĩ, ngày lễ tình nhân còn có những cái tên khác. Ở Brazil, Valentine không diễn ra vào 14/2 như các nước khác. Nó diễn ra vào ngày 12/6 hàng năm và mang tên “Dia dos namorados” có nghĩa là "Ngày của tình yêu". Còn ở Colombia, Valentine được tổ chức vào ngày thứ 7 tuần thứ ba của tháng 9 với cái tên “Dia del amor y amistad” (Ngày tình yêu và tình bạn).

     
     

     

    Thánh Valentine Và Lịch Sử Ngày Tình Yêu 14/2

     

    Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ вỏ đức tin, ngài được тử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài тử đạo.

     

    Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị тử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị вắт và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét χử. Sau khi dụ ∂ỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra ℓệин cho lính dùng gậy đáин đập ngài, sau đó đưa đi ᑕᕼéᗰ đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

    Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần ᗪâᗰ ᗪụᑕ là Februata Juno.

    Các tu sĩ thời ấy muốn ᗪẹᑭ ᗷỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị ᑕᕼéᗰ đầᑌ.

    Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi tìm chim mái .” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư тử trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine.

    https://conggiaovn.com/thanh-valentine-va-lich-su-ngay-tinh-yeu-14-2-21/

     

    ThanhValentine.mp3 

     https://youtu.be/qCFBml-YlWw / https://youtu.be/TVIRa5Zh4XA 

     

     

    --

BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ BA

  •  
    Tinh Cao
     

    Thứ Ba

     

    BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA

     

     

    Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 12-18

    "Chính Thiên Chúa không hề cám dỗ".

    Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

    Phúc cho kẻ chịu thử thách, vì khi đã được tinh luyện, sẽ lãnh nhận triều thiên sự sống mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Người. Khi bị cám dỗ, đừng ai nói rằng bị Thiên Chúa cám dỗ, vì Thiên Chúa không thể bị sự dữ cám dỗ, và chính Người cũng không hề cám dỗ ai. Nhưng mỗi người bị tình dục cám dỗ, bị nó xúi giục và dụ dỗ. Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội đã phạm rồi, thì sinh ra chết.

    Anh em thân mến, anh em đừng lầm lẫn: mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 93, 12-13a. 14-15. 18-19

    Ðáp: Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo (c. 12a).

    Xướng: 1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. - Ðáp.

    2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.

    3) Ðang lúc con nghĩ rằng chân con xiêu té, thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. Khi lòng con vướng thêm nhiều điều lo lắng, thì ơn Chúa ủi an làm vui sướng hồn con. - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 118, 27

    Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mc 8, 14-21

    "Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh". Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng". Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?"

    Ðó là lời Chúa.

     

     

     

     

     

     

    Suy nghiệm Lời Chúa

     

     

    Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần VI Thường Niên Hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan chính yếu đến lời cảnh báo của Chúa Giêsu với thành phần tông đồ là các môn đệ nồng cốt của Người: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Thế nhưng, tiếc thay, thành phần môn đệ của Người hầu như toàn là thành phần quê mùa chất phác, hay có trí thức một chút như chàng Mathêu hay Batôlômêo cũng đầy lòng chân thành nên cũng chẳng nghĩ gì sâu xa. Bởi đó, sau khi nghe Thày mình nói như vậy, các vị bảo nhau rằng: "Tại mình không có bánh"bởi các vị lại cứ tưởng Người bảo các vị đừng ăn bánh của nhóm biết phái và Hêrôđê, vì men liên quan đến bánh, mà hãy ăn số bánh mang theo thôi, trong khi đó "các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền".

     

    Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ tông đồ của Người biết ý nghĩa những gì Người nói về "men biệt phái và men Hêrôđê". Tuy nhiên, Người hoàn toàn nói về bánh mà thôi, liên quan đến hai lần Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: 'Mười hai thúng'. - 'Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?' Họ thưa: 'Bảy thúng'. Bấy giờ Người bảo các ông: 'Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?'"

     

    Không thấy Thánh ký Marco cho biết thêm là các tông đồ có hiểu sau lời giải thích của Chúa Giêsu hay chăng. Nhưng, căn cứ vào lời giải thích này thì Người mới chỉ hé lộ phân nửa ý nghĩa về "men biệt phái và men Hêrôđê", men liên quan đến bánh. Nghĩa là, Người cố ý nhắc cho các tông đồ rằng tại sao các con lại sợ thiếu bánh chứ, khi Thày nói với các con rằng "các con hãy coi chừng và hãy giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê", vì Thày có thể làm cho bánh hóa ra nhiều cơ mà, như các con đã thấy đó, dù hiện nay chúng ta chỉ có một chiếc bánh mang theo. Vậy một nửa ý nghĩa kia liên quan đến chính men là gì, Chúa Giêsu hoàn toàn không hề nói tới.

     

    Tuy nhiên, nếu các tông đồ để ý, nhất là qua những lần đụng chạm giữa thành phần biết phái và Thày của các vị, những lần cả Thày trò bị thành phần này theo dõi và hạch hỏi cùng bắt bí, sẽ hiểu được đâu là ý nghĩa của men được Thày của các vị nói tới, và căn dặn các vị phải "canh chừng và giữ mình", đó là những chủ trương sống đạo sai lạc và đời sống giả hình ham danh của họ. Chủ trương duy luật và tự công chính hóa nhờ việc giữ luật của họ bất chấp lòng nhân hậu là một thứ men, và đời sống giả hình ham danh của họ, thích ăn trên ngồi trước, làm việc gì cũng chỉ để khoe khoang lấy tiếng.

     

    Đúng thế, gương mù gương xấu tự bản chất có tác dụng làm dậy lên tình trạng xấu xa tệ hại trong môi trường nhân sinh và gây ô nhiễm hay lây nhiễm một cách nhanh chóng. Bởi vì, nơi con người ta, vì lây nhiễm nguyên tội, vốn xu hướng về những gì là rộng rãi thoải mái và tầm thường trần tục, dễ dàng hùa theo những gì tự nhiên dễ dãi hơn là những gì khắt khe, khổ chế, khó khăn v.v. Nhất là những gì hợp với thị hiếu hay sở trường hoặc ước muốn cùng chủ trương của từng cá nhân con người. Có thể Chúa Giêsu đã lợi dụng chính lúc các tông đồ quên bánh mà nói đến men, đến gương mù gương xấu của thành phần trí thức và có thế giá dễ gây ảnh hưởng trong dân chúng, nhất là thành phần bình dân dễ tin và dễ theo, dễ bị lôi kéo, trong khi đó các tông đồ cũng ngây thơ vô tội đến độ có thể bị cuốn theo lúc nào không biết, chẳng hạn như các vị có lần đã tỏ ra ham danh chẳng thua gì nhóm biệt phái ở chỗ tranh giành ngôi thứ với nhau.

     

    Phải, sở dĩ con người trần gian dễ bị gương mù gương xấu lôi cuốn và noi gương bắt chước là vì chính trong con người của mình họ đã có sẵn mầm mống xấu, có cùng tần số với gương mù gương xấu, dễ dàng chiều theo gương mù gương xấu. Yếu tố trong con người rất dễ nhậy cảm với gương mù gương xấu, rất dễ bốc cháy theo ngọn lửa gương mù gương xấu, theo Thánh Gicôbê trong Bài Đọc I hôm nay, đó là "tình dục" ở nơi họ, và gương mù gương xấu chẳng khác gì như một chước "cám dỗ": "Khi bị cám dỗ, đừng ai nói rằng bị Thiên Chúa cám dỗ, vì Thiên Chúa không thể bị sự dữ cám dỗ, và chính Người cũng không hề cám dỗ ai. Nhưng mỗi người bị tình dục cám dỗ, bị nó xúi giục và dụ dỗ. Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội đã phạm rồi, thì sinh ra chết".

     

    Trong Bài Đọc I hôm nay, Thánh Giacôbê như thể còn đề ra cho chúng ta một phương cách để tránh khỏi tầm ảnh hưởng của gương mù gương xấu nữa, bởi vì, nếu "gương mù gương xấu" xuất phát từ con người, từ trần gian, một trần gian không thể nào thoát khỏi gương mù, thì ân sủng và phúc lành từ trời, được chất chứa nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), những gì chân thật nhất làm cho con người được tái sinh vào sự sống: "Anh em đừng lầm lẫn: mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật".

     

    Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới chất chứa một tâm tình rất hợp với phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc I lẫn Bài Phúc Âm:

     

    1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ.

    2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo.

    3) Ðang lúc con nghĩ rằng chân con xiêu té, thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. Khi lòng con vướng thêm nhiều điều lo lắng, thì ơn Chúa ủi an làm vui sướng hồn con.

     
     
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

     


BÁNH SỰ SỐNG LC - LM MINHANH

 

  •  
    LM MINH ANH
     


    ĂN BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA
     

    MỞ RA KHÔNG GIAN

    “Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn?”, “Các con có bao nhiêu bánh?”.

    Bertrand Russell từng là Kitô hữu, nhưng ông từ chối đức tin và công khai trở thành một người vô thần. Con gái ông, Katherine Tait, đã nói về ông, “Ở nơi nào đó trong đáy lòng, trong sâu thẳm tâm hồn ông, có một khoảng trống đã từng được Chúa lấp đầy; ông đã từng ‘mở ra không gian’ cho Ngài. Thế nhưng, ông không bao giờ tìm thấy bất cứ thứ gì khác để đặt vào đó!”.

    Kính thưa Anh Chị em,

    Russell từng có một khoảng không gian cho Chúa. Thật trùng hợp, Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề về khoảng không gian đó qua hai câu hỏi thú vị, một của các môn đệ, một của Chúa Giêsu. Tuỳ theo loại hình, người đặt câu hỏi có thể ‘mở ra không gian’ cho Thiên Chúa hay khép kín nó, “Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn?”, “Các con có bao nhiêu bánh?”.

    “Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn?”. Dẫu đây là một câu hỏi rất nhân bản; nhưng xét cho cùng, nó lại tiết lộ một sự nghèo nàn thiêng liêng khi các môn đệ xem ra không đặt niềm tin vào Thầy mình. Đó là một câu hỏi đầy bi quan, phảng phất mùi tuyệt vọng. Một câu hỏi như vậy, nếu không có niềm tin, sẽ hình thành một nếp nghĩ, một tầm nhìn thiển cận khi chúng ta tự co rút để cam chịu một hoàn cảnh, một số phận. Cách đặt vấn đề khá ủ dột này sản sinh một loạt câu hỏi, biện minh cho sự bất khả trước bao vấn đề. Nhiệm vụ là bất khả thi, tại sao tôi phải cố gắng? Lực bất tòng tâm, tại sao tôi cứ mất thời giờ? Lối nghĩ này thường xuyên ngăn cản chúng ta mạo hiểm làm những điều tuyệt vời cho Thiên Chúa; và ngược lại, khiến chúng ta không mong đợi những điều tuyệt vời đến từ Ngài! Chúng ta không ‘mở ra không gian’ cho Ngài; thay vào đó, ‘vui hưởng’ thú đau thương trước những tình huống dường như vô vọng, như thể Thiên Chúa không toàn năng và Ngài chẳng đoái hoài đến con cái!

    Ngược lại, câu hỏi của Chúa Giêsu hoàn toàn khác, “Các con có bao nhiêu bánh?”. Đây là một câu hỏi tích cực, tiềm tàng một niềm hy vọng và lạc quan; vì lẽ, Chúa Giêsu sắp ‘mở ra không gian’ cho Thiên Chúa; qua đó Chúa Cha có thể thực hiện một phép lạ vĩ đại để chứng thực quyền năng của Ngài trên Đấng Ngài đã sai đến. Chỉ cần một chút những gì sẵn có, cả khi chúng dường như không đủ đến vô vọng, “bảy chiếc bánh và mấy con cá”; tuy nhiên, một khi được trao cho Chúa Giêsu, Ngài đã nhân lên để nuôi sống hàng ngàn người. Phaolô đã từng nhắc nhở, “Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài để làm nhiều điều lớn lao hơn tất cả những gì chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới”; dĩ nhiên, với điều kiện, mỗi người hào phóng với những gì mình có, dù chúng có vẻ nhỏ bé.

    Thật thú vị, bài đọc Các Vua hôm nay cũng nói đến một người đã ‘mở ra không gian’, Giêrôbôam, nhưng không phải mở ra cho Thiên Chúa nhưng là cho con người; đúng hơn cho chính ông. Sợ rằng, dân chúng, một khi lên Giêrusalem, sẽ quay về với Rôbôam, con trai Đavít, Giêrôbôam đúc hai bò vàng cho dân thờ. Ông không thờ kính một thần khác, nhưng ông xem biểu tượng này như là đại diện cho Thiên Chúa vô hình của Israel. Vì thế, ông bị tiêu diệt.

    Anh Chị em,

    “Các con có bao nhiêu bánh?”, Chúa Giêsu tiếp tục hỏi chúng ta như thế! Mỗi ngày, đến với Bí tích Thánh Thể, chúng ta ‘mở ra không gian’ tâm hồn cho Chúa Giêsu ngự vào, một không gian chật hẹp, và đôi khi, rất tăm tối; thế nhưng, Ngài vẫn đoái thương hạ cố. Cũng ở đó, cùng một câu hỏi, Ngài tiếp tục hỏi chúng ta, Ngài chờ đợi phần ‘bánh và cá’ còm cõi của chúng ta; để từ đó, Ngài có thể tiếp tục nhân lên, nhân lên… hầu nuôi sống bao nhiêu anh chị em khác. Ước mong sao, đền thờ tâm hồn chúng ta ngày càng sạch trong, hầu xứng đáng cho Chúa Giêsu chiếm ngự; và ước mong sao, chúng ta biết dâng tất cả phần ít ỏi của mình vào tay Ngài, để Ngài có thể mở ra những không gian mới cho Vương Quốc qua chính chúng ta, khí cụ của Ngài.

    Chúng ta có thể cầu nguyện,

    “Lạy Chúa, để có thể ‘mở ra không gian’ cho Thiên Chúa, xin giúp con đoạn tuyệt với những ràng buộc rối loạn với các tạo vật, để bám rễ vững chắc vào Đấng Tạo Thành”, Amen.

     

    (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

    Kính chuyển:

    Hồng