CẢM NGHIỆM SỐNG NGẮN GỌN -
- Details
- Category: 2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa
PALM SUNDAY OF THE PASSION OF THE LORD – YEARS A, B, C
28th MARCH 2021
THE FORGIVENESS OF SINS
THE FORGIVENESS OF SINS (Mark 11: 1-10). We see ourselves in the crowds who cried ‘Hosanna to the Son of David’ one day and ‘Crucify him’ just a few days later. Like Peter and the other disciples we can be fickle followers of Jesus. We should not, however, imitate Judas and despair at our infidelity. Rather, we should look to Jesus who allowed his blood to be poured out for many ‘for the forgiveness of sins’. Let us praise him with grateful hearts.
Give Thanks (With A Grateful Heart):
https://www.youtube.com/watch?v=Bk_7wUR2Wdg
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”.
Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà
SUY NIỆM 5: Khiêm nhường đón nhận
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta". Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta". Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây". Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Ðức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa. Ðức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Ðức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Ðức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Ðức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Ðáp lại, Ðức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Ðức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Ðó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Ðức Mẹ theo chương trình của Chúa, Ðức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Ðức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh Ý Thiên Chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa "Xin vâng", Ðức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do-thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Ðức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa "xin vâng", nên Ðức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh Ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Ðấng Cứu Thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Ðức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Ðức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê-su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân Thập Giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Ðức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Ðức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Ðức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa chay là Mùa đặc biệt nhắc nhở và giúp chúng ta "trở lại" đúng địa vị của con người được tạo dựng theo hoạ hình của Thiên Chúa, đúng địa vị trong mọi tương hệ với Thiên Chúa là Cha, với mọi người là anh chị em, với vũ trụ tạo thành là người quản lý. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Ðức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền
SUY NIỆM 2: Thánh Giuse, người đi trong đêm tối
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Trong các bức vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ Thánh Giuse đưa Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập. Bầu trời đen thẫm, một vài tia chớp lóe lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh Giuse, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Ðức Maria bồng Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người, cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm mà còn đẹp về ý nghĩa. Ngắm nhìn bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời Thánh Giuse, một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin, Ngài đã sống chung với Ðức Maria và Chúa Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Ði bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối, Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đồng hành hết suốt cuộc đời. Thánh Giuse giống như một người lính canh, được cấp trên giao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quí giá. Nhưng cũng có thể chỉ là một chiếc hộp rỗng không. Không biết, nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Maria người bạn yêu quí. Trước những mầu nhiệm cao cả, Ðức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Giêsu. Thiên Chúa làm người là một mầu nhiệm ẩn giấu vì Ðức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần mà chỉ là những tiếng vọng mơ hồ giữa đêm khuya trong giấc ngủ, vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Im lặng đáng sợ nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu. Khi những gì thân thiết nhất trong đời trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã cây cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất.
Trong cả 4 Phúc Âm không thấy ghi lại lời nào của Thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ. Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong một làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến cũng chỉ để chê bác ái, dè bĩu, hạ thấp thân phận của Ðức Giêsu: "Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện". Ngài bị lãng quên luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Ðức Maria, sách Tông đồ Công vụ kể về Ðức Maria. Nhưng từ khi Ðức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh người dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại còn phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếu ớt. Nhưng những thử thách khốn khó về thể lý, dù cam go thế nào cũng còn chịu được, những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Ðức Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà tin được. Sao Con Thiên Chúa quyền uy dường ấy lại bé nhỏ yếu ớt nghèo hèn thế này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dày hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách còn nặng nề nhưng Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardis nói "Người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm. Ban đêm người bơi lội vùng vẫy làm dao động mặt nước biển có ánh sáng lóe lên chung quanh mình".
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm lóe lên ánh sáng soi bước cho chân Ngài đi.
Ði trong đêm tối đức tin. Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Ðêm đen lắm nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng, Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phần mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng, khiêm nhường phục vụ. Khiêm nhường sâu thẳm. Ngài cũng có tâm tình như thánh Gioan Tẩy Giả: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Trong đêm tối thử thách Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào lời Chúa, hoàn toàn phó thác cho Chúa, để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
HẠT LÚA VÙI CHÔN
Chúa Nhật 5 Mùa Chay năm B : Ga 12, 20-33

Suy niệm/ TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT LỜI CHÚA:(Gr 15, 16)
Sống và chết là qui luật tự nhiên của muôn loài muôn vật. Chết là một cách để phát sinh sự sống mới, như Chúa Giêsu đã nói:“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Như vậy, chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ phong phú hơn nhiều. Đức Giêsu gọi giờ chết trên thập giá của Ngài là “giờ Con Người được tôn vinh”. Cũng từ đó, Ngài đưa ra một nguyên tắc sống:“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Ai mà chẳng yêu quí mạng sống mình; chẳng ai muốn đau thương hay chết chóc. Nhưng sống mà chỉ lo chiếm hữu và hưởng thụ, ta sẽ trở nên trơ trọi như hạt lúa giống không chịu vùi chôn. Cũng vậy, chẳng ai lại coi thường mạng sống mình, nhưng nếu coi trọng nó đến nỗi thành nô lệ cho chính mình, thì khác nào ta nuôi dưỡng một cái xác không hồn. Người ta nghĩ có được danh lợi quyền hành là vẻ vang, nhưng Đức Giêsu coi thập giá là vinh quang. Ngài dạy chúng ta, từ sự chết mới có sự sống, chỉ bằng cách hy sinh mạng sống, chúng ta mới giữ được sự sống; chỉ nhờ phục vụ, chúng ta mới trở nên cao cả. Qua những kinh nghiệm đau thương và buông bỏ, ta mới thấy mình được khi chấp nhận mất, thấy mình nhận lãnh khi chấp nhận cho đi. Như con ốc sên chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, ta chỉ sống dồi dào khi ra khỏi những bận tâm và so đo tính toán cho mình để sống tình yêu.
Lời kinh Hòa Bình mà ta vẫn hát phải trở thành nguyên lý sống cho cuộc đời ta: “chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân...”. Từ đó ta mới hiểu rằng, sống và chết là hai hành vi trao đổi cho nhau trong từng giây phút và từng biến cố của đời mình. Sống là chấp nhận chết đi để triển nở: mỗi một hành vi khiêm tốn là chết đi một phần tính kiêu ngạo; mỗi một hành vi can đảm là chết đi một phần tính hèn nhát; mỗi một hành vi dịu dàng là chết đi một phần tính hung bạo; mỗi một hành vi yêu thương là chết đi một phần tính ích kỷ. Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa mới hình thành.
Tuy nhiên, quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, dù trong tinh thần hay thân xác cũng đều là hành vi của đau thương, tổn hại, mất mát, không dễ dàng chấp nhận, dù biết rằng đó là một cách tiếp nhận sự sống mới. Chính Chúa Giêsu cũng phải nao núng và dao động trước cái chết: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì?”. Chúa Giêsu không ngần ngại thố lộ với chúng ta nỗi xao xuyến và sợ hãi của Ngài. Ngài không làm ra vẻ anh hùng trước một sự hy sinh cao cả, nhưng Ngài đã bám níu vào Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này... Nhưng chính giờ này mà con đã đến”.
Như Chúa Giêsu, nếu ta biết tỉnh thức và cầu nguyện, ta sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Cầu nguyện không phải là liều thuốc giảm đau, không hẳn ngăn chặn được nao núng sợ hãi, cũng không mong Chúa đổi ý để cứu ta khỏi đau khổ hay sự chết, nhưng cầu nguyện là sự tin yêu và phó thác trước nỗi xao xuyến và giằng co của phận người. Nhờ vậy mà ta thanh thản trong sự hiến dâng trọn vẹn, để đi vào sự phục sinh vinh hiển với Chúa Giêsu, như Lời Ngài đã hứa:“Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Với niềm hy vọng lớn lao này, chúng ta hân hoan đón nhận cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng. Phải chăng trong tâm tình đó mà R. Tagore đã dâng lời nguyện: “Ôi! Thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối ... Những gì ta là, những gì ta có, những gì ta hoài mong, những gì ta yêu thương, tất cả vẫn sâu xa bí mật trôi chảy về ngươi…Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối. Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả bay về tổ ấm trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương vĩnh cửu ngàn thu”.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Khi nhìn đồng lúa mênh mông bát ngát,
từng cây lúa nặng trĩu những bông hạt,
nhưng ai nghĩ đã qua nhiều ngày tháng,
hạt giống chôn vùi chịu mục nát rã tan.
Cũng thế, bao người sống âm thầm lặng lẽ,
sẵn sàng cho đi và chia sẻ cuộc đời mình,
vẫn tận tình trong lao nhọc hy sinh,
cho gia đình và xã hội được an bình.
Nhìn vào cuộc sống con mới hiểu,
nét đẹp đời người đâu phải là tuổi trẻ,
nhưng thực chất là tuổi của kẻ biết cho đi,
tuổi biết quên mình và sống vì người khác.
Từ ý nghĩa đó con mới thấy,
nét suy tư của những nếp nhăn trên trán,
nét đảm đang của những tấm lưng còng,
nét thong dong của những làn tóc bạc,
là những nét đẹp từng trải qua năm tháng,
của một cuộc đời đã gieo hạt nẩy mầm.
Đó là những hạt lúa đã gieo vào lòng đất,
chấp nhận chết đi để đem lại sự sống mới,
cũng chính là để xây dựng Nước Trời,
sống thực tâm theo lời mời của Chúa,
biến yêu thương thành hoa trái tuyệt vời,
để ban tặng cho đời và thế giới hôm nay.
Xin cho con tiến bước trong từng ngày,
trong âm thầm lặng lẽ và chia sẻ hiến trao,
thao thức góp phần cho cuộc sống dồi dào,
chỉ mong sao mọi sự được đẹp như ý Chúa,
để con hân hoan chờ đón một ngày Mùa,
Mùa vinh phúc, Mùa hồng ân cứu độ. Amen.
Lm. Thái Nguyên
FIFTH SUNDAY OF LENT – YEAR B
21st March 2021
THE HOUR HAS COME
A REFLECTION (John 12: 20 – 30)
THE HOUR HAS COME. Jesus was greatly troubled as the hour of his suffering and death approached. He was tempted to ask the Father to save him from this hour. But he knew that his death would be a source of new life for all. Today’s liturgy invites us to share in Jesus’ self-sacrificing love. For ourselves, as for Jesus, the grain of wheat must die in order to produce a rich harvest.
The Hour Has Come - The Garden of Gethsemane:
https://www.youtube.com/watch?v=7HoDX6yJOag