2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - GP LONG XUYÊN - THỨ BA

  •  
    Chi Tran -LEYEN
     
     
     
     
     
       
       Đúng vị trí – làm điều phải làm.

    08/11 – Thứ Ba tuần 32 thường niên.

    "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".

     

    Lời Chúa: Lc 17, 7-10

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.

    "Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".

    * Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

    Suy niệm 1: Đầy tớ vô dụng

    (Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

    Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.

    Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra

    thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).

    Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bắt làm nô lệ ở Ai-cập,

    và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.

    Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.

    Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).

    Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.

    Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,

    năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).

    Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế

    để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).

    Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.

    Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).

    Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.

    Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.

    Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.

    Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm

    mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.

    Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.

    Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,

    nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.

    Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,

    sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),

    liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối cùng với mình không?

    Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.

    Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.

    Sau khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,

    thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,

    thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).

    Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.

    “Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”

    Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.

    Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.

    Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.

    Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.

    Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,

    những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.

    Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).

    Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),

    nhưng không như người làm công chờ lương,

    cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.

    Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),

    chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).

    Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,

    không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.

    Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,

    siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,

    đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.

    Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.

    Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).

    Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).

    Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta

    khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).

    Cầu nguyện:

    Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,

    xin dạy con biết sống quảng đại,

    biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,

    biết cho đi mà không tính toán,

    biết chiến đấu không ngại thương tích,

    biết làm việc không tìm an nghỉ,

    biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào

    ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

    Suy niệm 2: Tôi tớ vô dụng

    (TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

    Vào thời Chúa Giê-su tồn tại chế độ nô lệ. Nô lệ không có quyền làm người. Không có quyền sống. Nô lệ được sống là nhờ chủ mua về. Vì thế anh thuộc về chủ. Biết ơn chủ ban cho sự sống. Và toàn tâm toàn ý phục vụ chủ. Vui mừng vì được phục vụ. Vì như thế anh được sống. Vì thế khi làm việc rồi anh không có gì tự hào. Đó là nhiệm vụ. Hơn nữa đó là sự sống của anh. Chỉ làm những việc phải làm thôi.

    Con người phải tuỳ thuộc Thiên Chúa như thế. Vì chính Chúa ban sự sống cho con người. Và hơn nữa đã chuộc lại sự sống. Khi con người tội lỗi đánh mất sự sống. Mọi sự trong ta là của Chúa. Vì thế phải làm việc phụng sự Chúa là bổn phận của ta. Là vinh dự cho ta. Là sự sống cho ta.

    Nhưng trần gian cho như thế là khờ dại. Sự khôn ngoan trần gian muốn tự khẳng định mình. Muốn chối bỏ Thiên Chúa. Muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa. Nên họ coi những kẻ phụng sự Thiên Chúa là khờ dại. Những người hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa là bị trừng phạt. Sách Khôn ngoan khuyên ta hãy kiên trì chịu gian khổ vì Thiên Chúa. Đó là những thử thách mau qua. Như lửa thử vàng. Rồi vàng ròng sẽ xuất hiện. Tôi trung của Thiên Chúa sẽ được vinh quang. “Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời” (năm lẻ).

    Một trong những thử thách là bổn phận nhàm chán hằng ngày. Người tôi trung của Thiên Chúa phải biết kiên trì và khiêm nhường chu toàn bổn phận. “Các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành”. “Vợ trẻ biết yêu chồng, thương con…Các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự…”. Sống như những người tôi trung. Vì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ta. “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (năm chẵn).

    Là tôi tớ. Nhưng chúng ta được yêu mến. Được có một định mệnh cao quí đang chờ đợi. Trong niềm hi vọng đó, hãy trung tín chu toàn bổn phận của ta.

    Suy niệm 3: Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực

    Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".

    "Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.

    Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.

    Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?

    Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".

    Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.

    (Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

     Suy niệm 4: Nô lệ không đòi gì

    “Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)

    Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.

    Chỉ lo phục vụ chủ mình:

    Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.

    Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.

    Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.

    Không một phần thưởng

    Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.

    Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.

    RC

    Suy niệm 5: Đến để phục vụ

    Xem thêm CN 27 TN C

    Qua những nguồn tin trên các trang mạng, chúng ta thấy: Đức Thánh Cha Phanxicô đang được cả thế giới tôn vinh và khen ngợi. Nhân loại ca ngợi ngài không phải ở khả năng tri thức vượt trội, cũng không phải vì những triết thuyết cao siêu, hay uy tín vốn được gắn với tước vị Giáo hoàng từ bao đời...! Nhưng người ta kính nể vì Đức Giáo Hoàng là một con người bình dân. Ngài sẵn sàng xuống đường để ôm hôn một người dị tật, lắng nghe một em bé đang muốn tâm sự. Ngài cũng khước từ những điều sang trọng cần có đối với một vị lãnh tụ tinh thần của Giáo Hội. Ngài cũng không ngần ngại đứng xếp hàng để nhận cơm tại một quán ăn và cũng không có khoảng cách khi cùng ngồi ăn với những công nhân sửa ống nước tại Vatican. Ngài còn là một người sống tinh thần nghèo khó khi lựa chọn những phương tiện đơn giản nhất, hoặc công cộng để di chuyển...

    Tất cả những điều đó cho thấy: Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ưa được dành quyền đặc lợi cho mình, mà sẵn sàng trong thái độ của người phục vụ... Ngài đã làm những chuyện đó là vì ngài muốn làm mọi việc cho vinh quang Chúa chứ không phải cho mình được nổi trội.

    Thực ra trong thế giới hôm nay, sự mong muốn được an thân, khao khát được sung sướng và thái độ cầu an cũng như mong muốn được phục vụ đang kéo dần người Kitô hữu đi theo như cơn lũ bão... Nhưng thử hỏi: liệu những cung cách đó có làm cho khuôn mặt của Đức Giêsu được sáng tỏ hay không? Phải chăng nó đã làm cho Ngài bị lu mờ qua những cái bóng của sự tự kiêu, ích kỷ...

    Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt đúng với tư cách là môn đệ của Chúa. Luôn noi gương Chúa đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ. Luôn yêu mến đời sống đơn giản vì ích lợi cho mình và người khác. Luôn chu toàn bổn phận của mình trong tư cách là người tôi tớ.

    Cần nhớ một điều rằng: chỉ khi nào chúng ta từ bỏ mình, sống tinh thần phục vụ, chúng ta mới trở nên mình hơn và giống hình ảnh của một vị Thiên Chúa đến để phục vụ vì ích lợi của con người.

    Chính Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và hy vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”. Điều này cũng được thánh Phanxicô Assisi đã tâm nguyện qua kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.

    Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được vai trò của người môn đệ, và xin cho chúng con biết can đảm lựa chọn trong tinh thần của người tôi tớ. Amen.

    Ngọc Biển SSP

    Suy niệm 6: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa

    (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa. Có làm được gì cho Chúa, thì đó cũng là do bổn phận phải làm. Vì vậy hãy phục vụ Chúa cách khiêm tốn.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước tôn nhan Thiên Chúa cao cả, con chẳng là gì, dù là đầy tớ cũng chẳng xứng đáng. Hơn nữa, chính Chúa cũng đã tự nguyện chọn sống cuộc đời tôi tớ. Xin Chúa cho con hiểu được Lời Chúa hôm nay để con sống tinh thần tôi tớ theo gương Chúa.

    Vì con chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con chưa ý thức được những bổn phận phải làm. Con cầu nguyện, dự lễ, mà tưởng như con làm ơn cho Chúa. Con làm việc tông đồ, mà như thể con làm ơn cho Giáo Hội. Vì chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con thường đòi hỏi quyền lợi, đòi được trả công, đòi được tôn trọng, đòi được ghi ơn.

    Lạy Chúa, xin giúp con ý thức con chỉ là đầy tớ để con làm việc bổn phận phải làm. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm theo Ý Chúa chứ không theo ý con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm hết sức mình như thể chỉ có mình con, nhưng đồng thời cũng khiêm tốn như thể chẳng cần đến con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để khi thất bại hay bị chê bai, con không nản chí, và khi thành công hay được khen ngợi, con không tự mãn. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con đừng bao giờ ganh tị với người khác, nhưng vui trong phận mình và sẵn sàng làm những công việc nhỏ bé thấp hèn nhất. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con phụng sự Chúa cho xứng đáng, phục vụ với tâm hồn quảng đại, vô vị lợi, và phần thưởng duy nhất là biết mình đã làm theo ý Chúa. Amen.

    Ghi nhớ: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.

    Suy niệm 7: Tin vào Thiên Chúa nên ta tin vào bản thân

    (Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

    Câu chuyện

    Peter là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai vợ chồng ông đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tích và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, nhưng đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, sách có câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao?”.

    Suy niệm

    Người tôi tớ Chúa dù mọi hoàn cảnh: Thành công đứng trước mặt Thiên Chúa luôn nhận mình là người đầy tớ vô dụng vì đó là sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Ngay cả lúc gian nan nhất, nơi người tôi tớ có đức tin hạt cải, Thiên Chúa luôn ở cùng và với mình làm cuộc dời non lấp biển phong ba cuộc đời.

    Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi và bạn luôn nhận mình vô dụng, để sức mạnh Thiên Chúa làm việc nơi mình. Dù trong cương vị nào, chúng ta cũng là tôi tớ của Thiên Chúa, người tôi tớ đòi hỏi chính mình luôn khiêm cung nhỏ bé, tin tưởng phó thác vì Thiên Chúa dùng mình làm việc, còn bản thân chỉ là người tôi tớ vô dụng. Người tôi tớ phải tin vào Thiên Chúa, vì chính Ngài làm việc nơi chúng ta, dù giữa bao gian truân thử thách. Chính vì tin vào Thiên Chúa nên chúng ta tin vào bản thân: Chúa ở nơi tôi và tôi có thể “dời non lấp biển”. Tin vào bản thân không phải là tự phụ coi mình là hơn tất cả, nhưng bản thân có đức tin hạt cải tin vào Thiên Chúa, cùng Ngài tôi sẽ vượt qua tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Ngay cả nơi những khiếm khuyết thể lý và tâm linh: “Tôi ý thức tôi mong manh. Đồng thời, tôi ý thức là tôi đang hành trình gian khổ trên đường độc đạo theo chân Chúa Kitô. Đức tin điều trị vết thương tâm linh nơi tôi” (Theo Nguyễn Văn Thành).

     “Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô duyên, vô duyên hơn tất cả, vô duyên hơn tất cả… Nhưng con tin Chúa chân thành... tin Chúa chân thành...”.

    Ý lực sống

    “Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. (Ga 15,5).

    Suy niệm 8: Khiêm nhường trong phục vụ

    (Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

    1. Tiếp tục chương 17, Đức Giêsu  đã dựa vào dụ ngôn người đầy tớ của ông chủ để dạy các Tông đồ tinh thần khiêm nhường trong phục vụ. Đức Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác đều là bổn phận. Chúng ta không nên huênh hoang, tự đắc với những gì mình làm được vì tất cả mọi sự đều do Chúa ban. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên phải có thái độ khiêm tốn khi phục vụ.

    2. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một ông chủ hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí... là những việc lành  mà Thiên Chúa buộc phải thưởng  bội hậu cho họ. Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người  vô dụng mà Đức Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp của mình  để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể  và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác mà thôi (Hiền Lâm).

    3. Tin Mừng hôm nay còn mời gọi chúng ta  nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ánh trên gương mặt  của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo  vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Đức Giêsu đã khẳng định: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận  mà thôi”. Đầy tớ là người làm tất cả mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Đức Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã không xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha sao (R.Veritas)?

    4. Người đầy tớ trong câu chuyện cũng hữu dụng đấy chứ. Vì hữu dụng, ông chủ mới nuôi đầy tớ trong nhà. Quả thật, hằng ngày người ta làm việc đủ thứ việc  nào là đồng áng, nào là chăn chiên; lại còn phục vụ bàn ăn cho chủ. Nhưng người đầy tớ của Chúa thì vừa vô dụng, vừa hữu dụng. Vô dụng bởi vì Chúa là Đấng hoàn hảo vô cùng. Chúng ta có làm công kia việc nọ gọi là làm cho Chúa  thì cũng không vì thế mà Chúa được hoàn hảo hơn. Nhưng hữu dụng ở chỗ Ngài muốn chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa ngõ hầu “làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn”, trong đó mưu ích cho chính chúng ta nữa (5 phút Lời Chúa).

    5. Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta hãy sống khiêm nhường. Bởi vì tất cả những khả năng, những thành công, những việc lớn nhỏ chúng ta làm được đều do Chúa ban, không có Chúa chúng ta không làm gì được và cũng không làm được gì. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên không được huênh hoang tự đắc, nếu huênh hoang đề cao cái tôi, khuếch đại giá trị của mình, tự cho mình là có công trạng hay không có mình thì không xong hay không hoàn thành được. Đó là kiêu ngạo mà thôi. Xin Chúa cho tất cả chúng ta luôn biết làm việc trong ý hướng ngay lành và nhất là trong tinh thần khiêm nhường.

    6. Truyện: Khiêm tốn là một điều khó.

    Một thầy rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.

    Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thấy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư thêm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy mà thôi”.

    Vị rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không”?

    Ông liền trả lời: “Có”. Nhưng vợ ông lại hỏi: “Thế tại sao ông lại tỏ thái độ bực tức như thế”? Vị rabbi than phiền: “Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi”.

    Suy niệm 9: Bài học phục vụ

    (Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

    A. Hạt giống...

    Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ. Muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.

    B.... nẩy mầm.

    1. 1Cr 4,7: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của mình” đều không phải là của mình thực:

    - Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.

    - Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.

    - Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.

    - Ta đẹp ư?: cũng thế.

    - Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.

    Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.

    2. Trong một tập thể, nếu ai cũng coi mình là đầy tớ của người khác thì việc chung sẽ chạy đều. Còn nếu ai cũng muốn làm kẻ chỉ huy thì sẽ thế nào?

    3. Quan niệm ‘sống đạo để lập công’: quan niệm của Pharisêu, của người  con cả trong dụ ngôn Người cha nhân hậu và  đứa con hoang đàng. Đây là kiểu sống không có tình; chỉ có tính thương mại. ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.

    4. Ta sống tốt chỉ có giá trị nhằm gợi lên lòng thương xót và sự nhân hậu của Chúa, ta không có quyền đòi hỏi gì; hoặc nếu có đòi, thì hãy đòi trong tâm tình của đứa con nhỏ vòi vĩnh trong tình thương. - Thân phận ta, về một khía cạnh nào đó, có thể ví như  thân phận người đang chờ  án tử hình, nay vì tin vào lòng nhân hậu Chúa, ta làm tốt để cố vớt vát lấy lòng Chúa và cố đền bù những thiệt hại tan hoang mình đã gây ra.

    5. Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế. Thánh nhân đáp:

    - Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).

    6. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận ấy thôi” (Lc 17,10b)

    Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cây cầu lên cao mỗi khi có tàu thuỷ qua lại phía dưới. Một ngày kia, cậu con trai ông đi qua phía cầu để chơi và xem cha mình làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té. Thầy con bị té, người cha hốt hoảng định kéo con lên. Nhưng ngay lúc đó một chuyến tàu chở đầy hành khách đang lao tới trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Ông phải nâng cầu lên cho con tàu đi qua và như vậy con trai yêu quý của ông sẽ chết. Tâm trí bấn loạn… nhưng ông cũng đã hoàn tất nhiệm vụ, để rồi phải nhìn chiếc tàu đi qua với những hành khách nhộn nhịp cười nói mà lòng quặn đau…

    Trong cuộc đời, có lần nào tôi đã dám hy sinh vì anh em mà không tính toán, dám phục vụ mà không nghĩ thiệt hơn?

    Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ một cách vô vị lợi, vì đó là bổn phận của con. (Hosanna).

    Suy niệm 10: Phục vụ trong khiêm tốn

    (Lm Giuse Đinh Tất Quý)

    Chúa Giêsu có 4 lời khuyên dành cho các môn đệ. Ngày hôm qua, chúng ta đã nói đến ba điều: Không được làm gương mù, phải tha thứ, phải có lòng tin. Hôm nay, chúng ta nói đến điều cuối cùng: phục vụ trong khiêm tốn.

    1. Chúa Giêsu đã tuyên bố công khai: Con người đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng để phục vụ mọi người, (Mt 21,33t). Toàn thể cuộc đời của Chúa lúc nào cũng xoay quanh chân lý duy nhất này, đó là “làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha “ (Mt 26,21; Lc 24,26). Bởi vậy, những môn đệ của Chúa cũng phải theo chân Chúa mà phục vụ như thế. Phục vụ xong thì nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, chúng tôi làm việc mình phải làm” (Lc 17,10).

    Trong thư thứ 1Cr 4,7 thánh Phaolô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của ta” đều không phải thực là của mình.

    - Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.

    - Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.

    - Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.

    - Ta đẹp ư? Cũng thế.

    - Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.

    Bởi vậy, dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.

    Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi: “Nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế?” Thánh nhân đáp:

    - Thiên Chúa ở trên Thiên Đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?” Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng, Ta sử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).

    2. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.

    Chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10b)

    Mẹ Têrêsa nói: “Điều quan trọng không là làm nhiều, làm tất cả,-- nhưng là sẵn sàng làm bất cứ gì, vào bất cứ lúc nào”.

    Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Abbert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau, tức năm 1952, Abbert Schweitzer được thưởng giải NOBEL hòa bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: ông vừa là một triết gia lừng danh, một thần học gia danh tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc, và còn là một bác sĩ thừa sai.

    Cuộc đời ông có nhiều điểm nổi bật làm cho ông thành “người hùng của thế kỷ”.

    Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.

    Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30, nhằm ngày 14-01-1905 ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư từ về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai làm việc giữa đám dân nghèo. Những lá thư ấy lập tức bị phản đối ngay.

    Trong cuốn sách của ông nhan đề “Bên ngoài đời sống và tư tưởng của tôi”, Schweitzer viết: “Bà con và bè bạn tôi đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của tôi. Họ bảo tôi là một người đem chôn dấu tài năng đã được ủy thác cho mình. Một phu nhân đầy tinh thần tiến bộ nọ chứng tỏ cho tôi rằng, tôi có thể sinh ích lợi hơn nhiều bằng cách là một giảng sư đại học, để phục vụ cho ngành y khoa bản xứ hơn là lao mình vào hành động mà tôi đang toan tính”.

    Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những dự định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực, lúc bấy giờ được gọi là Phi châu xích đạo. Sau cùng, ông đã chết ở đó vào năm 1965 hưởng thọ 95 tuổi.

    Đây là ít lời Abbert Schweitzer để lại cho hậu thế:

    - Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.

    - Người lạc quan là người nhìn đâu cũng thấy đèn xanh, còn người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn đèn đỏ... kẻ thực sự khôn ngoan thì mù màu.

    - Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.

    - Một bí mật lớn cho thành công là bước đi trên đường đời luôn tràn trề sinh lực.

     gplongxuyen.


CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TGP SAIGON - THỨ BA

  •  TGM NGUYỄN NĂNG
     

    Thứ Ba tuần 32 Thường niên năm II - Bổn phận (Lc 17,7-10)

    Tin mừng: Lc 17,7-10

    7 “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, 8 chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!’?

    9 Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?

    10 Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

     

    1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa. Có làm được gì cho Chúa, thì đó cũng là do bổn phận phải làm. Vì vậy hãy phục vụ Chúa cách khiêm tốn.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước tôn nhan Thiên Chúa cao cả, con chẳng là gì, dù là đầy tớ cũng chẳng xứng đáng. Hơn nữa, chính Chúa cũng đã tự nguyện chọn sống cuộc đời tôi tớ. Xin Chúa cho con hiểu được Lời Chúa hôm nay để con sống tinh thần tôi tớ theo gương Chúa.

    Vì con chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con chưa ý thức được những bổn phận phải làm. Con cầu nguyện, dự lễ, mà tưởng như con làm ơn cho Chúa. Con làm việc tông đồ, mà như thể con làm ơn cho Giáo Hội. Vì chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con thường đòi hỏi quyền lợi, đòi được trả công, đòi được tôn trọng, đòi được ghi ơn.

    Lạy Chúa, xin giúp con ý thức con chỉ là đầy tớ để con làm việc bổn phận phải làm. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm theo Ý Chúa chứ không theo ý con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm hết sức mình như thể chỉ có mình con, nhưng đồng thời cũng khiêm tốn như thể chẳng cần đến con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để khi thất bại hay bị chê bai, con không nản chí, và khi thành công hay được khen ngợi, con không tự mãn. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con đừng bao giờ ganh tị với người khác, nhưng vui trong phận mình và sẵn sàng làm những công việc nhỏ bé thấp hèn nhất. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con phụng sự Chúa cho xứng đáng, phục vụ với tâm hồn quảng đại, vô vị lợi, và phần thưởng duy nhất là biết mình đã làm theo ý Chúa. Amen.

    Ghi nhớ: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
    Kính chuyển:
    Hồng
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - CN32TN-C

  •  
     

    Suy niệm Chúa Nhật 32 Thường Niên – C

    Niềm tin xác tín – Br. Quốc Toản, CRM

    TIN MỪNG LUCA 20: 27-38

    Chúng ta sống trên đời này là để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân hầu được phúc hưởng nhan Thiên Chúa Hằng Sống đời sau. Để được thế mỗi người phải chiếu giãi đức tin trong cuộc sống hằng ngày.

    Còn gương lành nào chiếu giãi đức tin cho bằng gương của bảy anh em lần lượt chịu tử đạo trước sự chứng kiến của người mẹ can đảm trong Bài Đọc thứ nhất hôm nay? (x. 2 Mac 7:1-2; 9-14). Đây qủa là một tấm gương đáng được ghi nhớ muôn đời trong lịch sử nhân loại!

    Bảy anh em đã chiếu sáng sự thánh thiện và lòng kiên trì qua sự chấp nhận những tra tấn dã man dưới tay phường vô nhân đạo. Sở dĩ họ chịu đựng được những tra tấn cũng một phần do sự khuyên bảo và khích lệ của người mẹ tràn đầy lòng tin. Đặc biệt hơn nữa là vì họ có một niềm tin xác tín rằng Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của công bằng và yêu thương, Đấng mà họ sẵn sàng hy sinh mạng sống đời này, đã dành cho họ một cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng.

    Trải qua hơn hai ngàn năm, hằng triệu Kitô hữu đã hy sinh mạng sống cách anh hùng vì đức tin. Trong số đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Ngày nay cũng có hằng triệu người đang chịu đau khổ và tử đạo liên lỉ vì cùng một đức tin. Tuy nhiên, họ may mắn hơn bảy anh em người Do-thái xưa vì họ có gương lành của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chịu đựng một cuộc tử đạo đau đớn dã man hơn mọi người. Vì thế, một cách nào đó, gương lành của người mẹ và bảy anh em Do-thái đáng được ngưỡng mộ hơn. Nhưng, điều quan trọng là cũng chính một Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ những ơn cần thiết để chịu đựng mọi cơn thử thách, ngày nay vẫn tiếp tục ban cho mọi Kitô hữu những ơn cần thiết để chịu đựng mọi thử thách hầu được hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời với Thiên Chúa Hằng Sống.

    Những gương anh dũng của các tiền nhân đều đáng cho chúng ta phải thật sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, là những Kitô hữu, ngưỡng mộ không chưa đủ! Ta cần phải bắt chước và thực hành những gương anh hùng đó trong cuộc sống thường ngày. Theo tự nhiên, ai trong chúng ta khi nghĩ đến những thử thách tra tấn cũng phải giùng mình kinh hãi. Chắc chắn các đấng đi trước cũng vậy. Nhưng, khi cơn thử thách đến thì Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chịu đựng như Chúa đã ban cho các đấng tiền nhân.

    Những tấm gương chứng nhân đức tin sáng ngời của các bậc đi trước là một thách đố mà chúng ta có thể áp dụng cho cuộc sống ngày nay. Chúng ta không cần phải hỏi, “Tôi có sẵn sàng chấp nhận những cực hình và cái chết vì đức tin hay không?” Điều chúng ta nên làm là xét xem mình có sẵn sàng và thật sự sống đức tin trong cuộc sống hằng ngày chưa. Nghĩa là chúng ta đã sống tinh thần chịu đựng, hy sinh và can đảm đúng với địa vị của mình hay chưa? Thí dụ: vợ chồng có nhịn nhục, can đảm hy sinh chịu đựng lẫn nhau hay không? Bố mẹ có quan tâm đến con cái và săn sóc, dậy dỗ chúng nên người hay chỉ lo làm ăn đến độ bỏ bê chúng? Con cái có biết vâng lời bố mẹ và chăm chỉ học hành cho giỏi hay chỉ biết đi chơi và phá nghịch xóm làng…v.v.?

    Cuộc sống là một chuỗi ngày chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Vì thế, để sống đúng địa vị của chính mình không phải là một chuyện dễ làm đối với bất cứ một ai. Với nhiều người đây chính là một cuộc tử đạo liên lỉ. Nhưng, hãy nghĩ đến hoặc nhìn lại những tấm gương xác tín đã tăng cường sức lực cho người mẹ và bảy anh em Do-thái xưa. Mọi Kitô hữu phải luôn tạo cho mình có một niềm tin xác tín vào Thiên Chúa Hằng Sống như thế.

    Nếu chúng ta trung thành với Chúa thì Ngài sẽ thưởng chúng ta. Nếu chúng ta trung thành với giới răn của Chúa thì Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Và nếu Chúa có muốn chúng ta hy sinh mạng sống để làm chứng nhân cho Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc trường sinh trên quê trời.
       Được thế thì chúng ta đã hoàn tất được mục đích cuộc sống đời này; đó là chiếm được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau với Thiên Chúa Hằng Sống.
    Kính chuyển:
    Hồng
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TGP SAIGON - THỨ HAI

  •  TGM NGUYỄN NĂNG

    Thứ Hai tuần 32 Thường niên năm II (Lc 17,1-6)

    Tin mừng: Lc 17, 1-6

    1 Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! 2 Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã.

    3 Anh em hãy đề phòng! 4 Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: “Tôi hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó.”

    5 Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” 6 Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, ” nó cũng sẽ vâng lời anh em.

     

    1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Khi lãnh bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở thành phần tử dân Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta phải làm chứng cho sự thánh thiện: không làm gương xấu và giúp nhau sửa lỗi lầm.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con người có tính xã hội. Chúng con không sống đơn độc, nhưng lệ thuộc lẫn nhau. Khi con sống, là con sống với nguời khác, sống cho và sống nhờ người khác. Cách riêng trong đời sống tinh thần, người trên phải hướng dẫn giáo dục người dưới, người đi trước chỉ đường cho kẻ đến sau. Anh em bạn bè phải giúp nhau nên tốt. Tất cả đều liên đới chịu trách nhiệm về nhau trong tình huynh đệ.

    Lạy Chúa, được gia nhập Hội Thánh, chúng con phải chịu trách nhiệm giúp nhau sống thánh thiện hơn. Con có bổn phận lo cho chính minh và còn có trách nhiệm với tha nhân đang sống chung quanh con, nhất là đối với trẻ nhỏ. Thế mà, suốt bao năm tháng qua, không biết được mấy lần con là ngọn đèn dẫn dắt người khác bước đi theo con đường của Chúa. Và có lẽ cũng không thiếu những lúc con đã trở nên chướng ngại vật cản đường anh em đến với Chúa, vì đã làm gương xấu cho họ. Con đã dửng dưng truớc lỗi lầm của tha nhân vì chưa biết khích lệ nhau nên thánh.

    Lạy Chúa Giêsu, con sợ lời cảnh báo của Chúa. Xin Chúa giúp con sống đời chứng nhân bằng những gương sáng, bằng cuộc sống thánh thiện trong môi trường hằng ngày. Xin giúp con thay vì thúc đẩy lôi kéo nhau đến tội lỗi, thì trái lại, biết dẫn đưa nhau tới đời sống thánh thiện bằng lời nói, bằng việc làm, và bằng cả cuộc sống. Amen.

    Ghi nhớ: “Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó”.
    Kính chuyển:
    Hồng
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - NÔI NGUYỄN - CN32TN-C

  •  
    Song Loi Chua

    SUY NIỆM/CẢM NGHIỆM SỐNG PHÚC ÂM

    CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN NĂM B (6/11/2022)

    ---ooOoo---

    TIN MỪNG LUCA 20:27-38

     VỀ MẦU NHIỆM LOÀI NGƯỜI SỐNG LẠI

    VÀ CUỘC SỐNG ĐỜI SAU

    "".

    I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

    Trong thế giới loài người thời xưa cũng như thời nay có nhiều người không tin là con người sẽ sống lại nên cũng không tin là có cuộc sống đời sau tức cuộc sống sau khi con người chết. Những người ấy cho rằng chết là hết! Nhưng có nhiều người - trong đó các Kitọ hữu - tin vào sự sống lại của loài người và tin vào cuộc sống sau cái chết.

    Những người ấy cho rằng chết không phải là đã hết mà mới chỉ là bắt đầu một cuộc sống mới! Chúng ta còn có thể nói là niềm tin vào sự sống lại của loài người và tin vào cuộc sống sau cái chết sẽ xác định tức định hình lối sống đời này của mỗi một người.  

    Bài Phúc âm Chúa Nhật 32 Thường Niên Năm C hôm nay là cơ hội tốt cho mỗi người chúng ta nhìn xem mình có tin vào sự sống lại của loài người và xem mình có tin vào cuộc sống sau cái chết hay không?

    II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 20,27-38: Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ".

    Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa".

    III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 20,27-38:  

     3.1 Thời nào cũng có người không tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau:  Thời  Chúa Giêsu là những người Xađốc; thời nay là rất nhiều người vô thầnvà rất nhiều người vô tín ngưỡng. Những người ấy cho rằng chết là hết nên chỉ có đời này là quan trọng. Những người ấy tìm mọi cách vun vén cho họ và cho người thân của họ chức quyền, của cải, danh vọng và lạc thú, nhiều khi bất chấp quy tắc đạo đức, lương tâm. Những người ấy còn chế nhạo những người có đạo, những người tin là có sự sống lại và có cuộc sống đời sau, như những người Xađốc trong Phúc âm.

    3.2 Chúa Giêsu quả quyết là có sự sống lại và có sự sống đời sau:  Để đáp lại thắc mắc của những người Xađốc, a) Chúa Giêsu quả quyềt là có sự sống lại và cuộc sống đời sau; b) Chúa Giêsu còn cho biết là "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại”;  c) Sau cùng Chúa Giêsu nhắc lại giáo huấn truyền thống của Thánh Kinh: "Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa".

    IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 20,27-38:  

    4.1 Chúng ta hãy vững tin vào sự sống lại và sự sống đời sau: Đó là điều mà chúng ta không được xem thường, vì đó là một điều thiết yếu của niềm tin Kitô giáo.  

    4.2 Chúng ta hãy sống theo niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau: Với chúng ta chết không phải là hết mà là bắt đầu một cuộc sống mới. Cuộc sống đời này  là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau; nến chúng ta phải tận dụng mọi thuận lợi là đời này đem lại. Cuộc sống đời này chỉ là cuộc sống tạm. Cuộc sống đời sau mới là cuộc sống thật, cuộc sống vĩnh cửu; nên chúng ta phải vun vén những của cải không hư nát là các công trạng có gía trị trước mặt Chúa.

    Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN

    KHAI MỞ:  Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã mạc khải cho chúng con về sự sống lại và sự sống đời sau. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.

    1.- «Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho những người không tin có sự sống lại và không tin có sự sống đời sau.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    2.- «Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy tích cực giảng dẫy và giúp  người khác tin có sự sống lại và có sự sống đời sau.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    3.- «Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô xác tín vào sự sống lại.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    4.- «Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các Kitô hữu biết cách sống với Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa.

    LỜI KẾT:

    Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con và vì Người đã dậy chúng con biết về sự sống lại và sụ sống đời sau của loài người.

    Chúng con xin Cha ban cho chúng con lòng tin mạnh mẽ và cách sống phù hợp với niềm tin mà Chúa đã ban cho chúng con.  Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.

    Sàigòn ngày 5 tháng 11 năm 2022

    Giêrônimô Nguyễn Văn Nội  

     

    --