4. Bánh Sự Sống

BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ NĂM

  •  
    Tinh Cao
     

    Thứ Năm

     

    BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA

    Gặp Được Lời Chúa Con đã Nuốt Vào (Gr 15, 16)

     

    Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 6, 11-27

    "Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại".

    Trích sách Tiên tri Ðaniel.

    Trong những ngày ấy, có những người tọc mạch dò xét, họ bắt gặp Ðaniel đang cầu nguyện kêu xin cùng Chúa mình. Họ liền đến tâu vua về điều lệ rằng: "Tâu đức vua, chớ thì đức vua đã chẳng quy định rằng: trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin cùng thần minh nào hay người nào ngoài đức vua, thì, lạy đức vua, nó sẽ bị ném vào hang sư tử đó sao?" Vua trả lời rằng: "Ðúng, cứ như sắc chỉ Mêđia và Batư, thì không được sai lỗi". Bấy giờ họ lại tâu vua rằng: "Ðaniel thuộc con cái Giuđa phải lưu đày, đã chẳng xem sao lề luật và chiếu chỉ vua đã quy định: mỗi ngày nó đọc kinh cầu nguyện ba lần". Khi nghe biết điều đó, nhà vua rất đỗi buồn rầu. Vua quyết tâm cứu chữa Ðaniel, và cố gắng cứu người cho đến khi mặt trời lặn. Những người ấy hiểu ý vua, liền tâu vua rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết cho rằng dân Mêđia và Batư có lề luật này là bất cứ sắc chỉ nào đức vua ra, thì không được thay đổi". Bấy giờ vua truyền dẫn Ðaniel ra, và họ ném người xuống hang sư tử. Vua bảo Ðaniel rằng: "Xin Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy sẽ cứu thoát ngươi". Người ta liền lấy hòn đá chận cửa hang, vua lấy nhẫn mình và nhẫn các quan triều thần mà đóng ấn niêm phong, để bảo đảm vụ Ðaniel.

    Vua trở về hoàng cung liền đi ngủ, không chịu ăn uống lương thực dâng trước mặt vua, nhưng vua không sao ngủ được. Trời vừa rạng đông, vua liền chỗi dậy, vội vã chạy ra hang sư tử. Khi đến gần cửa hang, vua liền lớn tiếng khóc thương Ðaniel rằng: "Hỡi Ðaniel tôi tớ Thiên Chúa hằng sống, không biết Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy có cứu chữa được ngươi thoát khỏi sư tử chăng?" Ðaniel trả lời rằng: "Tâu đức vua muôn tuổi, Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại, nên chúng không làm hại được thần; vì trước mặt Thiên Chúa, thần là người công chính; vả lại tâu đức vua, trước mặt đức vua, thần cũng chẳng làm điều gì sai lỗi. Bấy giờ vua mừng rỡ, truyền kéo Ðaniel ra khỏi hang. Khi Ðaniel ra khỏi hang, người ta thấy người không bị hề hấn gì, vì người đã tin cậy vào Thiên Chúa của người. Vua liền truyền đem các người tố cáo Ðaniel, cùng vợ con của chúng, ném vào hang sư tử, chúng chưa kịp rơi xuống tới đáy hang, thì đã bị sư tử cắn xé nát thịt tan xương.

    Bấy giờ vua Ðariô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: "Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an. Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời. Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ðaniel khỏi hang sư tử".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Ðn 3, 68. 69. 70. 71. 72. 73. 74

    Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).

    Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, mưa đổ với sương rơi. - Ðáp.

    2) Chúc tụng Chúa đi, nước đông và băng giá. - Ðáp.

    3) Chúc tụng Chúa đi, nước đọng với tuyết sa. - Ðáp.

    4) Chúc tụng Chúa đi, ngày quang và đêm tối. - Ðáp.

    5) Chúc tụng Chúa đi, sáng sủa với thâm u. - Ðáp.

    6) Chúc tụng Chúa đi, mây trôi và chớp giật. - Ðáp.

    7) Hãy chúc tụng Chúa đi, hỡi địa cầu, hãy ngợi khen tán tạ Chúa tới muôn thuở. - Ðáp.

     

    Alleluia: Lc 21, 28

    Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 21, 20-28

    "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.

    "Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.

    "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".

    Ðó là lời Chúa. 

     



     

    Suy Nghiệm SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

     

    Ngẩng đầu thẳng đứng

     

    Tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời, hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIV Thường Niên, Bài Phúc Âm thuật lại thêm những lời cảnh báo kèm huấn dụ của Chúa Giêsu với các môn đệ về việc ứng phó với tình hình cuối thời, sau đó Người lại cho biết tiếp về hiện tượng cuối thời diễn tiến cho đến khi Người tái xuất hiện.

    Về những lời huấn dụ kiêm cảnh báo của Chúa Giêsu với các môn đệ liên quan đến việc ứng phó tình hình cuối thời:

    "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép. Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt".

    Về hiện tượng cuối thời diễn tiến cho đến khi Chúa Kitô xuất hiện:

    "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".

    Để tiếp tục những cảm nhận và dẫn giải về mầu nhiệm cùng biến cố tái giáng của Chúa Kitô, như đã được trình bày và chia sẻ ở Thứ Sáu Tuần XXXII Thường Niên - Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ Bvà Chúa Nhật XXXIII Thường Niên: Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXIII Thường Niên Chu Kỳ B - ở đây, hôm nay, chúng ta lưu ý thêm những chi tiết chưa có trong 2 bài Phúc Âm trên, thứ tự như sau:

    Trước hết, "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây (có thể ám chỉ đạo binh gog và magog ở Khải Huyền 20:8-9), các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa (có thể ám chỉ cộng đồng dân Chúa trên thế giới, vì Giuđêa là miền nam nước Do Thái, miền đất chính yếu của Do Thái giáo, nơi có giáo đô và đền thờ Giêrusalem bị xâm chiếm và tàn phá), hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành". 

    Nghĩa là thành phần chứng nhân cuối thời phải làm sao để có thể thoát nạn khi đến thời điểm xẩy ra là "ngày báo oánvà ở ngoài địa điểm xẩy ra là "thành Giêrusalem". Việc họ có thể vượt thoát hoạn nạn kinh hoàng hầu như bất khả đối với khả năng tự nhiên của con người này chứng tỏ thành phần chứng nhân cuối thời thật sự tỉnh thức, nhận ra dấu chỉ thời đại và ứng biến một cách khôn ngoan, không giống như thành phần nạn nhân bị mắc kẹt ở lại không thể thoát thân, gây ra bởi chính tình trạng mù quáng và nặng nề chậm chạp của họ, như được nói đến ngay dưới đây.

    Sau nữa, "khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ xẩy ra những khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân". 

    "Người đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ" đây có thể ám chỉ những ai lo toan bận bịu vướng mắc thế gian vào lúc bấy giờ, như thành phần buôn bán trong Đền Thờ Giêrusalem bị Chúa đánh đuổi trong bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên vừa rồi, sẽ chịu "khốn cực cả thể", ở chỗ họ "sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ b bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt".

    "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt" Vào thời điểm ngày cùng tháng tận, "các dân ngoại" đây không phải là thành phần ngoài dân Do Thái thời Cựu Ước và là thành phần đã làm nên Giáo Hội Chúa Kitô thời Tân Ước, mà là tất cả những ai, dù là Kitô hữu, sống như không có đức tin, sống theo tinh thần và khuynh hướng của dân ngoại, theo trào lưu vô thần duy vật, hoàn toàn phản lại với Chúa Kitô và bất chấp lề luật Thiên Chúa, như tình trạng văn hóa Kitô giáo đang bị hủy hoại ở thế giới Tây phương Kitô giáo hiện nay... Nhưng tình trạng "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp" này chỉ kéo dài trong một thời gian giới hạn được phép, tức "cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt". Nghĩa là cho tới khi Chúa Kitô xuất hiện như Người đã xuất hiện để thanh tẩy đền thờ Giêrusalem trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXIII vừa rồi.

    "Cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt" thì "lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả" . Bài Đọc 1 hôm nay, trích sách Tiên Tri Daniên, cũng cho thấy ý nghĩa "lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả" vào lúc "thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt", như đã xẩy ra trong Cựu Ước, được Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy "chấm dứt" có thể hiểu được là ở chỗ vị vua dân ngoại đã chẳng những nhận biết Thiên Chúa của dân Do Thái mà còn truyền cho các dân thuộc đế quốc của mình phải kính sợ Ngài nữa:

    "Vua Ðariô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: 'Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an. Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời. Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ðaniel khỏi hang sư tử'".

    Và đó là lý do bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Sách Tiên Tri Daniên, thiên nhiên vạn vật tiếp tục bài ca chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là chủ tể tối cao của mình như sau:

    1) Chúc tụng Chúa đi, mưa đổ với sương rơi.

    2) Chúc tụng Chúa đi, nước đông và băng giá.

    3) Chúc tụng Chúa đi, nước đọng với tuyết sa.

    4) Chúc tụng Chúa đi, ngày quang và đêm tối.

    5) Chúc tụng Chúa đi, sáng sủa với thâm u.

    6) Chúc tụng Chúa đi, mây trôi và chớp giật.

    7) Hãy chúc tụng Chúa đi, hỡi địa cầu, hãy ngợi khen tán tạ Chúa tới muôn thuở.

    Sau hết, "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến". Đúng thế, "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến" nghĩa là lúc "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp", thì đó là dấu báo cho biết "giờ cứu rỗi các con đã gần đến", nghĩa là lúc Chúa Kitô sắp sửa xuất hiện để thanh tẩy Đền Thánh của Người, thì thành phần chứng nhân cuối thời chẳng những không được sợ hãi hay chán nản bỏ cuộc, trái lại, còn phải hân hoan vui mừng "đứng dậy và ngẩng đầu lên" nữa, để sửa soạn tiến lên nghênh đón Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis (nhan đề của bức thông điệp đầu tay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 4/3/1979)đúng như những gì đã được Thánh Phaolô Tông Đồ ngưỡng vọng:

    "Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại

    trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế,

    chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi". (1Thessalonica 4:16-17).

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

     

     

    --

     

BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ HAI

  •  
    Tinh Cao
     

    Thứ Hai

     

    BÁNH SỰ SỐNG Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 1, 1-6. 8-20

    "Không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria".

    Khởi đầu sách Tiên tri Ðaniel.

    Năm thứ ba triều đại vua Gioakim nước Giuđa, Nabukô-đônôsor, vua Babylon, tiến đến vây hãm Giêrusalem. Chúa trao vua Gioakim nước Giuđa và một phần đồ vật dùng trong đền thờ Chúa vào tay ông: Ông mang các đồ vật ấy về chùa thần minh của ông trong đất Sennaar và trong kho báu thần minh của ông.

    Vua truyền cho quan thái giám Asphênez dẫn về hoàng cung các con cái Israel, các người thuộc hoàng tộc và gia đình quyền quý, các thiếu niên không tàn tật, tuấn tú, đầy khôn ngoan, thông minh, sáng trí, xứng đáng sống trong hoàng cung, để dạy văn chương và ngôn ngữ người Calđêa cho các cậu. Vua quy định mỗi ngày cho các cậu ăn đồ của vua ăn, và uống rượu vua uống, để sau ba năm nuôi dưỡng như vậy, các cậu có thể hầu cận trước mặt vua. Trong số các cậu thuộc dòng dõi Giuđa, có Ðaniel, Anania, Misael, và Azaria.

    Ðaniel dốc lòng không để cho đồ vua ăn và rượu vua uống làm cậu ra ô uế, và xin quan thái giám đừng làm cho cậu ra ô uế. Thiên Chúa đã ban cho Ðaniel được ân huệ và lòng thương trước mặt vị tổng thái giám. Vị này bảo Ðaniel rằng: "Tôi sợ đức vua, Người đã quy định thức ăn và của uống cho các cậu rồi. Nếu Người xem thấy nét mặt các cậu xanh xao hơn đồng bạn, thế là các cậu nạp đầu tôi cho đức vua rồi". Ðaniel nói với Malasar, kẻ được vị tổng thái giám chỉ định coi sóc Ðaniel, Anania, Misael và Azaria: "Tôi xin ông thử cho chúng tôi, là các tôi tớ ông, ăn rau và uống nước lã, rồi ông ngắm xem nét mặt chúng tôi và nét mặt những đứa dùng lương thực của đức vua; ông thấy sao, thì hãy đối xử với các tôi tớ ông như vậy". Nghe nói thế, ông để thử chúng trong mười ngày. Sau mười ngày, nét mặt bốn cậu trở nên xinh tươi béo tốt hơn mọi thiếu niên dùng lương thực của nhà vua. Malasar cất đồ ăn và rượu uống của các cậu, rồi cho các cậu ăn rau.

    Thiên Chúa ban cho các cậu này được thông minh, hiểu biết mọi sách vở và khôn ngoan; phần Ðaniel lại thông hiểu các thị kiến và chiêm bao. Ðến hết thời gian vua chỉ định, vị tổng thái giám dẫn các cậu đến trước mặt vua Nabukôđônôsor. Khi nói chuyện với các cậu, vua thấy mọi người không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria. Các cậu đứng trước mặt vua. Vua hỏi các cậu về sự khôn ngoan và thông minh, thì thấy các cậu giỏi hơn gấp mười lần các thuật sĩ, đồng bóng trong cả nước của vua.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56

    Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).

    Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.

    2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

    3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

    4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

    5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

     

         Alleluia: Lc 21, 36

    Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 21, 1-4

    "Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người. Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình".

    Ðó là lời Chúa.

     

     

    Suy Nghiệm/SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

     

    Nhỏ Bé Vĩ Đại

     

    Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIV Thường Niên, Thánh ký Luca, qua các bài Phúc Âm trong tuần cuối cùng của phụng niên này, tiếp tục thuật lại cho chúng ta biết những giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem sau khi trình thuật, qua các bài Phúc Âm tuần trước, là cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa Giêsu đã đạt đến đích điểm của nó là chính Thành Thánh và Đền Thánh Giêrusalem. 

    Giáo huấn cuối cùng ở Giêrusalem tiếp tục bài giáo huấn đầu tiên trong Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước về sự sống lại, được Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay muốn dạy các môn đệ của Người liên quan đến gương sống đức tin của một bà góa, một sự kiện cũng đã được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXXII Thường Niên. Hai bài Phúc Âm về bà góa được đọc trong phụng vụ Lời Chúa này có nội dung giống nhau, tuy Phúc Âm Thánh Marco có vẻ chi tiết hơn và dài hơn.

    Chẳng hạn Thánh ký Marco còn thêm những chi tiết sau đây: 1- "Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm", chứ không phải chỉ "nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền" như Thánh ký Luca thuật lại; 2- "hai đồng tiền là một phần tư xu", chứ không chỉ như Thánh ký Luca vắn tắt "hai đồng tiền nhỏ"; 3- "Người liền gọi các môn đệ và bảo", chứ không nói trống trống "nên bảo rằng" như Thánh Luca.

    Ngoài ra, hai Thánh ký đều ghi lại nội dung giống nhau nơi lời nhận định và huấn dụ của Chúa Kitô về sự kiện bà góa bỏ tiền này: 1- bà góa này bỏ nhiều hơn hết trong những người bỏ tiền; 2- vì bà bỏ tất cả những gì bà có cho dù đang túng thiếu, trong khi các người khác chỉ bỏ những của dư thừa của họ.

    Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm theo Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XXXII hình như nhấn mạnh đến bà góa nghèo, thì Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay lại liên quan đến người giầu hơn, căn cứ vào 2 chi tiết sau đây: 1- "Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền"; 2- "lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa". Ở Phúc Âm Thánh Marco không có chi tiết "dâng cho Thiên Chúa" này.

    Để tiếp tục chia sẻ bài Phúc Âm về bà góa này, bài đã được chia sẻ cho Chúa Nhật XXXII: Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ B, hôm nay, chúng ta cần giải quyết vấn đề là tại sao bà góa nghèo này đã trở thành bài giáo huấn Giêrusalem thứ hai (sau bài đầu ở Phúc Âm Thứ 7 tuần trước) trong các bài giáo huấn cuối cùng công khai của Chúa Kitô? Xin thưa, có thể tại vì sự kiện này có liên hệ đến hai sự kiện khác sau đây: 

    Thứ nhất là vì, theo bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô cho Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm B, việc buôn bán lợi lộc trần gian của dân Chúa đã tục hóa Đền Thánh Giêrusalem vốn là nơi linh thiêng, là nhà cầu nguyện, và đã biến Đền Thánh này thành hang trộm cướp, và việc Chúa Giêsu thẳng tay thanh tẩy đền thờ trong trường hợp này nhắm đến mục đích dạy cho cộng đồng dân Chúa bấy giờ, bao gồm cả thành phần lãnh đạo, là phải kính mến Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ hết mình và trên hết mọi sự. Cử chỉ và hành động bà góa tỏ ra tin tưởng tôn kính Thiên Chúa hết mình và trên hết mọi sự, bằng cách đã bỏ tất cả những gì mình có chính là tấm gương Chúa Kitô muốn nêu lên và nhấn mạnh để chung mọi người và riêng môn đệ của Người noi theo bắt chước.

    Thứ hai là vì, cuộc hành trình Giêurusalem của Chúa Kitô liên quan đến biến cố Người đến lần thứ hai, với các dấu báo cùng biến động kinh hoàng khủng khiếp mà Người khuyên các môn đệ của Người hãy tỉnh thức, nhất là đừng quyến luyến một sự gì, như Người đã cảnh báo trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXII: "Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó". Gương bà góa bỏ tiền vào hòm tiền trong Đền Thờ mà chẳng hề lo đến việc bảo toàn mạng sống của bà không đáng là bài học Chúa muốn nhấn mạnh trong loạt bài giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem hay sao? 

    Nếu bà góa được Chúa Kitô khen tặng vì đã dâng cúng tất cả những gì mình có, dù chẳng bao nhiêu so với những người dâng cúng đồ dư thừa của họ, thì Chúa Kitô lại sử dụng chính việc bà thực hiện với tất cả lòng tin tưởng phi thường của bà để làm gương cho thành phần chứng nhân tiên khởi của Người là các vị tông đồ. Sách Tiên Tri Daniên ở Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy các cậu con trai Do Thái là "Ðaniel, Anania, Misael và Azaria", nhờ ăn uống kham khổ, chứ không dùng những thực phẩm sang trọng do nhà vua truyền dọn ra cho họ ăn, mà họ đã "được thông minh, hiểu biết mọi sách vở và khôn ngoan; phần Ðaniel lại thông hiểu các thị kiến và chiêm bao", đến độ "Các cậu đứng trước mặt vua. Vua hỏi các cậu về sự khôn ngoan và thông minh, thì thấy các cậu giỏi hơn gấp mười lần các thuật sĩ, đồng bóng trong cả nước của vua".

    Bởi thế, nhóm thiếu niên Do Thái này, thành phần tiêu biểu cho những ai chỉ biết tin cậy vào một mình Thiên Chúa, như bà góa dâng cúng trong bài Phúc Âm hôm nay, mới có lý do chính đáng để tuyên tụng "Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời", như câu họa cùng với các câu xướng của bài Đáp Ca hôm nay:

       1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời.

    2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.

    3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.

    4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.

    5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

      TN.XXXIVL-2.mp3

     

    Ngày 22 tháng 11

    Thánh Xê-xi-li-a, trinh nữ, tử đạo

    lễ nhớ bắt buộc

    Tiểu sử 

    Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo Xê-xi-li-a, Va-lê-ri-a-nô và Ti-buốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Ki-tô giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rô-ma tên là Xê-xi-li-a trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang Ca-lít-tô. Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn mạng.

    Bài đọc 2

    Hãy hát cho hay bằng tiếng reo vui để mừng Chúa

     

    Trích bài diễn giải thánh vịnh của thánh Âu-tinh, giám mục.

    Hãy tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm ; kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt. Nào dâng Chúa một bài ca mới. Hãy cởi bỏ cái cũ kỹ ; anh em đã biết bài ca mới. Con người mới, giao ước mới, bài ca mới. Bài ca mới không thích hợp với những con người cũ. Bài ca đó, chỉ những con người mới mới học được, vì nhờ ân sủng họ đã được đổi mới từ tình trạng cũ kỹ và từ nay thuộc về giao ước mới, tức là Nước Trời. Tất cả tình yêu của chúng ta tha thiết hướng về Nước ấy và hát bài ca mới ; hãy hát bài ca mới, không phải bằng môi miệng nhưng bằng đời sống.

    Hãy dâng Chúa một bài ca mới, hãy hát cho hay để mừng Người. Mỗi người tự hỏi phải hát mừng Thiên Chúa thế nào. Hãy hát mừng Người, nhưng đừng hát sai. Người không muốn bị chói tai. Hãy hát cho hay, hỡi anh em. Trước mặt một người sành âm nhạc, nếu người ta bảo bạn : “Hãy hát cho ông ấy thưởng thức”, mà bạn không được huấn luyện về âm nhạc, thì bạn sợ không dám hát kẻo làm mất lòng người nghệ sĩ. Thật thế, những lỗi người không thạo nhạc chẳng nhận ra, thì người nghệ sĩ sẽ thấy rõ. Vậy ai dám cho mình là hát hay để hát mừng Thiên Chúa, Đấng đánh giá người hát, Đấng xem xét mọi sự, Đấng nghe thấy tất cả ? Bao giờ bạn mới có thể hát cách điêu luyện đến mức không làm chói đôi tai thành thạo ấy chút nào ?

    Đây chính Người chỉ cho bạn cách hát : đừng tìm lời, như thể bạn có khả năng diễn tả bằng lời điều làm cho Thiên Chúa ưa thích. Hãy hát mừng Người bằng tiếng reo vui. Hát bằng tiếng reo vui, đó là hát cho hay để dâng Chúa. Hát bằng tiếng reo vui là gì ? Phải hiểu rằng tiếng hát của tâm hồn không thể diễn tả bằng lời. Cũng như những người hát trong khi gặt lúa hoặc hái nho hay khi làm một công việc gì phấn khởi : thoạt đầu họ vui mừng hân hoan nhờ những lời của bài ca, sau đó họ như đầy tràn một niềm vui lớn lao đến nỗi không thể diễn tả bằng lời, nên họ không dùng lời nữa mà chuyển sang tiếng reo vui.

    Reo vui là một tiếng phát ra để diễn tả rằng : tâm hồn đang trào dâng một điều gì đó không thể nói lên được. Tiếng reo vui ấy thích hợp với ai hơn là với Thiên Chúa, Đấng không gì diễn tả được ? Đấng không gì diễn tả được là Đấng bạn không thể nói lên được bằng lời. Nếu bạn không thể nói lên bằng lời, mà cũng không được phép thinh lặng, thì bạn còn cách nào hơn là reo vui ? Tâm hồn cứ hân hoan mà không cần lời để niềm vui vô biên không bị ngôn từ giới hạn. Hãy hát cho hay bằng tiếng reo vui để mừng Chúa.

    Xướng đápTv 70 (71),8.23 ; 9,3

    XMiệng con chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh.

    ĐTheo nhịp đàn mừng Chúa, miệng con sẽ reo hò.

    XMừng Ngài, con hân hoan nhảy múa, đàn hát kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.

    ĐTheo nhịp đàn mừng Chúa, miệng con sẽ reo hò.

    Lời nguyện 

    Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Xê-xi-li-a, chúng con đến dâng lời khẩn nguyện : Vì lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa. Chúng con cầu xin

     

    ThanhCecilia.mp3 

     https://youtu.be/Jg2PUoJ2rZg 

     

    --

     

BÁNH SỰ SỐNG LC - THỨ SÁU - TĨNH CAO

  •  
    Tinh Cao
     

    Thứ Sáu

     

    BÁNH SỰ SỐNG Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 4, 36-37, 52-59

    "Họ làm lễ cung hiến bàn thờ và hân hoan dâng lễ toàn thiêu".

    Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

    Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: "Quân thù chúng ta đã bị tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại".

    Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion.

    Ngày hai mươi lăm tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi tám, họ dậy sớm, dâng lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn thiêu mà họ vừa mới thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những tiếng ca, tiếng đàn lục huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa, đúng ngày trước kia dân ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ. Toàn dân sấp mình thờ lạy và ca tụng Ðấng ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ.

    Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên. Giuđa cùng với anh em ông và cộng đoàn Israel quyết định rằng: Hằng năm, từ ngày hai mươi lăm tháng Kislêu, lễ cung hiến bàn thờ sẽ được cử hành trong vui mừng hân hoan suốt tám ngày.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: 1 Sb 29, 10. 11abc. 11d-12a. 12bcd

    Ðáp: Lạy Chúa, chúng con chúc tụng thánh danh vinh hiển của Chúa (c. 13b).

    Xướng: 1) Ðavít đã chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, Người thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn muôn thuở". - Ðáp.

    2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa. - Ðáp.

    3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa. - Ðáp.

    4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền. - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 118, 34

    Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 19, 45-48

    "Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người.

    Ðó là lời Chúa.



    TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT Lời Chúa

    GIÊ-RÊ-MIA 15, 16:

    "Gặp được Lời Chúa tôi đã nuốt vào,

    Lời Ngài làm vui thỏa lòng con".

     

     

    Quá yêu thương đến bất khả chấp

     

    Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp tục với cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau khi "Người đã gần đến Giêrusalemtrong Bài Phúc Âm hôm kia, sau đó "Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem" trong bài Phúc Âm hôm qua, và hôm nay "Chúa Giêsu vào đền thờ".
     
     
    Phải, nếu đền thờ Giêrusalem là nơi Thiên Chúa ngự, là biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa, thì sự kiện Chúa Giêsu có mặt ở đền thờ này cho thấy Người đã đến được đích điểm cuộc hành trình Giêrusalem của Người. 
     
     
    Bởi Người đến "là để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), tức để làm cho dân của Người biết Cha của Người thực sự là Đấng nào, Vị Thiên Chúa đã từng tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ như là một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài Ngài ra không còn một vị Thiên Chúa nào khác, và vì thế họ phải hết mình kính mến Ngài, chỉ một mình Ngài thôi, "hết lòng, hết linh hồn và hết sức" của họ (xem Đệ Nhị Luật 6:4-5), nghĩa là trên hết mọi sự.
     
     
    Bởi thế, không lạ gì, khi thấy cảnh tượng dân chúng buôn bán trong đền thờ "là nhà cầu nguyện", như chính Người nói trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã bị "biến thành sào huyệt trộm cướp", thì làm sao Người là Đấng kính mến Cha Người hết mình và trên hết mọi sự, khi thấy nơi biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Cha bị chính dân của Ngài tục hóa, có thể nào chịu đựng được, đến độ dù Người vốn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29) cũng không thể nào không ra tay "xua đuổi các người buôn bán tại đó". 
     
     
    Phải chăng đó là một trong những lý do chính yếu khiến Người vừa thấy thành thánh Giêrusalem, Người đã thổn thức khóc, như bài Phúc Âm hôm qua thuật lại? Người đã không khóc khi thấy Cha của Người bị xúc phạm cho bằng khóc thương dân của Người, vì họ không ngừng liên tục xúc phạm đến Cha của Người mà nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chính họ. Bởi thế mà trên đường vác thập giá lên Núi Sọ, Người đã khuyên đám phụ nữ thương khóc Người bấy giờ rằng: "Chớ khóc thương Tôi, một khóc thương các ngươi cùng con cháu của các ngươi" (Luca 23:27-28). 
     
     
    Đúng vậy, nếu con người ta nói chung và những ai tin vào Người nói riêng thật sự biết khóc thương bản thân mình, ở chỗ tỏ ra ăn năn thồng hối tội lỗi của mình, thì đó là tác động họ khóc thương Người rồi vậy, vì họ sẽ không dám xúc phạm đến Người nữa, họ sẽ không làm cho Người phải khổ sở vác thập giá của họ và cho họ nữa, thập giá do chính họ chất lên vai của Người. Tội lỗi của họ chính là thập giá mà Người phải vác vậy. Và thập giá cũng là biểu hiệu cho từng con chiên lạc Người cần phải tìm kiếm và vác trên vai mang về nhà Cha của Người vậy (xem Luca 15:5). 
     
     
    Đó là lý do Người quả thật không hề ghét bỏ dân của Người qua hành động đánh đuổi họ như thế, trái lại, chỉ vì Người thương họ hơn bao giờ hết, khi thấy họ lầm lạc đến độ chính họ là dân được Thiên Chúa là Cha của Người tuyển chọn đã tục hóa một nơi thánh nhất của họ, chứ không phải bị tục hóa bởi dân ngoại không biết gì đến Vị Thiên Chúa của họ, như đã phũ phàng và trắng trợn xẩy ra vào thời kỳ hậu lưu đầy của họ, khi họ bị ngoại bang xâm chiếm và đô hộ, đến độ quyền lực ngoại bang bấy giờ đã ra tay tàn phá và tục hóa đền thờ ấy, một biến cố lịch sử đầy nhơ nhớp được Sách Macabê quyển thứ nhất diễn thuật trong Bài Đọc 1 Thứ Hai đầu tuần này.
     
     
    Việc Chúa Giêsu "xua đuổi các người buôn bán tại đó" còn mang một ngậm ý trách móc cả thành phần lãnh đạo dân Chúa bấy giờ nữa, thành phần có thẩm quyền để hướng dẫn dân Chúa theo đường lối của Thiên Chúa, theo lề luật thánh lại để xẩy ra tình trạng tục hóa công khai này, một là vì chính họ cho phép hai là vì họ cứ để cho dân chúng tha hồ tục hóa đền thờ linh thánh này, không hề ngăn cản tí nào, như thể vừa tán thành vừa đồng lõa với tội lỗi của dân.
     
     
    Người biết rằng việc Người tự động "xua đuổi các người buôn bán tại đó" chắc chắn sẽ đụng chạm đến quyền bính của thành phần lãnh đạo này. Thế nhưng, vì Người đến cứu cả thành phần lãnh đạo mù quáng ấy nữa, nên Người vẫn bất chấp, họ có tỏ ra hận thù Người hơn bao giờ hết, như được Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người".
     
     
    Họ càng hận thù và tìm cách hại Người bao nhiêu thì chính họ là thành phần "không muốn" xẩy ra chuyện "phong vương" của Người càng được thành tựu, như ý nghĩa trọng dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm kia cho biết vào thời điểm Người "gần đến Giêrusalem" là nơi Người sẽ bị rơi vào tay họ như Người đã báo trước cho các môn đệ của Người về biến cố bất khả tránh này 3 lần, đúng như ý định vô cùng nhiệm mầu của Cha Người về cuộc hành trình Giêrusalem của Người là để Người được "phong vương" trên ngai tòa thập tự giá một cách danh chính ngôn thuận: "Giêsu Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38).
     
     
    Tuy nhiên, ngay lúc bấy giờ, lúc Người "xua đuổi các người buôn bán tại đó" thì họ còn sợ dân chúng, tức chưa đến giờ của người, nhờ đó, như Phúc Âm cho biết: "hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ". Và vì thế, từ ngày mai Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên cho tới hết tuần 34 Thường Niên là tuần cuối cùng của phụng niên hằng năm, chúng ta sẽ đọc thấy các bài Phúc Âm cho ngày thường trong tuần liên quan đến giáo huấn Giêrusalem của Người, những giáo huấn cuối cùng của hành trình Giêrusalem được Người công khai truyền dạy ở chính thành thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái giáo, cũng là khởi điểm truyền giáo (xem Tông Vụ 1:8) ngay sau biến cố Thánh Linh Hiện Xuống của Giáo Hội được Người thiết lập.

    Đúng thế, đối với những con người không tin tưởng Thiên Chúa, hay tin tưởng một cách nửa vời, hoặc tin tưởng một cách giả hình như thành phần trí thức Do Thái giáo là luật sĩ và biệt phái nói chung, thì Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ngự giữa họ sẽ bị họ tục hóa và biến thành một phương tiện lạm dụng của họ cho lợi lộc trần gian. Thế nhưng, đối với những tâm hồn nào thực sự tin tưởng Ngài mới tỏ ra tôn kính Đền Thờ của Ngài, nhất là khi thấy Đền Thờ của Ngài bị tục hóa chẳng những bởi dân ngoại mà còn bởi cả chính dân của Ngài nữa, và họ không thể nào không tái thiết đền thờ xứng với Vị Thiên Chúa tối cao chí thánh của họ, như trường hợp của nhân vật Giuđa cùng với anh em mình, những người con của người bố anh hùng đức tin Matha-thia, đã làm trong Bài Đọc 1 theo sách Macabê quyển thứ 1 như sau:
     

    "Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: 'Quân thù chúng ta đã bị tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại'. Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion. Ngày hai mươi lăm tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi tám, họ dậy sớm, dâng lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn thiêu mà họ vừa mới thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những tiếng ca, tiếng đàn lục huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa, đúng ngày trước kia dân ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ".

     

    Chưa hết, sau đó "toàn dân sấp mình thờ lạy và ca tụng Ðấng ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ. Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên". Hành động của dân Chúa được thuật lại trên đây chính là âm vang của những tâm tình tôn thờ chân thực được chất chứa trong bài Đáp Ca hôm nay:

    1) "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn muôn thuở".

    2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa.

    3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa.

    4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    TN.XXXIIIL-6.mp3  

     

    --

BÁNH SỰ SỐNG LC -TĨNH CAO - CN34TN-B

  •  
    Tinh Cao
     
     

    BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA

     

    LỄ ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ

    (Lễ trọng)

    Bài Ðọc I: Ðn 7, 13-14

    "Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu".

    Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.

    Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

    Ðáp: Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

    Xướng: 1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.

    2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.

    3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. - Ðáp.

     

    Bài Ðọc II: Kh 1, 5-8

    "Người là thủ lãnh các vua trần thế: Người đã làm cho chúng ta nên vương quốc".

    Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.

    Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen.

    Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen.

    Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: "Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Alleluia: Mt 11, 10

    Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavít tổ phụ chúng ta đã đến! - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Ga 18, 33b-37

    "Quan nói đúng: Tôi là Vua".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"

    Philatô đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này".

    Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"

    Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".

    Ðó là lời Chúa.

     



    Suy niệm

    BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA CN34TN-B

     

    sự sống vương giả 

     

    Chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh đã đạt tới tột đỉnh ở Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Vua, thời điểm kết thúc cho bất cứ phụng niên nào, dù là chu kỳ A, B hay C.

    Thật vậy, nếu Chúa Kitô "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), (lưu ý Chúa Kitô xưng Người là "sự sống lại" trước và là "sự sống" sau) thì quả thực Người "là sự sống lại" khi Người phục sinh vào ngày thứ ba từ trong kẻ chết. Bởi vì Người chính "là sự sống" bất tử không thể nào bị sự chết làm chủ và tiêu diệt. 

    Thế nhưng, cho dù Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô 2 ngàn năm trước đã hoàn toàn thắng được sự dữ nơi thân xác bị giết chết nhưng sống lại của Người, trong một thế giới càng ngày càng văn minh về khoa học và càng văn hóa về nhân bản nhân quyền chưa từng thấy, như giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ 20 sang đầu hơn một thập kỷ của thiên kỷ thứ 3 hiện nay cho thấy, sự dữ lại càng gia tăng hơn bao giờ hết, như thể con rồng sau một ngàn năm bị xiềng lại, bởi sợi giây xích khổng lồ là quyền lực cứu độ của Thánh Giá Chúa Kitô tử nạn, đã được thả ra trong một thời gian ngắn, như Sách Khải Huyền đã tiết lộ (20:1-3). 

    Trong thời gian ngắn vớt vát còn lại này của mình, con rồng đã vận dụng tất cả quyền lực chết chóc độc hại nhất và dữ dội nhất của hắn và từ hắn, để tàn phá cho bằng được công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Giêsu Kitô nơi từng Kitô hữu cũng như nơi chung Giáo Hội, những đối thủ chính yếu của nó và là mục tiêu tấn công quyết liệt của nó, qua hai đạo quân hùng hậu gog và magog, (như ám chỉ trào lưu ồ ạt chủ nghĩa duy nhân bản và tương đối vô cùng lợi hại đang chi phối tâm thức và đời sống của loài người hiện nay), đông như cát biển "đã xâm chiếm toàn cõi xứ sở (ám chỉ thế giới) và công hãm thành đô yêu dấu là nơi dân Chúa cắm trại (ám chỉ Giáo Hội)", như Sách Khải Huyền ghi lại (20:8-9). 

    Phải chăng chiến dịch toàn cầu hóa về kinh tế theo chiều hướng chính trị để làm sao có thể dần dần đế quốc hóa tất cả mọi nền văn hóa của các dân nước, cũng như biến đổi hoàn toàn nền luân lý chân chính của lệ luật Thiên Chúa, thành những gì là tự nhiên lăng loàn của bản tính nhiễm lây nguyên tội trên thế giới hiện nay, hình như đang hiện thực hóa mưu đồ lịch sử (conspiracy of history) của hội kín thợ xây trật tự thế giới mới tam điểm, cho vương quốc của satan trị đến trong lòng người và lịch sử?! 

    Phải, cho tới khi con rồng đã tung ra tất cả quyền lực độc dữ nhất của nó thì cũng chính là lúc sự dữ hết thời, và hoàn toàn bị tận diệt bởi chính Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), khi Người "là sự sống" vĩnh hằng bất tận tái xuất hiện trong vinh quang với tư cách là Thẩm Phán Chí Tôn "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", Đấng được Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay báo trước vương quyền thống trị bất diệt của Người:

    "Trong một thị kiến ban đêm (theo người viết thời điểm "ban đêm" ở đây ám chỉ tình hình nhân gian và Giáo Hội trước khi Chúa Kitô tái giáng), tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão ("Vị Bô Lão" ở đây theo người viết có thể ám chỉ Chúa Cha), và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".

    Thị kiến của Tiên Tri Đaniên về Con Người lãnh nhận vương quyền thống trị đến muôn đời tất cả loài người là loài tạo vật được Người cứu chuộc, đã được phụ họa và âm vang trong Bài Đáp Ca hôm nay:

    1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. 

    2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. 

    3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. 

    Đúng thế, sự kiện Chúa Kitô "là sự sống" bất diệt và bất tận xuất hiện lần thứ hai không phải chỉ để tận diệt sự dữ, mà trước hết và trên hết là để tỏ hết mình ra trên thế gian này, như thể tạo vật được Thiên Chúa dựng nên đã đến thời viên mãn của mình nơi Người, nhờ Người và với Người. Bấy giờ, khi Người tái xuất hiện, Người tỏ mình ta với tư cách là một Vị Con Thiên Chúa hằng sống bất diệt, qua nhân tính hiển linh cùng với thân xác phục sinh của Người, và như thế, Người như ánh sáng sự sống cuối cùng xua tan bóng tối sự dữ cho đến muôn đời, hoàn toàn không bao giờ còn sự dữ nữa, như Sách Khải Huyền tiên bào về một Tân Thành Thánh Giêrusalem "không còn đêm" (22:5), vì "trời trước và đất trước đã qua đi" (21:1). 

    Chiều hướng trên đây về lần đến cuối cùng đầy vinh quang rạng ngời vinh thắng của Chúa Kitô "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16; Gioan 11:27), Đấng cuối cùng đã tỏ mình ra hoàn toàn đúng với phẩm chức thần linh và quyền năng tối cao của Người, được Sách Khải Huyền tiên báo nơi Bài Đọc 2 hôm nay như thế này: 

    "Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen. Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen. Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: 'Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh'".

    Trong cuc khổ nạn của mình, Chúa Kitô sẽ Tái Giáng vinh quang, vào lúc ấy, trước hết, mới chỉ tỏ mình ra như là một con người bị lép vế trước quyền bính thế gian, bị quyền lực thế gian bắt giữ và bị hành hạ cùng sát hại như một tên đại tử tội hoàn toàn bất lực và vô cùng nhục nhã. 

    Thế nhưng, sự dữ và quyền lực sự dữ vẫn không làm gì được Người, Đấng "là sự sống", Đấng "tự ý bỏ mạng sống mình đi rồi có quyền lấy lại mạng sống của mình" (Gioan 10:18). Trái lại, Người đã thắng được sự dữ nơi sự chết bị Người tiêu diệt bởi "sự sống lại" của Người hay bởi Người "là sự sống lại". Thậm chí nhờ sự dữ Người phải chịu cả trong tâm hồn lẫn thể xác mà Người đã cứu được con người, trước hết và trên hết, khỏi sự dữ về luân lý là tội lỗi của họ, nhờ đó họ khỏi bị chết đời đời là sự dữ trên hết mọi sự dữ. 

    Người quả thực là vua cai trị mọi sự, dù trải qua cuộc khổ nạn và tử giá. Do đó, không phải tự nhiên mà viên tổng trấn dân ngoại tự nhiên có linh cảm Người là một nhân vật đặc biệt, mang phong cách oai nghi vương giả, chứ không phải là một nhân vật tầm thường mà ông đã từng gặp, qua câu hỏi"ngài từ đâu tới" (Gioan 19:9), dù theo nhân vật cầm quyền sinh tử của Người bấy giờ thì Người chỉ là "Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38) chư hầu của đế quốc Rôma.

    Tuy nhiên, theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc thay cho Phúc Âm Thánh ký Marco Chu Kỳ Năm B này, Chúa Kitô đã tự đính chính bằng câu trả lời rất chính xác cho vấn đề được Viên Tổng Trấn Philato ấy đặt ra hỏi Người "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" rằng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này". Nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô là vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc tối cao của lòng người, và bất diệt vượt trên mọi vương quốc hữu hạn trên trần gian này. 

    Thật ra, tự mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã là vua, nhưng nơi nhân tính của mình, Người cần phải chứng thực hay tỏ mình ra Người thực sự bẩm sinh là vua, (như khi mới sinh ra Người đã được 3 vương chiêm tinh gia đến bái thờ - Mathêu 2:1-12), một đức vua trên hết mọi vua chúa trên trần gian này, một đức vua muôn đời, đúng như Người đã trả lời cho câu chất vấn của Tổng Trấn Philatô: "Vậy ông là Vua ư?": "Chính quan là người đã nói tôi là vua - It is you who say I am a king. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".

    Trong câu khẳng định có tính cách gián tiếp này của Chúa Kitô Vua, Người không tự mình xưng là vua, và không bao giờ Người tự xưng mình như thế, vì đụng đến chính trị, tức đụng đến chính quyền đế quốc Rôma cũng như đến quận vương Hêrôđê ở Galilêa, cũng như Người đã không bao giờ tự xưng Người là Đấng Thiên Sai - Messiah, vì Người tránh đụng đến giáo quyền Do Thái, mà chỉ công nhận qua việc đáp ứng của Người mà thôi, như Người đã công nhận lời của phụ nữ Samaritanô ở Giếng Giacóp về tư cách của Người (xem Gioan 4:25-26), hay như Người đã công nhận lời truyền lệnh của giáo quyền Do Thái giáo hỏi Người xem Người có phải là Đấng Thiên Sai hay chăng (xem Mathêu 26:63-64): "Chính ngài là người nói thế... It is you who say it".

    Cũng trong câu khẳng định gián tiếp với viên quan tổng trấn Philatô ấy, Chúa Kitô còn liên kết vai trò làm vua của Người với chân lý nữa: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi". Nếu Chúa Kitô chính "là chân lý" (Gioan 14:6) thì Người "sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về" chính bản thân Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ai tin Người hay "chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12). Đó là lý do "Nước tôi không thuộc về thế gian này" mà một vương quốc của "sự sống", sự sống đời đời, vĩnh viễn tồn tại như chính "Chân Lý" bất biến.

    Sự kiện vấn đáp giữa tổng trấn Philatô với Chúa Kitô không phải chỉ đơn giản bề ngoài như là một cuộc đối thoại giữa hai người ngang nhau, mà là một cuộc tra vấn của nhân vật có thẩm quyết xét xử trước khi lên án và xử tội, với một tội phạm bất ngờ được trao nộp cho ông. Bởi thế, ngay câu tra vấn đầu tiên được vị tổng trấn này đặt ra là một câu tra vấn mà tội phạm lên tiếng công nhận một cái là bị lên án liền lập tức: "Ngươi có phải là vua không?".

    Tuy nhiên, vì quá thấu biết cả tấm lòng đầy thiện chí lẫn vai trò cần phải thẩm xét một nhân vật bị dân Người coi là phạm nhân, Chúa Kitô đã khôn khéo trả lời, vừa để tránh cái bẫy điều tra của vị tổng trấn dân ngoại vừa để dẫn chính con người ấy về với chân lý là bản thân mình: "Ông tự ý hỏi như thế hay đã có ai nói về Tôi với ông?". Viên tổng trấn Philatô này cũng không vừa, chẳng những không để cho Chúa Kitô đánh lạc hướng, mà còn trở đòn một cách ngoạn mục, bằng cách bồi thêm một câu tra vấn thứ hai, hết sức mật thiết với câu tra vấn thứ nhất: "Nhân dân của ngươi đã trao nộp ngươi cho ta. Ngươi đã làm gì?"

    Căn cứ vào hai câu tra vấn: "Người có phải là vua không?" và "Người đã làm gì?" của vị tống trấn hạch hỏi Chúa Kitô, thì hình như ông ta đang muốn điều tra xem nhân vật bị coi là tội phạm được trao nộp cho ông ta bấy giờ có làm chính trị hay chăng? - Chẳng hạn có âm mưu hay hành động làm loạn chống lại thẩm quyền đương nhiệm bấy giờ là quận vương Hêrôđê đang ở Giêrusalem (xem Luca 23:7), ngay lúc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách vinh quang chưa từng thấy, huy hoàng như một quân vương.

    Trong bài huấn từ truyền tin Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua 25/11/2018, khi bài chia sẻ này đã đưoọc gửi đi từ tối Thứ Sáu 23/11/2018, thì người viết đọc thấy chiều kích suy diễn của mình cũng cùng chiều hướng chính trị với ĐTC Phanxicô: "Người đã đứng trước vị Tổng Trấn Roma, như một tên muốn chống lại quyền lực chính trị, muốn trở thành Vua của Người Do Thái. Vậy Philatô đã thực hiện cuộc điều tra, và bằng một thứ chất vấn bi thảm, ông hai lần hỏi Người rằng 'Ngươi là vua phải không?'"

    Nếu quả thực Chúa Kitô làm chính trị thì mới thuộc lãnh vực thực sự liên quan đến thẩm quyền xét xử của ông, bằng không, sau khi đã cẩn thận tra vấn, chính ông đã thấy rõ, thậm chí đã dựa vào thẩm quyền của cả quận vương Hêrôđê cũng chẳng lên án Người, mà tuyên bố Người vô tội không đáng chết (xem Luca 23:14-15), một quyết định đã khiến cho "toàn thể đám đông" (Luca 23:18), bao gồm cả thành phần đầu mục Do Thái lẫn dân chúng bị thành phần đầu mục này xui xiểm (xem Mathêu 27:20), bấy giờ tự ý quay ra muốn vị tổng trấn thả tên trộm cướp Baraba thay vì thả Chúa Kitô, dựa vào thông lệ được vị tổng trấn ân xá vào ngày lễ trọng của dân Do Thái (xem Mathêu 27:15). Nhưng ông lại chỉ muốn thả Chúa Giêsu, vì theo lương tâm và thẩm quyền của mình, ông vẫn thấy Người vô tội, đáng thả hơn là tên ma đầu Barbara, nhưng dân chúng lại làm mạnh hơn, đòi "đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21).

    Người quả thực là "một người quí tộc kia đi phương xa để được phong vương" như Người đã tiên báo cho các môn đệ và đám đông đi theo Người trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên tuần trước (19:12). Theo bài Phúc Âm này, cho dù dân Do Thái của Người không chấp nhận Người là vua của họ (xem Luca 19:14, Gioan 19:15,20-22), nhưng họ chẳng những vẫn không làm gì được Người mà còn bất ngờ làm cho Người trở thành vua của toàn thể nhân loại nữa: "Người đã được phong vương trở về" (Luca 19:15), theo chiều hướng của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật cuối cùng của Phụng Niên trọng kính Chúa Kitô Vua. 

    Tóm lại, ý nghĩa của Lễ Chúa Vua được Giáo Hội cố ý đặt vào Chúa Nhật cuối cùng của mỗi phụng niên là ở chỗ: Người là Đấng chẳng những có toàn quyền năng (all powerful) có thể giải thoát con người (kể cả các vua chúa và đế vương trong lịch sử loài người) khỏi tội lỗi và sự chết, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho năm C cho thấy, liên quan đến phần rỗi của người trộm lành, mà còn có cả tối thẩm quyền (supreme/ultimate authority) để phán xét và thưởng phạt nhân loại (kể cả các vua chúa và đế vương trong lịch sử loài người), như bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Năm A cho thấy, liên quan đến biến cố chung thẩm.

    Quyền năng cứu độ và thẩm quyền phán xét này nơi Chúa Kitô là ở chỗ Người chính "là chân lý" (Gioan 16:4), Đấng "được sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho chân lý", như bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan Năm B hôm nay cho thấy, một Chân Lý như "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) "chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5) và xua tan bóng tối tội lỗi và sự chết nơi loài người, một ánh sáng sự sống hoàn toàn được sáng tỏ khi Người tái giáng trong vinh quang như một thẩm quyền tối thượng "để phán xét kẻ sống và kẻ chết".

    Là Kitô hữu, chúng ta, qua Phép Rửa, đã được thông phần vào thiên chức vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã sống thế nào với thiên chức vương đế bởi chúng là là con Thiên Chúa này của mình: chúng ta có làm chủ mọi sự hay chăng với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa, hay vẫn sống đời nô lệ cho tội lỗi, cho thần dữ, cho thế gian, xác thịt?


    Đang khi tôi chia sẻ gợi ý gần xong 
    về bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua Năm B, với nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương ở Giáo Phận Orange vào chiều Thứ Sáu ngày 23/11/2018, thì có chị đặt vấn đề, ngay ở chỗ chị nghe tôi nói rằng Chúa Kitô đến làm chứng cho chân lý bằng việc cho thấy Người không làm theo ý riêng mình mà là theo ý Đấng đã sai Người (xem Gioan 6:38), để chứng thực Người là Đấng Thiên Sai, nên ở trên Đồi Canve, chứng kiến thấy Người chết, một viên đại đội trưởng Roma bấy giờ đã tin nhận "Người này là Con Thiên Chúa" (Mathêu 57:42), và một số người bấy giờ cũng nhận biết Người (xem Luca 23:48). Vấn đề của chị đặt ra như sau: Tại sao Chúa Giêsu sống ở thế gian và đã tỏ mình ra hết cỡ mà chỉ lôi kéo một số ít người thôi, trong khi các thánh tông đồ sau đó đã làm cho người ta trở lại 3000 người đợt nhất và 5000 người đợt hai? 

    Câu trả lời của tôi bấy giờ như thế này:
     Các tông đồ quả thực đã làm cho 3 ngàn người trở lại nhơ bài giảng đầu tiên sau biến cố Thánh Thần Hiện Xuống (xem Tông Vụ 2:41), và 5 ngàn người trở lại nhờ bài giảng thứ hai sau phép lạ người què ở Cửa Đẹp được bất ngờ chữa lành (xem Tông Vụ 4:4). Việc các ngài làm cho người ta trở về nhiều hơn cả chính Chúa Kitô nữa quả thực đã ứng nghiệm lời Người đã tiên báo trong Bữa Tiệc Ly là: "Kẻ nào tin vào Thày sẽ làm được các việc Thày đã làm, mà còn lớn lao hơn cả những việc ấy nữa. Tại sao? Vì Thày về cùng Cha" (Gioan 14:12). 

    Đúng thế, các môn đệ của Chúa Kitô có làm được gì thì cũng nhờ 
    bởi Chúa Kitô ở trong họ, vì trái nho chỉ trổ sinh ở cành nho chứ không phải ở thân nho thế nào thì "Thày là cây nho, các con là cành" (Gioan 15:1) cũng thế. Các tông đồ của Người là cành nho sinh hoa trái là phải. Thế nhưng cành nho chỉ sinh hoa trái khi còn kết hợp với thân nho là Chúa Kitô. Nghĩa là Chúa Kitô vẫn tiếp tục tỏ mình ra, không phải qua nhân tính của Người như khi Ngưòi còn sống, mà là qua nhiệm thể Giáo Hội của Người. 

     
    Vậy người ta nhận biết chân lý là Chúa Kitô, chứ không phải nhận biết các chứng nhân của Người, nói cách khác, là nhận biết Người, qua chứng từ của Giáo Hội nói chung và từng phần tử Kitô hu nói riêng, mà trở v với Chúa Kitô, chứ không phải với Giáo Hội, nói cách khác, là trở về với Người nhờ Giáo Hội và trong Giáo Hội của Người. Như thế là Chúa Kitô vẫn tiếp tục tỏ mình ra qua Giáo Hội, và càng ngày càng làm cho nhân loại nhận biết Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis duy nhất của họ. Bởi thế, không phải là các tông đồ làm cho người ta trở lại nhiều hơn Chúa Kitô, mà chính Chúa Kitô, qua các vị, làm cho người ta trở lại càng ngày càng nhiều, cho tới khi Người lại đến trong vinh quang, "để phán xét kẻ sống và kẻ chết". 

    Sau vấn nạn của người chị em ấy thì lại có một ngưoòi anh đặt thêm vấn đề do giới trẻ đặt ra cho anh liên quan đến Chúa Kitô Vua mà anh đã không biết phải trả lời thế nào, như sau:
    Tại sao ngày nay trên thế giới không còn chế độ vua chúa nữa, thế mà tại sao Giáo Hội Công giáo vẫn tiếp tục tôn vinh Chúa Kitô là Vua?  

    Tôi đã giải đáp như thế này: Căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu nói với tổng trấn Philato trong bài Phúc Âm Thánh Gioan cho chu kỳ phụng vụ Năm B thì "nước của Tôi không thuộc về thế gian này" (Gioan 18:36), tức là nước của Chúa Kitô hay vương quốc được Chúa Kitô thiết lập trên thế gian này không thuộc về hạ giới, có tính cách trần thế nói chung và chính trị nói riêng. Trái lại, nước của Người thuộc về thượng giới, thuộc lãnh vực siêu nhiên, lãnh vực thần linh, như chính Chúa Kitô đã xác định với vị tổng trấn dân ngoại thuộc đế quốc Roma này: "Tôi được sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho chân lý. Ai tìm kiếm chân lý thì sẽ nghe thấy tiếng của Tôi". (Gioan 18:37)

    Đúng thế, nếu chỉ có duy chân lý mới có mãnh lực giải phóng con người (xem Gioan 8:32) khỏi tội lỗi (về phần hồn) và sự chết (về phần xác, nhất là cái chết về phần hồn). Trong khi không có một vua chúa hay hoàng đế nào trong lịch sử của loài người trên trần gian này có thể không phạm tội và không chết, cho dù họ có muốn bất tử tự họ cũng không thể nào cứu họ, giải thoát chính bản thân họ khỏi tội lỗi và sự chết. Thế mà một mình Chúa Kitô đã làm được điều này, cho toàn thể nhân loại. Vì chính Ngài là Chân Lý. Bởi vậy, Kitô hữu không thể nào không tiếp tục và liên tục suy tôn và muôn đời chúc tụng Chúa Kitô là Vua, nghĩa là họ tôn vinh và chúc tụng Người là vị cứu tinh duy nhất của nhân loại (xem Tông Vụ 4:12). Thế thôi.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    MTN.CNXXXIV-B.mp3 

     https://youtu.be/abDd80v3kU4

     

     

     

    Ngày 21 tháng 11

    Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ.

    (Lễ nhớ)

     


    Image result for maria presentation to the lord feast day

    i ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”

     

    Theo truyền thống Do Thái, người ta thường dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến và sau đó con trẻ sẽ ở trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ tế... Phúc Âm không đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng theo Thánh Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền thánh Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng đại.

    Mười hai năm suy gẫm và cầu nguyện, chính là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Theo thánh Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được phác họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu nguyện, sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.

     

    Ngày lễ Mẹ dâng mình như bước đầu dẫn tới Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh nữ đã tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu bất diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn trên đường nhân đức vậy.

     

     

     

    Đức Mẹ đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai

     

    Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.(sermo 25, 7-8; PL 46, 937-938. Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh cho Giờ Kinh Sách ngày Lễ Mẹ Dâng Mình 21/11)

    Tôi xin anh em hãy để ý xem Chúa nói gì khi Người giơ tay chỉ các môn đệ : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã không thi hành ý muốn của Chúa Cha sao ? Người là đấng đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai ; Người được chọn để nhờ Người, Đấng cứu độ chúng ta ra đời ; Người được Đức Ki-tô tạo thành trước khi Đức Ki-tô được tạo thành nơi Người. Đức Ma-ri-a đã thi hành, hoàn toàn thi hành ý Chúa Cha ; vì thế, đối với Người, làm môn đệ của Đức Ki-tô thì quan trọng hơn là làm Mẹ của Đức Ki-tô. Mẹ càng sung sướng vì được làm môn đệ của Đức Ki-tô hơn là vì được làm Mẹ của Đức Ki-tô. Vậy, Đức Ma-ri-a được hạnh phúc vì đã cưu mang Thầy trước khi sinh ra Thầy.

    Bạn hãy xem tôi nói có đúng không. Khi Chúa cùng đi đường với đám đông và làm phép lạ thì một bà nói : Sung sướng thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Nhưng, để người ta đừng tìm sung sướng theo lẽ tự nhiên, thì Chúa đã trả lời ra sao ? Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Do đó, Đức Ma-ri-a diễm phúc vì đã nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa ; Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu mang xác phàm trong lòng. Đức Ki-tô là sự thật, Đức Ki-tô là xác phàm : là sự thật, Đức Ki-tô ở trong tâm trí Đức Ma-ri-a ; là xác phàm, Đức Ki-tô ở trong lòng Đức Ma-ri-a. Việc Đức Ki-tô ở trong tâm trí Mẹ thì quan trọng hơn việc Người ở trong lòng Mẹ.

    Đức Ma-ri-a thánh thiện, Đức Ma-ri-a diễm phúc, nhưng Hội Thánh còn hơn Đức Ma-ri-a. Vì sao ? Thưa vì Đức Ma-ri-a là một thành phần của Hội Thánh, là một chi thể thánh, chi thể cao trọng, chi thể tuyệt vời, nhưng vẫn là một chi thể của toàn thân. Nếu Người thuộc về toàn thân, thì chắc chắn thân mình phải hơn một chi thể. Đầu của thân thể là Chúa nhưng Đức Ki-tô toàn thể gồm đầu và thân mình. Tôi phải nói gì đây ? Chúng ta có vị thần linh là đầu, chúng ta có Thiên Chúa là đầu.

    Vậy, anh em thân mến, xin anh em để ý : anh em vừa là chi thể của Đức Ki-tô, vừa là thân mình Đức Ki-tô. Hãy để ý xem anh em là thế nào mà Chúa lại nói : Đây là mẹ tôi, là anh em tôi. Anh em là mẹ Đức Ki-tô thế nào ? Thưa : Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Tin tôi đi, tôi hiểu thế nào là anh em, là chị em của Đức Ki-tô : bởi vì chỉ có một gia sản, do đó, vì lòng thương xót, Đức Ki-tô, tuy là Con Một, đã không muốn chỉ mình được hưởng, nhưng muốn chúng ta được làm kẻ thừa tự của Chúa Cha và đồng thừa tự với Đức Ki-tô.

     

     

     

    Bài 29– 7/8/1996: Việc chọn lựa của Mẹ Maria tác động đức đồng trinh dâng hiến 

    (Bài Giáo Lý Thánh Mẫu của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II)

     

    1- Ý muốn giữ sống đời của một trinh nữ, được hiển nhiên nơi những lời của Mẹ Maria trong giây phút Truyền Tin, theo truyền thống đã được coi là khởi điểm và là khởi động cho đức đồng trinh Kitô giáo trong Giáo Hội.

     

    Thánh Âu Quốc Tinh không thấy nơi quyết định này việc hoàn tất của một chỉ thị thần linh mà là một lời khấn tự do chọn lựa. Như thế việc chọn lựa này mới có thể cho thấy Mẹ Maria là một mẫu gương cho “các kẻ đồng trinh” suốt giòng lịch sử của Giáo Hội. Mẹ Maria “đã hiến dâng đức đồng trinh của mình cho Thiên Chúa khi Mẹ chưa biết Đấng Mẹ sẽ thụ thai, nhờ đó hình ảnh của đời sống thiên đình trong một thân xác trần gian chết chóc được thực hiện bằng một lời khấn chứ không phải bằng một chỉ thị, nhờ việc chọn lựa yêu thương chứ không phải bởi nhu cầu phục vụ” (De Sancta Virg., IV, PL 40:398).

     

    Vị Thiên Thần không yêu cầu Mẹ Maria sống đời trinh nữ; chính Mẹ Maria tự ý tỏ ra ý hướng muốn giữ mình đồng trinh của Mẹ. Việc chọn lựa yêu thương dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn hiến mình cho Chúa bằng một cuộc sống đồng trinh được tỏ hiện nơi sự dấn thân này.

     

    Khi nhấn mạnh đến tính chất tự động nơi quyết định của Mẹ Maria, chúng ta không được quên rằng nguồn mạch của hết mọi ơn gọi đều do Thiên Chúa khởi động. Bằng việc chọn sống đời đồng trinh, người thiếu nữ thành Nazarét đáp ứng một tiếng gọi nội tâm, tức là đáp ứng tác động của Thánh Linh đã soi sáng cho Mẹ biết về ý nghĩa và giá trị của tặng ân đồng trinh nơi bản thân của Mẹ. Không ai có thể chấp nhận tặng ân này mà lại không cảm thấy được kêu gọi hay không lãnh nhận từ Thánh Linh ánh sáng và sức mạnh cần thiết.

     

    Mẹ Maria đã mạnh mẽ quyết định sống đồng trinh

     

    2- Mặc dù Thánh Âu Quốc Tinh sử dụng chữ “khấn hứa” để tỏ cho những ai ngài gọi là “các trinh nữ thánh” mẫu gương đầu tiên cho bậc sống của họ, Phúc Âm không chứng thực rằng Mẹ Maria đã minh nhiên thực hiện lời khấn này, một hình thức tận hiến và dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa là hình thức đã từng được thực hiện từ các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội.

     

    Theo Phúc Âm chúng ta thấy rằng Mẹ Maria đã thực hiện một quyết định cá nhân muốn sống đời trinh nữ, dâng hiến tấm lòng của Mẹ cho Chúa. Mẹ muốn trở thành một hôn thê trung thành của Ngài, hoàn trọn ơn gọi của Mẹ như một “nữ tử Sion”. Tuy nhiên, bởi quyết định của mình, Mẹ trở nên mẫu thức cho tâá cả những ai trong Giáo Hội muốn chọn việc dấn thân phục vụ Chúa bằng một tấm lòng không chia sẻ nơi đức đồng trinh.

     

    Không có một cuốn Phúc Âm nào hay bất cứ một bản văn Tân Ước nào nói với chúng ta về thời điểm Mẹ Maria đã quyết định sống đời trinh nữ. Tuy nhiên, câu Mẹ hỏi vị thiên thần vào lúc Truyền Tin đã thật hiển nhiên cho thấy rằng Mẹ đã thực hiện một quyết định rất mạnh mẽ. Mẹ Maria không ngần ngại bày tỏ lòng ước mong của Mẹ muốn giữ đức đồng trinh này của mình ngay cả trước vai trò làm mẹ được bày tỏ với Mẹ, cho thấy rằng ý nguyện của Mẹ đã chín mùi từ lâu.

     

    Thật vậy, việc Mẹ Maria chọn sống trinh nguyên không được thực hiện trước một viễn ảnh không thể biết được về việc trở nên Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng đã được phát triển trong ý thức của Mẹ trước biến cố Truyền Tin. Chúng ta có thể cho rằng khuynh hướng này bao giờ cũng hiện hữu trong long của Mẹ: ân sủng đã sửa soạn cho Mẹ trở thành một trinh mẫu chắc chắn đã tác dụng đến toàn thể cuộc phát triển về con người của Mẹ, trong khi đó Thánh Linh không thôi tác động nơi Mẹ, từ những năm ấu thơ nhất của Mẹ, ước muốn được hoàn toàn nên một với Thiên Chúa.

     

    3- Những việc kỳ diệu ngày nay vẫn được Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn và đời sống của rất nhiều giới trẻ trước hết đã được hiện thực nơi linh hồn của Mẹ Maria. Ngay cả trong thế giới của chúng ta đây, một thế giới bị phân tâm rất nhiều bởi những thứ thu hút của một nền văn hóa thường nông nổi hời hợt và hưởng thụ, vẫn có nhiều thanh thiếu niên chấp nhận lời mời gọi xuất phát từ gương của Mẹ Maria để tận hiến tuổi trẻ của mình cho Chúa cũng như cho việc phục vụ anh chị em của mình.

     

    Quyết định này là sự chọn lựa những giá trị cao cả hơn, hơn là việc từ bỏ những giá trị về nhân bản. Về vấn đề này, trong Tông Huấn Marialis Cultus của mình, vị tiền nhiệm khả kính Phaolô VI nhấn mạnh là bất cứ ai nhìn vào chứng từ của Phúc Âm với một tâm trí cởi mở “sẽ cảm nhận rằng việc chọn lựa của Mẹ Maria về tình trạng đồng trinh… không phải là một thứ loại trừ bất cứ những giá trị của bậc sống hôn nhân mà là một chọn lựa can đảm được Mẹ thực hiện để tận hiến bản thân mình trọn vẹn cho tình yêu của Thiên Chúa” (số 37) ra sao.

     

    Tóm lại, việc chọn sống đời đồng trinh được tác động bởi lòng gắn bó trọn vẹn với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt hiển nhiên nơi Mẹ Maria. Mạc dù trước biến cố Truyền Tin, Mẹ không nhận thức về nó, nhưng Thánh Linh đã tác động Mẹ việc tận hiến trinh nguyên liên quan đến Chúa Kitô: Mẹ vẫn là một trinh nữ để tiếp nhận Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế bằng tất cả con người của Mẹ. Đức đồng trinh đã bắt đầu nơi Mẹ Maria như thế cho thấy chiều kích tập trung vào Chúa Kitô của nó, thiết yếu cho cả đức đồng trinh được thực hành trong Giáo Hội, một đức đồng trinh mô phỏng theo gương mẫu cao cả nơi Người Mẹ của Chúa Kitô. Nếu đức đồng trinh nơi bản thân của Mẹ, được liên kết với vai trò làm mẹ thần linh, vẫn là một sự kiện phi thường, thì nó cống hiến ánh sáng và ý nghĩa cho hết mọi tặng ân trinh nguyên.

     

    Đức đồng trinh tận hiến là nguồn mạch của việc sinh hoa kết trái thiêng liêng

     

    4-  Biết bao nhiêu là nữ nhân trẻ trung trong lịch sử Giáo Hội, khi chiêm ngưỡng thấy tính chất cao cả và mỹ lệ nơi tâm hồn trinh nguyên của Mẹ Chúa Kitô, đã cảm thấy phấn khởi trong việc quảng đại đáp ứng tiếng gọi của Thiên Chúa bằng cách theo đuổi lý tưởng sống đồng trinh! “Như tôi đã nhắc đến trong Thông Điệp Redemptoris Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc, “Chính đức đồng trinh này, theo gương của Vị Trinh Nữ Nazarét, là nguồn mạch của sự phong phú thiêng liêng đặc biệt: nó là nguồn mạch của vai trò làm mẹ trong Thánh Linh” (số 43).

     

    Đời sống trinh nguyên của Mẹ Maria đã tác động nơi toàn thể dân Kitô hữu niềm trân trọng tặng ân đồng trinh và niềm ước muốn là nó cần phải gia tăng trong Giáo Hội như là một dấu hiệu thượng quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi thực tại và như là một thứ ngưỡng vọng tiên báo về một đời sống mai hậu. Cùng nhau, chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho những ai ngày nay vẫn còn quảng đại hiến đời mình sống đồng trinh để phụng sự vương quốc của Thiên Chúa.

     

    Đồng thời, trong khi ở các miền khác nhau được phúc âm hóa lâu đời chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa hưởng thụ dường như trở thành những rào cản cho nhiều giới trẻ trong việc theo đuổi đời sống tận hiến, chúng ta cần phải gia tăng nguyện xin Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, cho một cuộc triển nở mới về ơn gọi tu trì. Nhờ đó, dung nhan của Người Mẹ Chúa Kitô, được phản ảnh nơi nhiều trinh nữ đang nỗ lực theo Vị Thày thần linh, sẽ tiếp tục trở thành dấu hiệu cho tình thương và lòng âu yếm của Thiên Chúa đối với nhân loại. 

     

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

    Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 21/8/1996, trang 7.

     

    LeMeDangMinh.mp3 / LeMeDangMinhVaoDenThanh.mp3 

     https://youtu.be/f5di9CYZ2bA 

     

    --

    ---

BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ NĂM

  •  
    Tinh Cao
     

    Thứ Năm

     

    BÁNH SỰ SỐNG Lời Chúa

     

     

    Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 2, 15-29

    "Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi".

    Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

    Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và các con ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng nói với Mathathia rằng: "Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa và những người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác". Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: "Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác".

    Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử với Zimri con ông Salomi.

    Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: "Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!" Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15

    Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

    Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng. - Ðáp.

    2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán. - Ðáp.

    3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.

     

    Alleluia: x. Cv 16, 14b

    Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 19, 41-44

    "Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".

    Ðó là lời Chúa.

     

     


     

    Suy nghiệm/SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

     

     

     

    Những giọt châu lệ của một Tình Yêu Thương Xót quá thống khổ


    Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, bài Phúc Âm tiếp tục thuật lại hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau khi "Người đã gần đến Giêrusalem - he was near Jerusalemđược Thánh ký Luca ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm qua, thì bài Phúc Âm hôm nay cho biết "Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem - coming within in sight of the city".
     
     
    Thật ra giữa bài Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau một khúc phúc âm không thích hợp vào thời điểm của Mùa Thường Niên Tuần XXXIII này, đó là khúc phúc âm về biến cố Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, một khúc phúc âm đã được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Lễ Lá, ở phần nghi thức rước lá trước lễ. 
     
     
    Và tầm mức gần Thành Giêrusalem của Chúa Giêsu đến độ mắt của Người có thể trông thấy được toàn cảnh của thành này, và vì trông thấy thành Giêrusalem như thế mà Người đã thổn thức khóc, như Phúc Âm thuật lại như sau:
     
     
    "Trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: 'Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp lũy bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
     
     
    Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu khóc được Phúc Âm thuật lại; lần thứ nhất xẩy ra vào lúc trước khi Người hồi sinh Lazarô (xem Gioan 11:35). Vậy tại sao Người lại khóc khi thấy thành thánh Giêrusalem này, nếu không phải lý do ở ngay những lời Người nói với thành thánh ấy: phải chăng chính là vì thành thánh có đền thánh là nơi Thiên Chúa Cha của Người ngự này sẽ bị quân thù phá tan tành thành bình địa "không hòn đá nào trên hòn đá nào", hay là vì "ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng" nên sẽ bị nông nỗi kinh hoàng khủng khiếp chưa từng thấy ấy?
     
    Chúa Kitô khóc lần thứ nhất trước ngôi mộ của Lazarô đã chết đến xông mùi sau 4 ngày (xem Gioan 11:39) không phải vì Lazarô là người bạn thân của Người đã chết sắp được Người hồi sinh, cho bằng vì Người thấy trước có một số môn đệ của Người sẽ bị vĩnh viễn hư đi trong mộ tử thần không bao giờ chỗi dậy được nữa, cho dù có nghe được tiếng Người gọi, hay hoàn toàn không còn nghe được tiếng Người nữa. 
     
     
    Bởi vậy, lần khóc thứ hai này của Người trước hình ảnh của một thành thánh Giêrusalem nguy nga đồ sộ sẽ bị tàn phá liên quan đến hình ảnh về một Giáo Hội của Người cũng sẽ có ngày bị "các đạo quân Gog và Magog" đông vô kể công hãm, như Sách Khải Huyền đã tiên báo (20:9), khiến cho một số chi thể của Người bị tử thương muôn đời về phần rỗi vô cùng tiếc xót của họ! 

    Nếu biết được Thiên Chúa yêu thương loài người đến đâu thì mới cảm được sự kiện khóc thương này của Chúa Giêsu, như thể Người tiếc thương chẳng những cho các linh hồn bất tử vô cùng quí giá bị hư đi mà còn khóc thương cho chính Tình Yêu Vô Cùng Nhân Hậu đầy Khôn Ngoan và Toàn Năng của Thiên Chúa, một tình yêu đã yêu thương loài người "đến cùng" (Gioan 13:1), không còn thể nào yêu hơn được nữa, không còn cách nào để yêu họ hơn được nữa, đã chẳng những trở nên vô ích và thành đồ bỏ đối với những linh hồn hư đi ấy, mà còn trở thành án phạt đời đời cho họ nữa.

    Phải chăng những giọt nước mắt không thể cầm được nơi Chúa Kitô phần nào diễn tả tất cả nỗi xót xa đớn đau của một Vị Thiên Chúa Toàn Thiện và Toàn Ái trước thân phận hư đi của một số linh hồn bất hạnh được Ngài yêu thương dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài để nhờ đó họ có thể hiệp thông thần linh với Ngài?

    Phải chăng những giọt nước mắt ngọc ngà chảy ra từ đôi mắt vô cùng từ bi nhân hậu của Vị Thiên Chúa hóa thân làm người Giêsu Nazarét ấy mới là một chút dạo khúc mở đầu cho nỗi thống khổ sẽ lên tới tột cùng ở Vườn Cây Dầu khi Vị Thiên Chúa làm người này toát mồ hôi máu ra nhỏ xuống đất (xem Luca 22:44), hình ảnh báo trước cuộc tử nạn vô cùng đau thương của Đấng cho dù đã chết vẫn chưa được dung tha, vẫn còn bị một lưỡi đòng phũ phàng oan nghiệt đâm thâu qua làm cho "máu và nước chảy ra" (Gioan 19:34)? Ôi LTXC!

    Tuy nhiên, tình trạng Thành Thánh Giêrusalem bị tàn phá được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chị là một tai họa, một hậu quả gây ra do tội lỗi của dân Chúa "đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng", mà còn là một thách thức đối với những tâm hồn nào còn trung thành với Ngài, để Ngài tiếp tục tỏ mình ra cho cả thành phần vô đạo bách hại họ và sát hại họ nữa, như trường hợp của Matthias cùng với gia đình của ông và những người bất khuất đáp lại lời kêu gọi hào hùng của ông, như được Sách Macabê quyển thứ 1 thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay:

    "Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: 'Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác'"

     

    Thế rồi, "ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ.... Đoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: 'Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!' Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa".

     

    Thật vậy, lời kêu gọi của Matha-thia trong Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói âm vang lời Thiên Chúa kêu gọi "ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độtrong Thánh Vịnh 49 ở bài Đáp Ca hôm nay:

    1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng.

    2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán.

    3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     
     
     
     

     

    --