BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ HAI CN1MC-C
- Details
- Category: 4. Bánh Sự Sống
-
Thứ Hai
BÁNH SỰ SỐNG Lời Chúa
Bài Ðọc I: Lv 19, 1-2. 11-18
"Hãy xét đoán công minh đối với kẻ khác".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy nói cho toàn thể cộng đồng con cáiIsrael: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi. Các ngươi đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng phỉnh gạt kẻ khác, đừng lấy danh Ta mà thề dối, và đừng xúc phạm danh Thiên Chúa các ngươi. Ta là Chúa.
Các ngươi đừng nhục mạ kẻ khác và đừng hà hiếp họ. Ðừng giam tiền công lại cho đến ngày mai. Ðừng nguyền rủa người điếc, đừng đặt trước kẻ mù vật gì có thể làm cho nó vấp ngã; nhưng các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Ta là Chúa.
Ðừng làm điều bất công, cũng đừng xét đoán bất công. Ðừng thiên tư kẻ nghèo, cũng đừng nể mặt người quyền thế. Hãy cứ công minh mà xét đoán kẻ khác.Ðừng lăng mạ, cũng đừng gièm pha kẻ khác. Ðừng mưu sát ai. Ta là Chúa.
Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phángu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Ðáp.
4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Ðá tảng, là Ðấng Cứu Chuộc con. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.
Phúc Âm: Mt 25, 31-46
"Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta". Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta".
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!" Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
LỜI CHÚA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG
Sự Sống bác ái
Hôm nay, Thứ Hai Tuần 1 Mùa Chay, phụng vụ Lời Chúa vẫn tiếp tục đề tài cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17), bằng cách "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24).
Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Nhật 1 Mùa Chay, Chúa Kitô đã "tự ý bỏ sự sống mình đi" ở chỗ Người đã chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, và Người đã "lấy nó lại" ở chỗ nhờ đó Người đã chiến thắng các chước cám dỗ vô cùng thâm độc và hiểm ác của Satan, đúng hơn đã chiến thắng thần chết là ma quỉ.
Thế nhưng, "sự sống" mà Chúa Kitô "bỏ đi" và "lấy lại" đây là gì, nếu không phải là "sự sống" của bản tính nhân loại Người đã "bỏ đi", một bản tính của loài người đã bị băng hoại bởi nguyên tội và theo nguyên tội, nhưng lại là bản tính đã được Người mặc lấy, nhờ đó "sự sống" tự nhiên nơi nhân tính này của Người đã được Người "lấy lại", ở chỗ Người đã thăng hóa nó, đã thần linh hóa nó, một dấu chỉ về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người nói chung và về Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người nói riêng.
"Sự sống" Chúa Kitô đã "bỏ đi" đây nơi cuộc khổ nạn và tử giá là "sự sống" thể lý, sự sống về phần xác của Người, và "sự sống" Ngưòi "lấy lại" đây nơi cuộc phục sinh của Người là "sự sống" thần linh, "sự sống" thiêng liêng, "sự sống" bất tử, "sự sống" đời đời cho nhân loại, một "sự sống" mà họ đã bị mất đi theo nguyên tội và bởi nguyên tội đã được Người phục hồi, tức là "sự sống" được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, "sự sống" yêu thương trọn hảo như Chúa.
Khi lãnh nhận Phép Rửa thanh tẩy tái sinh, Kitô hữu đã lãnh nhận "sự sống" đời đời này, tức là đã được tái hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, sống "sự sống" thần linh của Ngài, với Ngài và như Ngài nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1), để nhờ đó họ cũng có thể yêu thương nhau "như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34, 15:12).
Chính vì "sự sống" thần linh cũng là "sự sống" đời đời này là "sự sống" đức ái trọn hảo "như Thày" mà chỉ có thành phần biết yêu thương nhau như Chúa Kitô mới xứng đáng được hưởng "sự sống" vĩnh hằng với Người mà thôi.
Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay cho thấy tiêu chuẩn tối hậu nơi cuộc chung thẩm đối với số phận đời đời của con người sống trên trần gian này đó là yêu thương: yêu thương vì Chúa, vì Chúa ở nơi những người anh chị em hèn mọn nhất được đồng hóa với chính Chúa Kitô, nghĩa là yêu Chúa nơi hiện thân của Chúa là những người anh chị em hèn mọn như chúng ta cũng là một trong những người anh chị em hèn mọn ấy đã được Người yêu:
"Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta... Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta".
Thật vậy, theo nguyên tắc, loài người Kitô hữu chúng ta không thể trực tiếp đáp trả tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta qua Con của Ngài, thế nhưng, trên thực tế, chúng ta vẫn có thể gián tiếp đáp trả tình yêu vô đối của Thiên Chúa, bằng cách yêu thương những người anh chị em hèn mọn nhất được đồng hóa với Con của Ngài, và như thế chúng ta được kể là yêu chính Thiên Chúa, sống chính "sự sống" bác ái trọn hảo của Thiên Chúa, với Thiên Chúa và nhưThiên Chúa.
Những tình trạng của các người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô được Người liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay không phải là những nhu cầu (3 cặp) chỉ thuần về thể lý, mà bao gồm cả về luân lý và tâm linh nữa.
Chẳng hạn cặp nhu cầu đầu tiên là đói khát, không phải chỉ đói thức ăn và khát nước uống cho thân xác, mà còn bao gồm cả nhu cầu đói khát chân lý, đói khát tin mừng cứu độ nơi nhiều anh chị em chúng ta trên thế giới hiện nay, thành phần đói khát thiêng liêng này thậm chí còn nhiều hơn và đông hơn bao nhiêu lần những anh chị em bị đói khát về thể lý nữa, mà nếu Kitô hữu chúng ta không đáp ứng nhu cầu đói khát chân lý cứu độ này cho họ, bằng chứng từ và hoạt động tông đồ khả dĩ tác hiệu của chúng ta, chúng ta cũng khó lòng phủ nhận hay trốn lánh trách nhiệm của mình trước mặt Chúa trong cuộc chung thẩm.
Hay cặp nhu cầu thứ hai là nhu cầu đón tiếp và phục sức đối với những con người anh chị em là khách lạ và bị trần trụi về thể lý còn bao gồm cả nhu cầu đón tiếp về tinh thần là ở chỗ thông cảm và gắn bó với những anh chị em bị bỏ rơi, bị hất hủi, sống cô độc, sống vất vưởng ngoài lề xã hội v.v., và nhu cầu phục sức về tinh thần là ở chỗ tranh đấu để bênh vực quyền lợi cũng như phục hồi phẩm giá cho những người anh chị em yếu thế, dễ bị đàn áp, khai thác và bóc lột trong xã hội.
Hoặc cặp nhu cầu thể lý thứ ba là viếng thăm đối với những anh chị em bệnh nhân và tù nhân về thể lý còn bao gồm cả nhu cầu thăm viếng về tinh thần là quan tâm, cầu nguyện, khuyên bảo và nâng đỡ những người anh chị em yếu đuối và sa ngã phạm tội về luân lý nữa, những người anh chị em sống khô khan nguội lạnh, sống cuộc đời phản đức tin, bỏ đức tin để chạy theo thế gian, làm tôi cho xác thịt, tiền tài và danh vọng chức quyền, bị xác thịt, thế gian và ma quỉ thống trị, giam cầm, đầy ải vô cùng khốn nạn cần được giải phóng.
Theo chiều hướng của bài Phúc Âm về "sự sống" bác ái trọn hảo như thế, Bài Đọc 1 cũng thuật lại những gì Thiên Chúa đã phán dạy dân Do Thái qua trung gian Moisen liên quan đến tha nhân, ở chỗ, về phần tiêu cực, cần phải tránh tất cả những gì xúc phạm đến họ:
"Các ngươi đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng phỉnh gạt kẻ khác, đừng lấy danh Ta mà thề dối, và đừng xúc phạm danh Thiên Chúa các ngươi. Ta là Chúa.
"Các ngươi đừng nhục mạ kẻ khác và đừng hà hiếp họ. Ðừng giam tiền công lại cho đến ngày mai. Ðừng nguyền rủa người điếc, đừng đặt trước kẻ mù vật gì có thể làm cho nó vấp ngã; nhưng các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Ta là Chúa.
"Ðừng làm điều bất công, cũng đừng xét đoán bất công. Ðừng thiên tư kẻ nghèo, cũng đừng nể mặt người quyền thế. Hãy cứ công minh mà xét đoán kẻ khác.Ðừng lăng mạ, cũng đừng gièm pha kẻ khác. Ðừng mưu sát ai. Ta là Chúa.
"Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa".
Và lý do duy nhất và trên hết khiến thành phần dân Do Thái được Thiên Chúa ưu tuyển này cần phải tránh tất cả những gì phạm đến tha nhân của họ là vì "Ta là Chúa", một điệp khúc được lập lại ở cuối mỗi lời khuyên "đừng" này "đừng" kia. Nghĩa là vì họ là dân của một Vị Thiên Chúa thánh hảo, mà họ cũng phải thánh hảo như Ngài: "Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi". Ở chỗ họ cũng phải tác hành như Ngài, cũng sống "sự sống" thần linh của Ngài, cũng sống "sự sống" bác ái trọn hảo yêu thương như Ngài.
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những cảm nhận sâu xa về "luật pháp", "chỉ thị", "giới răn", "mệnh lệnh", "phán quyết" của Chúa "là Đá tảng, là Đấng Cứu Chuộc" của con người, những gì liên quan đến Bài Đọc 1, vì Bài Đọc 1 bao gồm những điều Chúa chỉ dạy dân riêng của Ngài để họ có thể sống hoàn thiện như Ngài:
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Ðá tảng, là Ðấng Cứu Chuộc con.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên
I. ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ
Lịch sử về cuộc đời hai thánh tử đạo tiên khởi khá mù mờ nhưng trong những truyền thuyết mù mờ về đời sống các vị tử đạo tiên khởi đó, chúng ta vẫn may mắn có được ít tài liệu về sự can đảm của Thánh Perpetua và Felicita từ chính nhật ký của Thánh Perpetua và của giáo lý viên Saturus, cũng như một số những chứng nhân. Văn bản này, thường được gọi là “Sự Tử Ðạo của Perpetua và Felicita,” được nổi tiếng trong các thế kỷ đầu tiên đến nỗi văn bản ấy đã được đọc trong phụng vụ.
Vào năm 203, Vibia Perpetua quyết định trở nên một Kitô hữu, mặc dù ngài biết điều đó có thể dẫn đến cái chết trong thời kỳ bách hại của Septimus. Một người em trai của ngài cũng noi gương và trở nên người dự tòng. Cha của ngài cuống cuồng lo âu, và ông cố gắng thay đổi ý định của ngài. Sự lo âu của ông cũng dễ hiểu, vì một phụ nữ 22 tuổi, hăng say và có học thức như Perpetua thì không có lý do gì lại muốn chết - chưa kể ngài còn có một đứa con mới sinh.
Nhưng thái độ của Perpetua thì rất rõ ràng. Ngài chỉ tay vào một bình đựng nước, và hỏi cha ngài,
- Cha có thấy cái bình đó không ? Cha có thể gọi nó một cái tên nào khác với bản chất của nó không ?.
Người cha trả lời,
- Dĩ nhiên là không.
Và Perpetua thản nhiên tiếp lời,
- Con cũng không thể gọi con bằng một cái tên nào khác hơn là bản chất của con - một Kitô hữu.
Câu trả lời đã làm người cha bực mình và ông đã tấn công chính con mình. Nhật ký Perpetua kể cho chúng ta biết, sau biến cố ấy ngài phải sống tách biệt với cha ngài trong vài ngày, và sự tách biệt ấy đã đưa đến sự bắt bớ và tù đày của chính ngài.
Perpetua bị bắt với bốn người dự tòng khác, kể cả hai người nô lệ là Felicita và Revocatus. Người dạy giáo lý cho các ngài là Saturus đã bị bắt trước đó.
Nhà tù đầy những con người đến nỗi họ ngộp thở vì nóng nực và không có một chút ánh sáng. Quân lính thì xô đẩy họ không một chút xót thương. Perpetua thật khiếp sợ, nhưng trong tất cả những sự ghê rợn ấy, điều đau khổ lớn lao nhất của ngài là phải xa cách đứa con thơ.
Người nô lệ trẻ tuổi là Felicita lại càng đáng thương hơn nữa, vì ngài đang mang thai đã được tám tháng tuổi và phải sống trong cái nóng nực, chen chúc, và thô bạo ấy.
Hai phó tế phục vụ tù nhân đã đút lót cho lính canh để các ngài được có một chỗ ở tốt nhất trong nhà tù. Ở đó, mẹ và em của Perpetua đã đến thăm và đưa con đến cho ngài. Khi được phép giữ con trong tù, ngài cảm thấy “nhà tù trở nên như cung điện”. Cha ngài lại nài nỉ ngài thay đổi ý định, ông hôn tay ngài và ngay cả quỳ dưới chân ngài. Perpetua nói với ông, “Chúng ta không thể dựa vào quyền thế của chúng ta, nhưng vào quyền thế của Thiên Chúa”.
Trong khi ngài bị đưa ra xét xử, cha ngài cũng đi theo, nài nỉ quan tòa. Vì thương hại, quan tòa cũng cố thay đổi ý định của Perpetua, nhưng ngài vẫn cương quyết, và cùng với các người khác, ngài bị kết án tử hình bằng cách bị ném cho thú dữ ăn thịt trong đấu trường.
Trong khi đó Felicita cũng rất đau khổ. Theo luật lệ, giết người phụ nữ mang thai là điều trái phép. Giết hài nhi trong bụng mẹ là đổ máu người vô tội và linh thiêng. Trong khi đó, Felicita lại lo rằng ngài không kịp sinh con trước ngày tử đạo, và các bạn ngài sẽ bước vào vinh quang ấy mà không có ngài.
Hai ngày trước khi bị hành quyết, Felicita đau đớn chuyển bụng. Bọn lính canh chế giễu, nhục mạ ngài và nói,
- Nếu đau đớn bây giờ mà còn chịu không nổi, thì làm sao đương đầu với thú dữ ?
Felicita điềm tĩnh trả lời:
- Bây giờ tôi là người phải chịu đau khổ, nhưng trong đấu trường, một Ðấng khác sẽ ở trong tôi, chịu đau khổ giùm tôi vì tôi đã chịu đau khổ vì Ngài.
Felicita sinh hạ một bé gái kháu khỉnh và được một Kitô hữu ở Carthage nhận làm con nuôi.
Vào ngày bị hành quyết, bốn bổn đạo mới và giáo lý viên bước vào đấu trường với niềm vui và sự bình thản. Khi dân chúng đòi hỏi Perpetua và các bạn ngài phải mặc y phục dành cho việc thờ cúng tà thần, Perpetua đã đối chất với các lý hình:
- Chúng tôi tự ý chịu chết để được tự do thờ phượng Thiên Chúa của chúng tôi. Chúng tôi đã trao mạng sống cho các ông thì không có lý do gì chúng tôi phải thờ lạy thần thánh của các ông.
Và các ngài đã được phép mặc quần áo của mình.
Những người đàn ông thì bị tấn công bởi gấu, beo và heo rừng. Các phụ nữ thì bị bò dại tấn công. Perpetua, dù bị tan nát và rối bời, ngài vẫn nghĩ đến các bạn và chạy đến giúp Felicita đứng dậy. Cả hai đã đứng cạnh nhau khi bọn lính cắt cổ tất cả năm vị tử đạo.
II. BÀI HỌC
Nói về sự tử đạo Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 2473 đã viết rất hay: “Sự tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết. Vị tử đạo làm chứng cho Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, mà họ được liên kết với Người bằng đức mến. Vị tử đạo làm chứng cho chân lý đức tin và đạo lý Kitô giáo. Vị tử đạo chịu chết bằng hành vi của đức can đảm. “Hãy để tôi trở nên mồi ngon cho ác thú, nhờ việc này mà tôi được đến với Thiên Chúa”
Chính Chúa Giêsu đã muốn như thế. Chúa muốn mọi người làm chứng cho Chúa và làm chúng bằng cái chết của mình là một bằng chứng cao cả nhất.Và Chúa đã không phải thất vọng.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng, Chúa Giêsu sau khi chịu nạn trên thập tự giá, đã phục sinh trở về trong vinh hiển, Ngài vẫn còn mang dấu vết của sự đau thương. Một trong những vị thiên sứ nói với Ngài rằng:
- Chúa chắc đã chịu thống khổ vô cùng vì loài người dưới đó ?
Chúa Giêsu đáp:
- Đúng vậy!
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Có phải tất cả mọi người đều biết những gì Ngài làm cho họ không ?
Chúa Giêsu trả lời:
- Chưa, chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Thế thì Ngài đã làm gì để giúp mọi người biết ?
Chúa Giêsu đáp:
- Ta đã dặn Phêrô, Giacôbê và Gioan lãnh trách nhiệm đi nói với những người khác, rồi những người khác nói cho những người khác, rồi cho những người khác nữa, cho đến lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên địa cầu đều được nghe.
Thiên sứ nhìn với vẻ nghi ngờ, vì vị này hiểu rõ con người như thế nào, nên nói tiếp:
- Vâng, nhưng nếu Phêrô, Giacôbê và Gioan quên đi thì sao ? Nếu họ mệt mỏi trong sự rao giảng thì sao ? Hoặc nếu những người ở thế kỷ 20 không thực hiện trọng trách thuật lại về câu chuyện tình yêu của Ngài cho họ thì sao ? Như thế thì sao ? Ngài không lập những chương trình khác sao ?
Chúa Giêsu trả lời:
- Ta không sắp đặt một chương trình nào khác. Ta đặt tin tưởng nơi họ.
Chúa Giêsu đã chết để ban cho chúng ta Phúc âm và hiện nay Ngài đang tin cậy nơi chúng ta để chuyển đạt Phúc âm đó đến cho tất cả mọi người.
Chúng ta hãy làm cho mọi người trên thế giới này được biết và được sống Tin Mừng yêu thương của Chúa. Amen.
Trong nhật ký, Perpêtua mô tả: “Một ngày thật khủng khiếp! Nóng khủng khiếp vì chật người! Bị lính cư xử tồi tệ! Lại khổ nữa, tôi bị dày vò vì lo lắng cho đứa con... Những mối lo lắng như vậy tôi phải chịu đựng nhiều ngày, nhưng tôi được phép cho con ở trong tù với mình, và được bớt lo lắng về con, tôi hồi phục sức khỏe, nhà tù là cung điện tôi ở và tôi nên ở đó hơn bất cứ nơi nào khác”. Vài ngày sau, Phêlicita sinh một bé gái trước khi bị thú dữ giết chết. Nhật ký của Perpêtua về cảnh tù đày hoàn tất ngày hôm trước bị giết chết. “Về những gì thuộc về trò chơi dã man, hãy để họ viết đó là ai”. Nhật ký của Perpêtua được một nhân chứng hoàn tất thêm. (đoạn cuối cùng này được thêm vào bởi người chia sẻ PVLC ở đây).
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-07-03-thanh-nu-perpetua-va-thanh-nu-felicita-53748